Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Tự do hóa tài chính trong quá trình hội nhập kinh tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (729.85 KB, 52 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

ĐẶNG LIÊU LOAN HƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2002


PHẦN MỞ ĐẦU
...
I-

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều lợi ích, nhưng những thách thức của nó cũng không
dễ vượt qua. Trong khi những lợi ích mới chỉ là tiềm năng, thì những thử thách lại là trước
mắt, cấp bách. Tự do hóa tài chính sẽ là đặt trưng của nền tài chính thế giới trong thiên niên
kỷ mới và đang trở thành một quy luật tất yếu khách quan. Việt nam cũng không nằm ngoài
qui luật đó vì chúng ta là một phần của nền tài chính toàn cầu. Để có thể tận dụng tối đa
những cơ hội và giảm thiểu những bất lợi do quá trình hội nhập kinh tế và tài chính quốc tế
gây nên, Việt nam đang chủ động hội nhập với nền tài chính khu vực và thế giới theo quan
điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước đề ra.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng tự do hóa tài chính là một quá trình lâu dài, ngay cả
đối với các nước đang phát triển thì quá trình này cũng chưa hoàn thành, riêng Việt nam
chúng ta đang phải chập chững những bước đi đầu tiên trên con đường hội nhập kinh tế và tự
do hóa thương mại nhưng chúng ta không thể đứng ngòai vòng xoáy và càng không thể chấp
nhận tụt hậu thêm nữa. Tự do hóa thương mại đã được cam kết và đang khẩn trương thực
hiện, thì tự do hóa tài chính cũng cần phải được xúc tiến từng bước vững chắc. Vấn đề là


chúng ta phải nắm bắt và vận dụng tốt các quy luật vận động của nền tài chính quốc tế để
vạch ra cho mình một lộ trình tự do hóa thích hợp.
Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của tự do hóa tài chính trong quá trình phát triển và
hội nhập của đất nước, từ thực trạng đổi mới thể chế tài chính tiền tệ trong nước theo cơ chế
thò trường, từ bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước, việc hoạch đònh chiến lược, cơ chế tài
chính tiền tệ trong giai đoạn sắp đến theo hướng tự do hóa là cần thiết và vô cùng quan trọng.
II-

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Xuất phát từ những nguyên nhân đó, tôi đã mạnh dạn chọn Tự do hóa tài chính trong quá
trình hội nhập kinh tế ở Việt Nam làm đề tài nghiên cứu của mình. Đề tài nhằm mục đích giải
quyết lộ trình tự do hóa tài chính của Việt Nam trong điều kiện kinh tế hiện nay, tự do hóa tài
chính được đặt trong sự ổn đònh vó mô và tăng trưởng kinh tế một cách thận trọng.
III-

ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Trước tiên, đề tài đề cập đến lý thuyết tự do hóa tài chính đã được thừa nhận rộng rãi. Tiếp
đến, đề tài đi vào phân tích thực trạng quá trình tự do hóa tài chính ở Việt nam trong thời gian
qua, nghiên cứu quá trình tự do hóa tài chính của các nước trên thế giới, tập trung vào cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới trong thời gian gần đây nhằm rút ra những tồn tại và bài học
kinh nghiệm của quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam. Xem xét những thuận lợi và khó
khăn của Việt Nam, nghiên cứu mục tiêu và chiến lược hội nhập tài chính của Chính phủ và
đề xuất những giải pháp cho quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam trong thời gian xắp đến.

Trang 1 of 51


Đề tài có mối quan hệ với nhiều lónh vực kinh tế khác nhau như: môi trường đầu tư, kinh tế vó

mô, chính sách tài chính công, hệ thống ngân hàng,…
IV-

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đề tài vận dụng tổng hợp cách tiếp cận hệ thống, phương pháp duy vật biện chứng và lòch sử,
phương pháp logic, tổng hợp kinh nghiệm tự do hóa tài chính của các nước trên thế giới để
vận dụng vào Việt Nam.
V-

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Đề tài nghiên cứu những nội dung chính như sau:
Chương 1: Tự do hóa tài chính – xu hướng tất yếu của quá trình hội nhập và tăng trưởng
Chương 2: Thực trạng quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam và các nước trên thế giới
Chương 3: Những giải pháp tự do hóa tài chính trong quá trình hội nhập kinh tế ở Việt Nam

Trang 2 of 51


CHƯƠNG 1 : TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH-XU HƯỚNG TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH HỘI
NHẬP VÀ TĂNG TRƯỞNG.
1.1

KÌM CHẾ TÀI CHÍNH

Theo McKinnon 1 (1973) và Shaw (1973) “Kìm chế tài chính” là sự “bóp méo” các hoạt động
của thò trường tài chính ở các nước đang phát triển do có sự can thiệp và kiểm soát không theo
quy luật thò trường của chính phủ gây ra. Sự can thiệp và kiểm soát của chính phủ các nước
này thường làm cho giá cả ở khu vực tài chính vượt ra khỏi điểm cân bằng thò trường của

chúng. Môi trường kìm chế tài chính được biểu hiện ở sự bao cấp tín dụng và lãi suất rất thấp
hoặc âm. Điều này dẫn đến việc phân bổ không hiệu quả các luồng tín dụng, và sau đó là
hoạt động kém hiệu quả của nền kinh tế 2 .
1.1.1 Các biện pháp kìm chế tài chính
Ngân hàng thế giới (1992) đã cụ thể hóa các hành vi can thiệp của chính phủ vào khu vực tài
chính ở các nước đang phát triển và chuyển đổi như sau:
- Yêu cầu tín dụng ở nhiều nước đang phát triển, các ngân hàng thương mại thường bò chính
phủ yêu cầu cung cấp các khoản tín dụng cho bản thân chính phủ và cho các khu vực kinh
tế mà chính phủ cho là những khu vực đầu tàu của nền kinh tế. Tuy vậy, thực tế không có
một tiêu chuẩn rõ rệt nào xác đònh điều này. Cho nên những luồng tín dụng đã được phân
bổ vào những ngành không đem lại hiệu quả cho bản thân ngân hàng và cho nền kinh tế
nói chung.
- Các chế độ tái tài trợ được xem là những chế độ trong đó các khoản tín dụng khó đòi sẽ
được ngân hàng trung ương tái tài trợ (hay mua lại) với lãi suất ưu đãi. Từ đó các ngân
hàng thương mại ở các nước này có khuynh hướng trông chờ vào sự cứu giúp khi gặp khó
khăn hơn là sự tự vận động để quản lý rủi ro và giảm chi phí đối với hoạt động cho vay
của họ.
- Bảo lãnh tín dụng là một hình thức quan trọng của chính phủ nhằm giúp các doanh nghiệp
ưu đãi. Một số chính phủ đưa ra các bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp được
hưởng ưu đãi nhưng họ không có khả năng đáp ứng được các yêu cầu tín dụng của các
ngân hàng thương mại.
- Chính phủ nhiều nước đang phát triển đang cố hướng các luồng tín dụng vào khu vực các
tổ chức tài chính phát triển. Các đònh chế này có nhiệm vụ tìm kiếm và chuyển các khoản
tín dụng vào lãi suất những khu vực kinh tế đã đònh trước.
- Lãi suất ưu đãi là lãi suất thấp hơn lãi suất thò trường, thường được áp dụng cho những
lónh vực hay hoạt động kinh tế trọng yếu nhằm làm giảm chi phí cho các khu vực kinh tế
đó, giúp chúng tồn tại và hoạt động được. Bù lại, chính phủ các nước thường trợ cấp
khoản chênh lệch giữa lãi suất ưu đãi và lãi suất thò trường cho các ngân hàng thương mại
tham gia vào chế độ này.
Ngoài ra còn có những qui đònh về kết hối ngoại tệ đối với các doanh nghiệp, lãi suất cố đònh,

lãi suất trần, dự trữ bắt buộc,…góp phần tạo ra kìm chế tài chính.
1

McKinnon là Giáo sư kinh tế học Quốc tế tại trường Đại học Stanford University.
Theo bài viết “Lãi suất cân bằng và tự do hóa tài chính ở các nước đang phát triển” của Roland
Clarke trong tuần báo Nghiên cứu phát triển.

2

Trang 3 of 51


1.1.2

Tác hại của kìm chế tài chính

Chính sách kìm chế tài chính có thề bù đắp một phần thâm hụt ngân sách của nhà nước. Đồng
thời chính sự can thiệp quá mức cần thiết vào sự vận động của nền tài chính đã làm tê liệt
khu vực kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế tư nhân không có cơ hội hay nói chính xác là không
có điều kiện thuận lợi để vay vốn tín dụng, không có khả năng phát triển đầu tư, dẫn tới hạn
chế phát triển và thiếu sức cạnh tranh, gây bất ổn cho một bộ phận quan trọng của nền kinh
tế .
Mức trần lãi suất cho vay đã không thu hút được các dự án đầu tư với tỉ lệ sinh lời cao, vì
không thể đưa ra một tỉ lệ phí rủi ro khi mức lãi suất bò ràng buột. Từ đây làm giảm sự tăng
trưởng của nền kinh tế.
Mặt khác, sự bao cấp về tín dụng làm cho hệ thống ngân hàng hoạt động yếu kém. Các ngân
hàng không thể đánh giá chính xác về rủi ro của các dự án, không kiểm soát tốt các khoản
vay, đặc biệt là các dự án có vốn của Nhà nước.
Nhìn chung, ở những quốc gia đang phát triển và đang chuyển đổi, chính phủ thường áp dụng
những biện pháp can thiệp vào khu vực tài chính và ngân hàng nhằm huy động và tập trung

vốn cho các lónh vực mà Nhà nước xem là trọng yếu. Những biện pháp và chính sách đó đã
làm kìm hãm sự phát triển theo qui luật thò trường của các yếu tố như lãi suất, giá cả, dẫn đến
sự trì trệ của nền kinh tế nói chung. Từ đó, chính phủ các nước hay Việt Nam nói riêng, đã
từng bước nghiên cứu và thực hiện chiến lược tự do hóa tài chính tạo sự phát triển và ổn đònh
của từng quốc gia và cho cả khu vực.
1.2

TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH

1.2.1

Tự do hóa tài chính:

Trước nhất tự do hóa tài chính là sự xóa bỏ các hạn chế, đònh hướng hay ràng buộc về số
lượng trong quá trình cấp và phân phối tín dụng. Sự điều tiết về số lượng này sẽ được thay thế
bởi một cơ chế giá. Tự do hóa mang lại cho các đònh chế tài chính quyền tự do xác đònh các
mức lãi suất tiền gửi, cho vay và tự do sử dụng công cụ lãi suất. Theo lý thuyết thì tự do hóa
dẫn đến chấm dứt các mức trần lãi suất, cũng như các ràng buộc trong việc sử dụng các
nguồn vốn huy động, không còn tồn tại các kênh cấp vốn ưu đãi 3
Tự do hóa cũng đồng nghóa với mở rộng cạnh tranh trong các hoạt động trung gian tài chính,
với khả năng chấm dứt sự phân biệt đối xử về pháp lý giữa các thành phần kinh tế trong nền
kinh tế một quốc gia. Tuy vậy, tự do hóa không có nghóa là không tồn tại các qui đònh hay
việc giám sát các hoạt động tài chính. Hơn thế nữa, tự do hóa đòi hỏi phải tăng cường cơ sở

