Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận Chính sách đối ngoại của Đức EU và vấn đề đặt ra với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.82 KB, 36 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kì hiện nay, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa trở thành tất
yếu đã kéo theo sự tăng lên mạnh mẽ của xu hướng liên kết khu vực. Mỗi
quốc gia đều phải có một hướng đi riêng và phù hợp để bảo vệ lợi ích quốc
gia đồng thời mở rộng hơn nữa các mối quan hệ hợp tác, đối ngoại với các
chủ thể nhằm tạo dựng được vị thế trên trường quốc tế. Theo xu hướng, các
mối quan hệ, sự liên kết ngày càng được mở rộng về phạm vi biểu hiện ở
những chính sách hướng Đông, hướng Tây, hợp tác mở (ASEAN +…) nhưng
cũng không ngừng được ổn định sâu về chất thông qua chiến lược “trở về”,
chuyển hướng hay tăng cường, đẩy mạnh chính sách đối ngoại biến các mối
quan hệ từ hợp tác hữu nghị tiến đến hợp tác chiến lược và cao hơn nữa là
hợp tác chiến lược toàn diện. Chính những rủi ro và thách thức đến từ hợp tác
toàn cầu đã đặt ra yêu cầu cho các quốc gia cần phải tìm và xây dựng được
cho mình một điểm tựa vững chắc nhất, và không gì khác, điểm tựa đó xuất
phát từ chính những mối liên kết bền chặt trong khu vực.
Nhận thức rõ được điều đó, cũng giống như nhiều quốc gia khác,
Cộng hòa Liên bang Đức (CHLB Đức) cũng đã tăng cường đẩy mạnh hơn
nữa chính sách đối ngoại hướng về khu vực châu Âu. Đức khẳng định, châu
Âu và quan hệ hợp tác xuyên Thái Bình Dương là nền tảng chính sách đối
ngoại của mình. Đặc biệt, trong cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu hiện nay,
chính phủ Đức cần kết hợp sâu rộng hơn nữa với khu vực để tăng cường tính
lành mạnh tài chính, thúc đẩy tăng trưởng bằng chính sự cạnh tranh trong khu
vực đồng thời lấy hợp tác dự án dài hạn làm cơ sở cho sự ổn định lâu dài
trong các mối quan hệ.
Hơn hết, những hình ảnh không đẹp trong lịch sử nhân loại mà cụ thể
là hai cuộc chiến tranh thế giới đã khiến vị trí “phát xít” của CHLB Đức trở
1


nên khó tiếp nhận trong dư luận quốc tế. Vì vậy, chính những chính sách đối


ngoại thân thiện, cởi mở mà bước đầu là những hành động đối ngoại với khu
vực châu Âu sẽ góp phần khiến cho Đức nhận được sự tin cậy, ủng hộ nhiều
hơn của quốc tế.
Tìm hiểu về chính sách đối ngoại của Đức với châu Âu sẽ cung cấp
thêm nhiều thông tin, bằng chứng làm sáng tỏ để từ đó hiểu rõ hơn sự chuyển
biến trong chính sách đối ngoại thời kì mới của Đức. Nắm được nhân tố này,
các quốc gia, trong đó có Việt Nam sẽ tự tạo được cơ hội cho quốc gia mình,
tận dụng những thuận lợi từ Đức để đem lại lợi ích cho dân tộc và cho hai bên
cũng như là các chủ thể khác trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, tìm hiểu về
những chính sách hướng khu vực của một quốc gia phát triển, có tiềm lực
mạnh mẽ và khéo léo như CHLB Đức sẽ là bài học lớn cho Việt Nam áp dụng
trong thời đại đầy cạnh tranh hiện nay.
Vấn đề này đã được nhiều đề tài đề cập đến nhưng chỉ là một mục nhỏ
trong cả hệ thống nghiên cứu chính sách đối ngoại của các nước lớn nên chưa
thấy được những nội dung mang tính cụ thể vi mô, hơn hết, những tài liệu
tham khảo về nội dung cũng khá hiếm hoi và không phổ biến. Chính vì những
yếu tố trên mà cá nhân em đã lựa chọn hướng khai thác này để tìm hiểu sâu
hơn nữa về chính sách đối ngoại của CHLB Đức với châu Âu.
Cộng hòa Liên bang Đức nằm ở trung tâm châu Âu, có biên giới với
Đan Mạch ở phía Bắc; với Pháp, Hà Lan, Bỉ và Lucxambua ở phía Tây; với
Thụy Sỹ và Áo ở phía Nam; với Séc, Xlovakia và Ba Lan ở phía Đông. Đức
nằm ở vị trí bản lề giữa Đông và Tây Âu, giữa bán đảo Xcangdinavi và Địa
Trung Hải.
Diện tích Cộng hòa Liên bang Đức là 357.021 km2, dân số hơn 82
triệu dân đứng thứ 2 ở châu Âu sau Nga. Xét về thành phần dân tộc, người

2


Đức là chủ yếu, ngoài ra còn có một dân tộc thiểu số ở Đông Đức là dân tộc

Doben. Ngôn ngữ chính là tiếng Đức.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tiểu luận “Chính sách đối ngoại của Đức với châu Âu” phân
tích tập trung vào chính sách đối ngoại của Đức với châu trong thời kì hiện
đại và những phân tích ấy được thực hiện nhằm hướng đến những mục đích
cụ thể sau:
- Tìm hiểu cụ thể, chỉ ra biểu hiện trong chính sách đối ngoại với châu
Âu của Đức.
- Cung cấp cách nhìn thuyết phục về vị trí, tầm quan trọng của Đức
trong khu vực châu Âu.
- Rút ra được những bài học kinh nghiệm, giải pháp cho Việt Nam
Để đạt được những mục đích trên, đề tài tiểu luận phải đảm bảo những
nhiệm vụ cụ thể:
- Phân tích sâu sát, rõ ràng và có căn cứ xác thực.
- Chọn lọc, phân tích, lí giải.
- Liên hệ thực tiễn, có ý nghĩa và khả năng áp dụng.
3. Kết cấu đề tài tiểu luận
Bài tiểu luận gồm 3 chương và 6 tiết.

3


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐỨC
1.1. Khái quát Cộng hòa Liên bang Đức
1.1.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội.
• Địa lý
Cộng hòa Liên bang Đức là nước có khí hậu ôn đới với nguồn tài
nguyên khoáng sản nghèo nàn nhưng lại có nhiều sông ngòi có giá trị to lớn
về kinh tế, đặc biệt rất thuận lợi cho giao thông vận tải và thủy điện. Các sông
lớn chảy qua Cộng hòa Liên bang Đức là sông Rhein, Main, Weser, Danube

và Spree.

