Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tiểu luận Sự giúp đỡ của liên xô và trung quốc với cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.51 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi vẻ vang,
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Đây là nhà nước công nông đầu tiên
trong hệ thống các nước thuộc địa. Lẽ ra nhân dân Việt Nam đã có hòa bình
để tập trung sức xây dựng đất nước theo con đường mà mình đã chọn. Vậy
mà nguyện vọng chân chính và bức thiết ấy của nhân dân Việt Nam đã không
được thực hiện. Bởi dã tâm cướp nước của thực dân Pháp rồi đến âm mưu
biến Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bên cạnh việc giữ
vững đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo, phát huy cao độ sức mạnh của toàn
dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương ra sức tăng cường đoàn kết quốc
tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè trên thế giới, mà trước hết là các
nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc, tạo nên
sức mạnh tổng hợp, đánhh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, giành độc lập
dân tộc, đem lại quyền tự do dân chủ cho người dân, tiến lên xây dựng
CNXH.
Bằng đường lối ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với thực tiễn
quan hệ quốc tế lúc đó, Đảng và Nhà nước ta đã tranh thủ được sự ủng hộ của
Trung Quốc, Liên Xô và các nước XHCN, đánh bại mưu đồ của đế quốc Mỹ
lợi dụng mâu thuẫn trong phe XHCN, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc,
nhằm cô lập Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Để góp phần vào việc tìm hiểu đường lối ngoại giao của nước ta và sự
giúp đỡ, ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam, em
xin chọn đề tài: “Sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc với cách mạng
Việt Nam”.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài


Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, các tổ chức nghiên cứu về hoạt động
ngoại giao của Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ… Đây là
vấn đề hết sức phức tạp và cũng là đề tài nóng bỏng cho nên đã có nhiều nhà
nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu và đưa ra nhận định sâu sắc về vấn đề
này. Do đó, em xin đề cập tới vấn đề ngoại giao dựa trên những nghiên cứu
trước đó và xin góp một phần nhỏ bé của mình nhằm làm rõ hơn, toàn diện
hơn vấn đề này.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu, trong đó phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp
tổng hợp… nhằm nghiên cứu rõ hơn sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc đối
với cách mạng Việt Nam.
4. Kết cấu tiểu luận
Gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.

2


NỘI DUNG
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ (1954-1975)

1. Tình hình quốc tế (1954-1975)
Từ giữa năm 1953, tình hình thế giới xuất hiện một số nhân tố mới tác
động đến chiều hướng phát triển của chiến tranh ở Đông Dương. Cuộc chiến
tranh lạnh vào thời kỳ quyết liệt giữa Liên Xô và Mỹ.
Cuộc đàm phán về chiến tranh Triều Tiên bắt đầu 8/1951 đến 7/1953.
Với cuộc đình chiến tại các bán đảo Triều Tiên và Đông Dương, những điểm
nóng ở Châu Á có liên quan tới xung đột giữa các nước lớn và hai phong trào
kịp thời được giải quyết. Tháng 5/1955 Hội nghị 64 Đảng Cộng sản và công
nhân trên thế giới họp lần I tại Matxcơva tổng kết các quy luật của CNXH, ra

tuyên bố kêu gọi nhân dân thế giới đấu tranh chống nguy cơ chiến tranh.
Tháng 1/960 Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân tổng kết bước quan
trọng trong phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế. Chiến thắng Điện
Biên Phủ và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp của Việt
Nam cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ. Năm 1960 gọi
là “năm châu Phi”. Hàng loạt các nước ở châu Á, châu Phi, khu vực Trung
Cận Đông giành độc lập và đến cuối những năm 1960, hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa thực dân cũ bị sụp đổ.
Đây là một thắng lợi vĩ đại của các dân tộc bị áp bức bóc lột, chấm dứt
chế độ thực dân 500 năm, tác động to lớn và tích cực đến cục diện chính trị
thế giới. Phong trào công nhân chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân, bảo vệ
hòa bình thế giới phát triển mạnh và đều khắp chưa từng có. Sự lớn mạnh của
các lực lượng cách mạng và hòa bình làm thay đổi tương quan lực lượng có
lợi cho hòa bình độc lập dân tộc và CNXH.
Đầu năm 1960, tình hình quốc tế có những phát triển quan trọng. Kinh tế
của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu phát triển với tốc độ cao. Mâu thuẫn
Liên Xô - Trung Quốc bộc lộ công khai và càng ngày càng gay gắt, gây nên
3