3

Báo cáo của Jean-Pierre Landau, Tổng thanh tra tài chính, Tổng giám đốc Hiệp Hội Ngân Hàng Pháp
trong chương trình hội thảo “Tự do hóa và an ninh tài chính” ngày 10/01/2001 tại Hà Nội.
Trang 4 of 51



hạ tầng qui chế 4 và các cơ quan giám sát. Việc can thiệp vó mô hợp lý là cần thiết để bảo
đảm sự vận hành hiệu quả của các thò trường tài chính và ngân hàng.
Tự do hóa tài chính, tùy theo từng quốc gia, bao gồm nhiều yếu tố khác nhau phản ánh những
sự hạn chế khác nhau theo đánh giá mỗi nước. Tổng quan, có 5 yếu tố quan trọng nhất: Tự do
hóa lãi suất và giá cả, tự do hóa hoạt động tín dụng và giảm thiểu thủ tục hành chính của các
tổ chức tín dụng nhà nước, linh hoạt hoạt động ngoại hối, tự do hóa hoạt động của các tổ chức
tài chính trên thò trường tài chính; và giảm thuế, thâm hụt và lạm phát trên thò trường tài
chính quốc gia.
- Tự do hóa lãi suất và giá cả là cho phép các đònh chế tài chính quyền tự do xác đònh các
mức lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay, tự do ấn đònh các mức phí trong phạm vi hoạt động
tài chính.
- Tự do hóa hoạt động tín dụng và giảm thiểu thủ tục hành chính của các tổ chức tín dụng
nhà nước là việc xóa bỏ các hạn chế, đònh hướng chủ quan hay ràng buộc về số lượng
trong quá trình cấp và phân phối tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng và
mở rộng tín dụng cho mọi thành phần kinh tế. Đồng thời phải cải cách thêm nửa các thủ
tục hành chính đang xảy ra đối với các đơn vò tín dụng nhà nước, góp phần nâng cao khả
năng cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
- Điều hành linh hoạt hoạt động ngoại hối chính là xóa bỏ các hạn chế về quản lý ngoại hối
và thực hiện điều hành tỉ giá hối đoái theo qui luật thò trường.
- Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thò trường tài chính là tiến hành mở
rộng tự do cạnh tranh trong các hoạt động trung gian tài chính thông qua việc xóa bỏ các
hạn chế trong phạm vi hoạt động, phạm vi kinh doanh của các tổ chức tài chính.
- Giảm thuế, kìm chế thâm hụt và lạm phát trên thò trường tài chính là tạo ra một môi trường
ổn đònh vó mô về thuế, pháp lý, công khai tình hình tài chính giúp các tổ chức tín dụng
đánh giá chính xác “sức khỏe” của các doanh nghiệp để có các biện pháp xử lý kòp thời,
hạn chế khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, tự do hóa không cần thiết phải kéo theo tư nhân hóa toàn bộ các hoạt động tín
dụng và cấp vốn. Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào việc quản lý hài hòa giữa các thành phần
kinh tế, một nền kinh tế muốn phát triển phải có động lực cạnh tranh, nhưng phải là cạnh

tranh lành mạnh dựa trên khả năng lãnh đạo, quàn lý và thực lực của từng đơn vò.
Câu hỏi khác đặt ra là liệu việc tự do hóa có đồng nghóa với việc mở cửa cho cạnh tranh nước
ngoài? Mở cửa cho tự do cạnh tranh tức là cho phép các đònh chế nước ngoài hoạt động trên
lãnh thổ quốc gia và tạo những điều kiện hoạt động như những đònh chế trong nước. Như vậy,
tùy theo tiềm lực của từng quốc gia mà chính phủ có những sách lược nhất đònh. Riêng Việt
nam, chúng ta có thể tự do hóa hệ thống tài chính quốc gia trong thời điểm này và chưa cần
thiết cùng lúc phải cạnh tranh hoàn toàn đối với các đònh chế nước ngoài.
Đặc biệt tự do hóa nội bộ có thể đi kèm với tự do hóa ở bên ngoài, mở tài khoản vốn và trao
quyền tự do giao dòch giữa người cư trú và người không cư trú. Tự do hóa có thể dừng lại
trong lónh vực ngân hàng hay chỉ nhằm thiết lập những thò trường vốn nội bộ. Từ đó, mỗi quốc

4

J.Stiglit trong “vai trò của hệ thống tài chính trong quá trình phát triển”. Hội nghò thường niên về phát
triển ở Châu Mỹ Latin và Caribbean, 29/06/1998.
Trang 5 of 51


gia phải quyết đònh mức độ và các hình thức tự do hóa mà họ mong muốn. Muốn vậy trước
cần phân tích những lợi ích và các tác động của tự do hóa.
Lập luận đưa ra giải thích cho tự do hóa tài chính hoàn toàn đồng nhất với lập luận được sử
dụng để khuyến khích tự do hóa nền kinh tế và thương mại. Đó là hiệu quả trong việc phân
bổ các nguồn lực. Lập luận này chưa hoàn chỉnh nhưng xác đáng. Nó chưa hoàn chỉnh bởi vì
trái ngược với tự do hóa thương mại, tự do hóa tài chính tác động đến tính ổn đònh của nền
kinh tế. Những tác động này có thể giảm thiểu, hoặc làm triệt tiêu những lợi ích về hiệu quả
mà chính tự do hóa thương mại mang lại.
Tự do hóa tài khoản vốn là bước sau cùng và quan trọng của tự do hóa tài chính. Các quan
điểm về tự do hóa tài khoản vốn cũng gây ra nhiều tranh cãi giữa các nhà kinh tế.
1.2.2


Tự do hóa tài khoản vốn trong quá trình tự do hóa tài chính

Tài khoản vốn ghi chép những giao dòch liên quan đến sự di chuyển dòng vốn vào và ra đối
với một quốc gia.
Có nhiều quan điểm khác nhau về tự do hóa tài khoản vốn, theo Mckinnon (1973, 1982);
Frenkel (1982); Edwards (1984) tự hóa tài khoản vốn sẽ kéo theo tự do hóa tài khoản vãng lai
và hệ thống tài chính trong nước. Theo quan điểm khác, tự do hóa tài khoản vốn diễn ra song
song với tự do hóa tài khoản vãng lai [Scitovsky và Scott (1970); Michaely (1986)]. Tài khoản
vốn được tự do hóa ở nhiều gốc độ khác nhau, phụ thuộc vào tài khoản vãng lai và hệ thống
tài chính trong nước. Đối với các nước đang phát triển không nên tự do hóa hoàn toàn tài
khoản vốn trước khi tự do hóa hệ thống tài chính và các giao dòch vãng lai. Vì các lý do sau:
-

-

-

Nền tảng của sự phát triển và ổn đònh hệ thống tài chính trong nước có ảnh hưởng quan
trọng đến sự tăng trưởng và lớn mạnh của dòng vốn. Khả năng thanh toán của ngân hàng
hay một hệ thống luật không đồng bộ đã không khuyến khích dòng vốn nước ngoài chảy
vào, thu hút vốn đầu tư.
Khi tự do hóa tài khoản vốn, sẽ tạo sự cạnh tranh mạnh hơn và đa dạng hơn trong thò
trường tài chính. Tuy vậy, phải rất thận trọng trong việc quản lý vay và cho vay trong các
tổ chức tín dụng, vì rủi ro sẽ cao hơn do sự rút vốn đột ngột có thể xảy ra, có thể sẽ dẫn
đến khủng hoảng Ngân hàng. Từ đó, yêu cầu đặt ra là phải nắm vững, kòp thời sự biến
đổi của dòng vốn vào.
Công cụ kiểm soát vốn đều nằm dưới dạng các văn bản tài chính. Vậy sự hiểu biết vững
vàng về toàn bộ các văn bản tài chính là không thể thiếu, giới hạn dòng luân chuyển vốn,
mỗi sự tác động đến dòng luân chuyển vốn đều có ảnh hưởng đến cán cân thanh toán của
nền kinh tế.


Tóm lại, nếu thiếu sự kết hợp các cải cách về khu vực tài chính trong nước và tài khoản vốn
có thể gây nên hậu quả không mong đợi trong việc khuyến khích các dòng vốn không phù
hợp với điều kiện cơ bản của nền kinh tế. 5
5

R.Barry Jonhston, Salim M.Darbar & Claudia Echeverria – Hậu quả của tự do hoá tài khoản vốn: bài
học từ kinh nghiệm của Chile, Indonesia, Triều Tiên và ThaiLan, Q tiền tệ quốc tế – 11/1997.
Trang 6 of 51


Tự do hóa dòng vốn vào được thực hiện từng bước nhằm củng cố lại tiềm năng của nền kinh
tế về xuất khẩu, bao gồm cải cách quản lý thương mại và đầu tư, điều chỉnh tỷ giá để nâng
cao cạnh tranh, tự do hóa các công cụ hối đoái trên các giao dòch quốc tế, phát triển chính
sách quản lý tiền tệ gián tiếp, cải tổ lại hệ thống ngân hàng và thò trường vốn.
Qua quá trình phân tích tự do hóa tài khoản vốn để tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu rủi ro, muốn
vậy đòi hỏi phải có một tiến trình cải cách toàn diện. Tiến trình này là sự kết hợp giữa tự do
hóa dòng vốn với tự do hóa khu vực tài chính trong nước và cải cách về tự do hóa lãi suất,
phát triển các công cụ quản lý tiền tệ gián tiếp, phát triển thò trường vốn và hệ thống ngân
hàng.
Khi tiến hành Tự do hóa tài khoản vốn chúng ta phải xem xét cả hai mặt của vấn đề.
-

-

-

Tự do hóa hoàn toàn tài khoản vốn có thể gây ra những tác động phản hồi tác động trực
tiếp lên hệ thống tài chính và có thể làm thay đổi căn bản các loại giá cả vó mô làm cân
bằng thò trường như lãi suất thực và tỉ giá hối đoái.

