Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Giải quyết khiếu nại về tranh chấp đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.43 KB, 22 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Xã Phong Mỹ là một xã trung du nằm ở phía Tây Nam của huyện Phong Điền,
phía Tây của tỉnh Thừa Thiên Huế, là xã đang phát triển với tốc độ khá nhanh, phấn
đấu đạt đô thị Loại V như Nghị quyết của Đảng bộ và Hội đồng nhân dân huyện
Phong Điền, góp phần cùng toàn Huyện và tỉnh Thừa Thiên Huế đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, đẩy nhanh tiến độ đô thị hóa để sớm trở thành thành phố trực thuộc
Trung ương như Kết luận 48-KL/TW của Bộ Chính trị. Cùng với sự phát triển nhanh
về kinh tế- xã hội thì các mặt hàng hóa, giá trị của quyền sử dụng đất, đặc biệt là đất ở
tại khu trung tâm ngày một tăng. Thị trường bất động sản ngày càng sôi động, người
dân ngày càng quan tâm hơn đến đất đai và tình hình tranh chấp, khiếu kiện về đất đai
cũng gia tăng theo. Mặt khác, trong hệ thống các quyền của công dân, quyền khiếu
nại, tố cáo có vị trí rất quan trọng. Đây là quyền để công dân bảo vệ các lợi ích hợp
pháp của mình, lợi ích của nhà nước cho nên đụng chạm đến quyền lợi là người dân
lại viết đơn khiếu nại, tố cáo. Bên cạnh đó, do trong thời gian dài, pháp luật đất đai có
nhiều thay đổi, công tác quản lý đất đai chưa được quản lý chặt chẽ, còn buông lỏng,
trình độ và khả năng giải quyết tranh chấp, khiếu nại của cơ quan nhà nước còn hạn
chế, nhất là ở chính quyền cơ sở nên dẫn đến xuất hiện nhiều vụ việc tranh chấp đất
đai phức tạp, kéo dài chưa được giải quyết đúng pháp luật và dứt điểm.
Bản thân tôi đang công tác tại Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân huyện Phong Điền, là một Phó Chánh văn phòng phụ trách các lĩnh vực về Giáo
dục và Đào tạo, Văn hóa, Thông tin và Truyền thông, Khoa học và Công nghệ, Dân
tộc thiểu số, Tài nguyên và Môi trường,... và các xã vùng gò đồi của huyện trong đó
có xã Phong Mỹ. Từ năm 2008 đến nay, tình hình trang chấp, khiếu kiện về đất đai ở
xã Phong Mỹ rất nhiều, trong đó nổi lên là các vụ tranh chấp kéo dài và khá phức
tạp như: Tranh chấp đất rừng giữa 08 hộ bản Khe Trăn với Công ty Cổ phần 01.5
Hoàng Bằng và Khu bảo tồn Thiên nhiên Phong Điền; vụ trang chấp đất đai giữa hộ
ông Lê Văn Long và ông Nguyễn Văn Huy ở thôn Tân Mỹ; vụ khiếu kiện đất đai
của bà Ngô Thị Hoa ở thôn Đông Thái,… . Trong quá trình công tác và theo dõi
công việc, tôi nhận thấy vụ việc tranh chấp đất đai giữa 2 chị em gia đình bà Nguyễn
Thị Bé, Trần Văn Tồn và gia đình ông Phạm Ngọc Thanh đối với thửa đất ở khu
trung tâm thôn Đông Thái, xã Phong Mỹ, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế


là vụ việc khá phức tạp, kéo dài và quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết của cơ
quan chức năng còn lúng túng đến nay vẫn chưa dứt điểm.


Vụ việc cụ thể này được chọn để nghiên cứu trong đề tài này vì nó điển hình
cho sự phức tạp của tranh chấp, khiếu kiện đất đai. Việc nghiên cứu để đề xuất
hướng xử lý vụ việc này đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
sử dụng đất, bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, giữ ổn định trật tự xã hội tại địa
phương và rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác này là cần thiết và hết sức cấp
bách.
Trước tình hình thực tiễn và qua công tác, nghiên cứu học tập, tiếp thu những
kiến thức cơ bản về nghiệp vụ quản lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng như kiến
thức được học qua lớp quản lý nhà nước ở trường Chính trị Nguyễn Chí Thanh, nên
tôi chọn đề tài: “ Giải quyết khiếu nại về tranh chấp đất đai hộ gia đình ở xã Phong
Mỹ, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế” để làm chuyên đề tiểu luận.
Trong đề tài này, vụ việc được tiếp cận nghiên cứu theo các phương pháp lý
luận Mác-Lênin, phân tích tình huống, đối chiếu quy định của pháp luật và liên hệ
với thực tiễn qua từng thời kỳ quản lý đất đai trên địa bàn để đề xuất hướng giải
quyết thích hợp nhất có thể.
Do giới hạn của đề tài, nên phạm vi nghiên cứu vụ việc chỉ tập trung vào góc
độ áp dụng pháp luật trong quản lý nhà nước về đất đai của chính quyền địa phương.
Cụ thể là nghiên cứu quá trình áp dụng pháp luật đất đai qua các thời kỳ để giải quyết
vụ việc của Ủy ban nhân dân huyện Phong Điền và phân tích tính hợp pháp, hợp lý
của quá trình này trên cơ sở quy định của pháp luật và thực tiễn xã hội tại địa phương.
Hy vọng với kết quả đạt được, đề tài có thể đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn
thiện hơn những quy định về quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo của UBND
Huyện trong giai đoạn hiện nay. Thời gian nghiên cứu còn hạn chế, chắc chắn không
thể tránh khỏi những sai sót, kính mong được sự đóng góp ý kiến để đề tài được
hoàn thiện hơn.


2


I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống:
Ngày 12/7/2010, Văn phòng Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân
(UBND) huyện Phong Điền tiếp nhận đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai của
ông Phạm Ngọc Thanh, thường trú tại thôn Đông Thái, xã Phong Mỹ, huyện Phong
Điền. Nội dung đơn của ông Phạm Ngọc Thanh ghi ngày 08/7/2010 yêu cầu UBND
huyện giải quyết tranh chấp diện tích đất 1.125,7m2 trong tổng số 5.968m2 đất do
ông Phạm Ngọc Thanh đang sử dụng với hộ bà Nguyễn Thị Bé cùng thường trú tại
Thôn Đông Thái, xã Phong Mỹ, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trong khi đơn của ông Phạm Ngọc Thanh đang được UBND huyện chỉ đạo
các cơ quan chuyên môn của huyện cùng UBND xã Phong Mỹ tiến hành giải quyết
thì ngày 18/02/2011, bà Nguyễn Thị Bé có đơn gửi đến UBND Huyện cho rằng ông
Phạm Ngọc Thanh đã lấn chiếm 985,7m2 đất mà bà đã được Ủy ban nhân dân Huyện
giao vào năm 1992 với diện tích 1.125,7m2 theo Quyết định số 68/QĐ-UBND, ngày
14/01/1992 và yêu cầu UBND huyện buộc ông Phạm Ngọc Thanh chấm dứt hành vi
lấn chiếm đất và phải trả lại số diện tích đất này để bà làm nhà, xây tường rào.
2. Mô tả tình huống:
Theo kết quả thẩm tra, xác minh của Đoàn kiểm tra, xác minh tranh chấp đất
đai của UBND huyện thì diễn biến chi tiết quá trình sử dụng đất và tranh chấp đất
đai trong vụ việc này như sau:
Năm 1976, gia đình ông Trần Khôi cùng nhiều hộ dân từ xã Quảng Ngạn,
Quảng Điền lên xã Phong Mỹ định cư, sống tập trung thành đội Quảng Ngạn (nay là
thôn Đông Thái), xã Phong Mỹ, diện tích đất và nhà ở của ông 5.968m2. Sau cơn lũ
lịch sử năm 1983, hơn 45 hộ dân đội Quảng ngạn đã bỏ vào các tỉnh Bình Thuận,
Bình Phước làm ăn nên trong đội chỉ còn lại 6 hộ (nhà thưa, đất bỏ hoang nhiều).
Năm 1985, gia đình ông Khôi chuyển vào tỉnh Bình Phước để làm ăn sinh
sống nên đã viết giấy ủy quyền để lại cho em ruột mình là ông Trần Văn Hinh (từ

