Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Sáng kiến sử dụng sơ đồ hoá trong dạy học phần sinh vật và môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.96 KB, 15 trang )

SÁNG KIẾN
Sử dụng sơ đồ hoá trong dạy học phần Sinh vật và môi trường
I.THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Sử dụng sơ đồ hoá trong dạy học phần Sinh vật và môi
trường
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Công tác giảng dạy bộ môn Sinh học - trường
THCS Tân Lập
3. Tác giả:
Họ và tên: Bùi Thị Tuyết – Nữ
Ngày, tháng/năm sinh: 28/ 03/ 1986
Trình độ chuyên môn: CĐSP Sinh - KTNN
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Tân Lập – huyện Vũ Thư – tỉnh Thái Bình
Điện thoại: 01686496485 Email:
4. Đồng tác giả: Không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Không
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THCS Tân Lập
Địa chỉ: xã Tân Lập – huyện Vũ Thư – tỉnh Thái Bình
Điện thoại: 0363825165
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Tháng 9 năm 2015
1


II. BÁO CÁO MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Sử dụng sơ đồ hoá trong dạy học phần Sinh vật và môi
trường
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Công tác giảng dạy bộ môn Sinh học - trường
THCS Tân Lập
3. Mô tả bản chất của sáng kiến:
3.1. Tình trạng và giải pháp:


Ngày nay khối lượng tri thức khoa học trên thế giới khám phá ra ngày càng tăng
như vũ bão nên chúng ta không thể hi vọng rằng trong thời gian nhất định ở trường
phổ thông mà có thể cung cấp cho học sinh một kho tàng tri thức khổng lồ mà loài
người đã tích luỹ được. Vì vậy nhiệm vụ của người giáo viên ngày nay không
những phải cung cấp cho học sinh một vốn tri thức cơ bản mà điều quan trọng là
còn phải trang bị cho học sinh khả năng tự làm việc, tự nghiên cứu để tìm hiểu và
nắm bắt tri thức. Nếu chúng ta sử dụng phương pháp “thầyđọc - trò chép ’’ tóm tắt
sách giáo khoa để dạy học thì mục tiêu trên khó có thể đạt được.
Như chúng ta đã biết phương pháp dạy học ngày nay là phải phát huy tính tích cực,
chủ động, tư duy sáng tạo của người học; thầy là người chỉ đạo, trọng tài, tổ chức
hướng dẫn người học giúp người học tìm ra kiến thức.
Mặt khác sinh học là một bộ môn khó và mang tính chất trừu tượng cao vì nó
nghiên cứu về các cơ thể sống, các quá trình sống và đặc biệt nó gắn liền với hoạt
động thực tiễn của con người. Vì vậy nắm bắt tốt các kiến thức sinh học sẽ góp
phần nâng cao đời sống loài người. Do đó việc tìm ra phương pháp nâng cao chất
lượng dạy học là một vấn đề cực kì quan trọng.
Có rất nhiều phương pháp dạy học, tuy nhiên tuỳ nội dung chương trình mà áp
dụng phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Thông thường trong giảng dạy các môn
học đặc biệt là những bài hệ thống hoá kiến thức hoặc tổng kết được sử dụng
2


phương pháp sơ đồ hoá. Phương pháp này có ưu thế giúp học sinh nhanh chóng
thực hiện các thao tác và quá trình phân tích tổng hợp để lĩnh hội tri thức mới. Sử
dụng phương pháp sơ đồ hoá giúp cho việc phát triển trí tuệ của học sinh, rèn
luyện trí nhớ tạo điều kiện cho học sinh học tập sáng tạo tích cực.
Sinh học 9 được chia làm 2 phần: Phần I “ Di truyền và biến dị”. Phần II “ Sinh vật
và môi trường”. Phần II nghiên cứu về mối quan hệ giữa sinh vật với sinh vật và
giữa sinh vật với môi trường xung quanh nó, phần này đóng vai trò rất quan trọng
trong đời sống con người. Ngay từ xa xua khi con người chỉ biết dựa vào tài