Thông qua thò trường tài chính, việc đồng nội tệ tăng giá thường đi kèm với lãi suất thực
cao 6 , lại càng làm tăng chi phí sản xuất, cản trở việc tích lũy vốn và làm tăng thâm hụt
trong tài khoản vãng lai (ở những nước phải đi vay nước ngoài). Lãi suất cao lại càng thu
hút vốn nước ngoài vào, tạo ra một dòng xoáy giữa lãi suất cao và tỉ giá đi xuống. Thông
qua hệ thống ngân hàng, các luồng vốn đổ vào sẽ làm tăng dự trữ quốc tế và mở rộng
cung tiền và tín dụng trong nước. Về mặt tích cực, có thêm tín dụng trong nước sẽ kích
thích tổng chi tiêu thông qua việc gia tăng đầu tư. Tuy nhiên, nó cũng có thể châm ngòi
cho cuộc bùng nổ về tiêu dùng (chủ yếu là mua nhiều hàng nhập khẩu) hoặc một vụ nổ
bong bóng về giá những tài sản bò đầu cơ (cổ phiếu và bất động sản là chủ yếu). Cơn sốt
cầu được tiếp sức bởi nhập khẩu sẽ qua, nhưng nếu việc mở rộng trong cán cân đối ngoại
là kém bền vững hoặc nếu vốn chạy khỏi đất nước khi bong bóng vỡ thì nền kinh tế
không tránh khỏi cuộc khủng hoảng trước tình hình trên.
Việc tự do hóa tài khoản vốn có thể gây ra sự bất ổn thò trường tài chính quốc tế, tính bất
ổn ở đây được nhìn nhận dưới góc độ tiềm năng, tỷ lệ thuận với qui mô phát triển của thò
trường tài chính. Hay tự do hoá tài khoản vốn tạo cơ sở thúc đẩy chu chuyển vốn quốc tế
nhưng đồng thời nếu các nhân tố cấu thành trở nên quá lỏng lẻo sẽ làm nổ tung hệ thống
có tính cấu trúc của thò trường tài chính quốc tế.

Tóm lại, luồng vốn đổ vào các nước tự do hóa tài khoản vốn đều gia tăng, làm gia tăng dự trữ
quốc tế, mở rộng tín dụng trong nước và đẩy giá đồng nội đòa lên, đưa nền kinh tế vào tình
trạng phát triển nóng. Tỷ giá mạnh nói chung đi kèm với lãi suất cao hơn và tăng chênh lệch
giữa lãi suất thực đi vay và lãi suất cho vay. Luồng vốn đổ vào kích thích tổng cầu tăng nhanh
hơn GDP, mà hậu quả là gia tăng thâm thụt vãng lai.
1.2.3

Tự do hóa tài chính hiệu quả và bất ổn

6

Do các nhà đầu tư sẽ không muốn giữ lại các loại chứng khoán có mệnh giá là đồng nội tệ, trừ lúc đó

lơi nhuận cực kỳ cao ( lơi nhuận cực kỳ cao rất hiếm xãy ra).
Trang 7 of 51


Theo bản chất, hợp lý khi nói rằng tự do hóa tài chính có lợi cho tính hiệu quả của nền kinh
tế. Vốn là nguồn lực hiếm hoi, vì thế phải sử dụng nó một cách có hiệu quả. Theo phương
diện này, tự do hóa tài chính cho phép:
-

-

-

Tăng nguồn vốn nhàn rỗi bằng cách huy động tích lũy trong nước. Một hệ thống tài chính
bò gò bó, trong đó lãi suất chưa đủ cao sẽ không khuyến khích tích lũy (cho đầu tư và tiêu
dùng).
Phân bổ nguồn vốn hiệu quả hơn. Ở Châu Á trong thập niên vừa qua, với những bằng
chứng bên ngoài rất thuyết phục, người ta đã chứng minh rằng những hệ thống phân bổ
tín dụng có chỉ đạo phần nào giải thích của một số lượng lớn các nước mới nổi tại Châu
Á. Tuy nhiên, người ta cũng thấy rằng, một khi bước sang một trình độ phát triển nào đó,
các mô hình phân phối vốn chỉ đạo này bộc lộ những hạn chế. Khủng hoảng năm 19971998 cho thấy tầm vóc của những khoản tín dụng tồi trong nhiều nước, trên nền tảng các
hệ thống này. Khủng hoảng đã đưa ra ánh sáng những khoản chi ngân sách bò che đậy,
mà nó chỉ bộc lộ khi hệ thống ngân hàng bò đổ vỡ, có thể lên đến 100% GDP. Cũng nhận
thấy rằng với hệ thống này, trong một số khu vực công nghiệp đã dẫn đến tình trạng thừa
công suất và lãng phí vốn. Nên nhấn mạnh rằng những hiện tượng trên xuất hiện mà
không phụ thuộc vào chế độ sở hữu: các khoản cho vay tồi- và sau đó là khủng hoảng
xuất hiện trong cả hệ thống tín dụng, ngân hàng nhà nước lẫn tư nhân.
Các nghiên cứu thực tế chứng tỏ rằng tồn tại mối liên hệ rất chặt chẽ giữa một bên là
chuyên sâu và khả năng thanh toán của các thò trường tài chính và ngân hàng với bên kia
là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế.


Bên cạnh tính hiệu quả của tự do hóa tài chính, thì gần đây những cuộc khủng hoảng cho thấy
tự do hóa thường đi đôi với bất ổn đònh gia tăng trong các hệ thống tài chính và kinh tế. Do
vậy, việc đònh dạng các cơ chế là vô cùng quan trọng.
Chúng ta có thể thấy rằng:
-

-

-

Tín dụng được mở rộng thái quá; tự do hóa cho phép nhu cầu tiềm tàng về vốn-cho đến
nay bò kìm chế bởi những hạn chế số lượng-được bộc lộ toàn diện. Các đònh chế tài chính
được khuyến khích phát triển các hoạt động cho vay, chúng được đặt trong điều kiện cạnh
tranh gia tăng và buộc phải tính toán sinh lợi các nguồn vốn huy động này theo một mức
lãi suất do thò trường quyết đònh. Xuất hiện những lực lượng kích thích phát triển trong cả
cầu lẫn cung tín dụng. Nếu như những cơ chế thích hợp không cho phép kiểm soát chất
lượng của các rủi ro, sẽ dẫn đến tình trạng tích tụ nhanh các khoản cho vay kém chất
lượng. Tại đây, những yếu kém của người đi vay sẽ ảnh hưởng đến ngân hàng và chúng ta
đã chứng kiến những cuộc khủng hoảng ngân hàng ít nhiều nghiêm trọng đã nổ ra.
Lạm phát các tài sản thực và tài sản chính. Nguồn tín dụng nhàn rỗi đột nhiên trở nên dồi
dào, có thể kích thích đầu cơ đất đai và bất động sản. Như vậy, vô tình tự do hóa tài chính
đi kèm hiện tượng giá đất đai và giá bất động sản tăng nhanh và cả giá thò trường chứng
khoán nữa.
Trong thời gian đầu, mở rộng tín dụng và tăng giá trò tài sản kích thích nhu cầu chung tăng
trưởng, trong một số trường hợp làm tăng lạm phát. Sau đó khi khủng hoảng xảy ra, nền
kinh tế thực trái lại sẽ chứng kiến tình trạng giảm phát của các tài sản và sự ách tắc
nguồn vốn ngân hàng.
Trang 8 of 51



Các hiện tượng kể trên không xảy ra ở những mức độ giống nhau trong mọi quốc gia. Tuy
nhiên, tất cả chúng đều tồn tại ở một chừng mực nào đó, trong giai đoạn tiếp sau tự do hóa tài
chính ở các quốc gia phát triển hoặc đang phát triển.
Tóm lại, tự do hóa tài chính là một quá trình cần thiết và quan trọng cho sự tăng trưởng của
một quốc gia trong xu thế hội nhập kinh tế và tài chính. Nó tháo gỡ những kìm hãm về quản
lý tài chính, tăng cường hành lang giám sát hợp lý, giúp cơ chế kinh tế phù hợp với qui luật
thò trường, giúp tăng trưởng và hiệu quả hơn. Tự do hóa tài chính mang đến cho chúng ta
nhiều cơ hội phát triển nhưng những thử thách mà nó mang lại cũng là tương đương. Việc thực
hiện quá trình tự do hóa tài chính không giống nhau ở mỗi nước về cách thức thực hiện, trình
tự các bước tiến hành và hiệu quả đạt được cũng khác nhau tùy thuộc vào những điều kiện
kinh tế bên trong và bên ngoài của mỗi quốc gia.
Nhiều nước trên thế giới đã và đang tiến hành tự do hóa tài chính nhằm bắt kòp sự phát triển
của nền kinh tế thế giới. Trước sự biến động mạnh mẽ của tình hình kinh tế chính trò trên thế
giới – theo xu hướng hội nhập - trong thời gian vừa qua, Việt nam cần phải thận trọng xây
dựng cơ chế kinh tế tài chính sao cho phù hợp đảm bảo sự phát triển và “đánh thức “ nền kinh
tế Việt nam trên con đường đi vào thế kỷ 21. Muốn thế, việc nghiên cứu những bài học kinh
nghiệm từ các nước đã tiến hành tự do hóa tài chính là điều hết sức quan trọng, và là mối
quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta trên con đường đầy thách thức phía trước nhằm
xây dựng một nền kinh tế toàn diện, tăng trưởng và hiệu quả. Chương sau, tôi đi vào nghiên
cứu thực trạng quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam và các nước trên thế giới.

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM VÀ
CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

Trang 9 of 51


2.1


THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH TRONG THỜI GIAN
GẦN ĐÂY Ở VIỆT NAM

Trong nữa đầu của năm 2001, nền kinh tế thế giới luôn phải đối mặt với nguy cơ rơi vào suy
thoái do sự suy giảm sản lượng của hai nền kinh tế lớn nhất thế giới : Mỹ và Nhật Bản. Vụ
khủng bố nước Mỹ ngày 11/9/2001 lại gây ra những tác động tiêu cực mới đối với nền kinh tế
thế giới. Nhiều nước như Nhật, Singapore, Đài Loan, Hồng Kông, Áchentina…đã thực sự rơi
vào suy thoái.
Theo dự báo, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ chỉ đạt 1.1%; của Nhật giảm từ 0.5% đến
0.9%; kinh tế EMU chỉ tăng trưởng từ 1.6%-1.8%; tốc độ tăng trưởng của các nước đã phát
triển là 2.9%; mức tăng trưởng toàn cầu theo dự báo của Q tiền tệ quốc tế là 2.4%, theo
Ngân hàng thế giới là 1.3%.
Sự suy yếu của nền kinh tế toàn cầu được ghi nhận là ít tác động đến Việt nam do lẽ Việt
nam thật ra tùy thuộc không đáng kể vào việc xuất khẩu sang Mỹ cũng như lónh vực công
nghệ thông tin. Tuy nhiên nền kinh tế Việt nam sẽ tăng trưởng kém hơn so với những dự kiến
ban đầu của Ngân hàng phát triển châu Á(ADB) do “ngoại cảnh càng xấu đi và do những
thành tựu của các lónh vực kinh tế có phần kém đi” 7 .
Hội nhập kinh tế – hội nhập tài chính là động cơ thúc đẩy Việt nam phải nhanh chóng xây
dựng các chính sách đầy đủ và hoàn chỉnh. Chúng ta thử nhìn lại tình hình chuẩn bò của Việt
Nam trong thời gian vừa qua, từ đó có những nhận xét đúng đắn và đưa ra đònh hướng cho giai
đoạn 2001-2005.
2.1.1