Quảng Trị vào) ngôi nhà và toàn bộ diện tích đất để ở, lúc nào không ở thì có quyền
được bán, đầu năm 1987, ông Trần Văn Hinh lại chuyển vào tỉnh Gia Lai làm ăn nên
đã viết giấy chuyển nhượng ngôi nhà, cây cối, hoa màu trên đất cho ông Phạm Ngọc
Thanh. Tài sản khi chuyển nhượng gồm ngôi nhà 59m2 và một số cây cối trên tổng
diện tích đất là 5.968m2 (tại thời điểm đó ông Phạm Ngọc Thanh đang ở Quảng Trị,
chỉ mua chứ chưa đến ở).
3


Trong những năm từ 1984 đến 1991, các diện tích đất trống bỏ hoang do các hộ
bỏ vào Bình Thuận, Bình Phước sinh sống được các hộ dân cư trú tại đó tận dụng một
số đất tốt để trồng hoa màu và cây lâm nghiệp (keo, tràm), trong đó có cả diện tích đất
của ông Phạm Ngọc Thanh mua lại của ông Trần Khôi.
Năm 1991, chủ trương thực hiện giản dân, xây dựng quy hoạch khu trung tâm
kinh tế tiểu vùng xã Phong Mỹ được triển khai nên nhiều hộ dân từ các xã Quảng
Thái, Quảng Phước của huyện Quảng Điền và các xã Điền Lộc, Điền Hòa, Điền Hải
của huyện Phong Điền lên Phong Mỹ và định cư chủ yếu tại vùng đất đội Quảng
Ngạn này (do đất trống và bỏ hoang rất nhiều), cũng từ đó tên đội Quảng Ngạn, xã
Phong Mỹ được đổi tên là thôn Đông Mỹ (năm 2001 thôn Đông Mỹ lại được đổi
thành thôn Đông Thái cho đến bây giờ). Để tạo điều kiện cấp đất cho dân cũng như
quy hoạch xây dựng khu trung tâm, kinh tế của xã, UBND xã Phong Mỹ trình Ủy ban
nhân dân huyện Phong Điền phê duyệt và tiến hành phân lô tại khu vực đất ở thôn
Đông Mỹ, nơi có nhà ông Phạm Ngọc Thanh và 5 hộ dân trước đây đang ở để tiếp tục
giao đất ở cho những người chưa có đất ở theo chủ trương chung của Nhà nước.
Trong thời gian này, ông Trần Văn Trường (chồng bà Nguyễn Thị Bé) là Phó Trưởng
Công an xã Phong Mỹ, vừa là đại biểu HĐND xã, có hộ khẩu và nhà ở tại thôn Huỳnh
Trúc, xã Phong Mỹ đã lấy tên em trai mình là Trần Văn Tồn có hộ khẩu thường trú ở
xã Điền Lộc, huyện Phong Điền và vợ ông Trường, ông Trường đã làm giả 02 sổ hộ
khẩu có nơi ở là thôn Đông Mỹ (tức Đông Thái hiện nay) để nộp đơn xin giao đất làm
nhà ở tại khu vực đất còn nói trên. Thời điểm này ông Phạm Ngọc Thanh cũng vào

nhập khẩu ở xã Phong Mỹ và làm đơn xin cấp đất cho hai con của mình là Phạm
Ngọc Anh và Phạm Thị Bình Minh (02 con ông lúc đó đang làm công nhân tại Quảng
Bình và đã có gia đình).
Ngày 14/01/1992, sau khi xét điều kiện giao đất theo đơn của các hộ gia đình
được UBND xã Phong Mỹ niêm yết gửi lên, UBND huyện ban hành các Quyết định
số 68/QĐ-UBND, ngày 14/01/1992 giao đất cho bà Nguyễn Thị Bé với diện tích
1.125,7m2, Quyết định số 72/QĐ-UBND giao cho ông Phạm Ngọc Anh với diện tích
1.065m2, Quyết định số 73/QĐ-UBND giao cho bà Phạm Thị Bình Minh với diện
tích 1150m2. Ba thửa đất trên đều nằm trong diện tích đất mà ông Phạm Ngọc Thanh
đã mua của ông Khôi và đang có nhà ở của ông Thanh, Quyết định số 79/QĐUBND giao cho ông Trần Văn Tồn với diện tích 1.099,5m 2, ngoài ra còn hàng chục
quyết định giao đất cho các hộ dân khác cùng ngày, tuy nhiên không liên quan đến
khu đất nhà ông Thanh đang nói ở trên.
4


Về gia đình ông Thanh, toàn bộ diện tích đất của ông và các con ông được
ông Thanh trồng đậu, sắn và cây ăn trái (lúc này 2 con của ông chưa giải quyết xong
công việc công nhân tại Quảng Bình) và vì không biết một phần đất của ông đã được
nhà nước cấp cho bà Nguyễn Thị Bé nên ông Thanh sử dụng luôn. Trái lại, vì chưa
có nhu cầu nên bà Bé (vợ ông Trường) không làm gì đến lô đất của mình (lúc này vợ
chồng bà Bé, ông Trường vẫn ở thôn Huỳnh Trúc và tham gia dự án trồng cao su).
Tháng 6 năm 1998, bà Bé lên gặp ông Thanh và cho biết ông Thanh trồng cây lương
thực trên đất của mình, ông Thanh không tin và cho là bà Bé chiếm đất. Ngày
06/8/1998, ông Thanh đưa giấy tờ mua bán nhà, tài sản trên đất đã mua của ông
Khôi vào Bình Phước gặp ông Khôi để nhờ xác nhận lại diện tích 5.968m2, ông Khôi
xác định là đúng theo hồ sơ 299. Đến tháng 10 năm 1998, ông Thanh mới đem giấy
tờ này đến UBND xã Phong Mỹ để xin xác nhận mua lại của ông Khôi.
Năm 1999, bà Nguyễn Thị Bé đến làm nhà trên thửa đất 1.125,7m2 được giao
theo Quyết định số 68/QĐ-UBND, ngày 14/01/1992 của UBND huyện Phong Điền
thì gia đình ông Thanh và bà Bé đã xảy ra tranh chấp và ông Thanh đã gửi đơn đến