ngưyên thiên nhiên nhờ những hiểu biết về môi trường xung quanh mà họ tồn tại
và phát triển. Mọi hoạt động của con người từ nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp, xây dựng nông thôn, thành thị, quốc phòng… Nói chung mọi hoạt động
kinh tế xã hội đều liên quan đên môi trường, nếu không chú ý đến quan hệ đó mà
sử dụng thiên nhiên một cách tuỳ tiện, phá vỡ sự cân bằng của các quy luật tự
nhiên thì có thể chỉ đạt được một số yêu cầu trước mắt nhưng sẽ gây hậu quả tai
hại lâu dài đến môi trường. Trên cơ sở đó việc sử dụng hợp lí tài nguyên thiên
nhiên, nắm được những điều kiện cần thiết để thuần hoá cải tạo giống vật nuôi cây
trồng là vô cùng cần thiết.
Kiến thức phần “ Sinh vật và môi trường” là kiến thức sinh thái học cấu trúc hệ
thống chặt chẽ vì nghiên cứu các hệ thống sống ở các cấp độ khác nhau. Do đó nếu
sử dụng phương pháp dạy cũ đó là giảng giải, minh hoạ thì học sinh nhớ máy móc
kiến thức, ít nghiên cứu sách giáo khoa, không sáng tạo trong giờ học, kiến thức
thu được rời rạc không có tính hệ thống, không biết vận dụng vào thực tế. Với
mong muốn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của trường THCS
Tân Lập, tôi quyết định lựa chọn vấn đề “Sử dụng sơ đồ hoá trong dạy học phần
Sinh vật và môi trường " tại trường THCS Tân Lập làm đối tượng nghiên cứu.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
a. Mục đích của giải pháp:
3


Qua khảo sát chất lượng học sinh là lớp 9A và lớp 9C trường trung học cơ cở Tân
Lập tôi thấy:
- Đa số học sinh chưa biết cách lập sơ đồ hóa đối với môn sinh học.
- Kiến thức thực tế đặc biệt là những kiến thức về môi trường là rất kém.
- Tỷ lệ học sinh yếu kém nhiều, học sinh khá giỏi ít.
Kết quả khảo sát đầu năm như sau:
Lớp Sĩ số
9A

9C

34
34

Điểm dưới 5 Điểm 5 – 6
Điểm 7 – 8
SL
%
SL
%
SL
%
10
29,41 12
35,29 10
29,41
8
23,53 12
35,29 12
35,29

Điểm 9 – 10
SL
%
2
5,88
2
5,88


b. Nội dung giải pháp:
Quá trình dạy học gồm hai hoạt động có liên quan với nhau một cách mật thiết,
đó là hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh trong đó học
sinh vùa là chủ thể vừa là khách thể của quá trình dạy học.
Học sinh trong quá trình học tập ở trong và ngoài nhà trường cũng như quá
trình lớn lên trong gia đình và xã hội đã có vốn sống về thiên nhiên về xã hội,
về các mối quan hệ của sinh vật và môi trường. Học sinh lớp 9 ở lứa tuổi 14 và
15, ở giai đoạn này các em muốn tự khẳng định mình, ưa thích hoạt động tự
quản, có năng lực tư duy,phân tích, tổng hợp, có tiềm năng năng động sáng tạo
trong học tập. Do đó trên cơ sở của bài giảng đã được nghiên cứu giáo viên có
thể nâng cao vai trò của học sinh với những dự kiến có định hướng tạo điều
kiện cho học sinh tham gia xây dựng bài, có như vậy hiệu quả giờ dạy mới cao.
Phương pháp sơ đồ hoá sẽ giúp chúng ta nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ
học.
Để sử dụng phương pháp sơ đồ hoá trong dạy học sinh học trước hết giáo viên
phải nắm vững chương trình, cấu trúc của từng chương từng bài. Trong giờ dạy
giáo viên phải biết tạo ra những tình huống có vấn đề để kích thích các em giải
4