Thực trạng và sự phát triển của hệ thống ngân hàng

Hệ thống ngân hàng là trung tâm tài chính cốt lõi của một quốc gia. Hệ thống ngân hàng ở
Việt nam là điểm tựa chính cho việc thực thi chính sách tài chính tiền tệ của nhà nước và
chính phủ, trong việc điều hành tỉ giá, lãi suất thò trường, lãi suất chứng khoán một cách linh
hoạt và cuối cùng là công cụ chi phối giá cả và hoạt động kinh tế của nền kinh tế. Đại hội
Đảng lần IX đã thừa nhận mặc dù hệ thống ngân hàng ở Việt nam chưa thật sự sa vào cuộc

khủng hoảng tai hại như một số nước trong khu vực, song những yếu kém của nó ngày càng
bộc lộ rõ.
Năm 1989, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã góp phần giữ ổn đònh nền kinh tế mà thế giới
đánh giá là đáng kinh ngạc. Đó là: tạo ra “cú hích” chấm dứt lạm phát phi mã trong 3 tháng;
nâng lãi suất tiền gửi cao đến mức người dân phải xếp hàng gửi tiền. Đồng thời, chuyển ngân
hàng từ bội chi sang bội thu tiền mặt; phát hành tiền gấp 2,6 lần năm 1987 để đủ tiền mua 2
triệu tấn gạo xuất khẩu, đưa nước ta bứt lên đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu gạo.
Bước vào thế kỷ mới, liệu ngành ngân hàng có thể tái lập “cú hích” lòch sử như hồi năm
1989?

7

Báo cáo kinh tế mới nhất của ADB: ADB sound caution, Asia Times, 24/11/2001.
Trang 10 of 51


Theo đánh giá chung của các chuyên gia trong ngành ngân hàng, thò trường tiền tệ của Việt
Nam hiện nay đang còn yếu kém và chưa phải là môi trường cho các chính sách tiền tệ hoạt
động hiệu quả. Vấn đề quan trọng này được đưa ra bàn thảo tại cuộc hội thảo: Thò trường tiền
tệ tồn tại và giải pháp được Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (VCB) phối hợp với Citibank
tổ chức tại Hà Nội ngày 4/10/2001.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, hiện nay các cấu thành của thò trường tiền tệ cũng đã hình
thành một mức độ nhất đònh. Trước hết, đó là sự có mặt của thò trường nội tệ và ngoại tệ liên
ngân hàng với vai trò điều tiết vốn ngắn hạn bằng đồng VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng.
Bên cạnh đó, hoạt động của thò trường tiền tệ còn bao gồm các hoạt động cho vay của NHNN
dưới các hình thức như hoạt động thò trường mở, nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ, tái cấp vốn, tái
chiết khấu.
-Hoạt động ngân hàng: các giao dòch diễn ra trên thò trường tiền tệ hiện nay phần lớn đều
mang tính một chiều. Trên thò trường đã hình thành hai nhóm: Ngân hàng thương mại quốc
doanh (NHTMQD) thường cung ứng VND và các ngân hàng đi vay là các Ngân hàng thương

mại cổ phần (NHTMCP), chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh. Trong
khi đó, lãi suất công bố của các ngân hàng đều mới chỉ một chiều, không mang tính “quy tụ”
và do đó, không phản ánh được chính xác quan hệ cung cầu trên thò trường tiền tệ. Thậm chí
tại cùng một thời điểm, mỗi ngân hàng lại chào nhiều loại lãi suất khác nhau.
Việc không nhất quán trong giao dòch cũng là một bất hợp lý khác. Hầu hết phương thức giao
dòch của các ngân hàng đều còn ở mức thô sơ trong khi trình độ quản lý vốn còn nhiều hạn
chế. Quan trọng hơn, mối quan hệ ràng buộc giữa các NHTM và ngân hàng trung ương chưa
thật sự phát huy tác dụng, điều này trái ngược với hoạt động của thò trường tiền tệ các nước
phát triển. Trong nhiều trường hợp, các chính sách do ngân hàng đưa ra đã không có những
tác động đáng kể trên thò trường. Điều này còn được thể hiện ở việc kinh doanh vốn của các
ngân hàng chưa mang tính thò trường và độ nhạy cảm lãi suất thấp.
Qua nghiên cứu cho thấy: chức năng điều phối vốn khả dụng của ngân hàng cho thò trường
chưa được thực hiện một cách hiệu quả. Việc lãi suất liên ngân hàng chưa phản ánh đựơc
cung cầu vốn khả dụng ngắn hạn trên thò trường khiến cho lãi suất thò trường nội tệ liên ngân
hàng cũng như các hoạt động trên thò trường chưa thực sự trở thành nguồn cung cấp thông tin
hiệu quả phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ.
“Nếu thò trường tiền tệ hoạt động hiệu quả thì NHNN đã không cần phải đưa ra lãi suất cơ
bản. Ngoài ra, thò trường tiền tệ vẫn còn nhiều vướng mắc cả với các cơ quan tài chính” 8 .
Trước thực trạng hiện nay, theo ý kiến cá nhân, để thò trường tiền tệ có thể phát triển được
cần phải có ba điều kiện cơ bản. Trước hết, việc quản lý vốn tại các ngân hàng thương mại
phải phù hợp với cơ chế thò trường. Thứ hai là thò trường phải có quy thức giao dòch thích hợp.
Cuối cùng và cũng là điều kiện quan trọng nhất, các NHTM phải có chổ dựa cuối cùng. Với
điều kiện này, NHTW sẽ phải phát huy được vai trò của mình như là một người cho vay cuối

8

Quan điểm của Marshall
Trang 11 of 51



cùng trong trường hợp các NHTM gặp sự cố kỹ thuật, có thể rơi vào tình trạng thiếu tiền tạm
thời trong một vài ngày.
-Về vốn: NHTM cần phải khắc phục một điểm yếu cơ bản là quản trò vốn phải tập trung. Có
nghóa là quan hệ vốn giữa hội sở chính và các chi nhánh phải được tăng cường, kể cả việc cập
nhật các thông tin về vốn. Mặt khác, cũng cần thiết lập được bộ phận cân đối vốn. Bên cạnh
đó, cần vận dụng qui thức giao dòch liên ngân hàng với giá chào hai chiều, phương tiện giao
dòch, quy ước giao dòch và thanh toán đồng thời phải tạo lập được lòng tin của ngân hàng
trong kinh doanh. Quan trọng hơn, thò trường tiền tệ cũng phải tạo dựng được người kiến tạo
thò trường “Market maker”. Đây là nơi qui tụ lãi suất công bố hàng ngày và cũng sẽ trở thành
tín hiệu để NHTW điều hành chính sách tiền tệ.
-Mối quan hệ giữa NHNN và NHTM: để tạo ra được mối quan hệ ràng buộc NHTM vào
NHNN, NHNN phải trở thành chổ dựa cho các NHTM, phải thiết lập được cơ chế vận hành
đủ để nâng cao độ nhạy cảm của thò trường về lãi suất và phải có công cụ chính sách tiền tệ
linh hoạt hơn. Cần phải xác đònh được một chỉ số thích hợp với tình hình của Việt Nam dựa
vào hai yếu tố là tiền gửi của các NHTM tại NHTW và lãi suất ngắn hạn (1-3 tháng) trên thò
trường liên ngân hàng.
-Về mặt Pháp lý: đồng thời cần sớm hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý cần thiết cho hoạt
động thò trường, nhất là các quy đònh về thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn. Thêm vào đó,
NHNN cũng cần phối hợp với Bộ Tài Chính cải tiến đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN
theo hướng lãi suất của tín phiếu kho bạc cần để cho thò trường quyết đònh và các kỳ hạn của
tín phiếu cũng cần phải đa dạng hơn để thu hút các thành viên tham gia cũng như tạo điều
kiện để phát triển nghiệp vụ thò trường mở.
- Vấn đề về Nợ: Theo ước tính, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của hệ thống ngân hàng khoản
57.150 tỷ đồng trong năm 2001, tăng 9.5% so với năm trước. Trong đó, dư nợ bằng VND đạt
37.899 tỷ đồng, tăng 27%; dư nợ bằng ngoại tệ đạt 16.850 tỷ đồng, giảm 0,5% so với năm
2000. Riêng các loại nợ đọng, nợ liên quan đến vụ án giảm 55,6% so với cuối năm 2000. Dư
nợ cho vay trung dài hạn đến cuối năm 2001 là 19,969 tỷ đồng, tăng 30,9% so với năm 2000
và chiếm tỷ trọng 36,47% trên tổng dư nợ còn luân chuyển. Vốn huy động đến cuối năm 2001
ước đạt 64.240 tỷ đồng, tăng 13,4% so với cuối năm trước. Trong đó vốn huy động bằng VND
và ngoại tệ đều tăng 14-14,7%.

Ngày 27/3/2001 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết đònh số 43/2001, có hiệu lực từ
11/4/2001, về việc thành lập Ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính các ngân hàng thương mại.
Trong đó, các NHTM sẽ lập ra các công ty quản lý và khai thác tài sản để tự giải quyết vấn
đề nợ và tài sản tồn đọng của ngân hàng mình. Các công ty này có chức năng khác với tổ
chức mua bán nợ tồn đọng của các NHTM mà trước kia Ngân hàng Nhà nước trình Chính Phủ
ở điểm: các công ty thuộc các NHTM chỉ giải quyết vấn đề nợ và tài sản trong phạm vi ngân
hàng của họ. Tuy nhiên, sẽ có những khó khăn nhất đònh trong trường hợp này, ví dụ như việc
mua bán các tài sản liên quan đến tình trạng pháp lý chưa đầy đủ hiện nay. Tự các ngân hàng
thương mại không thể giải quyết được, các NHTM phải kiến nghò lên ban chỉ đạo cơ cấu lại
tài chính các NHTM này, để cho ban hỗ trợ tìm cách giải quyết.