Bản đồ CHLB Đức
- Tổng chiều dài biên giới: 3.757 km

4


- Diện tích: 357.021 km2
- Khí hậu: Có 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông; giữa các mùa có sự chênh lệch
nhiệt độ, mưa mù, tuyết sương lớn.
- Tài nguyên thiên nhiên: ít khoáng sản nhưng sông ngòi dày đặc
- Dân cư: lớn nhất trong Liên minh Châu Âu EU với 82,3 triệu dân (2012);
Trong đó, người Đức là chủ yếu. Ngoài ra có dân tộc thiểu số Doben
(sống tại vùng Đông Đức)
- Tôn giáo: khoảng 64% theo đạo Thiên chúa, 4% theo đạo Phật còn lại là
theo đạo Hồi, đạo Do Thái, đạo Hin đu
- Ngôn ngữ: tiếng Đức
- Đơn vị tiền tệ: Euro
Do vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên quy định nên Cộng hòa Liên
bang Đức có vị trí địa – chính sách quan trọng ở lục địa châu Âu. Nơi đây đã
từng diễn ra hàng loạt các sự kiện chính trị có tầm ảnh hưởng lớn đối với châu
Âu và thế giới.
• Lịch sử
Lịch sử của dân tộc Đức lâu dài nhưng lịch sử của nước Đức thì còn
khá mới mẻ, vì chỉ từ năm 1871, Đức lần đầu tiên mới được thống nhất như
một quốc gia, sự kiện đánh dấu thời điểm này là ngày 18 tháng 1 năm 1871,
vua Wiliam đệ Nhất của Phổ trở thành hoàng đế của Đế chế thứ nhất gồm 20
công quốc và 3 thành phố và vị thủ tướng đầu tiên của là Otto von Bismark,
người được gọi là “Thủ tướng Sắt thép” giữ cương vị suốt 19 năm.

Năm 1914, chiến tranh thế giới I nổ ra, Đức là quốc gia trực tiếp tham
chiến đối đầu với các cường quốc như: Nga, Anh, Pháp.
Năm 1918, chiến tranh kết thúc và Đức là quốc gia bại trận, Đức phải
chịu thiệt hại vô cùng nặng nề, chế độ quân chủ nghị viện tại Đức tan dã, thay

5


vào đó là chế độ cộng hòa dân chủ nghị viện, tiếp tục thực hiện đường lối đối
ngoại bành chướng, khiêu chiến và hung hăng những năm sau đó.
Năm 1930: thông qua bầu cử, Đảng Quốc xã Đức giành được sự ủng
hộ và lên nắm quyền; nhanh chóng biến nước Đức thành quốc gia chỉ có một
Đảng.
Năm 1933: Hitle được bổ nhiệm vào cương vị Thủ tướng. Sau đó,
thông qua hành động tấn công Ba Lan, Hitle đã châm ngòi cho chiến tranh thế
giới lần thứ II, thực hiện mục tiêu đối ngoại xây dựng nước Đức hùng cường.
Năm 1945, thế chiến II kết thúc, Đức vẫn là kẻ bại trận dưới phe Đồng
minh; cũng từ đây, bắt đầu thời kỳ chia cắt nước Đức thành Đông Đức và Tây
Đức, cùng chịu sự cai quản của quân Đồng minh.
Ngày 23/5/1949, nước CHLB Đức (Tây Đức) được thành lập từ việc
hợp nhất 3 khu vực chiếm đóng của Anh, Pháp và Mỹ. Ngay sau đó, ngày
07/10/1949, nước CHDC Đức (Đông Đức) cũng được thành lập từ khu vực
chiếm đóng của Liên Xô; đánh dấu việc Đế chế Đức bị chia cắt thành 2 quốc
gia độc lập, chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc đối đầu Đông – Tây, chiến
tranh lạnh mà đứng sau là Mỹ và Liên Xô, mở đầu cho mâu thuẫn trong lòng
Đế chế Đức. Trong suốt giai đoạn này, Đông Đức và Tây Đức có những chính
sách đối ngoại đối lập nhau.
Năm 1989, bức tường Berlin bị dỡ bỏ, Đông Đức và Tây Đức dần gắn
kết lại với nhau. Ngày 3/10/1990: nước Đức tái thống nhất với việc sát nhập
CHDC Đức vào CHLB Đức. CHLB Đức sau khi tái thống nhất luôn được

đánh giá là quốc gia có tiềm lực mạnh nhất Châu Âu, từ đó tới nay, CHLB
Đức đã chính thức chuyển hướng chính sách đối ngoại của mình theo hướng
mềm dẻo và linh hoạt hơn .
Tóm lại, lịch sử nước Đức khá đặc biệt khi thống nhất trong 2 giai đoạn
từ năm 1871- 1945 và từ năm 1990 – nay, trong hai giai đoạn này CHLB Đức
đã có chủ trương về đối ngoại khác hẳn nhau.

6


-


Kinh tế
CHLB Đức là nước có nền kinh tế lớn nhất Châu Âu, lớn thứ năm thế

giới. Kinh tế đi theo đường lối kinh tế thị trường xã hội.
- Đức có thế mạnh về công nghệ, sản xuất những mặt hàng chủ yếu
như: máy móc; ô tô; hàng điện tử; các sản phẩm hóa chất, quang học và điện
năng... Bạn hàng chủ yếu của Đức là Pháp, Mỹ, Anh, Hà Lan, Ý...

Văn hóa - giáo dục
Hệ thống giáo dục của Đức có trách nhiệm thuộc về mỗi tiểu bang
nhưng được phối hợp qua Hội nghị Liên bang của các Bộ trưởng văn hóa.
Đức đặc biệt tập trung vào đầu tư cho giáo dục, coi đây là nguồn lực trực tiếp
giúp Đức lớn mạnh. Mỗi công dân Đức có nghĩa vụ phải học từ 9 đến 12 năm,
có những bang chương trình phổ thông còn kéo dài 13 năm. Bởi vậy, trình độ
đọc viết được của công dân Đức khá cao khoảng 99%.
1.1.2 Thể chế chính trị
- Hình thức: Cộng hòa Liên bang. Hiện nay, CHLB Đức có 16 bang.