cán bộ Địa chính xã xin giải quyết, Cán bộ địa chính mời các bên họp nhưng không
thành, sau đó UBND xã nhiều lần mời các bên lên để giải quyết nhưng không có kết
quả cũng như không ban hành văn bản giải quyết, hướng dẫn hay báo cáo cấp trên.
Năm 2010, ông Thanh tiến hành xây dựng dãy nhà để làm gia trại nuôi heo,
gà vịt và nhà xay xát lúa gạo, bột các loại trên phần đất được giao cho bà Bé (trên
thực tế ông Thanh vẫn sử dụng để trồng hoa màu trong thời gian trên), việc tự ý xây
dựng nhà máy xay xát công nghiệp và gia trại chăn nuôi trong khu dân cư tập trung
nhưng không xin phép chính quyền địa phường và cũng không đúng quy định, do đó
UBND xã Phong Mỹ đã lập biên bản vi phạm và đình chỉ, không cho xây dựng,
đồng thời thông báo đất này đang tranh chấp, ông Thanh không chấp nhận và làm
đơn khiếu kiện gửi UBND xã giải quyết.
Ngày 08/7/2010, sau khi hòa giải tại UBND xã không thành, ông Phạm Ngọc
Thanh đã gửi đơn đến UBND huyện Phong Điền xin yêu cầu giải quyết tranh chấp diện
tích đất 1.125,7m2 trong tổng số 5.968m2 đất ông mua lại của ông Khôi mà ông đang sử
dụng với bà Nguyễn Thị Bé có hộ khẩu thường trú tại thôn Đông Thái, xã Phong Mỹ.
Ngày 12/7/2010, UBND huyện thụ lý đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai
của ông Phạm Ngọc Thanh, thành lập Đoàn kiểm tra (Thanh tra, Phòng TN-MT,
VPSDĐ,…), xác minh nguồn gốc đất để tham mưu UBND huyện giải quyết vụ việc.
5


Trong khi Đoàn kiểm tra của huyện đang thụ lý hồ sơ, tiến hành kiểm tra hồ
sơ, xác minh nguồn gốc đất theo đơn của ông Thanh chưa được giải quyết xong thì
ngày 18/02/2011, bà Nguyễn Thị Bé gửi lên UBND Huyện, khiếu nại ông Thanh đã
lấn chiếm 985,7m2 đất mà bà đã được UBND huyện cấp vào năm 1992 với diện tích
1.125,7m2 theo Quyết định số 68/QĐ-UBND, ngày 14/01/1992 và yêu cầu ông Thanh
phải chấm dứt hành vi lấn chiếm, trả lại diện tích đất trên cho bà làm nhà. Trong đơn
bà có nêu, Ủy ban nhân dân xã xử lý yêu cầu hai bên không được sử dụng phần đất tiếp
giáp chồng nhau cũng như không được khiếu kiện, chờ UBND xã giải quyết. Nhưng
đơn của bà Nguyễn Thị Bé không được thụ lý để giải quyết.

Vụ khiếu kiện, tranh chấp trên chưa được giải quyết thì ngày 10/6/2012, ông
Trần Văn Tồn đến làm nhà, kéo tường rào bằng kẽm gai trên thửa đất 1.099,5m2 được
giao theo Quyết định số 79/QĐ-UBND, ngày 14/01/1992 của UBND huyện Phong
Điền thì gia đình ông Thanh và ông Tồn lại xảy ra tranh chấp (Quyết định số 79/QĐUBND giao cho ông Trần Văn Tồn với diện tích 1.099,5m 2, mãnh đất này giáp với
mặt bên nhà ông Thanh và bị chồng trên thửa đất ông Thanh mua của ông Khôi và
đang ở là 100,5m2), ông Thanh đã gửi đơn đến UBND xã Phong Mỹ xin giải quyết,
yêu cầu ông Tồn trả lại 100,5m2 đất mà ông Thanh cho là ông Tồn lấn chiếm.
Ngày 21/6/2012, UBND xã Phong Mỹ mời 02 hộ trên họp, căn cứ bản đồ và
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được nhà nước cấp cho ông Tồn thì diện tích
ông Tồn xây dựng là đúng, yêu cầu ông Thanh không khiếu kiện (vì diện tích đất còn
lại của ông Thanh là khá lớn, hơn 2.500m2) nhưng theo giấy xác nhận của UBND xã
năm 1998 cho ông Thanh thì đất trên thuộc của ông Thanh nên ông Thanh không chấp
nhận. Ngày 04/7/2012, UBND xã tiếp tục mời 02 hộ đến họp và giải quyết sự việc trên
bằng cách yêu cầu ông Tồn ngưng làm nhà hoặc làm nhà ở phía bên trái thửa đất, phần
đất chồng 100,5m2 bên phải giáp đất ông Thanh để đo đạc lại 2 bên rồi có kết luận, tuy
nhiên cả 2 bên đều không đồng ý và không ý vào biên bản làm việc của xã.
Ngày 12/7/2012 ông Thanh viết đơn kiến nghị gửi lên UBND huyện Phong Điền
xin giải quyết, đồng thời ngày 18/7/2012, ông Tồn cũng viết đơn kiến nghị gửi UBND
huyện nhờ giải quyết. Nhưng cả 02 đơn của 02 ông chưa được thụ lý để giải quyết vì
vụ việc khiếu nại, khiếu kiện trước giữa ông Thanh và Bà Bé giải quyết chưa xong.
Qua nhiều lần kiểm tra, xác minh, do có nhiều ý kiến tranh luận trái chiều
giữa các cơ quan chuyên môn, địa phương nên vụ việc đến nay vẫn chưa được giải
quyết dứt điểm, gây ra bức xúc trong dư luận và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người sử dụng đất và tính nghiêm minh của pháp luật.
6


II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
1. Mục tiêu phân tích tình huống
Việc phân tích các tình tiết vụ việc nhằm đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp và

sự phù hợp của từng mối quan hệ đất đai được xác lập trong suốt quá trình sử dụng,
tranh chấp đất đai từ trước đến nay. Qua đó, đối chiếu với các quy định của pháp
luật và thực tế địa phương để đề xuất phương án tối ưu nhằm giải quyết dứt điểm vụ
việc, đảm bảo đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
đất, góp phần ổn định tình hình trật tự xã hội tại địa phương.
2. Cơ sở lý luận
Việc phân tích, đánh giá vụ việc phải dựa trên những quy định pháp luật liên
quan có hiệu lực tại thời điểm xảy ra các mối quan hệ đất đai là nguyên nhân dẫn
đến tranh chấp bao gồm:
- Luật cải cách ruộng đất ban hành ngày 04 tháng 12 năm 1953 của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà;
- Nghị quyết số 125-CP ngày 28 tháng 6 năm 1971 của Hội đồng Chính phủ
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về việc tăng cường công tác quản lý ruộng đất;
- Nghị định số 01/NĐ/75 ngày 05 tháng 3 năm 1975 của Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam về chính sách ruộng đất;
- Quyết định số 201/CP ngày 01 tháng 7 năm 1980 của Hội đồng Chính phủ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thống nhất quản lý ruộng đất và
tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước;
- Luật Đất đai năm 1987 và Nghị định số 30/HĐBT ngày 23 tháng 3 năm
1989 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành Luật Đất đai năm 1987;
- Quyết định số 13-HĐBT ngày 01 tháng 02 năm 1989 của Hội đồng Bộ
trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc giải quyết một số vấn đề
cấp bách về ruộng đất.
- Luật Đất đai năm 1993 (sửa đổi, bổ sung các năm 1998, 2001) và các văn
bản hướng dẫn thi hành, (Luật Đất đai số 24-L/CTN, ngày 14/7/1993 của Quốc hội).
- Luật Đất đai năm 2003 (sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2010) và các văn b- Căn
cứ vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng như:
+ Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 13-1-1981 về khoán
sản phẩm đến tay người lao động trong nông nghiệp;