Trang 12 of 51


- Hiện đại hoá hoạt động ngân hàng: Hiện đại hoá hoạt động ngân hàng, mở rộng khả năng
cung ứng dòch vụ ngân hàng có lẽ chưa bao giờ được quan tâm và đầu tư mạnh như hiện nay.
Hàng loạt các ngân hàng thương mại đang phấn đấu mở rộng khả năng cung cấp dòch vụ mới
cho khách hàng, như đẩy mạnh hoạt động thanh toán qua tài khoản, đưa hệ thống thanh toán
bằng thẻ, thanh toán bằng hệ thống rút tiền tại các máy tự động (ATM)... vào hoạt động của
mình.
Việc tăng các loại hình dòch vụ cao cấp là một tín hiệu đáng mừng, thể hiện sự năng động
cũng như nhạy bén của nhiều ngân hàng thương mại trong việc hiện đại hoá dòch vụ, nhằm
sớm theo kòp với trào lưu chung... Tuy nhiên, các ngân hàng của Việt Nam cần phải nhanh
chóng cải tiến, hiện đại hoá các hoạt động của mình hơn nữa để tiếp cận với trình độ quốc tế
thì mới có hy vọng nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình, nhất là với các ngân hàng
lớn của Mỹ, sau khi Hiệp đònh Thương mại Việt Mỹ có hiệu lực.
- Về qui mô: Số lượng các loại nghiệp vụ của một ngân hàng phát triển trên thế giới đang
thực hiện là vào khoảng 6.000, nhưng ở Việt Nam nếu "chẻ nhỏ, đếm kỹ" cũng mới có vào
khoảng hơn 200 loại nghiệp vụ ngân hàng khác nhau.
Con số thống kê trên tuy chưa nói lên tất cả, song cũng đã phản ánh một điều là phạm vi dòch

vụ của các ngân hàng còn bò bó hẹp, đơn điệu và chưa phong phú. Vậy bài toán đặt ra là
ngành ngân hàng phải làm gì để hiện đại hoá và đa dang hoá dòch vụ của mình? trước đây
người dân chỉ coi ngân hàng thuần tuý là một quỹ tiết kiệm, các hoạt động thanh toán hầu như
không được áp dụng cho đối tượng này. Tuy nhiên, cùng với sự nới lỏng và khuyến khích phát
triển hệ thống ngân hàng của Nhà nước, nhận thức của người dân đã tăng lên, trình độ phát
triển kinh tế cũng tăng chính là điều kiện rất tốt để các ngân hàng mở rộng các loại hình
nghiệp vụ của mình. Ví dụ, ngay cả việc phát hành các loại thẻ thanh toán nội đòa của Ngân
hàng Á Châu (ACB) là loại hình rất mới tại Việt Nam, nhưng cũng đã được sự tiếp nhận tích
cực từ phía người tiêu dùng, từ phía các đối tác của ACB. Tính đến cuối năm 2001, đã có
khoảng 10.000 thẻ thuộc hai loại thẻ nội đòa là Mai Linh và Phước Lộc Thọ đã được bán ra.
Sự chậm chân của các ngân hàng thương mại Việt Nam là một khiếm khuyết, song ở một
chừng mực nào đó lại được xem là cơ hội thuận lợi để các ngân hàng có thể lựa chọn các
công nghệ, loại hình dòch vụ ngân hàng mới nhất, tiên tiến nhất để áp dụng cho mình. Điều
này đã được thể hiện rất rõ khi hàng loạt các ngân hàng lớn như Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam,
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn... đã và đang nhanh chóng triển khai hệ
thống ATM, là loại hình thanh toán mới hiện đại vào mạng lưới chi nhánh của mình.
Hoạt động thanh toán mới là bề nổi trong hoạt động ngân hàng, còn rất nhiều tiện ích khác
mà NHNN khuyến cáo các ngân hàng thương mại nên nhanh chóng triển khai áp dụng. Việc
các ngân hàng Mỹ, rồi sẽ là các ngân hàng thuộc các nước Liên minh châu u (EU), Nhật
Bản... nhảy vào một sân chơi bình đẳng với các ngân hàng trong nước đang và sẽ là một áp
lực cạnh tranh gay gắt, đòi hỏi các ngân hàng này phải có sự thích ứng kòp thời nếu muốn tồn
tại và phát triển.
2.1.2

Vấn đề về tự do hóa lãi suất
Trang 13 of 51


2.1.2.1 Vấn đề lãi suất

“Lãi suất là cái giá phải trả cho việc sử dụng vốn trên một thò trường bất kỳ” 9
Lãi suất là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, lãi suất là một yếu tố hết
sức quan trọng ảnh hưởng đến tiết kiệm và đầu tư, tiêu dùng, từ đó ảnh hưởng đến tổng cầu
hay sự tăng trưởng của quốc gia.
Lãi suất tác động mạnh mẽ đến lưu thông tiền tệ qua lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Lãi
suất tiền gửi và lãi suất cho vay biến thiên cùng chiều. Lãi suất tiền gửi cao khuyến khích
dân chúng gửi tiền, giúp ngân hàng huy động được nhiều vốn, khả năng cho vay tăng lên.
Ngược lại, lãi suất cho vay cao không khuyến khích doanh nghiệp vay vốn, vốn sẽ tồn động
trong ngân hàng, tuy vậy nếu lãi suất cho vay thấp thúc đẩy nhiều người đi vay ngân hàng, lãi
suất huy động thấp đến mức nào đó sẽ không khuyến khích tiêu dùng.
Trên tổng thể nền kinh tế thế giới, như đã nói phần trên, dòng vốn sẽ chảy đến nước nào có
lãi suất thực cao hơn.
Lãi suất tăng hay giảm là do sự thay đổi trong cung cầu tiền tệ, cung cầu tiền lại phụ thuộc
vào: thu nhập quốc dân, sự can thiệp của chính phủ, tình hình lạm phát trong nước, tâm lý nhà
đầu tư và người tiêu dùng.
Khi đề cập đến lãi suất chúng ta thường nói đến lãi suất trên thò trường tiền tệ và lãi suất trên
thò trường vốn.
-

Lãi suất trên thò trường tiền tệ: Thò trường tiền tệ là một bộ phận của thò trường tài chính,
nơi các giấy nợ ngắn hạn được mua bán (thời hạn < 1 năm). Đó là các loại trái phiếu, tín
phiếu kho bạc, thương phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng, các khế
ước cho vay… Do đó, sự biến đổi lãi suất trên thò trường tiền tệ phụ thuộc vào: giá cả trái
phiếu, sự tương quan cung cầu trái phiếu, dự đoán về giá trái phiếu, sự can thiệp của ngân
hàng trung ương trên thò trường tiền tệ.

-

Lãi suất trên thò trường vốn: trên thò trường vốn, các giấy nợ trung hạn, dài hạn (chứng
khoán có thời hạn trên một năm) và các loại cổ phiếu được mua bán. Lãi suất trên thò

trường tiền tệ là lãi suất ngắn hạn, còn lãi suất trên thò trường vốn là lãi suất dài hạn.

Những biến đổi của lãi suất trên thò trường vốn cũng phụ thuộc vào những yếu tố giống như
trên thò trường tiền tệ, tức lãi suất biến đổi ngược chiều với giá cổ phiếu và trái phiếu dài
hạn, và tùy thuộc vào mối tương quan của cung và cầu chứng khoán. Nếu so với trái phiếu
ngắn hạn trên thò trường tiền tệ, vốn biến động rất mạnh với lãi suất, thì giá trái phiếu biến
động chậm hơn. Nhưng những thông tin về lãi suất lại tác động rất mạnh đến giá cổ phiếu. Dù
vậy, trên thò trường tín dụng trung dài hạn, không có sự can thiệp trực tiếp của ngân hàng
trung ương. Ngân hàng trung ương có ảnh hưởng gián tiếp qua việc can thiệp trên thò trường
tiền tệ từ đó tác động đến lãi suất trên thò trường vốn. Tóm lại, lãi suất ngắn hạn biến đổi
9

Quan điểm của Marshall
Trang 14 of 51


mạnh hơn, sâu rộng hơn lãi suất dài hạn và thường thấp hơn lãi suất dài hạn, nhưng khuynh
hướng biến đổi của hai loại lãi suất ngắn hạn và dài hạn vẫn theo cùng một chiều hướng như
nhau.
2.1.2.2 Tình hình tự do hóa lãi suất của Việt nam trong thời gian vừa qua
a- Lãi suất ngoại tệ
Việc Ngân hàng Nhà nước bỏ biên độ khống chế lãi suất cho vay USD, đáp ứng yêu cầu của
cơ chế thò trường, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Theo Quyết đònh số 718/2001 ngày 29/5/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN),
kể từ ngày 1/6/2001, các tổ chức tín dụng được ấn đònh lãi suất cho vay bằng Đôla Mỹ (USD)
trên cơ sở lãi suất thò trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước, bãi
bỏ cơ chế cho vay bằng USD tối đa bằng lãi suất SIBOR + biên độ được quy đònh bởi Thống
đốc NHNN. Mục đích chủ yếu là lúc này ta có cơ hội để tự do hoá lãi suất ngoại tệ. Mục tiêu
tiếp theo là cũng nhằm giúp các ngân hàng thương mại có điều kiện mở rộng cho vay ngoại
tệ.

Từ 8/2000, NHNN đã cho phép các TCTD áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn bằng USD
không vượt quá mức lãi suất Sibor trên thò trường tiền tệ liên ngân hàng 3 tháng +1%/năm;
cho vay trung dài hạn không vượt quá lãi suất Sibor 6 tháng +2,5%/năm, cơ chế trên mặc dù
đã nới lỏng nhưng vẫn còn một số tồn tại, chưa hoàn toàn phù hợp với cơ chế thò trường và
thông lệ quốc tế. Các nước khu vực đã tự do hoá hoàn toàn lãi suất cho vay bằng ngoại tệ.
Việt Nam cũng cần thay đổi nhằm tạo điều kiện huy động vốn từ nước ngoài và thực hiện cơ
chế quản lý ngoại hối có hiệu quả.
Đối với các ngân hàng thương mại (NHTM), cơ chế mới là một hướng đi đúng, từng bước hoà
nhập thông lệ quốc tế; đồng thời thể hiện rõ nét hơn về cung - cầu ngoại tệ trên thò trường.
Nó sẽ tạo sự chủ động cho các NHTM quyết đònh cho vay với lãi suất phù hợp với tình hình
thực tế của từng ngân hàng và lãi suất thoả thuận với từng đối tượng vay. Một số ngân hàng
trước đây không thể cho vay do đòi lãi suất cao hơn biên độ quy đònh của NHNN, nay có thể
tự quyết đònh theo thoả thuận với khách hàng và tuỳ theo mức độ rủi ro của từng dự án. Quy
chế mới chưa có tác dụng trước mắt nhưng về lâu dài sẽ phát huy mạnh. Như vậy, các NH sẽ
phải tự quyết đònh lãi suất cho vay hợp lý để khách hàng lựa chọn. Không thể tự quyết đònh
mức lãi suất cao quá so với thực tế.
Mặc dù được quyền chủ động, song hầu hết lãnh đạo các Ngân hàng đều cho rằng trong thời
gian tới dư nợ cho vay ngoại tệ chưa hẳn đã tăng lên bởi nó còn phụ thuộc vào rất nhiều vấn
đề. Cơ chế mới cũng tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các Ngân hàng. Tất nhiên sẽ tạo sự
cạnh tranh đáng kể giữa các NHTM trong việc tìm kiếm các dự án cho vay có hiệu quả, với
một mức lãi suất hợp lý. Chỉ có một số ít Ngân hàng sẽ tăng được dư nợ cho vay ngoại tệ nhờ
một số dự án đã đước xúc tiến trước khi có cơ chế này.
Cơ chế mới đưa ra là phù hợp với đònh hướng đổi mới hoạt động ngân hàng trong tương lai.
Tuy tự do hoá nhưng NHNN vẫn đảm bảo đủ khả năng và quyền hạn trong việc sử dụng các
Trang 15 of 51


công cụ và biện pháp cần thiết để quản lý và điều tiết hoạt động huy động và cho vay ngoại
tệ. Từ đó có thể xử lý kòp thời các tình huống bất lợi cho nền kinh tế có thể xảy ra trên thò
trường tiền tệ khi thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cho vay mới bằng USD.