tình trạng phân liệt trong phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế. Lúc này,
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ, đánh đổ
chủ nghĩa thực dân cũ và đang tấn công mạnh mẽ và chủ nghĩa thực dân mới.
2. Tình hình Việt Nam (1954-1975) và những yêu cầu đặt ra
Kháng chiến chống Pháp giành thắng lợi, miền Bắc nước ta hoàn toàn
giải phóng, bước đầu xây dựng theo chiều hướng CNXH làm căn cứ địa vững
chắc cho cách mạng cả nước. Đảng ta có kinh nghiệm lãnh đạo khởi nghĩa vũ
trang và chiến tranh cách mạng, có lãnh tụ tối cao anh minh là chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại. Nhân dân từ Nam chí Bắc đều đã được rèn luyện trong đấu
tranh cách mạng và khói lửa chiến tranh.

Sau khi đánh thắng được thực dân Pháp, với chiến thắng Điện Biên Phủ
oanh liệt, dân tộc Việt Nam càng được sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của
nhiều dân tộc trên thế giới. Song ta cũng gặp nhiều khó khăn mới trong việc
ổn định và củng cố miền Bắc, vấp phải nhiều trở ngại và quá trình chuyển thế
đấu tranh của cách mạng miền Nam với tình hình so sánh lực lượng mới ở
đây bất lợi cho ta, cách mạng nhân dân miền Nam bị địch đàn áp và khủng bố
tàn khốc. Lúc này, về mặt quốc tế, bên cạnh thuận lợi cơ bản là dựa được vào
thế tiến công mạnh mẽ của ba dòng thác cách mạng đang cuồn cuộn dâng cao,
ta tranh thủ được sự ủng hộ ngày càng rộng lớn của nhân dân thế giới dễ dàng
tăng cường thế và lực của mình, sự bất đồng giữa các nước XHCN, giữa các
đảng anh em và khuynh hướng thỏa hiệp với đế quốc Mỹ xuất hiện ngay
trong phe CNXH tạo nên yếu tố tiêu cực mà đế quốc Mỹ ra sức lợi dụng để
leo thang chiến tranh và đeo đuổi ý đồ xâm lược.
Hơn thế, nước ta là một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển, so sánh về
nhiều phương diện đều có sự chênh lệch giữa ta và địch.
Trước tình hình đất nước đang gặp nhiều khó khăn, mặc dù trên thế
giới hệ thống XHCN, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước Tư bản đã có những bước
4


phát triển mới làm thay đổi lực lượng so sánh có lợi cho sự nghiệp cách mạng
và hòa bình. Tuy nhiên, trên bình diện quốc tế, nhân dân ta phải đương đầu
với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng phát sinh từ sự bất hòa sâu
sắc trong phong trào cộng sản quốc tế, giữa các đảng và các nước XHCN anh
em, nhất là Liên Xô - Trung Quốc. Đế quốc Mỹ đã ra sức lợi dụng và khai
thác tình hình đó để mở rộng chiến tranh, đồng thời tìm mọi cách cô lập và đè
bẹp cuộc kháng chiến nước ta.
Trong bối cảnh quốc tế, Đảng vạch ra đường lối kháng chiến và chính
sách đối ngoại đúng đắn, sáng tạo, đồng thời nhờ kinh nghiệm trong hoạt