7


+ Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 5-4-1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản
lý kinh tế trong nông nghiệp;
+ Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X XI
+ Nghị quyết Trung ương 5 Khóa XI về quản lý đất đai...
- Căn cứ vào những văn bản pháp luật và văn bản dưới Luật sau:
+ Hiến pháp năm 1946, 1959,1980 và 1992
+ Luật Đất đai năm 1993
+ Luật Đất đai năm 2003 (Sửa đổi năm 2009, 2010)
+ Bộ luật Dân sự năm 2005
+ Nghị Định 181/2004 NĐ-CP...
* Những quy định cụ thể:
- Luật Đất đai năm 2003 sửa đổi năm 2009
Điều 135.Hoà giải tranh chấp đất đai.
1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hoà giải hoặc giải
quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải cơ sở.
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hoà giải được thì gửi đơn
đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có tranh chấp
Điều 136. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu về tài sản khác gắn liền với đất hoặc có một trong các
loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai và tranh
chấp về tài sản gắn liền với đất thì do toà án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản
1,2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai 2003 thì được giải quyết như sau:


8


a) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý thì
có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương giải quyết; quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương là quyết định cuối cùng;
b) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết
định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường;
quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là quyết định giải quyết
cuối cùng.
- NĐ số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 Hướng dẫn thi hành Luật đất đai
2003.
Điều 159.Hoà giải tranh chấp đất đai:
1.Các bên tranh chấp đất đai chủ động gặp gỡ để hoà giải, nếu không thoả
thuận được thì thông qua hoà giải ở cơ sở để giải quyết tranh chấp đất đai.
2. Trường hợp các bên tranh chấp không hoà giải được thì gửi đơn đến Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp để hoà giải. Việc hoà giải
phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xá nhận hoà giải thành
hoặc hoà giải không thành của Uỷ ban nhân nhân xã, phường. thị trấn.
Điều 160.Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên
tranh chấp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất.
Tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc không có các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2
và 5 Điều 50 của luật Đất đai thì các bên trnh chấp gửi đơn đến cơ quan hành
chính đề giải quyết...
3. Phân tích diễn biến tình huống

Ông Trần Khôi đã ở, quản lý và sử dụng ngôi nhà cùng với diện tích 5.968m2
đất vào năm 1976 do nhà nước cấp giao đất là hoàn toàn hợp lý, đúng pháp luật. Đây
được xem là thời điểm xác lập quyền sở hữu ngôi nhà và quyền sử dụng diện tích
9


đất 5.968m2 cho ông Khôi cũng như diện tích đất cho tất cả 50 hộ tại đội Quảng
Ngạn. Năm 1983, sau cơn lụt lịch sử, 45 hộ dân bỏ đội, bỏ đất để vào miền Nam
sinh sống, ông Khôi đã làm thêm gần 1000m 2 đất từ diện tích đất của các hộ dân bỏ
đi để trồng trọt và sau chuyển cho ông Thanh là diện tích đất không hợp lệ, không
thuộc sở hữu của ông Thanh.
Việc năm 1985, ông Khôi đã viết giấy ủy quyền để lại cho em ruột mình ngôi
nhà và toàn bộ diện tích đất để ở, lúc nào không ở thì có quyền được bán. Vì vậy đầu
năm 1987, việc ông Hinh viết giấy chuyển nhượng ngôi nhà 59m2 và một số cây cối
trên tổng diện tích đất là 5.968m 2 cho ông Phạm Ngọc Thanh được xem là thời điểm
xác lập quyền sở hữu nhà, tài sản trên đất và quyền sử dụng diện tích đất 5.968m2
cho ông Thương. Việc xác lập quyền sử dụng đất này là phù hợp với pháp luật đất
đai vào thời điểm phát sinh tranh chấp (phù hợp với Điều 17 của Luật Đất đai năm
1987).
Việc ngày 14/01/1992, Ủy ban nhân dân huyện ban hành các Quyết định số
68/QĐ-UBND, ngày 14/01/1992 giao đất cho bà Nguyễn Thị Bé với diện tích
1.125,7m2, Quyết định số 72/QĐ-UBND giao cho ông Phạm Ngọc Anh với diện tích
1.065m2, Quyết định số 73/QĐ-UBND giao cho bà Phạm Thị Bình Minh với diện
tích 1150m2. Ba thửa đất trên đều nằm trong diện tích đất mà ông Phạm Ngọc Thanh
đã mua của ông Khôi, có nhà ở và đang sử dụng. Xét về tính hợp pháp của các quyết
định này, tại khoản 4 Điều 12 của Luật Đất đai năm 1987 (có hiệu lực tại thời điểm
ban hành các quyết định) quy định: “Việc quyết định giao đất đang sử dụng cho
người khác chỉ được tiến hành sau khi có quyết định thu hồi đất đó của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền, quy định tại Điều 15 của Luật này”. Tức là chưa đề cập đến việc
ông Thanh sử dụng diện tích đất trên có hợp pháp hay không, trước khi Nhà nước

muốn ra quyết định giao cho người khác sử dụng (kể cả cho con ông Thanh là ông
Anh và bà Minh) thì cũng phải thu hồi đất của ông Thanh để xem xét bồi thường hoặc
không bồi thường, đồng thời nhằm để xác định rõ nguồn gốc đất, diện tích đất và phải
được ông Thanh trực tiếp biết để phối hợp thực hiện.
Xét về tính hợp lý, việc UBND huyện ra quyết định giao đất cho ông Anh và
Bà Minh trên phần đất của ông Thương là đáp ứng nguyện vọng của gia đình ông
Thương (ông Anh và bà Minh là con ông Thương đã lập gia đình và chưa có đất ở).
Vì lý do này, mặc dù việc giao đất cho ông Minh và bà Minh là không đúng quy định
nhưng ông Thanh không khiếu nại và không tranh chấp đất với con của mình. Trái lại,
10


việc UBND huyện giao diện tích đất còn lại trong vườn ông Thương cho bà Nguyễn
Thị Bé theo Quyết định số 68/QĐ-UBND, ngày 14/01/1992 là trái pháp luật đã làm
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thương nhưng ông
Thương không được biết, năm 1998 ông Thanh có biết khi bà Bé nói là đất của mình
nhưng ông Thanh không tin vì ông đang trồng đậu, sắn trên đất đó, cho đến năm
2012, khi ông Thanh làm gia trại và bà Bé đến làm nhà ở. Như vậy ngoài quy định tại
khoản 4 Điều 12 của Luật Đất đai năm 1987 nêu trên, thì Điều 35 của Luật Đất đai
năm 1987 còn quy định: “Chỉ được giao đất ở trong khu dân cư cho những hộ chưa
có nhà ở”. Như vậy có thể nói Quyết định số 68/QĐ-UBND, Quyết định số 79/QĐUBND, ngày 14/01/1992 được ban hành vừa sai trình tự vừa sai điều kiện.
Sau khi phát hiện sự việc giữa ba gia đình đã xảy ra tranh chấp, xung đột và
đã gửi đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đến Ủy ban nhân dân xã để giải quyết,
nhưng vụ việc không được giải quyết dứt điểm. Lý do của tình trạng này là theo quy
định tại điểm a khoản 2 Điều 38 của Luật Đất đai năm 1993 (có hiệu lực vào thời
điểm gửi đơn tranh chấp) thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai trong trường
hợp này thuộc UBND huyện, không thuộc UBND xã nhưng ông Thương đã gửi đơn
không đúng cơ quan có thẩm quyền, mặt khác UBND xã cũng không thực hiện hết
trách nhiệm là hướng dẫn cho ông Thương hoặc chuyển đơn lên UBND huyện để
giải quyết.