b- Lãi suất cơ bản
Từ ngày 1/7/2001, theo Quyết đònh số 836/QĐ - NHNN (ngày 28/6/2001) của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước (NHNN), lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn đònh lãi
suất cho vay bằng VND đối với khách hàng là 0,65%/tháng.
Từ đầu năm 2001, đây là lần thứ 6 NHNN công bố lãi suất cơ bản, mục tiêu là tiếp tục điều
hành lãi suất VND theo hướng phù hợp với cung cầu thò trường vốn, xu hướng lãi suất của khu
vực và thế giới đang tiếp tục giảm, xu thế lạm phát giảm. Đồng thời tạo quan hệ sao cho lãi
suất VND ở thế lớn hơn hoặc bằng lãi suất đồng ngoại tệ. Điều hành lãi suất theo thò trường
nhưng vẫn phải đảm bảo vai trò điều tiết, quản lý của Nhà nước. NHNN lựa chọn mức lãi
suất thích hợp để ấn đònh cho các tổ chức tín dụng làm cơ sở cho khách hàng vay.
Mức lãi suất cơ bản 0,65%/ tháng ở thời điểm quyết đònh đã giải quyết được hàng loạt vấn đề
như tiếp tục bảo đảm được vò thế của VND, lãi suất VND vẫn phải cao hơn hoặc bằng lãi suất
đồng ngoại tệ; đảm bảo cho các NHTM vẫn thuận lợi trong việc huy động vốn, chủ động
quyết đònh mức lãi suất cho vay; đảm bảo cho các Doanh Nghiệp chấp nhận vay được. Người
gửi vẫn chấp nhận gửi tiền vào ngân hàng, tạo điều kiện cho các ngân hàng có thể huy động
được vốn. Các ngân hàng không buộc phải cho vay ở mức 0,65%/tháng mà có thể cho vay ở
mức thấp hơn hoặc cho vay cao hơn nếu phải huy động vốn với lãi suất cao hơn.
Tuy nhiên, cuối tháng 6, đầu tháng 7 năm 2001, trong lúc tỷ giá đang có biến động, nếu hạ lãi
suất cơ bản cho vay VND thấp hơn nữa sẽ tạo thế bất lợi cho lãi suất VND, bất lợi cho VND.
Hiện nay, lãi suất VND đang cao hơn lãi suất ngoại tệ. Chẳng hạn, hiện nay lãi suất VND của
khu vực tiền gửi dân cư là 0,6%/ tháng, tức là người gửi được lãi suất 7,2% một năm, còn lãi
suất ngoại tệ tiền gửi khu vực dân cư là 4% cộng với 2% trựơt giá của tỷ giá thành 6%/năm.
Xu thế lãi suất VND vẫn đang cao hơn và đây là xu thế tốt. Nhìn tổng thể, mức lãi suất cơ
bản mới được NHNN ấn đònh vừa giải quyết được các mục tiêu mở rộng tín dụng, đảm bảo lợi
ích của người cho vay, người vay và quan trọng hơn, vừa ngăn chặn dòng chuyển vốn VND
sang đồng ngoại tệ, đảm bảo vò thế, ổn đònh giá trò đồng nội tệ.
Việc ấn đònh mức lãi suất mới không ảnh hưởng nhiều đến việc huy động và cho vay của các
ngân hàng thương mại. Xét trên bình diện cung cầu trên thò trường vốn, mức lãi suất này là
thích hợp. Các khách hàng tốt có thể được vay mức này hoặc thấp hơn một chút. Việc ấn đònh
mức lãi suất cơ bản của NHNN theo hướng tiếp tục giảm là tín hiệu tốt cho việc kinh doanh

của ngân hàng. Tuy vậy, để mở rộng tín dụng, NHNN nên có các chính sách nới lỏng tín dụng
thông qua việc sử dụng các công cụ khác như mở rộng tái chiết khấu, tái cấp vốn...

2.1.3

Chính sách tiền tệ nới lỏng kích thích tăng trưởng kinh tế

Trang 16 of 51


Trong vòng 1-2 năm qua, chưa khi nào hoạt động ngân hàng lại gặp nhiều khó khăn như hiện
nay. Đặc biệt nghiêm trọng là những chính sách của ngành ngân hàng đưa ra đã không thu
được kết quả như mong muốn, thậm chí còn có tác động ngược lại. Điều đó đã được thể hiện
rõ nhất thông qua các biểu hiện trên thò trường lãi suất 6 tháng đầu năm 2001.
Trong 6 tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã tiếp tục thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản đối
với VND, giảm lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn phù hợp với thực tiễn giảm lãi
suất cơ bản nhằm mở rộng tín dụng và thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Cụ thể lãi suất tái cấp
vốn đã giảm từ 0,5% xuống còn 0,4%/tháng và lãi suất tái chiết khấu giảm từ 0,45% xuống
còn 0,35%/tháng. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng đã có quyết đònh giảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc bằng VND từ 5% xuống còn 3% (riêng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn hạ từ 3% xuống còn 2%).
Mặc dù các quyết đònh trên của Ngân hàng Nhà nước đưa ra với mục đích kích cầu nhưng
những phản ứng trên thò trường tiền tệ lại xuất hiện những tác động ngược. Về nguyên tắc,
khi dự trữ bắt buộc giảm thì tổng phương tiện thanh toán phải có điều kiện để tăng lên. Tuy
nhiên trong thực tế, trong 6 tháng đầu năm, tổng phương tiện thanh toán lại tăng chậm hơn so
với mức tăng của cùng kỳ năm 2000. Cụ thể, tổng phương tiện thanh toán trong 6 tháng đầu
năm 2001 chỉ tăng 8% trong khi 6 tháng cùng kỳ năm 2000 tăng 10,2%.
Lý giải về vấn đề này, một trong những nguyên nhân làm cho tổng phương tiện thanh toán
tăng chậm là do mức tăng trưởng tín dụng và tổng huy động vốn đều có mức tăng chậm hơn
so với cùng kỳ năm ngoái trong khi mức cung ứng tiền đạt thấp. Trong 6 tháng 2001, Ngân

hàng Nhà nước đã cung ứng tiền ra lưu thông thông qua việc mua ngoại tệ, thực hiện nghiệp
vụ cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu, nghiệp vụ thò trường mở. Nhưng vì số tiền cung ứng
thêm không nhiều hơn so với số tiền thu về nên tổng lượng tiền đưa vào lưu thông không tăng
so với ngày 31/12/2000. Tuy doanh số thực hiện khoảng trên 2.000 tỷ đồng nhưng số tiền thực
cung ứng ra lưu thông không có, do không mua được ngoại tệ cho Quỹ dự trữ vì Quỹ kinh
doanh bán ngoại tệ ra nhiều hơn ngoại tệ mua được. Thò trường mở mua nhiều hơn bán 180 tỷ
đồng, tái cấp vốn và các mục đích khác đều đã thu nợ lớn hơn cho vay khoảng 400 tỷ đồng.
Như vậy, lượng tiền cơ bản không giảm mà tổng phương tiện thanh toán giảm thì chỉ có thể là
do vòng quay vốn của nền kinh tế bò giảm sút. Vòng quay vốn bò giảm sút có thể do một số
nguyên nhân như: Cơ cấu quỹ tiền mặt trong lưu thông có thể tăng lên nhưng trong thực tế,
lượng tiền cơ bản trong lưu thông ổn đònh hoặc có tăng chút ít; các chủ tài khoản doanh
nghiệp cũng như cá nhân có thời gian lưu giữ tiền trên tài khoản nhiều hơn do những khó
khăn về thò trường và đầu tư; do nền kinh tế gặp khó khăn, trì trệ dẫn đến nhiều Doanh
Nghiệp vay vốn ngân hàng tồn đọng về hàng hoá như cho vay dự trữ gạo, cà phê và một số
hàng hoá khác, dẫn đến tồn đọng công nợ. Một nguyên nhân khác là có thể do sự thay đổi cơ
cấu vay. Cho vay dài hạn nhiều hơn nên vòng quay vốn chậm. Nếu đúng như vậy thì đấy sẽ
là những tín hiệu rất xấu cho tương lai của nền kinh tế.
Một biểu hiện bất bình thường là lãi suất huy động trong thời gian gần đây đã tăng lên với tốc
độ rất nhanh và rất cao. Lãi suất của các ngân hàng thương mại tăng lên chỉ sau một thời gian
rất ngắn sau khi Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất chỉ đạo. Đặc biệt tại thò trường Tp.HCM,
nơi có mức độ cạnh tranh cao nhất trong cả nước, nhiều ngân hàng thương mại đã nâng lãi
Trang 17 of 51


suất huy động từ 0,475% - 0,5%/tháng lên 0,55% -0,6% và thậm chí là 0,62%/tháng. Điều bất
bình thường là ở chỗ lãi suất huy động tăng trong khi theo thông lệ, khi lãi suất chỉ đạo của
Ngân hàng Nhà nước (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu) giảm đi thì lãi suất thương
mại trên thò trường cũng phải giảm đi. Lãi suất tăng như vậy đã chứng tỏ biểu hiện không
bình thường trên cả 2 phương diện: điều hành lãi suất và quản lý lãi suất của ngân hàng.
Về hướng giải quyết vấn đề này, thiết nghó nếu như chúng ta mong muốn thúc đẩy kích thích

tăng trưởng bằng cách ổn đònh lãi suất, không để lãi suất tăng lên thì phải tăng lượng tiền đưa
vào lưu thông.
2.1.4