động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao, ta đã phát huy các nhân tố, thuận lợi,
hạn chế những khó khăn, phức tạp, biến yếu tố quốc tế, yếu tố thời đại thành
sức mạnh hiện thực để tăng cường thực lực của nhân dân ta trong cách mạng
và kháng chiến.
Đảng ta luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới. Vì vậy thực hiện đoàn kết quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa Mác
-Lênin và chủ nghĩa quốc tế chân chính là một vấn đề nguyên tắc có quan hệ
tới sự sống còn của cách mạng và sự thành bại của công cuộc cứu nước.
Đảng ta đã vạch ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, kết hợp
chặt chẽ với đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị,
học tập kinh nghiệm của các nước anh em. Từ đó, phát huy và sáng tạo trong
hoàn cảnh đất nước mình.
Đảng ta chủ trương trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải thực hiện sự
đoàn kết liên minh với các lực lượng cách mạng của thời đại. Phải chăm lo,
vun đắp sự phát triển đoàn kết giữa nước ta với các nước trong cùng hệ thống
XHCN, trước hết là Liên Xô, Trung Quốc, lấy đó là cơ sở, hạt nhân để mở
rộng đoàn kết với tất cả những người Cộng sản, những lực lượng cách mạng,
dân chủ, hòa bình và tiến bộ trên thế giới. Đảng ta cố gắng hết mình góp phần
hàn gắn những mối bất hòa nhằm giữ gìn quan hệ đoàn kết giữa các đảng và
các nước anh em với hy vọng có thể hạn chế tác động tiêu cực của tình hình
5


đó đối với sự nghiệp cách mạng của chúng ta cũng như sự nghiệp chung của
nhân dân cả nước.
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ VÀ SỰ GIÚP ĐỠ
CỦA LIÊN XÔ, TRUNG QUỐC VÀ CÁC NƯỚC XHCN ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP
CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1954 - 1975

1. Quan điểm của Đảng ta về đoàn kết quốc tế

Quan điểm đoàn kết quốc tế của Đảng ta đã xác định ngay từ khi Đảng
ra đời thể hiện thông qua Cương lĩnh chính trị tháng 1/1930, ngay từ Cương
lĩnh Đảng ta khẳng định “Đảng liên kết với quần chúng vô sản Pháp” cho ta
thấy đoàn kết quốc tế là yếu tố hết sức quan trọng, đặc biệt là đối với các dân
tộc bị áp bức trên thế giới cùng đoàn kết chống lại các thế lực phi nghĩa.
Đến Luận cương chính trị (10/1930) Đảng cũng đã đưa đoàn kết quốc tế.
Một trong những nội dung hết sức quan trọng trong đường lối của Đảng để thực
hiện đoàn kết quốc tế để tạo nên một mặt trận cách mạng thế giới nhằm chống
lại kẻ thù chung của giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa là chủ nghĩa đế
quốc: “Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới, nhất là
vô sản Pháp, để làm mặt trận vô sản “mẫu quốc” và thuộc địa cho sức tranh
đấu cách mạng được mạnh lên. Và trong công tác Đảng Cộng sản Đông Dương
phải liên lạc mật thiết với Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc và Ấn Độ”.
Quan điểm đoàn kết quốc tế còn được Đảng khẳng định trong rất nhiều
văn kiện của Đảng, trong đó đặc biệt là Nghị quyết Trung ương lần thứ 15
(1/1959) về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, thực
hiện thống nhất nước nhà. Trong Nghị Quyết Trung ương lần thứ 15 đã xác
định đặc điểm tình hình Việt Nam từ khi hòa bình lập lại, vạch ra nhiều nhiệm
vụ cụ thể cho hai miền Nam Bắc. Mặt khác, hội nghị khẳng định cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và khẳng định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam quan hệ trực tiếp đến phe XHCN, làm cho phe XHCN
càng lớn mạnh và sự hùng mạnh của phe XHCN ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển cách mạng Việt Nam. Chủ trương của Đảng ta giữ vững hòa bình ở
Việt Nam, thực hiện thống nhất nước nhà bằng con đường hòa bình, chủ trương