Tùy theo dân số của mỗi bang mà sẽ có khoảng từ 3 đến 6 đại biểu trong
Thượng viện
- Nước Đức là một liên bang có nghĩa là hệ thống chính trị được chia ra
2 cấp: cấp liên bang và cấp tiểu bang. Mỗi cấp đều có cơ quan nhà nước riêng
của lập pháp, hành pháp và tư pháp
Hiến pháp của Đức được soạn thảo từ năm 1949 với 5 nguyên tắc chung:
- Liên bang Đức là nước cộng hòa (quyền lực thuộc về nhân dân).
- Nguyên tắc dân chủ (quyền lực thông qua bầu cử).
- Nguyên tắc nhà nước liên bang bảo đảm tính độc lập của các bang: các
bang có hiến pháp, lãnh thổ, nhà nước riêng.
- Nguyên tắc nhà nước xã hội và nhà nước pháp quyền: nhà nước có
nghĩa vụ chăm lo đời sống công dân, có nghĩa vụ bảo đảm an toàn pháp
lý, công lý và hoạt động của nhà nước phải tuân thủ theo pháp luật.
- Nguyên tắc nhân quyền: có mục tiêu kiểm tra lẫn nhau, hạn chế lạm
dụng quyền lực.
Hiến pháp quy định rõ vị trí, quyền hạn của từng cơ quan và khẳng
định: tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân nắm quyền lực nhà nước,
7


quyết định cuối cùng về chế độ hiến pháp. Quyền lập pháp trao cho Hạ viện
và Hội đồng liên bang (Thượng viện). Quyền hành pháp trao cho Chính phủ
liên bang, chính phủ các bang. Quyền tư pháp nằm trong tay các Tóa án Tối
cao liên bang. Mỗi người có quyền cơ bản về thân nhân, tự do không hạn chế
của cá nhân nhằm chống lại sự can thiệp của nhà nước. Các hình thức trưng
cầu dân ý bị hủy bỏ, vì sợ rằng sẽ gây ra hỗn loạn chính trị.
-

Thượng viện và số đại cử tri bằng nhau của các bang bầu ra Tổng


thống. Tổng thống đứng đầu quốc gia với nhiệm kỳ 5 năm, dù đại diện cho
quốc gia nhưng quyền lực của Tổng thống bị hạn chế.
- Thủ tướng do Hạ viện bầu và thường là người có đa số phiếu trong
Viện. Thủ tướng đứng đầu Chính phủ, định ra các đường lối chính sách chung
cho các Bộ trưởng tiến hành.
1.2. Khái quát về chính sách đối ngoại của Đức
1.2.1. Một số vấn đề lý luận chung về chính sách đối ngoại
• Khái niệm cơ bản
- Chính sách đối ngoại bao gồm các mục tiêu, biện pháp mà một quốc
gia theo đuổi thực hiện trong quan hệ với quốc gia hay chủ thể khác
trong cộng đồng quốc tế, nhằm mục đích thực hiện những lợi ích quốc
gia được xác định trong từng thời kì lịch sử.
- Đường lối đối ngoại là phương hướng mang tính chất chỉ đạo lâu dài
trong hoạt động đối ngoại của quốc gia.
- Hoạt động đối ngoại là sự thực hiện các chính sách đối ngoại, là quá
trình đưa chính sách đối ngoại vào thực tiễn. Chính sách đối ngoại chỉ
được thực hiện thông qua các hoạt động đối ngoại.
Chính sách đối ngoại, đường lối đối ngoại, hoạt động đối ngoại có mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ, tạo tiền đề và phát triển nhau. Đường lối đối ngoại
và chính sách đối ngoại là nền tảng tư tưởng, lý luận cho hoạt động đối
ngoaim là chủ trương sách lược của nhà nước cho hoạt động đối ngoại. Còn
hoạt động đối ngoại của Nhà nước được biểu hiện qua qua hoạt động ngoại
giao của Chính phủ và được một cơ quan chuyên trách thực hiện là Bộ Ngoại

8


giao. Như vậy, hoạt động đối ngoại là sự hiện thực hóa đường lối đối ngoại
và chính sách đối ngoại.
Khi nghiên cứu về chính sách đối ngoại của một quốc gia cần có sự

tìm hiểu và nghiên cứ sâu về đường lối đối ngoại và hoạt động đối ngoại gắn
với các thời kỳ lịch sử cụ thể.


Nội dung chính sách đối ngoại

Nội dung của chính sách đối ngoại gồm 3 thành tố: mục tiêu, biện
pháp, đối tượng.
Mục tiêu của chính sách đối ngoại là kết quả mong muốn đạt được khi
thực hiện chính sách đối ngoại, bao gồm mục tiêu cơ bản và mục tiêu cụ thể.
Mục tiêu cơ bản là mục tiêu chúa đựng nhwgx lợi ích căn bản của mỗi
quốc gia. Quốc gia nào cũng muốn đạt đợc sự đảm bảo về an ninh, sjw xá lập
chủ quyền, sự phá triển kinh tế hay ảnh hưởng tới quốc tế khi bằng cách thực
thi chính sách đối ngoại của mình. Mục tiêu cụ thể là những mục tiêu theo
thời gian (trước mắt, ngắn hạn, dài hạn) hay mục tiêu theo từng lĩnh vực cụ
thể (an ninh, kinh tế, chính trị…)
Biện pháp thực hiện chính sách đối ngoại là hệ thống các hoạt động ở
nhiều lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh…) nhiều hình thức (đàm
phán, thuyết phục, răn đe…) nhiều mức độ và cấp độ (cá nhân, tổ chức, quốc
gia, …) khác nhau, nhiều chiều nhằm thực hiện các mục đích của quốc gia
trong quan hệ quốc tế.
Đối tượng tác động của chính sách đối ngoại là các quốc gia, tổ chức
quốc tế,, phong trào hcinsh trị xã hội, các cá nhân… có quan hệ trực tiếp hay
gián tiếp với quốc gia đó.

9





Yếu tố tác động đến hình thành và hoạt động của chính sách đối

ngoại
Yếu tố bên trong là các nhu cầ bên trong của mỗi quốc gia, dựa trên
cơ sở xá định lợi ích của các nhóm, giai cấp trong xã hội và lợi ích của dân
tộc, mục tiêu của quốc gia trong mỗi giai đoạn lịch sử. Bao gồm chính sách,
sách lược, của đảng cầm quyền và các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan lập
pháp, hành pháp, sự tham gia của nhân dân thông qua dư luận xã hội.
Yếu tố bên ngoài là tình hình, sự biến động của các nhân tố địa chính trị,
địa kinh tế, địa chiến lược trong khu vực và trên thế giới trong từng thời kì.
Khi đề ra chính sách đối ngoại, cần có sự xem xét đánh giá các yếu tố
trên trong mối quan hệ gắn bó, hỗ trợ lẫn nhau, bởi các yếu tố bên trong, đặc
biệt là yếu tố bên ngoài thường tác động theo hai xu hướng hòa bình, hợp tác
và xung đột, răn đe nên cần tìm ra xu hướng chính để có chính sách đối ngoại
phù hợp.
1.2.2. Quá trình hình thành chính sách đối ngoại của Đức
1.2.2.1. Giai đoạn 1949 – 1990
Đế chế Đức sau khi độc lập 1871 đã xây dựng cho mình một xu hướng
đối ngoại bành chướng, hung hăng, toàn lực tập trung vào phát triển quân sự
quốc phòng, gia tăng ảnh hưởng và xâm chiếm thuộc địa. Nhưng từ 1945, khi
chiến tranh thế giới lần II kết thúc, chiến tranh lạnh bắt đầu, nước Đức bị chia
cắt thành hai nhà nước: một là CHLB Đức (Tây Đức) phát triển theo phe Tư
bản chủ nghĩa; một là CHDC Đức (Đông Đức) phát triển theo phe Xã hội chủ
nghĩa, được hậu thuẫn bởi Mỹ vừ Liên Xô nên chính sách đối ngoại bắt đầu
có sự phân tán và điều chỉnh một cách đáng kể, thậm chí khác nhau hoàn toàn
về mặt bản chất.
Trái ngược với xu hướng đối ngoại hòa bình, ủng hộ tích cực cho Cách
mạng tiến bộ trên thới giới, ủng hộ Xã hội chủ nghĩa ở Đông Đức thì CHLB
10



