Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu Luận chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.79 KB, 19 trang )

Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước nhỏ nhưng có vị trí vô cùng quan trọng trong khu vực Đông
Nam Á nói riêng và Châu Á nói chung. Chính vị trí địa lý thuận lợi này, đã đẩy nước ta
rơi vào tầm ngắm của những nước lớn và cũng vì thế mà nước ta nhiều lần phải chịu ách
đô hộ, các cuộc chiến tranh xâm lược của nước ngoài. Nước ta, nhân dân ta đã từng sống
trong những ngày tháng lầm than, cơ cực, nghèo đói. Nhưng những điều đó đã thuộc về
quá khứ, giờ đây, Việt Nam đang trên đà phát triển, đang có những nỗ lực rất lớn để từng
bước, dần dần khẳng định vị thế của mình trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.
Có được những thành tựu và sự thay đổi vị thế của mình như ngày hôm nay là kết tinh
của những đường lối chính sách ngoại giao và phát triển khôn khéo và hiệu quả của nước
ta đối với các quốc gia, với các tổ chức khác trên phạm vi toàn cầu, nhất là những năm
sau 1991 đến nay.
Và trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được tìm hiểu và trình bày về chính
sách đối ngoại của Việt Nam với Lào và Campuchia những năm sau 1991. Những chính
sách đối ngoại của ta và hai nước đã mang lại những thành tựu vô cùng ý nghĩa cho sự
phát triển chung của cả ba nước, tạo ra được những cơ hội rộng mở trong quan hệ trong
thời gian đến, và đồng thời cũng gặp những thách thức nhất định trong điều kiện, xu thế
phát triển chung của thế giới và khu vực. Trong chính sách đối ngoại của nước ta đối với
hai nước láng giềng thân cận luôn thể hiện tư tưởng chủ đạo của nước ta trong những năm
sau 1991 về một đất nước yêu chuộng hòa bình, sống chan hòa không chỉ với hai nước
bạn mà còn với tất cả các quốc gia khác, cùng tồn tại, cùng phát triển vì một thế giới ngày
càng phát triển và thịnh vượng hơn.
Trang 1
- -
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
I. Cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau
những năm 1991:
Năm 1991, hệ thống XHCN ở Liên Xô và Tây Âu tan rã tạo nên một thời kỳ chuyển
mình mới của những nước XHCN trong đó có Việt Nam. Từ xu thế “nhất biên đảo” theo
Liên Xô, Việt Nam đã thay đổi xu thế, mở rộng mối quan hệ với các nước khác trên thế


giới để có con đường phát triển khác mà không bị lụi tàn như Liên Xô; chẳng hạn: Việt
Nam bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ vào năm 1995, mở rộng mối quan hệ toàn diện
với Trung Quốc, Nhật Bản, các nước Tây Bắc Âu, với các nước ASEAN, với các nước
láng giềng.
Quan hệ quốc tế có những sự thay đổi rất lớn với ba xu hướng chính mà Việt Nam
cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển đó:
 Các nước đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu.
 Xu thế đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ.
 Chủ nghĩa khu vực hóa phát triển.
Việt Nam, Lào và Campuchia là những nước cùng nằm trong bán đảo Đông Dương,
cả 3 nước đều có những mối quan hệ mang tính chất lịch sử lâu dài và đặc biệt. Nhà nước
và nhân dân 3 nước đã từng sát cánh và hỗ trợ lẫn nhau để cùng chống lại sự xâm lược
của thực dân, đế quốc, cùng tồn tại.
Vấn đề về Campuchia là điều kiện mà các nước đưa ra để bình thường hóa với Việt
Nam, vì khi giúp Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng của Pol Pốt, thiết lập lại chế độ
hòa bình ở Campuchia, Việt Nam đã bị gán tội là cố tình can thiệp công việc nội bộ của
Campuchia và muốn thiết lập chế độ chính trị mới của Việt Nam tại Campuchiaphải rút
quân khỏi địa phận Campuchia.
Việt Nam đã góp phần giúp Campuchia giành thắng lợi trong Hội nghị Paris, công
nhận nền độc lập, tự chủ của Campuchia.
Với Việt Nam, Lào và Campuchia là hai nước có mối quan hệ ngoại giao chiến lược
thuộc vòng 1- bao gồm các nước láng giềng và khu vực. Việt Nam xác định Lào và
Trang 2
- -
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
Campuchia là hai nước quan trọng nhất, toàn diện nhất, chặt chẽ nhất trong mối quan hệ
ngoại giao của Việt Nam với nước ngoài.
Chính sách đối ngoại Việt Nam trong thời gian này được xác định: “tiếp tục đẩy
mạnh việc thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa
phương hóa. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì

hòa bình, độc lập và phát triển’’ [1]
Trong tất cả các mối quan hệ ngoại giao của mình với các nước, có cả Lào và
Campuchia, Việt Nam luôn nhất quán theo quan điểm: tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nước bạn, hợp tác cùng có
lợi dựa trên nguyên tắc bình đẳng.
II. Quá trình triển khai chính sách đối ngoại đối ngoại của Việt Nam – Lào và
Campuchia từ sau 1991 đến nay:
2.1. Quan hệ song phương:
2.1.1. Quan hệ Việt Nam – Lào:
Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với Lào từ rất sớm – năm 1962. Quan hệ giữa
2 nước là mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết, hợp tác toàn diện.
Cả Việt Nam và Lào đều coi nhau thuộc ưu tiên số một trong chính sách đối ngoại
của mỗi nước. Quan hệ trên cả ba kênh Đảng, Nhà nước và nhân dân, từ Trung ương tới
các địa phương, nhất là các địa phương có chung đường biên giới.
Quan hệ Việt Nam và Lào đã được thử thách và trở nên khắng khít qua những cuộc
đấu tranh chống đế quốc và thực dân xâm lược. Mối quan hệ càng trở nên bền chặt khi cả
2 nước có những điểm chung tương đồng nhau, ví dụ như chế độ chính trị của cả 2 nước
đều là XHCN; đất nước phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; 2 nước hoạt động
vì mục tiêu giống nhau đó là xây dựng một đất nước giàu mạnh theo định hướng
XHCN…
Trong những năm sau 1991, Việt Nam và Lào đã tổ chức rất nhiều cuộc họp cấp cao
giữa 2 nước để thắt chặt tình hữu nghị và cùng phát triển của 2 nước.
Trang 3
- -
[1] Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1/1994)
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
 Tháng 10 năm 1991, đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân Cách mạng Lào thăm chính
thức Việt Nam.
 Tháng 1 năm 1999, trong cuộc gặp cấp cao hàng năm tại Hà Nội, Bộ Chính trị hai

nước nhất trí tiếp tục phát triển quan hệ Việt Nam và Lào “trên cơ sở nêu cao tinh thần
độc lập, tự chủ và phát huy cao nhất nội lực của mỗi nước, hợp tác bình đẳng cùng có
lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào với thông lệ quốc tế, ưu
tiên ưu đãi hợp lý cho nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho hai nước khắc phục hậu quả của
khủng hoảng kinh tế – tài chính, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, từng bước hội
nhập khu vực và quốc tế”.[2]
 Mở đầu cho thời kỳ 1996 – 2007 là cuộc gặp cấp cao giữa hai Đảng tháng 1 năm
1996 tại Viêng Chăn. Hai bên đã thống nhất những định hướng lớn cho sự hợp tác toàn
diện Việt Nam và Lào giai đoạn 1996 – 2000.
 Trung bình mỗi năm, hai Đảng cử trên 30 đoàn từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh
ủy sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
về công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận.
 Hai bên chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác về chính trị, duy trì cuộc gặp hàng
năm giữa hai Bộ Chính trị; tăng cường hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại, Bộ Ngoại giao
phối hợp hành động trong quan hệ với ASEAN, AFTA (khu vực mậu dịch tự do
ASEAN), ARF (Diễn đàn khu vực ASEAN).
Việt Nam và Lào lập Ủy ban hợp tác Liên chính phủ về Hợp tác kinh tế, văn hóa,
giáo dục, khoa học kỹ thuật để phục vụ tốt hơn cho sự hợp tác giữa hai nước. Gần đây,
vào kỳ họp thứ 34 (7/1 tại Viêng Chăn) của Ủy ban, nước ta và nước bạn Lào đã có sự
gặp gỡ, giao lưu và đánh giá lại tình hình quan hệ của hai nước trong thời gian qua. Cả
hai nước đều nhận thấy vấn đề hợp tác giữa hai nước trên nhiều lĩnh vực đã có những
chuyển biến tích cực với nội dung, hình thức phong phú, đa dạng, ngày càng đi vào chiều
sâu, thiết thực và hiệu quả. Góp phần tích cực vào củng cố và tăng cường mối quan hệ
đoàn kết đặc biệt Việt – Lào.
Trang 4
- -
[2] .
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
Việt Nam và Lào chuyển từ hợp tác theo từng dự án sang hợp tác theo chương trình
dài hạn. Việc Việt Nam và Lào xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn cho