6


ấy gắn liền với chủ trương nói chung của phe CNXH. Chúng ta phải nắm vững
chủ trương ấy, đồng thời phải tiếp tục củng cố và tăng cường sự đoàn kết nhất

trí không gì lay chuyển nổi giữa nước ta và các nước trong phe XHCN. Đó là
nghĩa vụ quốc tế của Đảng ta và nhân dân ta cũng là bảo đảm chắc chắn cho
việc hoàn thành nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trong Nghị quyết 15 đã khẳng định: Thắng lợi của cách mạng Việt Nam
có tác dụng cổ vũ các phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi và
Mỹ La Tinh, thúc đẩy quá trình tan rã của chủ nghĩa thực dân trên thế giới.
Ngược lại mọi thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào hòa
bình, dân chủ thế giới sẽ làm suy yếu thế lực của chủ nghĩa đế quốc và có lợi
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Vì vậy chúng ta cần tăng cường và
mở rộng quan hệ hữu nghị trên cơ sở năm nguyên tắc chung sống hòa bình với
các nước Á - Phi, trước hết là với các nước láng giềng, tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ của nhân dân thế giới và các cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước
nhà.
2. Sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN đối với
sự nghiệp cách mạng Việt Nam 1954 - 1975
Trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bên cạnh việc giữ
vững đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo và phát huy cao độ sức mạnh của
toàn dân tộc. Đảng và nhà nước ta chủ trương ra sức tăng cường đoàn kết
quốc tế và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè trên thế giới mà
trước hết là các nước XHCN, đặc biệt là Liên Xô và trung Quốc, tạo nên sức
mạnh tổng hợp, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.
Sau chiến tranh Thế giới thứ II, hệ thống các nước XHCN ra đời và
nhanh chóng phát triển. Thực hiện chính sách ủng hộ phong trào giải phóng dân
tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, Liên Xô và Trung Quốc đã giành được tín nhiệm
ngày càng lớn đối với nhân dân thế giới. Nhưng từ giữa những năm 1950 của thế
kỷ 20, trong phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, cũng như trong nội bộ
các nước XHCN nảy sinh bất đồng về đường lối, quan điểm và lợi ích, đặc biệt

7



là giữa Liên Xô và Trung Quốc. Từ năm 1960, quan hệ Liên Xô và Trung Quốc
xấu đi nghiêm trọng. Đỉnh cao của sự bất đồng là xung đột biên giới diễn ra
nhiều lần trong năm 1969. Quan hệ giữa hai nước thù địch rõ rệt.
Về phía Mỹ, lợi dụng tình hình này, nhanh chóng nắm bắt cơ hội, tiến
hành các thủ đoạn ngoại giao nhằm chia rẽ, khoét sâu mâu thuẫn, nhằm giảm
sự đồng tình ủng hộ về vật chất và tinh thần của hai nước XHCN lớn là Liên
Xô và Trung Quốc cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Bằng chính
sách ngoại giao tay ba, Mỹ muốn thông qua Trung Quốc và Liên Xô ép Việt
Nam phải giảm bớt những nỗ lực quân sự trên chiến trường, chấp nhận những
điều kiện do phía Mỹ đưa ra. Một số nhà nghiên cứu Mỹ cho rằng, giới lãnh
đạo Mỹ đã tính toán và cân nhắc phạm vi rộng lớn của những lợi ích chung của
Mỹ - Xô ở những nơi khác nhau trên thế giới kể cả việc kiềm chế những chính
sách của Trung Quốc, sẽ làm cho Liên Xô sẵn sàng đáp ứng những “sáng kiến”
của Mỹ. Đồng thời, phía Mỹ cũng nhận thấy Trung Quốc cần sự giúp đỡ của
Mỹ để phản ánh thế cô lập của họ. Đưa ra và thực hiện những thủ đoạn ngoại
giao nhằm vào Liên Xô và Trung Quốc, Oasinhton tin rằng đây là biện pháp
hữu hiệu, tạo nên sức ép có lợi cho Mỹ trong chiến tranh ở Việt Nam.
Trước tình hình đó, Đảng ta và nhà nước Việt Nam đã đưa ra những
chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao phù hợp và hiệu quả để tranh
thủ sự ủng hộ, đồng tình của Liên Xô và Trung Quốc.
a. Giai đoạn 1954-1965
Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng và nhà
nước ta đã chủ trương hạn chế những khó khăn và phức tạp, phát huy những
thuận lợi của quốc tế và thời đại thành sức mạnh hiện thực để tăng cường thực
lực cho kháng chiến. Trong chiến lược chung đó, Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã xác định Liên Xô, Trung Quốc là chỗ dựa vững chắc cho công cuộc
xây dựng đất nước và đấu tranh giải phóng miền Nam Việt Nam và đề ra
những nhiệm vụ quan trọng là tranh thủ tối đa sự ủng hộ của Liên Xô và
Trung Quốc trên mọi phương diện vật chất và tinh thần, chính trị… Và như