Đức (Tây Đức) ủng hộ Chủ nghĩa tư bản, tư sản phương Tây, bác bỏ Chủ
nghĩa xã hội, thậm chí có giai đoạn thù địch với Đông Đức và Chủ nghĩa xã
hội. Mặc dù mâu thuẫn, nhưng chính sách đối ngoại của CHLB Đức vẫn luôn
tập trung vào việc tái thống nhất nước Đức; đây cũng là mục đích quan trọng
nhất và xuyên suốt trong mọi hoạt động của CHLB Đức giai đoạn này.
Thông qua những chính sách đối ngoại như vậy, Đông – Tây Đức chính
là hiện thân của đối đầu Xô – Mỹ, kiềm chế nhau phát triển
Một số thay đổi trong hoạt động đối ngoại chính của CHLB Đức giai
đoạn này có thể kế tới như sau:
- Chuyển từ việc tập trung vào quân sự, quốc phòng, phát triển vũ khí để
tham chiến sang đầu tư cho kinh tế đối ngoại. Tăng cường tập trung đầu tư
cho kinh tế để giúp quốc gia thoát khỏi khủng hoảng, hồi phục sau chiến
tranh.
- Tăng cường mở rộng quan hệ với các quốc gia tư bản, phương Tây, hợp
tác trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, xã hội... tiến tới
nhất thể hóa Châu Âu
- Tập trung nâng cao vị thế của mình ở Châu Âu, đặc biệt là EU
- Giữ thế cân bằng, hạn chế xảy ra xung đột với các cường quốc trên thế
giới, đảm bảo hòa bình để phát triển, đi đến tái thống nhất nước Đức
1.2.2.2 Giai đoạn 1990 - nay
Năm 1990, nước Đức thống nhất cũng chính là lúc mô hình chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô tan dã, bên cạnh đó là tiến trình toàn cầu hóa đang tác động
mạnh mẽ tới mọi quốc gia, tất yếu chính sách đối ngoại của giới cầm quyền
Đức phải tiếp tục có những thay đổi cho phù hợp
Nhìn chung, chính sách đối ngoại của Đức giai đoạn này được đánh giá
là linh hoạt và hòa bình. Chính sách đối ngoại có 3 đặc điểm điển hình sau:
Đầu tiên là việc đẩy mạnh các biện pháp nhằm hòa nhập thực sự Đông
Đức với Tây Đức, xóa bỏ hoàn toàn mẫu thuẫn, định hướng phát triển theo
mô hình và con đường chung là tư bản chủ nghĩa.

Thứ hai là tiếp tục đẩy mạnh chính sách hội nhập Châu Âu, duy trì
quan hệ tốt đẹp với Eu và thế giới, hạn chế xung đột đảm bảo hòa bình
Thứ ba, tham gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu, gia
tăng vai trò và ảnh hưởng của mình.
11


Từ những nội dung trên, có thể nhận thấy những thay đổi rõ rệt trong
chính sách đối ngoại của CHLB Đức, sự thay đổi trong chính sách thể hiện rõ
tính chất chuyển biến từ quốc gia theo chủ nghĩa phát xít độc đoán, chủ nghĩa
dân tộc và hiếu chiến trở thành một nước Đức ôn hòa, mở mở và hội nhập
hơn.

12


CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐỨC VỚI CHÂU ÂU
2.1. Chính sách đối ngoại với châu Âu
2.1.1. Khái quát chung
Chính sách đối ngoại của Đức với châu Âu được hiểu cụ thể chính là
chính sách hội nhập châu Âu và chính sách đối ngoại hòa bình.
Chính sách Hội nhập Châu Âu của CHLB Đức xuất hiện sau thế chiến
II, được hiểu đơn giản là quá trình nhằm gắn kết Đức với các quốc gia khác
trong Châu Âu, thông qua những biện pháp đối ngoại có tính chiến lược.
Thêm vào đó, mục tiêu của chính sách này vẫn là gia tăng ảnh hưởng của
CHLB Đức tuy nhiên thiên về các biện pháp hòa bình thay vì gây sức ép kinh
tế hay quân sự như trước.
Chính sách Hội nhập Châu Âu sẽ tác động tích cực tới các quốc gia
trong khu vực này, mục tiêu xa hơn là hướng chính phủ các nước chủ động
tham gia quan hệ quốc tế sâu rộng với Đức dựa trên tinh thần tự nguyện, bình

đằng, độc lập, tự chủ, đôi bên cùng có lợi.
Là một cường quốc lớn, Đức giữ vị trí chính yếu trong quan hệ ở châu Âu
cũng như trên thế giới. Nước Đức nằm ở trung tâm Châu Âu, là nơi kết nối các nhà
đầu tư nước ngoài và với thị trường của Liên minh Châu Âu. Nước Đức có một
nguồn nhân lực tay nghề cao, kỉ luật làm việc tốt và rất đáng tin cậy. Nguồn nhân
lực của Đức nổi tiếng thế giới là có trình độ và có năng lực. Kết hợp với những
thuận lợi về vị trí địa lí cùng với những nhận thức sâu sắc về môi trường năng động
tại châu Âu, về xu hướng toàn cầu hóa, liên kết khu vực đang ngày càng tăng mạnh,
CHLB Đức đã thay đổi chính sách đối ngoại, chuyển hướng trọng tâm hội nhập
châu Âu để qua đó chứng minh Đức quốc gia hòa bình, thân thiện.
Nhìn nhận một cách cơ bản thì chính sách đối ngoại của CHLB Đức
đặc biệt chú trọng quan hệ với châu Âu – đẩy mạnh & tăng cường vai trò của