mỗi nước đã tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam và Lào bước vào
giai đoạn phát triển mới cao hơn.
2.1.2. Quan hệ song phương Việt Nam – Campuchia:
Việt Nam và Campuchia thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1967.
Lần thứ ba, Việt Nam kéo quân vào giúp nhân dân Campuchia chống chế độ diệt
chủng Pol Pốt, đã giúp đất nước này khôi phục lại được nguyên trạng ban đầu và mở ra
một thời kỳ phát triển mới của Campuchia, điều này đã góp phần thúc đẩy sự thành công
của Hội nghị Paris để các quốc gia khác công nhận độc lập, chủ quyền của Campuchia.
Việt Nam và Campuchia ngày càng trở nên thân thiết hơn kể từ những sự kiện lịch sử đó.
Qua nhiều thăng trầm của lịch sử, đặc biệt trong giai đoạn 1991 – 2007 mối quan hệ
Việt Nam - Campuchia không ngừng được phát triển với phương châm 16 chữ vàng
“Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài” [3], làm
định hướng cho quan hệ hai nước trong thế kỷ XXI. Việt Nam đã tăng cường quan hệ tốt
đẹp với các đảng phái, tổ chức chính trị, xã hội của Campuchia nhằm thể hiện rõ thiện chí
của Việt Nam, góp phần đẩy lùi các thế lực thù đich chống Việt Nam.
Trong quan hệ ngoại giao với Campuchia, Việt Nam luôn đề cao sự tự chủ của
Campuchia, luôn tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, không
xâm phạm công việc nội bộ của Campuchia.
Trong bối cảnh Việt Nam đặt mối quan hệ ngoại giao thân thiết với Campuchia, mối
quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống Việt Nam – Campuchia tiếp tục phát triển về
hợp tác an ninh, quốc phòng, kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật, văn hóa, hai nước
đã và đang nỗ lực tạo mọi điều kiện thuận lợi để cùng nhau bảo vệ và xây dựng đất nước,
vì sự thịnh vượng chung của mỗi nước và cả khu vực Đông Nam Á.
2.2. Quan hệ đa phương Việt Nam – Lào và Campuchia:
Trong lịch sử và cả trong thời điểm hiện tại, ba nước này đã có những chính sách
ngoại giao hòa hiếu và gắn kết thân thiết, mang lại những thành tựu đáng kể trong mối
Trang 5
- -
[3]
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991

quan hệ giữa ba nước. Mối quan hệ giữa ba nước vẫn đang rất tốt đẹp, bền vững và riêng
mỗi nước luôn nhìn nhận hai nước còn lại nhưng đối tác tin cậy và chiến lược của nhau.
Điều này đã được chính phủ của ba nước khẳng định trong những Hội nghị cấp cao
hay trong những phát biểu của các quan chức cấp cao của ba nước.
Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Việc hợp tác kinh tế giữa ba
nước (Đông Dương) phải theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi, có ưu tiên ưu
đãi cho nhau, và phải có những chính sách, phương thức thích hợp, bảo đảm hiệu quả
thiết thực” [4]
Về phía Lào, Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng khẳng
định: “Xuất phát từ truyền thống lịch sử và tình hình, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
ba nước, sự tăng cường liên minh hợp tác toàn diện giữa ba Đảng, ba nước Lào – Việt
Nam – Campuchia mới trở thành nhiệm vụ chiến lược số một, là nguyên tắc cách mạng
bất di bất dịch của mỗi nước, là vấn đề sống còn của mỗi nước” [5]
2.2.1. Tam giác phát triển CLV:
Tam giác CLV được hình thành do nhu cầu hợp tác của ba nước Việt Nam, Lào và
Campuchia. Tam giác này được chính thức hình thành tại Viên Chăn vào tháng 10/1999
với sự thống nhất của Thủ tướng ba nước.
Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam là một khu vực ngã ba biên giới
của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Mục tiêu quan trọng được đặt ra trong Tam
giác phát triển này là hợp tác trên các lĩnh vực giao thông vận tải, thương mại, điện lực,
du lịch, đào tạo nguồn nhân lực và y tế. Tam giác này sẽ tăng cường mối quan hệ hòa
hiếu, đoàn kết và hợp tác của ba nước nhằm phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm
nghèo góp phần giữ vững ổn định, an ninh của cả ba nước.
2.2.1.1. Triển khai:
Để tiến hành thực hiện mối quan hệ trong Tam giác phát triển CLV, các cấp chức
năng của ba nước đã có những cuộc họp thông qua những nội dung quan trọng, làm cơ sở
pháp lý và nền tảng cho những hoạt động được tiến hành trong thời gian thực hiện:
 Cuộc họp cấp cao lần thứ nhất hình thành Tam giác CLV.
Trang 6
- -