quyết vấn đề, đi đúng chủ đề và trả lời đúng câu hỏi. biết kích thích hứng thú
học tập và phát triển tư duy sáng tạo của học sinh.
Muốn làm được như vậy giáo viên chỉ cần hướng cho học sinh biết cách giải
quyết vấn đề từng bước một, măt khác phải hình thành cho các em kĩ năng
nghiên cứu sách giáo khoa.
Trong mỗi bài giáo viên cần định hướng cho các em xem mục nào có thể dung
sơ đồ, lập sơ đồ dạng nào cho hợp lí, có hiệu quả nhất. Giáo viên cần hình thành
dần cho các em khả năng xây dựng sơ đồ và cách nhớ bài học theo ngôn ngữ sơ
đồ ; đọc nội dung từ sơ đồ. Đây là một công việc khó khăn và yêu cầu phải nhớ
sâu sắc bài học, nhờ đó mà khả năng tự học của các em ngày càng cao.

Để tổ chức bài giảng theo phương pháp sơ đồ giáo viên có thể hướng dẫn học
sinh đi theo các bước sau:
Bước 1. Giáo viên yêu cầu học sinh nghiên cứu sách giáo khoa, nội dung
bài học kênh hình ( có thể có ) để hoàn thành các nhiệm vụ được giao
trong từng phần, từng mục.
Bước 2. Yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi.
Bước 3. Học sinh phân tích nội dung bài học xác định dạng sơ đồ.
Bước 4. Học sinh tự lập sơ đồ.
Bước 5. Học sinh thảo luận trước lớp về kết quả lập được.
Bước 6. Giáo viên chỉnh lí để có sơ đồ chính xác khoa học, có tính thẩm mĩ cao.
Bước 7. Ra bài tập bổ sung và củng cố.
* Các bước thực hiện của giải pháp
b.1 Một số dạng sơ đồ chủ yếu sử dụng trong phần “ Sinh vật và môi trường”.
b.1. 1. Sơ đồ dạng thẳng.
- Ví dụ: Ý nghĩa của khống chế sinh học:

5


Nhờ khống chế sinh học
thể cân bằng

số lượng cá thể mỗi quần thể dao động trong

quần thể dao động trong thể cân bằng

trạng thái

cân bằng sinh học trong quần xã.
- Ví dụ các chuỗi thức ăn:

Cỏ

thỏ

Chất mùn bã

cáo

VSV

ĐV đáy

cá chép

VSV

b.1. 2. Sơ đồ nhánh.
- Ví dụ: Các loại môi trường :
Đất

Môi trường

Mặn

Nước

Lợ

Không khí


Ngọt

Sinh vật

Thực vật
Động vật
Con người

b. 1. 3. Sơ đồ dạng lưới.
- Ví dụ: Lưới thức ăn trong một quần xã.
Trâu
Cỏ

Hổ

Thỏ
Gà

Cáo

VSV

Mèo rừng

b. 1. 4. Dạng bảng biểu.
6


- Ví dụ: về sinh vật biến nhiệt và hằng nhiệt.
Nhóm sinh vật

Sinh vật biến nhiệt

Sinh vật hằng nhiệt

Tên sinh vật
- Vi khuẩn cố định đạm

Môi trường sống
- Rễ cây họ đậu

- Cây lúa

- Ruộng lúa

- Ếch

- Hồ, ao, ruộng lúa

- Rắn hổ mang

- Cánh đồng lúa

-…
- Chim bồ câu

-…
- Vườn cây

- Chó


- Trong nhà
-…

b. 1. 5. Sơ đồ kiểm tra đánh giá.
- Ví dụ: So sánh quần thể và quần xã.
Các đặc điểm so sánh
- Thành phần loài

Quần thể

Quần xã

- Thời gian
- Các mối quan hệ
- Tính chất
- Phạm vi phân bố

b. 1 . 6. Sơ đồ khuyết thiếu.
- Ví dụ:

Nhân tố vô sinh



Các nhân tố sinh thái
7


?