13


mình tại châu Âu có ý nghĩa trọng tâm trong chính sách đối ngoại của quốc
gia này.
Đức khẳng định, châu Âu và quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương
là nền tảng của chính sách đối ngoại của Đức. Trong cuộc khủng hoảng nợ
hiện nay, Chính phủ liên bang đang làm việc để kết hợp đoàn kết châu Âu với
việc tăng cường tính lành mạnh tài chính và thúc đẩy tăng trưởng thông qua
khả năng cạnh tranh. Vì vậy, Đức muốn tăng cường dài hạn các dự án châu
Âu về một "sự ổn định". Cột mốc quan trọng đánh dấu ý nghĩa của chính sách
này là thời điểm bắt đầu có hiệu lực của Hiệp ước tài chính châu Âu vào ngày
1 tháng 1 năm 2013. Những biểu hiện cụ thể của chính sách đối ngoại đó
được thể hiện như sau:
Đức nỗ lực góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng EU và xây dựng EU
trở thành trung tâm liên minh về chính trị xã hội kinh tế tiền tệ môi trường –
khiến EU trở thành nơi đủ đủ sức giải quyết một trong những thách thức lớn

của châu Âu là việc làm.
Thực hiện nguyên tắc tính chất lâu bền trong thị trường nội địa của
châu Âu.
Phấn đấu để có được dân chủ hơn trong liên minh và tăng cường vai
trò nghị viện châu Âu, đảm bảo nguyên tắc đồng thuận.
Tăng cường tham khảo ý kiến của nghị viện châu Âu, Viện nghiên cứu
quốc gia và nhiều tổ chức xã hội trong xử lý công việc.
- Quan điểm:
o Thông qua việc mở rộng EU về phía các nước Trung và Đông
Âu, Đức có nhiều cơ hội giành những lợi ích về nhiều mặt, đồng
thời góp phần vào việc ổn định chính trị và kinh tế các nước này.

14


o Ủng hộ việc cải cách một cách cơ bản chính sách nông nghiệp
chung của EU và xây dựng nền công nghiệp châu ÂU có khả
năng cạnh tranh và được chấp nhận về phương diện môi trường.
o Tăng cường hợp tác và liên kết trong các chính sách và lĩnh vực
đối nội, pháp luật, nhà nước pháp quyền, cảnh sát, tư pháp và
công pháp quốc tế cũng như về hoạt động của các đài phát thanh
trong EU..
o Nước Đức đóng góp một cách thỏa đáng để tài trợ cho EU và
phấn đấu cho một sự công bằng hơn về đóng góp giữa các nước
thành viên.
- Chính phủ Đức sẽ sử dụng những công cụ và cơ chế của chính sách đối
ngoại và an ninh của EU được nêu trong Hiệp ước Amsterdam để làm
cho EU có khả năng hoạt động trên lĩnh vực chính trị thế giới và để
thúc đẩy được sự đại diện chung cho các lợi ích của châu Âu. Đức luôn
luôn ủng hộ cho những quyết định theo đa số, ủng hộ sự tăng cường,

bản sắc an ninh, phòng thủ của châu Âu và hoạt động đối ngoại EU.
2.1.2. Bình thường hóa quan hệ với các nước châu Âu.
Những chính sách và hoạt động đối ngoại của Đức thiên về nhượng bộ,
tập trung vào giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp cũ đã từng xuất hiện
trong lịch sử bằng con đường đàm phán hòa bình, hướng mục tiêu số một vào
những quốc gia láng giềng, thứ hai là những cường quốc, thứ ba là EU và
cuối cùng là toàn Châu Âu.
Với Pháp, Đức tiếp tục đề cao vị trí của Pháp trong chính sách đối
ngoại của mình. Phát biểu tại Paris nhân chuyến thăm Pháp, Thủ tướng Đức,
bà Angela Merkel cho rằng, mối quan hệ bền chặt của Đức với Pháp được vun
đắp qua nhiều thập niên, đã trở thành động lực cho sự phát triển của một châu
Âu rộng lớn hơn, nó có ý nghĩa quan trọng với hai nước cũng như cả EU.
Trong các mối quan hệ bên trong châu Âu, quan hệ giữa Anh & Đức cũng là
một mối quan hệ bền vững và quan trọng của châu Âu.

15


Đối với Liên bang Nga, Đức nỗ lực thiết lập quan hệ đối tác an ninh
bền vững, đẩy mạnh và ủng hộ hợp tác kinh tế, tài chính và xã hội với Nga
trên bình diện song phương và đa phương. Thấy được vai trò quan trọng của
Nga đói với khu vực Đông Âu, Ban Tích, Ban căng và Capscado, Cộng hòa
Liên bang Đức coi trọng việc tiếp xúc cấp cao thường xuyên với Nga nhằm
tham khảo quan điểm và tìm giải pháp cho các vấn đề khu vực.
Mối quan hệ giữa Đức và Nga xuất phát từ mối quan hệ năng lượng. Cả
hai quốc gia đều thống nhất tiến hành chính sách đối ngoại hòa bình, không
đối đầu chống lại nhau, vì lợi ích chung của một Châu Âu phát triển. Đức là
quốc gia ít tài nguyên nên rất coi trọng mối quan hệ này, coi đây là nguồn
nhập khẩu nguyên liệu chính. Trung bình, nước Đức nhập khoảng 41% khí
đốt, 34% dầu mỏ và 21% than đá từ Nga, thêm vào đó Đức cũng là nước

trung chuyển hàng hóa của Nga.
Ngày nay, Đức - Nga đã thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược, Ngay
trong thời chiến tranh lạnh, quan hệ kinh tế và năng lượng Đức - Nga vẫn
được duy trì và mở rộng, không xảy ra sự xung đột hay gián đoạn nào đáng
kể. Điều này chứng minh cho một tương lai tốt đẹp giữa 2 nước. Ngoài ra,
Đức và Nga còn mở rộng quan hệ trong lĩnh vực tài chính và văn hóa xã hội
Đối với Ba Lan, đây là quốc gia Đức đánh chiếm mở màn chiến tranh
thế giới II, Đức bày tỏ sự thận trọng và cân bằng trong chính sách đối ngoại
với quốc gia này. Thay đổi hình ảnh của mình trong Ba Lan là khá khó, nên
chính sách với Ba Lan chỉ thể hiện rõ ràng từ cuối những năm 60 của thế kỉ
XX khi thủ tướng Willy Brandt bổ sung những nét cơ bản trong chính sách
đối ngoại của mình. Ông đã đề nghị Hiệp ước Warschau với Ba Lan tháng 11/
1970 để tôn trọng chủ quyền lãnh thổ hiện tại , đây là nội dung đầu tiên và
bày tỏ mong muốn bình thường hóa quan hệ với Ba Lan; bắt đầu cho mối
quan hệ tốt đẹp giữa Đức và Ba Lan. Ngay sau đó, tháng 12/ 1970, ông đã
thăm chính thức Ba Lan để củng cố quan hệ hai nước.

16


Giai đoạn sau đó, chính thủ tướng Đức Angela Merkel là người đã kiên
quyết lên tiếng để nước láng giềng Ba Lan có một vị thế đại diện thích đáng
trong các cơ quan của Liên minh châu Âu, hành động này là sự ủng hộ của
Đức dành cho Ba Lan, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong chính sách hội
nhập Châu Âu của Đức.
Quan hệ với Ba Lan đã được mở rộng đáng kể trong những năm gần
đây. Ngoài ra, các "Weimar Triangle" của Pháp, Ba Lan và Đức cũng như sự
hợp tác ba bên giữa Nga, Ba Lan và Đức đã được tăng cường. Nhìn chung,
Đức đã có những nỗ lực đặc biệt để duy trì các mối quan hệ với tất cả các
nước thành viên EU.