[4],[5] .
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
 Cuộc họp cấp cao giữa ba Thủ tướng lần thứ hai tại TP. HCM (2002), xác định
ưu tiên triển khai hợp tác trên các lĩnh vực giao thông vận tải, thương mại, điện lực, du
lịch, đào tạo nguồn nhân lực và y tế.
 Cuộc họp cấp cao lần thứ ba tại Siem Reap (2004), khẳng định vai trò hết sức
quan trọng của Tam giác CLV và phối hợp phát triển cơ sở hạ tầng đường giao thông, xúc
tiến hàng loạt dự án. Nhân dịp Hội nghị Cấp cao ASEAN 10, ngày 28/11/2004, Thủ
tướng 3 nước đã ký Tuyên bố Viên Chăn về xây dựng Tam giác phát triển và thông qua
Quy hoạch tổng thể Tam giác phát triển.
 Cuộc họp cấp cao lần thứ tư tổ chức tại Đà Lạt (tháng 12-2006) đã thông qua
việc thành lập Uỷ ban điều phối chung.
 Cuộc họp cấp cao lần thứ năm được tổ chức tại Viêng Chăn năm 2008 thúc đẩy
triển khai công tác của các nhóm chuyên gia, kỹ thuật.
 Hội nghị Cấp cao CLV lần thứ sáu đã diễn ra vào ngày 16/11/201 tại
Phnompenh, Campuchia. Ba Thủ tướng Việt Nam, Lào và Campuchia đã trao đổi và đánh
giá cao các kết quả hợp tác đã đạt được trong việc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội
của 13 tỉnh thuộc Tam giác phát triển CLV trong thời gian vừa qua.
 Hội nghị cấp cao CLV thứ sáu đã xem xét và thông qua Bản Quy hoạch lại khu
vực Tam giác Phát triển đến năm 2020 do Bộ Kế hoạch đầu tư Việt Nam chủ trì xây dựng
thay thế cho bản Quy hoạch cũ năm 2004.
 Ngày 9/12, Hội nghị cấp cao CLV lần thứ bảy đã được tổ chức tại thị xã Át-ta-
pư (Nam Lào) nhằm tăng cường sự phối hợp giữa ba nước để đối phó những thách thức
hiện nay.
 Trong quá trình triển khai CLV có sự giúp đỡ rất nhiều từ Nhật Bản về tài
chính và cả về những sáng kiến phát triển, ba nước vẫn đang nỗ lực để gắn kết mối quan
hệ tốt đẹp hơn với Nhật Bản và đã được rất nhiều kết quả khả quan, những cuộc họp cấp
cao giữa những nhà lãnh đạo CLV và Nhật Bản đều đặn được tổ chức để xem xét, theo
dõi tiến trình phát triển của CLV.
Trang 7

- -
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
2.2.1.2. Nội dung hợp tác của tam giác phát triển CLV:
 Về giao thông: tập trung nguồn lực để phát triển các tuyến đường liên kết các
tỉnh của ba nước trong khu vực Tam giác phát triển như quốc lộ 40, đường 18B, đường
78.
 Về năng lượng: Việt Nam đã đưa vào vận hành thủy điện Ialy (720MW), Buôn
Kướp (280MW) cùng hệ thống lưới truyền tải 220kV, 110kV. Sêkamản 3 (230 MW).
Việt Nam đang nghiên cứu khả thi các dự án thuỷ điện Sêkamản1, 4, Sêkông 4, Sêkông 5,
Sêpiên- Sênậmnoi.
 Về thương mại, đầu tư: Việt Nam cơ bản hoàn thành hệ thống cơ sở hạ tầng
thương mại, dịch vụ các khu kinh tế cửa khẩu Bờ Y (Kon Tum) và đang hỗ trợ Lào xây
dựng trạm liên kiểm cửa khẩu Phu Cưa (đối diện cửa khẩu Bờ Y). Và hiện tại đang triển
khai Trạm liên kiểm tại Khu kinh tế cửa khẩu Lệ Thanh (Gia Lai). Việt Nam viện trợ
không hoàn lại cho Campuchia xây dựng chợ biên giới O Yadav tại Ban Lung tỉnh
Ratanakiri.
 Về đào tạo: Việt Nam tiếp nhận các cán bộ, học sinh của Lào mỗi năm sang
học tập tại các tỉnh trong Tam giác phát triển và đang đầu tư xây dựng mới khu ký túc xá
học sinh Lào, Campuchia tại trường ĐH Tây Nguyên. Trong thời gian qua, Việt Nam đã
hỗ trợ cho Lào xây dựng trường dân tộc nội trú tại tỉnh Sêkông, hỗ trợ Campuchia xây
dựng trường phổ thông nội trú với quy mô 150 học sinh tại Ban Lung tỉnh Ratanakiri
bằng viện trợ không hoàn lại (gần 1 triệu USD/ trường).
 Về cơ chế phối hợp: Bên cạnh các cuộc Hội nghị cấp cao, ba nước CLV đã
nhất trí thành lập Uỷ ban điều phối chung Tam giác phát triển, gồm 4 tiểu ban: kinh tế, xã
hội- môi trường, địa phương, an ninh- đối ngoại. Mỗi nước cử một Bộ trưởng làm đồng
Chủ tịch Uỷ ban và uỷ viên Uỷ ban điều phối gồm đại diện các Bộ, ngành liên quan và
các tỉnh trong Tam giác. Uỷ ban điều phối chung sẽ họp thường niên trên cơ sở luân
phiên. Phiên họp thứ 1 UBĐP đã được tổ chức tháng 5/2007 tại Pleiku (Gia Lai). Phiên
họp thứ 2 đã được tổ chức tại Campuchia vào ngày 17-18/2/2008. Phiên họp lần thứ 3
Trang 8