Việc năm 1998, ông Thanh đến xin xác nhận mua bán đất giữa ông với ông
Khôi, UBND xã Phong Mỹ đã xác nhận vào giấy tờ mua bán nhà đã lập năm 1987
giữa ông Hinh (đất ông Khôi) và ông Thanh, cho thấy sự bất cẩn của chính quyền
địa phương trong công tác quản lý vì sự việc xảy ra cách đây 11 năm, nhưng UBND
xã Phong Mỹ vẫn chứng nhận nội dung mua bán là đúng sự thật. Mặt khác, khi ông
Khôi đi, viết giấy ủy quyền cho em mình ở, đến khi chuyển nhượng lại cho ông
Thanh, giấy chuyển nhượng lại viết tên ông Khôi (vì ông Hinh người Quảng Trị,
không có hộ khẩu ở Phong Mỹ) cũng như diện tích đất không nắm được bao nhiêu,
chỉ biết thực tế trên diện tích đang có nhà ở và trồng trọt. Điều này cho thấy công tác
phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý đất đai tại địa phương còn rất lỏng lẽo.
Năm 2010, UBND xã Phong Mỹ tiến hành lập biên bản vi phạm và đình chỉ
việc xây dựng của ông Phạm Ngọc Thanh vì diện tích đất này đang tranh chấp và việc
xây dựng gia trại trái quy định được xem là việc làm kịp thời, đúng quy định.

11


Xung quanh việc ngày 12/7/2010, UBND huyện Phong Điền thụ lý đơn yêu cầu
giải quyết tranh chấp đất đai của ông Phạm Ngọc Thanh có những vấn đề đang được
các cơ quan và cán bộ, công chức tranh luận. Sau đây là một số ý kiến:
- Ý kiến thứ nhất: Diện tích đất tranh chấp 1.125,7m2 nêu trên, trong quá trình
sử dụng có giấy tờ mua bán nhà ở gắn liền với đất ở được lập năm 1987 (đã được
UBND xã Phong Mỹ xác nhận sử dụng trước 1993) và Quyết định số 68/QĐUBND, ngày 14/01/1992 về việc giao đất làm nhà ở cho bà Nguyễn Thị Bé. Những
giấy tờ này được quy định tại các điểm a và d khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai năm
2003 (hay còn gọi là có giấy tờ hợp lệ). Theo quy định tại khoản 1 Điều 136 của
Luật Đất đai năm 2003 thì thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp thuộc về toà án nhân
dân, không thuộc Ủy ban nhân dân các cấp. Do đó, ngày 12/7/2010, UBND huyện
Phong Điền thụ lý đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai của ông Phạm Ngọc
Thanh là sai so với khoản 1 Điều 136 của Luật Đất đai năm 2003.
- Theo ý thứ hai: Việc tiếp nhận và giải quyết đơn tranh chấp đất đai của ông

Phạm Ngọc Thanh đã bắt đầu từ năm 1999. Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều
38 của Luật Đất đai năm 1993 (có hiệu lực vào thời điểm bắt đầu gửi đơn) thì thẩm
quyền giải quyết vụ việc này thuộc thẩm quyền của UBND huyện Phong Điền, do
lúng túng trong công tác xử lý đơn nên cán bộ địa chính và UBND xã Phong Mỹ
không chuyển lên UBND huyện thụ lý và không có phương án giải quyết dứt điểm
nên vụ việc kéo dài đến năm 2010. UBND huyện đã nhận ra vấn đề này và tiến hành
thụ lý vụ việc, thành lập đoàn kiểm tra để tiến hành kiểm tra, xác minh và giải quyết
xâu chuỗi các vụ khiếu kiện là có phần hợp lý, thể hiện tốt việc yên dân.
Ý kiến khác: Phân tích các việc bất cập, không đúng luật đất đai ở đây là:
Thứ nhất, khi mua mảnh đất của ông Trần Khôi với diện tích 5.968m2, ông
Hinh viết giấy chuyển nhượng cho ông Thanh mà không có xác nhận của chính
quyền địa phương hoặc người làm chứng (lúc bán ông Trần Khôi không có mặt),
giấy viết chuyển nhượng được ông Hinh lập giữa ông Khôi và ông Thanh nhưng
ông Hinh ký thay ông Khôi, 10 năm sau ông Khôi mới ký xác nhận. Mặt khác có gần
1000m2 đất từ những hộ bỏ đi, ông Khôi trồng sắn 4 năm cũng chuyển cho ông
Thanh), có lẽ vì thế mà ông Thanh không đến chính quyền địa phương xác nhận,
chứng tỏ ông Thanh có ý định muốn chiếm dụng 1000m2 đất nói trên, đây là một bất
lợi cho ông Thanh và cũng không đúng theo quy định.

12


Thứ hai, chính quyền địa phương còn buông lỏng, thiếu chặt chẽ trong việc
quản lý hộ tịch hộ khẩu (ông Trường làm hộ khẩu khai mang và tùy tiện chuyển đổi
cư trú nhưng chính quyền địa phương không biết, không kiểm tra ông Tồn, bà Bé
trước đây ở đâu mà lại có hộ khẩu ở thôn Đông Thái, Phong Mỹ,… ).
Thứ ba, UBND xã cũng như thôn bản trước đây còn buông lỏng trong khâu
quản lý nhà nước về đất đai, xem nhẹ công tác quy hoạch, quản lý đất đai (kế hoạch
và phương án phân chia cấp đất cho nhân dân chỉ dựa trên hiện trạng thực tế nhìn
thấy mà chưa căn cứ vào hồ sơ đất đai, thiếu các căn cứ về hồ sơ, nguồn gốc đất