Vấn đề về điều hành tỉ giá hối đoái

2.1.4.1 Tiến tới tỷ giá linh hoạt
Tháng 1/2001, tỷ giá trên thò trường tự do ở nước ta bình quân đạt 14.520 VND/USD, của
Vietcombank: 14.512VND/USD; đến đầu tháng 10 (8/10/2001), các mức tương ứng là 15.020
VND/USD và 15.516 VND/USD. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, chỉ số giá USD tháng
9/2001 so với tháng 12/2000 tăng 3,3%. Tốc độ tăng tỷ giá mua bán của các NHTM bình quân
3,0%. Ngay sau sự kiện ngày 11/9/2001 ở Mỹ, tỷ giá ở nước ta có biến động giảm chút ít,
xuống 14.990 VND/USD, sau đó phục hồi trở lại và tăng nhẹ trong những ngày gần đây. Nhìn
chung trong suốt từ tháng 12/2000 đến nay, tỷ giá cũng như thò trường ngoại hối ở nước ta
không có gì đột biến (xem hình 1).
Chính sách quản lý ngoại hối và công cụ điều hành tỷ giá đều có mục tiêu chung là đảm bảo
chủ quyền quốc gia về tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn đònh giá trò đồng tiền nội tệ,
kiểm soát lạm phát, và rộng hơn vừa là thúc đẩy tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho
người lao động. Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX đã nói rõ: "Thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước
thực hiện tự do hoá tỷ giá hối đoái có sự quản lý vó mô của Nhà nước, tiến tới thực hiện đầy
đủ tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam".
Hình 1 TỶ GIÁ VND/USD TÍNH ĐẾN NĂM 2001

01-00

04-00

07-00


10-00

01-01

14,000
14,200
14,400
14,600
14,800
15,000
15,200

Trang 18 of 51

04-01

07-01

10-01

01-02


Nguồn: thông tin thống kê theo số liệu từ các ngân hàng trong nước.
Trong những năm qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) không ngừng đổi mới và
hoàn thiện công tác này, phù hợp với tiến trình vận động chung của nền kinh tế, sự phát triển
của hệ thống ngân hàng Việt Nam hướng tới phù hợp với thông lệ quốc tế và nguyên lý của
kinh tế thò trường theo đònh hướng chiến lược chung.
Giai đoạn từ cuối năm 1998 trở về trước, trước khi Luật NHNN Việt Nam và Luật các TCTD
có hiệu lực thi hành(1/10/1998), Chính phủ, NHNN quy đònh trạng thái hối đoái đối với các

NHTM; quy đònh giới hạn tối đa số dư tiền gửi ngoại tệ của doanh nghiệp trên tài khoản tại
ngân hàng, quy đònh cá nhân mang ngoại tệ qua cửa khẩu khi xuất nhập cảnh không phải khai
báo, từ mức 1.000 USD đã được điều chỉnh lên 3.000 USD rồi 5.000 USD và 7.000 USD...
Song từ đầu năm 1999 các quy đònh mới đã được thực hiện. Các doanh nghiệp phải thực hiện
kết hối, thay vì chỉ được để số dư tối thiểu tiền gửi ngoại tệ trên tài khoản, đó là phải bán
ngay cho ngân hàng số ngoại tệ có được trong một khoảng thời gian xác đònh. Tỷ lệ kết hối
lúc đầu quy đònh là 100% sau giảm xuống còn 80% và hiện nay còn 40%. Quy đònh về giới
hạn tối đa ngoại tệ cá nhân mang theo khi xuất cảnh không phải khai báo cũng được điều
chỉnh xuống còn 3.000 USD.
Để phù hợp với thực tiễn các quy đònh khác về quản lý ngoại hối, như: cấp phép mang ngoại
tệ ra nước ngoài,quản lý bàn đại lý thu đổi ngoại tệ, việc bán hàng và dòch vụ trong nước thu
bằng ngoại tệ, doanh nghiệp mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài... cũng được chỉnh sửa, bổ
sung cho rõ ràng, phù hợp hơn, thông thoáng hay chặt chẽ hơn.
Từ đầu năm 1999, NHNN đã chính thức bỏ cơ chế điều hành tỷ giá theo kiểu bao cấp như
trước đây, tức là chỉ công bố tỷ giá giao dòch bình quân hàng ngày trên thò trường ngoại tệ
liên ngân hàng, thay vì công bố tỷ giá chính thức như trước, các NHTM chủ động quy đònh tỷ
giá theo biên độ quy đònh trên cơ sở tỷ giá do NHNN công bố.
Tuy vậy, biên độ quy đònh tỷ giá các NHTM được phép giao dòch cũng không ngừng đổi mới.
Nếu như trong giai đoạn đầu 1999 - 2000, mới thực hiện cơ chế này, NHNN còn quy đònh quá
chi tiết các mức biên độ và biên độ quá hẹp, được coi là vẫn can thiệp quá sâu vào công việc
kinh doanh của các NHTM, thì nay cũng dần dần được chỉnh sửa theo hướng nới rộng hơn
(xem bảng 1).
Bảng 1:

LÃI SUẤT THEO TỪNG THỜI KỲ-VIỆT NAM

1

Kỳ


Từ 26/2/1999

Từ 1/9/2000

Từ 18/9/2001

hạn

30/8/2000 (%)

- 17/9/2001 (%)

đến nay (%)

0,10

0,10

0,10

Không kỳ hạn

Trang 19 of 51


2

Kỳ hạn 30 ngày

0,58


0,2

3

Từ 31-44 ngày

0,87

0,40

4

Từ 45-5 ngày

1,16

0,40

5

Từ 60-74 ngày

1,45

0,45

6

Từ 75-89 ngày


1,75

0,65

7

Từ 90-104 ngày

2,04

0,79

8

Từ 105-119 ngày

2,33

1,14

9

Từ 120-134 ngày

2,62

1,26

10


Từ 135-149 ngày

2,92

1,38

11

Từ 150-164 ngày

3,21

1,38

12

Từ 165-179 ngày

3,5-

1,48

0,4

1,5

2,35

Nguồn: Thống kê theo số liệu của Ngân hàng Ngoại thương Chi nhánh TpHCM 10/2001


2.1.4.2 Ngân hàng nhà nước can thiệp thò trường khi cần thiết
Một công cụ khác của chính sách tiền tệ tác động trực tiếp đến chính sách quản lý ngoại hối
và điều hành tỷ giá là tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Trong hơn một năm qua, NHNN đã dần dần nâng
cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ, từ mức 5% lên 8% rồi 12% và 15%; đồng thời giảm
tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng nội tệ, từ 5% xuống 3%, nên đã có tác động hỗ trợ rất lớn trong
điều hành lãi suất và tỷ giá thời gian qua, giúp cho lãi suất nội tệ diễn ra theo xu thế có lợi
hơn lãi suất Đô la Mỹ, hạn chế được hiện tượng Đô la hoá trong tài sản có của hệ thống ngân
hàng, một tình trạng mà dư luận hết sức quan tâm trong thời gian qua.
Thò trường ngoại tệ liên ngân hàng, do NHNN điều hành, là nơi mua bán vốn ngoại tệ giữa
các NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ, trong đó NHNN đóng vai trò là người mua bán
cuối cùng, sẵn sàng can thiệp trên thò trường để hình thành tỷ giá hợp lý theo mục tiêu điều
hành chính sách tiền tệ.
Do tác động của các yếu tố diễn biến cung và cầu về vốn trên thò trường tiền tệ, nên từ giữa
năm 2001, xảy ra tình trạng thừa vốn ngoại tệ, khan hiếm vốn nội tệ trong các NHTM. Do đó
từ ngày 17/7/2001 NHNN đã sử dụng công cụ tỷ giá thông qua nghiệp vụ mua bán ngoại tệ
hoán đổi - SWAP để can thiệp vào tình hình này, đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn VND cho

Trang 20 of 51


các NHTM. Theo thời gian và phù hợp với thực tiễn, công cụ này cũng không ngừng được sửa
đổi, hoàn thiện (xem bảng 2).
Bảng 2
MỨC TỶ GIÁ NGHIỆP VỤ SWAP (%)
Kỳ hạn

Giai đoạn từ 17/7-15/8/2001

Giai đoạn từ 16/8/2001 đến

nay(tháng 10/2001)

7 ngày

0,80

0,30 của tỷ giá giao ngay

15 ngày

0,85

0,40 của tỷ giá giao ngay

30 ngày

1,00

0,50 của tỷ giá giao ngay

60 ngày

1,35

1,00 của tỷ giá giao ngay

90 ngày

1,70


1,50 của tỷ giá giao ngay

Nguồn: Thống kê theo số liệu của Ngân hàng Ngoại thương Chi nhánh TpHCM 10/2001
Ngoài việc mua bán can thiệp trên thò trường ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN còn mua bán
ngoại tệ trực tiếp theo nhiệm vụ được giao, như mua ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu dầu thô, bán
ngoại tệ cho Bộ tài chính để đáp ứng nhu cầu chiến lược quốc gia, bán ngoại tệ cho một số
NHTM để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu xăng dầu...
2.1.5

Vấn đề tự do hóa tín dụng

Cũng giống như các nước đang phát triển khác, Chính phủ Việt Nam cũng đóng một vai trò
quan trọng trong việc phân bổ tín dụng cho nền kinh tế. Ở nước ta, chương trình tín dụng chỉ
đònh thường tập trung vào các lónh vực công nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, nông nghiệp, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp xuất khẩu, và các khu vực kinh tế kém phát triển.
Trong xu hướng hội nhập kinh tế và tự do hóa tài chính, sự chỉ đònh các chương trình tín dụng
có ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cho mọi thành phần kinh tế
trong đó Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
a- Thành quả đạt được: trong giai đoạn qua, các ngân hàng đã đổi mới cơ chế tín dụng và
mở rộng cho vay. Và đã đạt được những thành tựu nhất đònh giúp ổn đònh nền kinh tế, chuẩn
bò cho tiến trình hội nhập.
Trong hoạt động tín dụng, NHNN đang khẩn trương hoàn thiện dự thảo sửa đổi Nghò đònh
178/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay và ban hành mới cơ chế tín dụng thay cho Quyết đònh 284.