- -
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
đồng thời là họp SOM chuẩn bị cho HNCC CLV (tại Lào). Hội nghị Ủy ban Điều phối
lần thứ 4 được tổ chức tại Đắc Lắc, Việt Nam vào ngày 20 - 21/12/2009.
2.2.2. Hợp tác tiểu vùng sông Mekong:
Đến Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) đã xác định Việt Nam “ làm bạn với tất cả
các nước” và “ đa dạng hóa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại” với mọi nước và mọi
tổ chức kinh tế [6]. Kể từ đó, Việt Nam nhanh chóng mở rộng quan hệ ngoại giao, dẫn tới
việc trở thành thành viên của năm cơ chế hợp tác Lưu vực Sông Mekong, mà quan trọng
nhất là Tiểu vùng Mekong Mở rộng (GMS) và Ủy ban sông Mekong.
Năm 1992, Tiểu vùng Mekong mở rộng được thành lập dưới sự hướng dẫn của Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB). Mục đích là nhằm cải thiện hợp tác kinh tế khu vực, bao
gồm toàn bộ các nước dọc sông Mekong.
Một trong những chiến lược quan trọng của tiểu vùng Mekong là việc phát triển
hành lang kinh tế, từ đó sẽ gia tăng các lợi ích, cải thiện kết nối giao thông tới các khu
vực còn hẻo lánh và mở ra cơ hội đầu tư, tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa các thành viên trong khu vực.
2.1.2.1. Triển khai:
Sáng 21/7/2004, tại thành phố Xiêm Riệp (Campuchia), Hội nghị lần thứ ba Thủ
tướng ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia nhằm tìm các biện pháp và phương cách đẩy
mạnh hơn nữa sự hợp tác trong việc thực hiện Tam giác phát triển CLV. Trong đó chương
trình hợp tác lưu vực sông Mekong đẩy mạnh hợp tác kinh tế ở Tiểu vùng Mekong mở
rộng (GMS).
Ngày 16/12/2011, Diễn đàn hợp tác đầu tư tiểu vùng Mekong 2011 tại Khu nghỉ
dưỡng cao cấp Silver Creek City (TP Hồ Chí Minh) “Thúc đẩy đầu tư vào Hành lang
kinh tế phía Nam và Tam giác phát triển Việt Nam – Lào – CPC”.[6]
Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá việc thực hiện các dự án phát triển vùng tam
giác giữa ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia, từ nguồn tài trợ của Chính phủ Nhật
Bản. Đại diện ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã tập trung thảo luận về việc tăng
Trang 9

- -
[6] />Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
cường hợp tác phát triển vùng tam giác giữa ba nước, tại một hội nghị đang diễn ra tại thủ
đô Viêng Chăn, Lào vào ngày 12/08/2009.
Ngày 23/10/2011, tại Trụ sở Bộ Kế hoạch và Đầu tư số 6B Hoàng Diệu, Hà Nội, Hội
Phát triển Hợp tác Kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia đã tổ chức lễ ra mắt Thời báo Mê
Kông - tờ báo thông tin các vấn đề chính trị-kinh tế-văn hóa-xã hội khu vực Tiểu vùng
sông Mekong và Đông Nam Á.[8]
2.1.2.2. Nội dung hợp tác tiểu vùng Mekong:
 Để thúc đẩy hợp tác tiểu vùng Mekong: Hợp tác tiểu vùng là một mô hình hợp
tác kinh tế tiểu khu vực theo yêu cầu phát triển hài hòa và bền vững về kinh tế - xã hội
dựa trên đặc thù của các nước có chung lợi ích tương hỗ về tài nguyên nước và biên giới.
Để giữ gìn môi trường sinh thái và nguồn nước Mekong, đồng thời thúc đẩy hơn nữa quá
trình hợp tác Tiểu vùng cần xây dựng cơ sở dữ liệu chung giữa các nước thành viên thuộc
Tiểu vùng. Xây dựng và duy trì hiệu quả cơ chế chung nhằm hỗ trợ các lợi ích và giải
quyết kịp thời các bất đồng trong nội bộ Tiểu vùng. Tiểu vùng Mekong cũng cần phải
tăng cường các quan hệ tham vấn và hợp tác với các tiểu vùng tương tự khác trên thế giới.
[9]
 Tăng cường kết nối phát triển khu vực miền Trung, Tây nguyên và Tiểu
vùng sông Mekong: Sự phát triển năng động của các nước ASEAN, trong đó có ba nước
Đông Dương cùng với sự liên kết giữa các khu vực của Tiểu vùng sông Mekong với vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung có vai trò chiến lược hết sức to lớn. Nó đặt ra các mối liên
kết và làm tiền đề để thúc đẩy Tây Nguyên phát triển trong đó có khu vực Tam giác phát
triển CLV, hội nhập với khu vực duyên hải miền Trung và Tiểu vùng sông Mekong…[10]
2.2.3. Hành lang kinh tế Đông Tây:
Sự ra đời của hành lang kinh tế Đông-Tây tạo điều kiện cho các nước trong khu vực
tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS) gồm: Lào, Thái Lan, Myanma và Việt Nam tăng
cường hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế nhằm thúc đẩy giao lưu hợp tác được thuận lợi
hơn về mọi mặt.
Trang 10