Đối với các quốc gia láng giềng khác, sau nhiều năm xảy ra xung đột
đẫm máu với các quốc gia láng giềng, Đức nhận thức rõ vai trò và những tác
động tích cực mà hòa bình mang lại. Ngay sau năm 1949, khi chính phủ
CHLB Đức được thành lập, chính sách hòa bình, tự do bình đẳng trong đối
ngoại với các nước láng giềng đã được thực thi, đặc biệt là với 3 quốc gia Bỉ,
Hà Lan và Luxembourg. Đức chủ chương giải quyết tranh chấp về lãnh thổ
bằng con đường hòa bình và sẽ nhượng bộ. Thông qua những Hội nghị về
phân định biên giới, Đức đã bị mất khoảng 25% lãnh thổ của mình để tiến tới
gắn kết với các quốc gia này trên lĩnh vực kinh tế.
Đối với các quốc gia Đông Âu XHCN, CHLB Đức chủ động và tích
cực đề ra chủ chương hòa nhập với các quốc gia Đông Âu, hạn chế ảnh hưởng
của chiến tranh lạnh, trong đó hướng mục tiêu vào Đông Đức để đi đến tái
thống nhất đất nước. Hoạt động này bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX,
Đức đã ký nhiều Hiệp ước với các quốc gia Đông Âu tạo cơ hội cho họ có thể
mở cửa thông thương hàng hóa với CHLB Đức, tạo cơ hội cho dân chúng có
thể đi lại, trao đổi thông tin, liên lạc, giảm bớt sự căng thẳng với các nước
cộng sản. Chính sách Ostpolitik của Thủ tướng Willy Brandt đã bắt đầu cho
thời kỳ hòa nhập giữa xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa ở CHLB Đức.

17


2.1.3. Tích cực đẩy mạnh tiến trình nhất thể hóa Châu Âu.
- Đức tiên phong trong việc thành lập EU
Đầu thập kỷ 50 thế kỷ XX, tiến trình Hội nhập châu Âu của CHLB Đức
đã khởi động bằng việc đề ra mục tiêu nhất thể hóa Châu Âu. Đức đã đề nghị
mối quan hệ thân thiện với Pháp thông qua ý tưởng Cộng đồng than thép châu
Âu (ECSC) năm 1952, và tiếp đến là Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) và
Cộng đồng Nguyên tử châu Âu (Euratom); đây là tiền thân của Liên minh
Châu Âu (EU) sau này.

Đức đã đề nghị xây dựng một Cộng đồng kinh tế Châu Âu, hàn gắn
quan hệ với khu vực, lấy thế mạnh nội lực kinh tế của mình làm trọng tâm.
Hiệp ước Roma về vấn đề này đã được ký kết là sự khởi đầu cho một trang sử
thành công của Đức. Đức đã chủ động thuyết phục 5 quốc gia khác là Bi,
Itali, Pháp, Hà Lan và Luxembourg tham gia hợp tác thương mại sâu rộng về
kinh tế (ECSC).
- Đức luôn ủng hộ việc phát triển EU về số lượng và chất lượng
Sau việc liên minh của 6 quốc gia có tiềm lực kinh tế ấy là sự gia nhập
của hàng loạt các quốc gia khác vào EU như: Đan Mạch, Anh và Ailien trong
những năm 70; Hy Lạp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong những năm 80;
Áo, Phần Lan và Thụy Điển trong những năm 90; những năm sau đó là Séc,
Hungary, Ba Lan, Slovakia... Tổng cộng Eu đã có 28 nước thành viên

18


Bản đồ 28 nước EU
Việc gia nhập EU phải thỏa mãn những chỉ tiêu nhất định, trong 28
quốc gia thành viên này; rất nhiều nước được kết nạp nhờ sự giúp đỡ và hậu
thuẫn của Đức, Đức luôn ủng hộ sự mở rộng Châu Âu lên phía Bắc, xuống
phía Nam và sang phía Đông. Thông qua hành động này, Đức đã củng cố
quan hệ với các quốc gia thành viên nhỏ bé khác như: Croatia, Hy Lạp, Ba
Lan
Bên cạnh việc gia tăng số lượng thành viên, Đức là quốc gia đã đưa ra
nhiều sáng kiến và kiên trì đấu tranh để dẫn tới việc ký kết những Hiệp định
khu vực, nâng cao chất lượng hợp tác giữa các quốc gia trong EU cũng như
thúc đẩy đối nội và đối ngoại của Đức với Châu Âu trên lĩnh vực chính trị,
kinh tế, tiền tệ, xã hội, môi trường, pháp luật, tư pháp và công pháp quốc tế.
Đức đã nỗ lực không ngừng để kết nối các quốc gia Châu Âu lại gần nhau.
Đức đã cùng các quốc gia trong khu vực tham gia những hiệp định sau:

- Hiệp ước Masstricht (07/2/1992): đánh dấu cho việc thành lập liên
minh kinh tế tiền tệ đồng tiền chung châu Âu Euro

19


- Hiệp ước Schengen (27/11/1990): quy định quyền tự do đi lại của công
dân trong phạm vi những nước thành viên, bãi bỏ việc kiểm soát biên giới
giữa những quốc gia này.
- Hiệp ước Amsterdam (02/10/1997): tập trung vào quyền cơ bản không
phân biệt đối xử, chính sách việc làm và chính sách đối ngoại an ninh chung
- Hiệp ước Nice (7 – 11/12/2000): cải cách thành phần Ủy ban Châu Âu
- Hiệp ước Lisbon (01/12/2009): tăng tính dân chủ trong việc đưa ra
quyết định của các quốc gia thành viên.
Thông qua những Hiệp ước này, Đức đã giúp Châu Âu ngày một vững
mạnh, gắn kết chặt chẽ với nhau; thêm vào đó là việc thay đổi hình ảnh của
Đức trong khu vực.
2.1.4. Tham gia tích cực vào các tổ chức hợp tác đa phương, đặc biệt là
lực lượng gìn giữ hòa bình.
Cơ sở quan trọng cho chính sách đối ngoại của Đức được tất cả các
chính phủ liên bang khẳng định là sự hòa nhập toàn diện đất nước vào cơ cấu
hợp tác đa phương trên thế giới. Tới nay, Đức đã là thành viên tích cực của
Liên hợp quốc, NATO, G8, G20, OECD, OSCE và WTO.
Đức luôn tích cực ủng hộ và góp phần làm tăng cường khả năng của
EU trong việc ngăn ngừa xung đột dân sự, nhấn mạnh việc giải quyết xung
đột bằng phương pháp hòa bình; thông qua phối hợp quan điểm chung nhằm
góp phần làm cho tổ chức Liên hợp quốc và OSCE ngày càng vững mạnh.
Về hoạt động gìn giữ hòa bình, Đức luôn thể hiện một mục tiêu nhất
quán trong vấn đề này, phản đối chiến tranh, hướng tới xây dựng hình ảnh
một nước Đức thân thiện; vì hòa bình, một nước Đức hoàn toàn khác biệt so

với thời kỳ trước 1945.
Năm 1969, Đức tuyên bố gia nhập Hiệp ước Không phát triển vũ khí
hạt nhân; Đức đã kiên trì mục tiêu đòi hủy bỏ hoàn toàn vũ khí giết người
hàng loạt này. Đức là quốc gia đầu tiên trong khu vực đã quyết định từ bỏ sử
dụng vũ khí hạt nhân với mong muốn mang lại hòa bình, phát triển cho nhân