….

b. 1 . 7. Sơ đồ câm.
- Ví dụ về lưới thức ăn.
b

a

c

e

f

d

g
b. 1 . 8. Mô hình hoá.
- Ví dụ: Sơ đồ quần thể.
a1, a2, a3 là các cá thể của quần thể

Mts

a1

a2

a3

b. 2 . Phương pháp và biện pháp sử dụng sơ đồ trong dạy học “ Sinh vật và môi

trường”
b. 2. 1. Sử dụng sơ đồ để hình thành kiến thức mới.
Trong nội dung này cần dùng sơ đồ để giới thiệu những kiến thức mới làm cho học
sinh nắm được, ghi nhớ kiến thức một cách sâu sắc và có thể sử dụng kiến thức đó
vào thực tiễn đời sống và sản xuất. mặt khác học sinh phải biết móc xích kiến thức
vừa học với kiến thức đã học ở các bài trước, vì vậy giáo viên phải nghiên cứu kĩ
nội dung bài dạy và trình độ học sinh để sử dụng phương pháp dạy học cho có hiệu
quả.
Ở nội dung này ta có thể sử dụng sơ đồ theo nhiều cách.
8


1.1 cách 1: Đơn giản nhất là giáo viên lập sơ đồ lên bảng rồi dùng phương pháp
giảng giải cho học sinh hiểu và nắm bắt kiến thức. Phương pháp này có thể dùng
khi ta dạy những bài dầu tiên để học sinh làm quen với phương pháp sơ đồ hoá
hoặc khi ta dạy với đối tượng học sinh trung bình.
Nhược điểm của phương pháp này là hiệu quả không cao vì học sinh nắm kiến
thức một cách máy móc không phát huy được tính sáng tạo và tư duy độc lập của
học sinh.
- Ví dụ khi dạy khái niệm quần thể:
+ Giáo viên lấy ví dụ các cá thể cùng loài như chim, voi, trâu cừu…thường tạo
thành đàn, ở thực vật như đồi cọ, rừng thông… Nếu các cá thể không sống
chung với nhau sẽ gặp nhiều yếu tố bất lợi.
+ Giáo viên vẽ sơ đồ:

Mts

a1

a2


a3

+ Sau đó giáo viên giải thích a 1,a2,a3…là các cá thể của quần thể( a1,a2,a3 cùng
loài), chúngcùng sống trong một môi trường tạo thành quần thể.
+ Giáo viên yêu cầu học sinh phát biểu khái niệm quần thể.
1.2 Cách 2: Giáo viên yêu cầu học sinh trả lời theo gợi ý và thầy trò cùng xây dựng
sơ đồ. Với các câu trả lời của học sinh thầy có thể hình thành dần sơ đồ lên bảng.
Phương pháp này có ưu điểm là phát huy được khả năng tự làm việc của học sinh,
tạo cho học sinh những tình huống có vấn đề thông qua các câu hỏi hoặc các em
suy nghĩ tìm tòi có thể vận dụng thực tiễn vào bài học, tạo cho các em cơ hội xây
dựng bài khơi gợi trí tò mò và sự hứng thú học tập, học sinh đễ dàng tiếp thu và
tiếp thu một cách tích cực khi thấy sơ đồ được hình thành dần dần trên bảng.
9


Ví dụ khi dạy bài “ Môi trường và các nhân tố sinh thái” ( bài 41)
Ở mục I “Môi trường sống của sinh vật”
- Sau khi hình thành xong khái niệm môi trường.
Giáo viên hỏi: Có mấy loại môi trường ?
Học sinh : có 4 loại môi trường chủ yếu và kể tên; sau đó giáo viên lập sơ đồ:
Đất - không khí ( môi trường trên cạn)
Môi trường

Nước
Trong đất
Sinh vật

Ở mục II “ Các nhân tố sinh thái”
Giáo viên hỏi : Có mấy nhân tố sinh thái ?