- -
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
Thành phần chính của hành lang là tuyến đường dài 1.450 km nối Đà Nẵng ở biên
giới phía đông, Mawlamyine (Myanma) ở biên giới phía Tây, cắt ngang miền Trung Lào
và miền Bắc và Đông Bắc Thái Lan. Sau khi hoàn thành, hành lang giao thông này sẽ là
tuyến đường huyết mạch đi qua miền Trung du khu vực Đông Nam Á trên trục giao
thông Đông - Tây và nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương.
*** Nội dung hành lang kinh tế Đông – Tây:
 Về giao thông: tài chính đã được đảm bảo cho toàn hành lang giao thông,
ngoại trừ một phần ở Myanma. Hoàn thành nhiều tuyến đường quan trọng nối liền mạch
giao thông giữa các nước, như tuyến đường cao tốc dài 140 km từ đường hầm Hải Vân
mới hoàn thành tại Đà Nẵng tới Cam Lộ ở tỉnh Quảng Trị, đường số 9 từ Savannakhet tới
Seno, phát triển cảng Savannakhet để cùng sử dụng và khai thác với Thái Lan, nâng cấp
sân bay Phú Bài (Huế, Việt Nam).
 Về năng lượng: dự án kết nối điện khu vực tiểu vùng sông Mekong sẽ cung
cấp điện cho các khu vực dọc hành lang. Tiến hành việc mở rộng điện khí hóa khu vực
nông thôn, các dự án dầu mỏ và khí ga từ cảng Chân Mây - Quốc lộ 1- Đường 9 tới Lào
và Thái Lan, nghiên cứu tính khả thi về đường dây truyền tải nối thị trấn biên giới Mae
Sot của Thái Lan tới Thaton ở Myanma.
 Về viễn thông: hiện đã có một dự án củng cố các dịch vụ viễn thông tại khu
vực hành lang nằm trên địa phận Myanma.
 Về du lịch: hiện đã có một nghiên cứu toàn diện về các khu vực du lịch dọc
hành lang như các điểm đến du lịch hấp dẫn. Nghiên cứu sẽ đi sâu vào tìm hiểu các dự án
cơ sở hạ tầng du lịch tiềm năng ở các địa phương dọc hành lang thuộc biên giới Lào và
Việt Nam.
 Về thông thương: 7 dự án phát triển hành lang hỗ trợ thực hiện kiểm định hải
quan một cửa tại các đường biên giới dọc hành lang, bao gồm thay đổi dữ liệu điện và
chuẩn hóa các tài liệu kinh doanh.
Trang 11
- -

Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
 Về nông nghiệp: đã có các dự án về cung cấp nguyên vật liệu thô từ Lào và
Myanma cung cấp cho việc chế biến ở Thái Lan và dự án chế biến thủy sản ở
Mawlamyine, Myanma.
 Về công nghiệp: việc hình thành các cụm công nghiệp và các khu công nghiệp
đặc biệt đã được đề xuất để phát triển đầu tư tư nhân ở hành lang, cụ thể là ở Myawaddy
(Myanma), Mae Sot và Mukdahan (Thái Lan), Savan-Seno và Dansavanh (Lào), Lao
Bảo, Liên Chiểu và Hòa Khánh, Phú Bài (Việt Nam).
2.2.4. Quan hệ Việt Nam – Lào – Campuchia trong tổ chức ASEAN:
Việt Nam gia nhập ASEAN vào 28/7/1995, là nước đầu tiên trong ba nước Đông
Dương gia nhập tổ chức. Do đó, Việt Nam có một vai trò và trách nhiệm to lớn trong việc
trợ giúp hai nước Đông Dương còn lại là Lào và Campuchia gia nhập được vào tổ chức
khu vực lớn nhất Đông Nam Á này. Việt Nam không ngừng gia tăng những hoạt động
ủng hộ, giúp đỡ cho hai nước bạn trong tiến trình hội nhập khu vực, và kết quả Lào gia
nhập ASEAN năm 1997, Campuchia gia nhập ASEAN năm 1999.
Ba nước cùng với Thái Lan và Myanma tham gia vào hợp tác xuất khẩu lương thực
chủ yếu là gạo trong tổ chức ASEAN.
Việt Nam - Lào - Campuchia đã thống nhất tiến hành một chủ trương mới trong
ngành du lịch: 3 quốc gia 1 điểm đến nhân cơ hội Hiệp định bầu trời mở giữa các nước
ASEAN có hiệu lực. Việt Nam đang chuẩn bị đầu tư xây dựng tuyến đường du lịch “một
ngày ăn cơm ba nước” Việt Nam - Lào - Campuchia. Để kết nối với các nước trong khu
vực nhằm khai thác du lịch, Việt Nam sẽ phải nỗ lực phối hợp với các nước trong
ASEAN. Do vậy cần có những giải pháp liên kết và tìm được tiếng nói chung giữa các
bên tham gia. Việt Nam hoan nghênh các ý tưởng của Lào và Campuchia. Với sự liên kết
này, khách du lịch có thể đi lại giữa ba nước bằng đường không, đường bộ và đường
sông.
Ba nước cùng tham gia các hoạt động xúc tiến phát triển của ASEAN, trong đó có
hoạt động phối hợp chặt chẽ giữa ASEAN CCI (Chủ tịch Liên đoàn các Phòng Thương
mại và Công nghiệp ASEAN ) và ASEAN xây dựng chương trình “hành lang xanh” nhằm
Trang 12