20


loại. Đức còn tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc,
EU và NATO. Trọng tâm là các hoạt động quân sự và cảnh sát trên vùng
Bancăng. Ngoài ra Đức là quốc gia đã đóng góp lượng ngân sách lớn thứ ba
thế giới cho việc gìn giữ hòa bình chính thức của Liên hợp quốc.
Đối với khu vực Châu Âu, Đức luôn tham gia đầy đủ và đóng góp tích
cực vào Chương trình Nghiên cứu An ninh Châu Âu; thiết chặt và nâng cao
tầm ảnh hưởng của mình với OSCE (tổ chức an ninh và hợp tác Châu Âu ).
Trong các vấn đề tranh chấp của khu vực cũng như thế giới, Đức luôn hướng
tới giải quyết bằng đàm phán ngoại giao hòa bình, hạn chế tối đa xung đột vũ
trang.
Chính phủ liên bang cũng tham gia vào sự phát triển của chính sách an
ninh và quốc phòng chung của EU và đã bắt đầu vào sáng kiến Weimar Tam
giác phát triển và thiết lập các kỹ năng lập kế hoạch EU dân sự - quân sự và
lãnh đạo vĩnh viễn.
Về giáo dục đào tạo, Đức tích cực xây dựng hình ảnh một đất nước
thân thiện thông qua việc tăng cường hợp tác quốc tế. Đức đã xây dựng
chương trình Erasmus (European Community Action Scheme for the Mobility
of University Students) - chương trình hành động của cộng đồng Châu Âu về
trao đổi sinh viên, tạo điều kiện cho hàng ngàn sinh viên tại các trường đại
học có cơ hội học tập và làm việc ở nước ngoài.
Về văn hóa, Đức tiến hành các cuộc đối thoại trao đổi liên văn hóa,

thành lập nhiều trung tâm/ góc văn hóa Đức tại nước ngoài để quảng bá hình
ảnh và sự phát triển của Đức.
Về kinh tế - khoa học, Đức thiết lập chương trình PRO INNO II để
tăng tài trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của mình, thúc đẩy các doanh
nghiệp này hợp tác với nước ngoài; ngoài ra, Đức còn đầu tư cho lĩnh vực vũ
trụ khoa học công nghệ của Châu Âu
Bằng những việc làm cụ thể và có ý nghĩa như vậy, Đức đã và đang
từng bước thay đổi hình ảnh của mình trong con mắt bạn bè quốc tế.
21


2.1.5. Gia tăng vai trò trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu và khu
vực

Khủng hoảng nợ công Châu Âu
Cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu bắt đầu bùng nổ ở Hy Lạp năm
2010; thực chất đây là việc các khoản nợ của chính phủ cứ liên tục tăng lên;
đó là nợ Nhà nước, nợ tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân, nguyên nhân chủ
yếu của nợ công xuất phát từ tình trạng mất cân đối giữa thu chi ngân sách,
dẫn tới các quốc gia phải vay tiền để chi thông qua: phát hành công trái, trái
phiếu, tín dụng... rồi các khoản nợ cứ chồng chất nhau và lan sang các quốc
gia khác.
Đức là thành viên mạnh nhất trong Liên minh Châu Âu, đóng góp
khoảng 20% ngân sách cho EU, trước bối cảnh khu vực như vậy, Đức đã thể
hiện vai trò của mình để đảm bảo an ninh phát triển cho khu vực nói chung
cũng như của Đức nói riêng.
Đức đã thực hiện tốt chính sách viện trợ của mình giúp những quốc gia
gặp khó khăn trong khu vực, điển hình là Hy Lạp. Tháng 3/2010: Đức đồng ý
thực hiện các biện pháp hỗ trợ khẩn cấp cho Hy Lạp nhằm giúp đỡ giải quyết
khủng hoảng tại đây.

Ngoài gia Đức còn chủ động sử dụng tiền của mình để hỗ trợ một số
quốc gia gặp khủng hoảng nợ công sau đó như: Bồ Đào Nha, Ireland, Cộng
hòa Síp.... Đức đã chi khoảng 73 tỷ USD từ khi khủng hoảng bắt đầu, cứu trợ
công khai hoặc ngầm hỗ trợ hàng trăm tỷ Euro nữa theo dạng tái cơ cấu nợ
cho các nước. Thêm vào đó, Đức đã khởi xướng gói giải pháp toàn diện cùng
với Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) để
hỗ trợ cho các quốc gia đang gặp khó khăn trong khu vực, tạo động lực cho
các quốc gia cùng thoát khỏi khủng hoảng, bảo vệ đồng Euro. Tới nay, cuộc
khủng hoảng nợ công châu Âu bắt đầu có những dấu hiệu phục hồi.
Việc cung cấp tiền cứu trợ cho các quốc gia khu vực sẽ mang lại cho
Đức vai tṛ dẫn đầu trong EU, cũng như gia tăng ảnh hưởng và nâng cao vị thế
của mình trong con mắt của các quốc gia khác. Nếu không có Đức, Liên minh
22


châu Âu (EU) sẽ tan rã. Và tất nhiên, kết cục sau đó là Đức sẽ quay trở về
“con số 0” sau những nỗ lực tiến hành nhất thể hóa Châu Âu và Hội nhập
Châu Âu của mình


Vấn đề ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu

Xu thế toàn cầu hóa cũng kéo theo việc các quốc gia cần chung tay
trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu và Đức đã chứng tỏ được vai trò
của mình, tiên phong và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Trung bình mỗi năm, EU thải ra khoảng 3 tỉ chất thải rắn từ hoạt động
kinh tế, xây dựng, chế tạo và sinh hoạt. Trong đó, Đức là quốc gia có lượng
chất thải lớn nhất trong khu vực với khoảng 370.000 tấn (sau đó là Pháp và
Anh); Bởi vậy, việc xử lý chất thải với Đức nói riêng và EU nói chung là vô
cùng quan trọng.