nhưng vẫn niêm yết, lập hồ sơ cấp giao đất mới ( chưa căn cứ Chỉ thị 299 năm 1980
về hồ sơ đất 299 và nghị định 64 năm 1993 của Chính phủ,… . Hồ sơ 299 quản lý
hư hỏng, mất và bị thất lạc nhiều) .
Thứ tư, công tác quản lý, chỉ đạo của UBND xã Phong Mỹ cũng như vai trò
tham mưu của cán bộ địa chính còn yếu, bộc lộ nhiều sai sót, UBND xã không tìm ra
được hướng giải quyết về khiếu nại, tố cáo nhưng cũng không ban hành được văn bản
giải quyết hay văn bản hướng dẫn, báo cáo nào gửi đến cơ quan có thẩm quyền để
được giải quyết (yếu trong quản lý, xử lý, chậm giải quyết nhưng lại che dấu sự việc).
Thứ năm, UBND xã giao đất theo Quyết định của UBND huyện nhưng lại không
đóng mốc lộ giới, phân định từng lô đất cụ thể cho nhân dân,… .
Việc vào ngày 18/02/2011, UBND huyện không thụ lý giải quyết đơn của bà
Nguyễn Thị Bé yêu cầu UBND huyện buộc ông Thanh chấm dứt hành vi lấn chiếm,
trả lại diện tích đất 985,7m2 trong 1.125,7m2 đất mà bà đã được UBND huyện giao
vào năm 1992 theo Quyết định số 68/QĐ-UBND, ngày 14/01/1992 cũng như đơn của
ông Thanh với ông Tồn vào năm 2012 là phù hợp. Vì mặc dù pháp luật về tranh chấp
đất đai hiện hành không quy định cụ thể một vụ việc đã được thụ lý giải quyết
nhưng nếu có đơn của người khác cùng yêu cầu giải quyết vụ việc đó thì có được
thụ lý hay không. Nhưng trên thực tế nếu tiếp tục thụ lý đơn của bà Bé cũng như sau
này giữa ông Thanh với ông Tồn thì cơ quan nhà nước rất khó trong việc xác định
thời hạn giải quyết vụ việc và một số vấn đề khác có liên quan.
Từ những nội dung trên, Ủy ban nhân dân huyện tiếp tục chỉ đạo đoàn kiểm tra
do Thanh tra huyện chủ trì, tiến hành kiểm tra, xác minh và giải quyết xâu chuỗi các vụ
khiếu kiện, tổng hợp kết quả báo cáo UBND huyện trước ngày 31/5/2013.
4. Nguyên nhân xảy ra tình huống

13


Từ những phân tích và nhận định nêu trên, chúng ta có thể thấy việc để xảy ra vụ
tranh chấp này và tình trạng giải quyết kéo dài là do những nguyên nhân chủ yếu sau:

4.1. Nguyên nhân khách quan:
- Do hoàn cảnh sau chiến tranh, các cơ chế, chính sách được bổ sung, điều
chỉnh, thay đổi, các quy định pháp luật về đất đai chưa hoàn thiện, bộ máy quản lý
nhà nước tại địa phương mới thành lập chưa đáp ứng đủ năng lực để quản lý đất đai
một cách hiệu quả.
- Tình hình quản lý và sử dụng đất đai ngay sau ngày giải phóng có nhiều biến
động về hiện trạng, nhất là công tác giản dân, định canh định cư vùng kinh tế mới, về
người sử dụng như đi, ở và lấn chiếm ,… làm cho công tác quản lý gặp nhiều khó khăn.
4.2. Nguyên nhân chủ quan:
- Do cán bộ, công chức thực hiện chính sách giao đất làm nhà ở không thực
hiện đúng quy định của pháp luật, đất đang có người sử dụng nhưng không thu hồi
trước khi giao cho người khác;
- Do cán bộ, công chức tham mưu cấp trên giải quyết tranh chấp, khiếu nại về
đất đai không làm đúng chức trách, lúng túng trong áp dụng pháp luật dẫn đến vụ
việc bị kéo dài chưa xử lý dứt điểm.
Trong các nguyên nhân trên thì nguyên nhân chính dẫn đến vụ việc tranh chấp
này là: Người thực hiện chính sách giao đất làm nhà ở không thực hiện đúng quy định
của pháp luật. Cụ thể, trong diện tích đất 5.968m2 đang được gia đình ông Thanh sử
dụng vào mục đích đất ở, UBND huyện đã ban hành Quyết định số 68/QĐ-UBND,
ngày 14/01/1992 để giao 1.125,7m2 cho bà Nguyễn Thị Bé làm nhà ở mà chưa thu hồi
và giải quyết bồi thường cho gia đình ông Thanh. Còn nguyên nhân dẫn đến tình trạng
tranh chấp đất kéo dài chưa được giải quyết dứt điểm là: Ủy ban nhân dân xã và một
số cơ quan liên quan không thực hiện đúng trách nhiệm của mình và lúng túng trong
việc áp dụng pháp luật.
5. Hậu quả của tình huống
Do các nguyên nhân trên, chúng ta có thể thấy tình trạng tranh chấp này kéo
dài để lại nhiều hậu quả như:
5.1. Hậu quả mà người sử dụng đất phải chịu:
Trong suốt thời gian dài (từ năm 1999 đến nay) gia đình ông Thanh không
được sử dụng thửa đất đã mua của người khác đúng mục đích (tức không thể xây

dựng trên đất) và cũng không được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất (cấp giấy
14


chứng nhận) do đang tranh chấp. Gia đình ông Thanh còn phải mất nhiều thời gian,
công sức, tiền bạc để đi khiếu nại, khiếu kiện nhiều lần, nhiều nơi.
5.2. Hậu quả do Nhà nước và địa phương phải chịu:
Vụ việc tranh chấp nêu trên kéo dài gây ảnh hướng đến sự nghiêm minh của
pháp luật và hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đất đai, ảnh hưởng đến an
ninh trật tự xã hội và uy tín của chính quyền địa phương. Nhà nước tốn nhiều thời
gian, công sức và tiền bạc để họp hành, kiểm tra, xác minh trong một thời gian dài.
III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Mục tiêu xử lý tình huống
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người sử dụng đất.
- Bảo đảm vụ việc được giải quyết dứt điểm, thuyết phục được các bên tranh
chấp để không phát sinh khiếu nại, khiếu kiện tiếp theo. Nếu vụ việc tiếp tục bị
khiếu kiện thì UBND huyện phải bảo vệ được quan điểm giải quyết của mình (tức
quyết định giải quyết không bị hủy hoặc sửa bởi UBND tỉnh hoặc tòa án);
- Bảo đảm kết quả giải quyết vụ việc phải vừa đúng pháp luật vừa mang tính
khả thi, phù hợp với thực tiễn và có thể triển khai thực hiện một cách nghiêm túc
trong điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương và hoàn cảnh của người sử dụng đất.
2. Phương án xử lý tình huống
Trên cơ sở kết quả phân tích vụ việc, mục tiêu đề ra và các nguyên tắc áp
dụng pháp luật, chúng ta có thể đưa ra các phương án xử lý để lựa chọn như sau:
2.1. Phương án 1:
Đình chỉ giải quyết vụ việc và hướng dẫn các bên tranh chấp khởi kiện tại tòa
án nhân dân để bảo vệ quyền lợi của mình. UBND huyện chỉ cung cấp hồ sơ và phối
hợp theo yêu cầu của tòa án. Sau khi có bản án, quyết định của Tòa án thì tổ chức
triển khai thực hiện. Vì theo quy định tại khoản 1 Điều 136 của Luật Đất đai năm
2003 (có hiệu lực vào thời điểm nhận đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp ngày

12/7/2010) thì “tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và
5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân
dân giải quyết” và Quyết định số 68/QĐ-UBND, ngày 14/01/1992 là một loại giấy tờ
được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003.
2.2. Phương án 2:
15