- -
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
đẩy mạnh lưu thông hàng hoá trong khu vực. Việt Nam – Lào – Campuchia cùng giúp đỡ
lẫn nhau để học hỏi kinh nghiệm cho đến khi đạt đủ điều kiện cần thiết có thể áp dụng
ngay mô hình này vào thực tiễn của cả ba nước.
III. Những cơ hội, thách thức, và biện pháp khắc phục:
3.1. Những cơ hội:
Mối quan hệ ngày càng được củng cố và xây dựng của ba nước: Việt Nam, Lào và
Campuchia tạo nên nền tảng vững chắc cho những hợp tác về mọi mặt .
Cùng tạo nên sức mạnh tổng hợp chống những thế lực chống phá cách mạng và
chế độ XHCN ở ba nước.
Ba nước sẽ hỗ trợ cho nhau để xây dựng thành công chế độ chính trị theo định
hướng XHCN.
Tạo nên những cơ hội giao lưu, hợp tác về an ninh, chính trị, quân sự, kinh tế, xã
hội và việc bắt tay hợp tác làm ăn buôn bán của nhân dân các nước.
Việc hợp tác này sẽ góp phần giải quyết những vấn đề khó khăn, tồn đọng ở những
nước có ít điều kiện phát triển hơn.
Khi ba nước hợp tác cùng nhau sẽ tận dụng tối đa được nguồn lực của cả ba nước,
tránh tình trạng bỏ phí nguồn lực hay sử dụng nguồn lực không hợp lý.
Việt Nam, Lào, Campuchia đều là ba nước gia nhập vào ASEAN khá trễ, do vậy
sự tin cậy và đánh giá của các nước trong khối về đóng góp và vị trí đối với ba nước còn
nhiều phiến diện và hạn chế. Vì vậy, nếu mối liên kết của ba nước đạt được những thành
công thì sẽ là bước tiến và bằng chứng để chứng minh cho các nước trong khu vực về nỗ
lực, vai trò, tiềm lực mà ba nước có được. Điều đó không chỉ làm thay đổi những định
kiến của các nước trong khối ASEAN mà còn có cả nước quốc gia khác trên thế giới.
Quan hệ chung phát triển đồng nghĩa với mỗi nước cũng phát triển, điều này mở ra
nhiều cơ hội hợp tác cùng phát triển với các nước khác trong khối ASEAN và các nước
khác, vị thế của mỗi nước trên trường quốc tế cũng sẽ được cải thiện, nâng lên một tầm
cao mới.
3.2. Những thách thức trong quan hệ Việt Nam – Lào và Campuchia:

Trang 13
- -
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
Hiện tại, cả ba nước đã dành được độc lập, đã có chính phủ nhà nước và chế độ
chính trị riêng, nhưng ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia vẫn chưa thoát khỏi sự tranh
giành của các nước lớn và các thế lực chống phá cách mạng muốn lật đổ chế độ XHCN.
Xuất phát điểm quá thấp, quá kém, không thể nào so sánh với các nước khác trên
thế giới. Nền kinh tế của ba nước nói chung còn non yếu, không có những tiềm lực kinh
tế để phát triển tốt được. Bên cạnh đó, những đòi hỏi về công nghệ, khoa học, kỹ thuật,
con người cũng đặt ba nước trong tình thế gặp nhiều thách thức trong quá trình phát triển.
Đối với vấn đề biên giới giữa các nước còn nhiều vấn đề nhạy cảm. Nạn buôn bán
ma túy, buôn người, buôn hàng lậu, hàng cấm…vẫn diễn ra hằng ngày nơi biên giới.
Vấn đề người dân nước này sống ở nước kia cũng là một phần quan trọng trong
quan hệ giữa ba nước, tình hình vẫn còn những vấn đề bất cập, chẳng hạn có những
trường hợp người Việt vượt biên qua Campuchia đánh bạc trái phép, làm ăn trái phép…
Trong quan hệ song phương giữa Việt Nam và Campuchia còn vấn đề về biên giới
chưa được phân định rạch ròi do những lý do khách quan và chủ quan. Vấn đề này có thể
là một cái cớ để cho những phần tử xấu lợi dụng làm ảnh hưởng đến tình hữu nghị giữa
hai nước.
Với riêng Việt Nam – được xem là đàn anh lớn hơn Lào và Campuchia nên đặt ra
cho Việt Nam một trách nhiệm lớn hơn, nặng nề hơn trong mối quan hệ này, Việt Nam
cần phải cố gắng thật nhiều để giúp đỡ cho hai nước bạn cùng tồn tại và phát triển.
Việt Nam, Lào và Campuchia đối mặt với những vấn đề toàn cầu: y tế, giáo dục,
môi trường, sự nóng lên toàn cầu, khủng hoảng kinh tế, khủng bố…
3.3. Những biện pháp khắc phục:
Chính phủ, các nhà lãnh đạo cấp cao của 3 nước nên tiếp tục xúc tiến nhiều hơn
nữa những Hội nghị, cuộc họp cấp cao hay những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc của người dân
các nước để có thể thấu hiểu nhau hơn, tin tưởng nhau hơn và đề xuất những sáng kiến
hay, tốt cho sự phát triển chung của 3 nước.
Đề cao cảnh giác với những thế lực thù địch chống phá bên ngoài, luôn tin tưởng