Học sinh: Có 2 nhóm: nhân tố vô sinh và nhân tố hữu sinh.
Giáo viên vẽ sơ đồ theo học sinh và hỏi tiếp: kể tên các nhân tố vô sinh và nhân tố
hữu sinh?
Học sinh : Nhân tố vô sinh gồm: đất, nước, gió, mưa, nhiệt độ…
Nhân tố hữu sinh gồm: Động thực vật( sinh vật) và con người.

Giáo viên hoàn thiện sơ đồ:
Đất
Độ ẩm

10


b. 2. 2. Sử dụng sơ đồ để củng cố hoàn thiện kiến thức.
Nhiệt độ
Nhân tố vô sinh
Thông thường sau khi học xong một phần, một bài hay một chương giáo viên phải
Các nhân tố sinh thái
Ánh sáng…
củng cố kiến thức cho học sinh để các em hiểu và nắm chắc kiến thức đã học một
Động vật
cách hệ thống, như vậy học sinh sẽ dần dần hoàn thiện
Sinh kiến
vật thức trong nội dung
Nhân tố hữu sinh
chương trình.
Thực vật
Trong phần “ Sinh vật và môi trường” giáo viên cũng có thể củng cố hoàn thiện
Con người
Vi sinh vật

kiến thức cho học sinh bằng phương pháp sơ đồ hoá.
Ví dụ sau khi học xong bài quần xã giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập so sánh
quần thể và quần xã theo bảng mẫu sau:

Đặc điểm so sánh
- Thành phần

Quần thể

Quần xã

- Mối quan hệ
11


- Tính chất
- Phạm vi phân bố
- Thời gian

Học sinh vận dụng các kiến thức đã học cùng thảo luận hoàn thành bài tập.
b. 2. 3. Sử dụng sơ đồ để kiểm tra đánh giá.
Khi kiểm tra đánh giá giáo viên có thể sử dụng câu hỏi tự luận hoặc sơ đồ. Để có
thể sử dụng sơ đồ trong khâu này cũng có nhiều cách.
Có thể sử dụng sơ đồ khuyết thiếu hoặc sơ đồ câm để yêu cầu học sinh hoàn thành.
Ví dụ khi học bài “ Hệ sinh thái” giáo viên có thể yêu cầu học sinh làm bài tập sau:
1)Điền vào dấu ? để hoàn thiện sơ đồ
Hệ sinh thái

?


?

2) Lập lưới thức ănđơn giản ở ao hồ có dạng sau:

(1)

(2)

(5)

(3)

(7)

(4)

(6)

(8)

Như vậy sau khi học sinh đã được làm quen với sơ đồ giáo viên có thể yêu cầu lập
sơ đồ cho một khái niệm,quy luật, một quá trình hoặc một cơ chế nào đó.

12


Tóm lại trong quá trình giảng dạy giáo viên có thể kết hợp hài hoà giữa nhiều
phương pháp, có thể sử dụng phương pháp sơ đồ hoá vào từng khâu, từng phần của
tiết dạy nhằm tạo cho học sinh dể ghi nhớ, dễ dàng móc xích các kiến thức cũ và
mới tạo thành một hệ thống kiến thức, đồng thời tạo cho học sinh sự hứng thú với