Ủy ban nhân dân huyện tiếp tục giải quyết vụ việc đã được thụ lý theo hướng:
Căn cứ vào khoản 4 Điều 12 và Điều 35 của Luật Đất đai năm 1987 để ban hành
quyết định hủy bỏ Quyết định số 68/QĐ-UBND, ngày 14/01/1992 về việc giao đất
làm nhà ở cho bà Nguyễn Thị Bé với 1.125,7m 2 đất và Quyết định số 79/QĐUBND, ngày 14/01/1992 về việc giao đất làm nhà ở cho ông Trần văn Tồn với
1.099,5m2 và đề nghị gia đình ông Thanh làm thủ tục để được Nhà nước công nhận
quyền sử dụng đất trên diện tích trước đây tranh chấp là 985,7m2 đối với nhà bà
Nguyễn Thị Bé và 100,5m2 đối với nhà ông Trần Văn Tồn, đồng thời yêu cầu ông
Thanh thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của nhà nước. Vì việc ban hành
Quyết định số 68/QĐ-UBND, ngày 14/01/1992, Quyết định số 79/QĐ-UBND, ngày
14/01/1992 của UBND huyện trước đây là sai trình tự quy định tại khoản 4 Điều 12
của Luật Đất đai năm 1987 do ông Trần Văn Trường (chồng bà Nguyễn Thị Bé) đã
giả mạo hồ sơ để được giao đất làm nhà ở cho cả hai anh em ông, trên thực tế, vợ
ông là bà Nguyễn Thị Bé đã có hộ khẩu ở thôn Huỳnh Trúc và em ông là Trần Văn
Tồn đã có nhà và đất ở nơi khác do đó việc giao đất ở cho bà Nguyễn Thị Bé và ông
Trần văn Tồn là vi phạm điều kiện giao đất ở quy định tại Điều 35 của Luật Đất đai
năm 1987.
3. Lựa chọn phương án xử lý:
3.1.Đối với phương án 1: Nếu lựa chọn hướng giải quyết vụ việc theo phương
án 1 có ưu điểm là đảm bảo vụ việc được xử lý đúng thẩm quyền, trình tự pháp luật
và bản án, quyết định của tòa án sẽ được thi hành một cách nghiêm minh. Tuy nhiên,
phương án này có hạn chế là vụ việc có thể kéo dài do trình tự, thủ tục giải quyết vụ

án tranh chấp dân sự tại tòa án khá phức tạp có thể phải giải quyết qua nhiều cấp
như sơ thẩm, phúc thẩm và có thể tái thẩm, giám đốc thẩm. Trách nhiệm pháp lý
(gồm trách nhiệm hình sự, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm bồi thường nhà nước)
của những người ban hành văn bản trái pháp luật bị tòa án tuyên hủy có thể được đặt
ra, uy tín cơ quan hành chính cũng bị ảnh hưởng. Về phía các bên tranh chấp, nếu
lựa chọn khởi kiện ra tòa án theo phương án này thì họ cũng bị thiệt thòi nhất là tốn
tiền bạc (án phí dân sự, phí thi hành án, thù lao luật sư…) và tốn nhiều thời gian
theo đuổi vụ kiện. Do vậy, khi đã tìm ra nguyên nhân dẫn đến vụ việc tranh chấp và
có thể lựa chọn hướng giải quyết khác tốt hơn thì không nên hướng dẫn các bên thực
hiện phương án khởi kiện.

16


3.2. Đối với phương án 2: Việc giải quyết theo phương án này có những hạn
chế nhất định như vụ việc tại thời điểm thụ lý (ngày 12/7/2010) theo quy định thuộc
thẩm quyền của tòa án, không thuộc thẩm quyền của UBND huyện cho nên UBND
huyện thụ lý là không đúng quy định. Tuy nhiên, thời điểm này không phải là thời
điểm đầu tiên phát sinh vụ việc mà vụ việc thực tế đã phát sinh từ năm 1999 (khi lần
đầu tiên gia đình ông Thanh gửi đơn). Việc UBND huyện thụ lý vụ tranh chấp vào
ngày 12/7/2007 là phù hợp với nguyện vọng của các bên tranh chấp. Theo kinh
nghiệm thực tế thì trong quá trình thanh tra, kiểm tra, cấp trên thường chỉ góp ý chứ
không hủy bỏ kết quả giải quyết những vụ việc tương tự như thế này.
Phương án giải quyết này có ưu điểm là UBND huyện có đủ chứng cứ chắc
chắn để ban hành quyết định hủy bỏ Quyết định số 68/QĐ-UBND, ngày 14/01/1992
và Quyết định số 79/QĐ-UBND, ngày 14/01/1992. Vì Quyết định số 68/QĐ-UBND
và Quyết định số 79/QĐ-UBND, ngày 14/01/1992 đã được ban hành vừa sai trình tự,
thủ tục và ông Trần văn Trường còn có dấu hiệu giải mạo hồ sơ để trục lợi cho vợ và
em mình. Do đó, khả năng bà Nguyễn Thị Bé khiếu nại hay khởi kiện quyết định hủy
bỏ này của UBND huyện làm cho vụ việc bị kéo dài không dứt điểm là rất ít, thậm chí

không xảy ra. Phần việc còn lại là hướng dẫn gia đình ông Thanh hợp thức hóa quyền
sử dụng đất đang tranh chấp và thực hiện nghĩa vụ tài chính là đúng quy định, phù
hợp với pháp luật đất đai hiện hành. Vì sau khi Quyết định số 68/QĐ-UBND, Quyết
định số 79/QĐ-UBND, ngày 14/01/1992 bị hủy bỏ và bà Bé, ông Tồn không khiếu
nại hay khởi kiện tiếp thì cũng đồng nghĩa là tình trạng tranh chấp diện tích đất này
không còn và theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003
thì gia đình ông Thanh đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng
đất đối với diện tích đất 1.125,7m2 và 100,5m2 nêu trên.
Theo kết quả đánh giá này, thì việc Ủy ban nhân dân huyện lựa chọn phương
án giải quyết thứ 2 là tối ưu, bảo đảm được các mục tiêu đề ra ở trên.
4. Kiến nghị
4.1. Kiến nghị đối với Đảng và Nhà nước
- Hiện nay, sau khi Luật Tố tụng hành chính năm 2010 sửa đổi khoản 2 Điều
136 của Luật Đất đai năm 2003 thì pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai đối với
đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không có giấy tờ quy định tại
các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai (gọi tắt là đất không có giấy tờ) rất đơn
17


giản và chưa cụ thể. Vì chưa có văn bản hướng dẫn nên quá trình thực hiện cơ quan
nhà nước và cả người dân gặp không ít khó khăn và lúng túng. Do đó, đề nghị các
cấp, các ngành ở trung ương, cấp tỉnh cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể
về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đối với loại đất không có giấy tờ.
- Qua vụ việc trên cho thấy hiện nay đội ngũ tham mưu, giúp việc cho chính
quyền các cấp (nhất là cấp huyện) trong giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
còn rất yếu, chưa nắm được các nguyên tắc cơ bản về giải quyết tranh chấp, khiếu
nại về đất đai và chưa nắm hết tất cả các văn bản pháp luật đất đai qua các thời kỳ.
Do đó rất thường lúng túng khi tham mưu giải quyết những vụ việc phức tạp, nhất là
những vụ việc kéo dài do lịch sử để lại. Đề nghị Đảng và Chính phủ cần có chính