và giúp đỡ lẫn nhau cùng bảo vệ nền độc lập tư chủ của mỗi quốc gia.
Trang 14
- -
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
Mỗi quốc gia cần nhận thức rõ hơn nữa về trách nhiệm, lợi ích của mình và của các
nước còn lại trong mối quan hệ đa phương giữa 3 nước cũng như mối quan hệ song
phương với những nước còn lại, để từ đó có những chính sách, phương thức hành động
hợp lý.
Mỗi quốc gia cần có những chính sách để quản lý chặt chẽ hơn nữa về vùng biên
giới, về những tệ nạn xảy ra ở những nơi giáp ranh với nước bạn, về vấn đề người nước
mình sống trên nước bạn và người nước bạn sống trên nước mình.
Có thể hy sinh lợi ích của quốc gia (trong phạm vi, mức độ cho phép) vì lợi ích
chung, mục tiêu chung của 3 nước.
Nhân dân các nước nên có những cách nhìn nhận đúng về mối quan hệ 3 nước này,
để có những cách hành động đúng đắn, không làm phương hại đến tình hòa hiếu anh em
của Việt Nam - Lào – Campuchia.
KẾT LUẬN
Quan hệ giữa ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia là mối quan hệ đa phương
được thiết lập từ lâu và ngày càng được củng cố và phát triển hơn.
Trang 15
- -
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
Trong giai đoạn từ sau năm 1991 đến nay, mối quan hệ này đã đạt được những
thành tựu đáng ghi nhận, từng bước đưa mối quan hệ lên những bậc cao hơn, lên những
tầm cao mới trong quan hệ đối ngoại của mỗi nước. Và sẽ là những dấu mốc quan trọng
cho những bước tiến xa hơn trong tương lai trong vấn đề quan hệ ngoại giao ba nước.
Với riêng Việt Nam, Việt Nam luôn coi Lào và Campuchia là những đối tác chiến
lược quan trọng nhất, là những đối tác thuộc vòng 1 trong 3 vòng đối ngoại trong chính
sách đối ngoại phòng ngừa của nước ta. Đó là những đối tác, đồng minh, đồng chí thân
cận, đã cùng kề vai sát cánh cùng Việt Nam trong những năm tháng chiến đấu gian khổ

và vô cùng ác liệt để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc, ấm êm, hạnh phúc, dân chủ cho
nhân dân. Và mối quan hệ ngoại giao ấy vẫn luôn là mối quan tâm của chính phủ, Đàng,
nhân dân các nước.
Thông qua quan hệ ngoại giao với Lào và Campuchia, Việt Nam một lần nữa
muốn khẳng định với toàn thể các quốc gia trên thế giới rằng: “Việt Nam sẵn sàng là bạn,
là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển’’[7]. Việt Nam luôn xác định cho mình những đường lối chính sách đối ngoại
đúng đắn để từng bước gắn kết mối quan hệ ngoại giao hòa hiếu, bình đẳng với các quốc
gia, và Việt Nam sẽ nỗ lực hết mình, hoàn thành vai trò, sứ mệnh của một quốc gia yêu
chuộng hòa bình, vì sự nghiệp phát triển chung của khu vực và thế giới, từng bước thay
đổi và xác lập vị thế của mình trên trường quốc tế.
Trang 16
- -
[7] Văn kiện Đại hội IX của Đảng (4/2001).
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS. Nguyễn Vũ Tùng (chủ biên) (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam, Học viện
Quan hệ quốc tế, Hà Nội.
TS. Vũ Dương Huân (chủ biên) (2002), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp
đổi mới (1975- 2002), Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội.
Các trang web hỗ trợ:



 /> /> />
Trang 17
- -
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN

























Trang 18
- -
Tiểu luận: Chính sách đối ngoại của Việt Nam – Lào và Campuchia sau những năm 1991
MỤC LỤC
Trang
Trang 19
- -

×