Trang 21 of 51


NHNN cho phép các Ngân hàng thương mại thực hiện giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, tiếp tục
cho vay vốn đối với các hộ trồng cà phê ở vùng Tây Nguyên và doanh nghiệp kinh doanh cà
phê, cho phép các NHTM Quốc doanh giảm 30% lãi suất cho vay đối với khách hàng ở các

xã đặc biệt khó khăn nhưng không thuộc vùng II, vùng III miền núi và các tỉnh tây nguyên.
Thực hiện nới lỏng tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động trong khu chế xuất. Theo đó, các
NHTM được nhận chứng thư bảo lãnh của các tổ chức tài chính quốc tế; hoặc nhận bảo lãnh
bằng tài sản của cá nhân ở nước ngoài để cho doanh nghiệp trong khu chế xuất vay vốn.
Trong trường hợp doanh nghiệp không có giấy chứng nhận quyền sở hữu bất động sản, mà chỉ
có giấy tờ chứng minh các tài sản đó thuộc quyền quản lý là có thể chấp vay tiền. Ngân hàng
được cho vay không có tài sản đảm bảo đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh
doanh thua lỗ do mới đi vào hoạt động chưa quá 3 năm. Tính tổng cộng hiện nay dư nợ cho
vay các doanh nghiệp hoạt động trong Khu công nghiệp và Khu chế xuất đạt khoảng 4000 tỷ
đồng; trong đó riêng ở TpHCM đạt 1700 tỷ đồng.
Một điểm mới trong năm qua của việc nới lỏng tín dụng , đó là các NHTM mở rộng cho vay
tiêu dùng và mua bán bất động sản. Hàng chục nghìn gia đình giáo viên, cán bộ, công nhân,
viên chức, lực lượng vũ trang được vay khoảng gần 10.000 tỷ đồng cho các nhu cầu sửa chữa
nhà ở, mua sắm phương tiện đi lại, đồ dùng đắt tiền,…Ngành ngân hàng cũng mở ra một lónh
vực mới là cho vay tiền người đi xuất khẩu lao động. Chưa có thống kê chính thức, nhưng phải
thấy đây là một sự đổi mới mạnh mẽ của các ngân hàng thương mại.
Bên cạnh đó, các NHTM tiến hành cho vay các khoản vốn bằng ngoại tệ cho các dự án lớn:
nối mạng khí điện đạm Cà Mau có tổng số vốn đầu tư trên 5700 tỷ đồng; nối mạng nhiệt điện
Phú Mỹ. Sáu ngân hàng thương mại đồng tài trợ 230 triệu USD cho dự án phân đạm Phú Mỹ.
3 tổ chức tài chính tín dụng đồng tài trợ 30 triệu USD cho Petro Viện nam mua tàu chở dầu
thô; 4 NHTM quốc doanh đồng tài trợ 95 triệu USD cho dự án xi măng Sông Gianh; dự án mỏ
khí Lan Tây, Lan Đỏ và đường ống dẫn khí Côn Sơn được tài trợ 50 triệu USD…Hàng loạt các
dự án lớn khác thuộc lónh vực dầu khí, hàng không, điện lực, bưu chính viễn thông, đóng tàu.
Tổng cộng vốn tín dụng lên đến 1 tỷ USD.
Việc thu hút các nguồn vốn quốc tế qua hệ thống ngân hàng trong năm 2001 vừa qua cũng
đạt mức lớn nhất từ trước đến nay. Tổng cộng 13 dự án được đàm phán, ngành ngân hàng đã
ký kết được 8 dự án cho các lónh vực xoá đói giảm nghèo, y tế, cải tạo, môi trường, giao
thông, điện lực, trồng trừng,..với vốn 927 triệu USD, nâng tổng số vốn vay từ các tổ chức tài
chính quốc tế lên 92 tỷ USD. Bên cạnh đó, trong năm 2001, NHNN đã ký kết được 28 khoản
trợ giúp kỹ thuật, tổng giá trò là 19,3 triệu USD được tài trợ cho các ngân hàng.

b- Tồn tại và hạn chế: bên cạnh những thành quả đạt được trên, chúng ta còn phải xem xét
rất nhiều điều tồn đọng, trì trệ trong thời gian qua. Nhìn chung chúng ta cần phải cải tổ cơ chế
tín dụng với mục đích là vẫn đảm bảo phát triển ngành kinh tế chủ đạo của Nhà nước nhưng
vẫn phải thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển trên cơ sở bình đẳng hoặc ưu tiên hợp lý
và chấp nhận được (xem hình 2).
Hình 2: THỊ PHẦN CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN TRONG TỔNG MỨC TÍN DỤNG

Trang 22 of 51


Nguồn: số liệu theo Thống kê về thò trường tiền tệ Việt nam của Ngân hàng nhà nước.
Một trong các tình hình làm đau đầu các ban ngành liên quan hiện nay là làm sao để kiểm
soát nợ và giải quyết nợ tồn đọng?
Tính đến cuối năm 2001, theo NHNN, nợ quá hạn của các NHTM chiếm vào khoảng 14% tổn
dư nợ. Theo chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Tp. Hà nội nợ không có khả năng thu hồi củ
NHTM trên đòa bàn, chiếm tỷ trọng 82% tổn dư nợ quá hạn. NHTM trên đòa bàn Tp.HCM
quản lý 2.915 tài sản của bên vay không trá nợ sòng phẳng, trò giá 1.030 tỷ đ, nhưng chỉ giải
quyết được 5 tài sản, trò giá 1,6 tỷ đ để thu nợ.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, khi bên vay không trả nợ đúng hạn cam kết
trong hợp đồng, thì việc khởi kiện hay không là do ngân hàng quyết đònh, và trong 8 tháng
đầu năm 2001 có 61 vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất
trong các vụ án đã được thụ lý, đã được giải quyết tại toà án kinh tế tp.HCM.
Qua nghiên cứu, nợ không có khả năng thu hồi do một số nguyên nhân sau:
Một là, vốn tín dụng ngân hàng đã bao cấp cho doanh nghiệp bởi vì hiện nay 80% vốn kinh
doanh của nhiều doanh nghiệp dựa vào vốn tín dụng là chủ yếu. Giá trò tài sản cố đònh của
một số DNNN đòa phương quản lý hoàn toàn bằng vốn vay NHTM, ngân sách đòa phương chỉ
cấp một phần vốn lưu động.
Hai là, vốn tín dụng NHTM mang nội dung ứng trước cho doanh nghiệp kinh doanh. Sau một
thời gian sản xuất, doanh nghiệp mới tạo ra hàng hoá, khi hàng hoá tiêu thụ, doanh nghiệp
mới có khả năng trả nợ NHTM. Tính ứng trước càng cao, rủi ro cho vay càng lớn. Vốn tín

dụng ngân hàng rải ra từ sản xuất đến lưu thông. Nếu hàng hoá đó không được xã hội chấp
nhận thì nợ không còn khả năng thu hồi của NHTM sẽ xuất hiện.
Ba là, NHTM dùng vốn vay huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn. Cho vay dài hạn chứa
đựng nhiều rủi ro nhiều hơn cho vay ngắn hạn. Hiện nay, nước ta, chỉ có ngân hàng Đầu Tư &
Phát Triển huy động vốn dài hạn thông qua phát hành trái phiếu, thời hạn 5 năm, nhưng
không nhiều. Các NHTM quốc doanh đều cho vay trung và dài hạn. Dư nợ cho vay dài hạn
chiếm tỷ trọng hơn 30% tổn dư nợ cho vay đến cuối năm 2001.
Trang 23 of 51


Bốn là, NHTM cho vay, nhận tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và vật kiến trúc. Nếu
Doanh nghiệp không có khả năng trả nợ, việc xử lý tài sản thế chấp là bất động sản rất khó
khăn như vụ án Tameco, Minh phụng-Epco. NHTM nhận lại tài sản thế chấp, nhưng nợ quá
hạn không giảm, vì không hạch toán kế toán nội bảng đïc.
Trước tình hình đó, ngày 7/1/2002, thống đốc NHNN Việt nam ra chỉ thò số 01/2002/CTNHNN về xử lý nợ tồn đọng của các NHTM, bao gồm: NHTM quốc doanh và NHTM cổ
phần.
Biện pháp xử lý nợ trong chỉ thò này là: NHTM lập công ty quản lý và khai thác tài sản nhận
thế chấp của bên vay trả nợ không sòng phẳng; NHTM công khai bán tài sản thế chấp qua
trung tâm bán đấu giá đòa phương, bán nợ cho công ty mua bán nợ; NHTM có thể cải tạo, sửa
chữa, nâng cấp những tài sản nhận thế chấp để bán, cho thuê, tự kinh doanh hoặc liên doanh;
NHTM có thể mua lại tài sản đó từ nguồn vốn tự có. Nếu bên vay còn cơ hội phục hồi,
NHTM có thể giãn nợ, giảm lãi và cho vay bắc cầu – tức là lấy nợ nuôi nợ; NHTM dùng vốn
điều lệ và các loại quỹ của mình để chuyển nợ cho vay thành góp vốn với bên vay theo luật
đònh.
Nước ta thực hiện cơ chế ngân hàng hai cấp từ năm 1998, đến nay nơ quá hạn của NHTM lên
đến 23.000 tỷ đ, nhưng không có quỹ dự phòng rủi ro để xoá nợ. Có lẽ, vì thế , chỉ thò
01/2002/CT-NHNN của thống đốc NHNN không đề cập đến biện pháp NHTM tự xoá nợ
không còn khả năng thu hồi. Được biết nhiều nước trên thế giới, thanh tra nhà nhước về tín
dụng có quyền yêu cầu NHTM lấy quỹ dự phòng rủi ro và các loại quỹ khác để xoá nợ không
còn khả năng thu hồi. Nếu các quỹ ấy ít hơn nợ không còn khả năng thu hồi, NHTM phải

dùng vốn pháp đònh để xoá nợ. Vốn pháp đònh giảm 50%, NHTW có quyền công bố NHTM
phá sản. Vì vậy nợ không còn khả năng thu hồi phải do NHTM tự giải quyết. Những món cho
vay theo sự chỉ đạo của chính phủ không thu hồi được, Chính phủ phải cấp kinh phí cho
NHTM để xử lý xoá nợ.
Hệ thống ngân hàng nói chung, NHTM nói riêng yếu kém sẽ gây ra khủng hoảng kinh tế như
một số nước Đông Nam Á vào năm 1997, bắt đầu từ khủng hoảng tiền tệ và ngân hàng. Bởi
vậy nhà nước nên quan tâm đến hoạt động ngân hàng hơn nữa. NHTM tự xoá nợ những món
cho vay không còn khả năng thu hồi bằng quỹ dự phòng rủi ro.
2.2
2.2.1

QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Tự do hóa tài chính ở các nước

Qúa trình xây dựng và phát triển kinh tế của các nước Châu Á, đặc biệt là ở Đông Á, đã cung
cấp nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích cho các nước đi sau bắt đầu công cuộc công nghiệp hóa
và hiện đại hóa. Các kinh nghiệm này liên quan tới giai đoạn xây dựng trong ba thập niên
trước cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính 1997-1998, nguyên nhân và diễn tiến cuộc khủng
hoảng, cũng như trong giai đoạn hồi phục từ 1999 đến nay. Vài hướng đi cho Việt Nam cũng
có thể rút ra từ đó, nhất là trong bối cảnh tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế.
Mâu thuẫn giữa đònh chế yếu kém, thiếu minh bạch và có tính móc ngoặc với chính sách tự
do hóa thò trường tài chính, tiền tệ (cán cân thanh toán vốn ngắn hạn) và chính sách hạn chế
Trang 24 of 51


×