Đức đã tích cực tham gia hạn chế mặt trái của vấn đề ô nhiễm môi
trường và biến đổi khí hậu. Đức có vai trò quan trọng trong việc thay đổi cơ
cấu kinh tế và quản lý lượng chất thải của EU vì môi trường thân thiện với
những chính sách năng lượng sạch. Đức đã kết hợp với Phần Lan, Pháp xây
dựng kế hoạch thu hồi, kiểm soát chất thải rắn. Đức cũng đã tham gia ký Nghị
định thư Kyoto về bảo vệ khí hậu thế giới, hạn chế lượng chất thải ra môi
trường; tham gia Chương trình hành động về môi trường vào giữa năm 1973.
Ngoài ra, những vấn đề toàn cầu khác cũng được Đức quan tâm là thực
hiện dân chủ, nhân quyền, phân biệt chủng tộc; nạn khủng bố và bệnh dịch
Thông qua việc chung tay giải quyết những vấn đề toàn cầu, Đức đã
xây dựng được cho mình một hình ảnh mới, giờ đây Đức không chỉ là một
quốc gia hòa bình, thân thiện mà hơn thế là một đất nước luôn phấn đấu hết
mình vì lợi ích chung của nhân loại.
2.2. Vị trí, vai trò thể hiện nỗ lực của Đức trong Liên minh châu Âu
2.2.1. Vị trí, vai trò kinh tế

23


Trong thời kì hiện nay, với cộng đồng quốc tế, EU mang giá trị của một
mô hình nhất thể hóa với những kinh nghiệm, bài học, các cơ chế hợp tác –
liên kết, các phương thức thống nhất – điều hòa, cân bằng lợi ích giữa các
quốc gia, dân tộc có trình độ phát triển khác nhau, là kho ý tưởng cho hội
nhập và liên kết hợp tác của các khu vực khác trên thế giới.
Liên minh châu Âu có cách nhìn về thế giới tương đối khác biệt so với
Mỹ: Với quan điểm chung khá thống nhất, EU phấn đấu cho một thế giới đa
cực, đồng thời đề cao vai trò của Liên hợp quốc, của các định chế đa phương
và pháp luật quốc tế trong quan hệ với các quốc gia. Sự khác biệt này so với
Mỹ là một trong những nhân tố quan trọng quy định nội dung chính sách đối
ngoại chung của EU. Từ đó mà sự phối hợp và vai trò của các thành viên

trong EU được đề cao, đóng vai trò vô cùng to lớn đến sự phát triển của EU.
Là một trong những quốc gia đầu tàu của Liên minh châu Âu (EU), với
sức mạnh quốc gia, Đức không chỉ là động lực kinh tế, chính trị trong khu vực
đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), mà còn thể hiện vai trò to lớn đối với
toàn khu vực. Đức khẳng định vị thế là một trung tâm kinh tế với vị trí địa lý
ngay giữa lòng châu Âu. Với 82 triệu dân, Đức là thị trường lớn nhất và quan
trọng nhất trong cộng đồng châu Âu (EU). Đức là một trong những nước công
nghiệp phát triển, đứng thứ 4 thế giới sau Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản về GDP,
với GDP đạt 3 nghìn tỷ USD, tương đương 25% GDP của Eurozone. Kinh tế
Đức tập trung chủ yếu vào sản xuất công nghiệp và dịch vụ; ngành nông
nghiệp chỉ sử dụng khoảng 2% - 3% lực lượng lao động. Đức hiện được đánh
giá là quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm hộ gia đình cao nhất ở châu Âu.
Về vị trí địa lý, nằm ở giữa EU, Đức trở thành một trung tâm hậu cần
và phân phối lý tưởng của châu Âu. Với hệ thống đường bộ, đường sắt, đường
thủy, đường hàng không cùng nhiều sân bay quốc tế, nhiều cảng biển và kho
vận tải thuộc loại lớn nhất châu Âu, kết cấu hạ tầng là lợi thế lớn để Đức củng
cố thêm vai trò trọng yếu của mình đối với khu vực.
24


Kinh tế đối ngoại của Đức cũng rất phát triển. Dân số của Đức chỉ
chiếm hơn 1% tổng dân số thế giới, song xuất khẩu của nước này chiếm 9%
xuất khẩu toàn cầu. Quan hệ thương mại của Đức tập trung chủ yếu vào thị
trường châu Âu. Kim ngạch hai chiều với khu vực này chiếm từ 65% - 70%
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Đức. Đây là yếu tố chủ yếu cho tăng
trưởng kinh tế của Đức. Các đối tác thương mại lớn nhất của Đức bao gồm
Pháp, Mỹ và Anh. Không những thế, từ khi EU mở rộng thị trường về phía
Đông, thương mại giữa Đức với các nước Đông Âu là thành viên mới của EU
cũng đạt được tăng trưởng đáng kể.
Ngoài thương mại, Đức còn là một địa điểm hấp dẫn các nhà đầu tư

quốc tế nhờ sự phát triển của lĩnh vực nghiên cứu và thiết kế, cơ khí chính
xác, hệ thống hậu cần và kết cấu hạ tầng tốt, hệ thống pháp lý ổn định và trình
độ chuyên môn cao của đội ngũ lao động. Hiện nay, có khoảng 45.000 công ty
nước ngoài, trong đó có 500 công ty lớn nhất thế giới, đang hoạt động tại
Đức. Tổng vốn đầu tư do các công ty nước ngoài đầu tư trực tiếp tại Đức hiện
tại vào khoảng 476 tỷ Euro. Giao thương với các nước thành viên ban đầu của
EU mà từ khi EU mở rộng thi trường về phía Đông, thương mại giữa Đức với
các nước Đông Âu là thành viên mới của EU đã đạt được nhiều tăng trưởng
đáng kể. Thêm vào đó, giao thương kinh tế giữ Đức với các nước châu Á mới
nổi như Trung Quốc và Việt Nam vẫn không ngừng gia tăng. (Theo số liệu
của tạp chí The Economist năm 2013).
Cho đến giữa năm 2011, kinh tế Đức hầu như không có dấu hiệu bị tác
động bởi cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu. Thậm chí, tình hình khó khăn
đó của EU còn mang lại cho Đức nhiều “cơ hội”. Chẳng hạn, tại một số thời
điểm, Đức có thể huy động vốn trên thị trường với lãi suất rất thấp. Theo tính
toán của Viện Nghiên cứu IFO, xuất khẩu của Ðức trong năm 2012 tăng 6%,
đạt 1.124 tỷ Euro; nhập khẩu cũng tăng 7%, đạt 965 tỷ Euro. Trái ngược với
các quốc gia đang chìm trong nợ, như Hy Lạp và Tây Ban Nha. Trong khi
nhiều nước EU đang khốn đốn trước khủng hoảng tài chính và thất nghiệp gia
25


×