môn học
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp:
Từ thực tiễn áp dụng các giải pháp đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dạy
và học trong trường THCS Tân Lập cho thấy thành công trong việc sử dụng sơ đồ
hoá trong dạy học phần Sinh vật và môi trường, các sơ đồ được thực hiện một cách
linh hoạt và được áp dụng với từng lớpvà có kết quả khả quan là nhờ một phần lớn
ở sự đúc kết kinh nghiệm tại trường THCS Tân Lập. Do đó, các biện pháp này có
tính khả thi và có thể áp dụng cho các trường THCS khác. Tuy nhiên, hiệu quả của
các biện pháp trên lại phụ thuộc vào người biết vận dụng linh hoạt sáng tạo phù
hợp với điều kiện thực tế của từng đối tượng học sinh thì sẽ đem lại kết quả cao
đáp ứng mục tiêu giáo dục đã đặt ra. Việc áp dụng sơ đồ hoá trong dạy học phần
Sinh vật và môi trường ở trường THCS Tân Lập đã đem lại những kết quả khả
quan, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh:
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được khi áp dụng giải pháp
Sau một thời gian tôi áp dụng phương pháp sơ đồ hoá lồng ghép trong các tiết dạy
ở chương I và chương II phần Sinh vật và môi trường và theo dõi sự thay đổi, tiến
bộ của học sinh qua các bài kiểm tra từ 10 đến 15 phút. Ở các bài kiểm tra này tôi
không đề cập đến kỹ năng vẽ sơ đồ mà yêu cầu các em trả lời theo các kiến thức đã
học, tôi cho học sinh làm bài kiểm tra để so sánh kết quả giữa lớp đối chứng và lớp
thực nghiệm.

Đề bài:
1. Nêu định nghĩa quần thể.
13


2. Vì sao quần thể có biến động số lượng mà vẫn duy trì được trạng thái ổn
định?
Qua kết quả kiểm tra tôi nhận thấy số lượng học sinh làm bài theo phương pháp sơ
đồ hoá ở lớp 9A là cao hơn hẳn so với lớp 9C và chất lượng các bài kiểm tra cao

hơn, số điểm yếu kém cũng ít hơn. Điều đó có nghĩa là các em ở lớp dạy thực
nghiệm theo phương pháp sơ đồ hoá có kết quả học tập cao hơn. Đặc biệt các em
đã hình thành được năng lực tự lập sơ đồ, có khả năng phân tích, tổng hợp, so
sánh, trình độ lĩnh hội kiến thức ngày càng được nâng lên.
Kêt quả cụ thể như sau:
Lớp Sĩ số
9A
9C

34
34

Điểm dưới 5 Điểm 5,6
Điểm 7,8
SL
%
SL
%
SL
%
4
11,76 6
17,65 17
50
6
17,65 10
29,41 14
41,18

Điểm 9,10

SL
%
7
20,59
4
11,76

3.5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu: Học sinh trường
THCS Tân Lập năm học 2015 – 2016
3.6. Các thông tin cần được bảo mật: Không có
3.7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
- Về trình độ chuyên môn: Tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm trở lên
- Đối tượn áp dụng: học sinh trường THCS Tân Lập
3.8. Tài liệu kèm: Không có
4. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền
Tôi xin cam kết những nội dung trình bày trong sáng kiến là những suy nghĩ và
việc làm của tôi và đã áp dụng vào trong thực tế tại trường THCS Tân Lập từ tháng
9 năm 2015 đến nay.

14


Trên đây là một số ý kiến của tôi về việc sử dụng sơ đồ hoá trong dạy học phần
Sinh vật và môi trường trong giờ Sinh học. Lấy học sinh làm trung tâm là một yêu
cầu quan trọng của giáo dục ngày nay. Vì vậy, những vấn đề tôi trình bày trong bài
viết này đều xuất phát từ thực tiễn dạy – học của tôi, ở một môi trường giáo dục cụ
thể. Có thể nó sẽ chỉ phù hợp với học sinh của tôi mà chưa phù hợp với những học
sinh ở trường khác. Vì vậy, tôi rất mong những đóng góp khách quan, chân thành
của các thầy cô để những vấn đề này mang tính thực tiễn rộng hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Bình, ngày 08 tháng 04 năm 2016

CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

SÁNG KIẾN
(Xác nhận)
(Kí tên, đóng dấu)

Bùi Thị Tuyết

15



×