sách để đào tạo, bồi dưỡng, khuyến tài để thu hút những người có chuyên môn và
năng lực, nghiệp vụ giỏi phục vụ tại địa phương, nhằm giúp chính quyền các cấp
thực hiện tốt mọi công việc quản lý, chỉ đạo tại cơ quan, đơn vị cũng như giải quyết
tốt công việc khó khăn, phức tạp và nhạy cảm này.
4.2. Kiến nghị đối với Ủy ban nhân dân huyện
- Cần đề cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tiếp dân, hòa giải và giải quyết tranh
chấp, khiếu nại về đất đai có hiệu quả ngay tại cơ sở cùng với việc tăng cường quản lý
nhà nước về đất đai để hạn chế tranh chấp, khiếu nại kéo dài, vượt cấp.
- Cần rà soát các vụ việc khiếu nại, tranh chấp liên quan đến đất đai chưa
được giải quyết ở cấp huyện và cấp xã để tập trung lực lượng, có kế hoạch, phối hợp
chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, các đoàn thể để tiến hành giải quyết dứt điểm;
trong quá trình giải quyết cần chú ý tăng cường dân chủ, tuyên truyền pháp luật, tích
cực vận động thuyết phục và hoà giải.
- Kiện toàn bộ máy quản lý đất đai ở cấp huyện, trong đó chú trọng đến đội
ngũ cán bộ lãnh đạo và chuyên viên thực hiện của phòng Tài nguyên và Môi trường,
Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất,... và cán bộ địa chính cấp xã; kiện toàn,
củng cố tổ chức, nâng cao năng lực, trình độ, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm
công tác quản lý đất đai và giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai.

18


KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu về mảng đề tài đất đai này cho thấy công tác giải
quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai ở nước ta nói chung và trên địa bàn huyện
Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng còn rất nhiều bất cập, hạn chế cần tập
trung giải quyết để tạo bước chuyển biến cơ bản trong nhận thức cũng như trong
công tác quản lý thực tế về đất đai tại từng địa phương, cơ sở.
Vụ việc này thể hiện sự hạn chế, yếu kém, buông lỏng trong công tác quản lý
đất đai của cơ quan hành chính nhà nước trong suốt một thời gian dài, nhất là chính

quyền địa phương cơ sở. Nội dung vụ việc lúc mới phát sinh nếu được xử lý kịp
thời, đúng pháp luật và dứt điểm thì sẽ không trở nên phức tạp. Ở đây, vụ việc này
do để kéo dài quá lâu và không giải quyết dứt điểm nên càng về sau sẽ càng khó tìm
ra chứng cứ, xác định nguyên nhân sự việc và lúng túng trong việc lựa chọn các văn
bản quy định của pháp luật để áp dụng cũng như Luật đất đai các năm . Lỗi lớn nhất
ở đây vẫn là do chính quyền địa phương không quản lý tốt bản đồ, hồ sơ 299, công
tác quản lý chỉ đạo về lĩnh vực đất đai, hộ tịch, hộ khẩu nên đã vi phạm nhiều nội
dung về đất ở và quản lý hộ tịch, hộ khẩu. Kết quả Tiểu luận tình huống này cho
thấy, để giải quyết một vụ việc tranh chấp đất đai nói riêng hay tranh chấp, khiếu
kiện nói chung, trước hết chúng ta cần tìm ra nguyên nhân, thời điểm xảy ra mối
quan hệ pháp luật dẫn đến tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, sau đó cần tìm hiểu quy
định của pháp luật và hoàn cảnh thực tiễn tại thời điểm mà mối quan hệ dẫn đến
tranh chấp, khiếu kiện đó xảy ra. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần xem xét đến các
quy định của pháp luật và điều kiện, hoàn cảnh tại thời điểm hiện tại để vụ việc
được giải quyết đúng pháp luật nhưng phải đảm bảo được tính khả thi và ít gây ra
các tác động không mong muốn cho mọi người trong cuộc sống, xã hội.
Qua vụ việc này cũng cho thấy các cơ quan nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa
pháp luật về đất đai, đặc biệt là các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai của cơ
quan hành chính nhà nước; quan tâm đầu tư vật chất, kiện toàn cán bộ, công chức và
kịp thời chấn chỉnh những sai phạm trong công tác quản lý đất đai đặc biệt là tại cấp
huyện và cấp xã, vì đây là các cấp chính quyền quản lý nhiều quan hệ giao dịch về
đất đai nhất. Nếu làm tốt những công tác này sẽ góp phần tích cực giảm tình trạng
tranh chấp, khiếu kiện về đất đai, tạo điều kiện để phát triển kinh tế, ổn định an ninh
chính trị và đảm bảo trật tự an toàn xã hội./.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật cải cách ruộng đất ngày 04/12/1953 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

2. Nghị quyết số 125-CP ngày 28/6/1971 của Hội đồng Chính phủ nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà về việc tăng cường công tác quản lý ruộng đất.
3. Nghị định số 01/NĐ/75 ngày 05/3/1975 của Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hoà miền Nam Việt Nam về chính sách ruộng đất.
4. Quyết định số 201/CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường
công tác quản lý ruộng đất trong cả nước.
5. Luật Đất đai năm 1987 và Nghị định số 30/HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội
đồng Bộ trưởng về việc thi hành Luật Đất đai năm 1987.
6. Quyết định số 13-HĐBT ngày 01/02/1989 của Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất.
7. Luật khiếu nại, tố cáo ngày 02/12/1998 và Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật khiếu nại, tố cáo năm 2004, 2005.
8.Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo và các
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo.
9. Luật Đất đai năm 1993 (sửa đổi, bổ sung các năm 1998, 2001) và các văn
bản hướng dẫn thi hành. (Luật Đất đai số 24-L/CTN, ngày 14/7/1993 của Quốc hội).
10. Luật Đất đai năm 2003 (sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2010) và các văn
bản hướng dẫn thi hành.
11. Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội về nhà đất
do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách
quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm
1991 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
12. Nghị định 181/2004/NĐ-Cp ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi
hành Luật đất đai.
13. Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ
sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện
quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.

20


14. Quyết định số 2033/2006/QĐ- UBND ngày 05/9/2006 của UBND tỉnh
Thừa Thiên Huế quy định về thẩm quyền, trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo.
15. Quyết định 1490/2007/QĐ-UBND ngày 29/6/2007 của UBND tỉnh
Thừa Thiên Huế quy định về thẩm quyền, trình tự giải quyết tranh chấp, khiếu
nại về đất đai trên địa bàn Tỉnh.
11. Hồ sơ, tài liệu, các văn bản của UBND xã Phong Mỹ liên quan đến vụ
việc khiếu nại của ông Phạm Ngọc Thanh, bà Nguyễn Thị Bé, ông Trần văn Tồn
và Hồ sơ giải quyết tranh chấp nói trên của UBND huyện Phong Điền (gồm có cả
phòng Tài nguyên và Môi trường, Thanh Tra huyện,…).

21


XÁC NHẬN CỦA
VĂN PHÒNG HĐND VÀ UBND HUYỆN PHONG ĐIỀN
Vụ việc khiếu kiện, tranh chấp đất đai nói trên là đúng thực tế tại xã Phong Mỹ,
đồng chí Nguyễn Hữu Đức được phân công phụ trách, theo dõi. Nội dung tình
huống, số liệu và các vấn đề đã nêu trong đề tài là xác thực. Các phương án, kiến
nghị trong tiểu luận tình huống được dùng để phục vụ cho công tác của cơ quan
tham mưu cho lãnh đạo huyện./.

Phong Điền, ngày
tháng 4 năm 2013
CHÁNH VĂN PHÒNG

Võ Ngọc Sơn


22



×