8


vậy, những bất đồng, căng thẳng trong quan hệ Liên Xô - Trung Quốc sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới các cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
Việt Nam. Lúc này, một đường lối đối ngoại phù hợp, thể hiện sự tinh tế và
khéo léo là hết sức cần thiết. Đường lối đó phải thỏa mãn các yêu cầu: tăng
cường sự đoàn kết trong phe CNXH trên tinh thần quốc tế vô sản, có lý và có
tình, góp phần tích cực hàn gắn những bất đồng, rạn nứt đang gia tăng trong
quan hệ Xô - Trung, làm thất bại mưu đồ lợi dụng của Mỹ; đảm bảo được
quan hệ cân bằng giữa Việt Nam - Liên Xô và Việt Nam - Trung Quốc; giữ
vững đường lối đối ngoại độc lập dân tộc và tự chủ của mình. Để thắng Mỹ,
Việt Nam cần ủng hộ trên mọi phương diện của Liên Xô - trụ cột của phe
CNXH, đồng thời không thể thiếu sự giúp đỡ của các nước láng giềng lớn
Trung Quốc anh em, trong khi mối quan hệ này lại thường xuyên chịu sự chi
phối âm mưu của Mỹ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta không xem nhẹ tính chất
khó khăn và phức tạp của tình hình, liên tục có những chủ trương, biện pháp
kịp thời thể hiện sự phân tích sắc sảo, khéo léo, nhanh nhạy để hóa giải những
nguy cơ, làm giảm thiểu tác hại của sự bất đồng giữa Liên Xô - Trung Quốc
và sự lợi dụng của Mỹ.
Trong điều kiện vừa tiến hành xây dựng CNXH ở miền Bắc, vừa tiến
hành đấu tranh giải phóng miền Nam, đặc biệt là phải trực tiếp đọ sức với tên
đầu sỏ là Mỹ, hơn lúc nào hết, đường lối đoàn kết tập hợp lực lượng, tranh thủ sự
ủng hộ, đồng tình giúp đỡ của cộng đồng quốc tế càng phải được chú trọng, có ý
nghĩa quyết định đến thắng lợi của cách mạng nước ta. Tiếp tục tăng cường và
củng cố tình đoàn kết hữu nghị, tranh thủ sự giúp đỡ và hợp tác chặt chẽ với
Liên Xô và Trung Quốc là vấn đề trọng tâm, then chốt trong đường lối chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, việc thực hiện đường lối đó
diễn ra trong bối cảnh không mấy thuận lợi, sự bất đồng ngày càng gay gắt giữa

Liên Xô - Trung Quốc và sự phân biệt các bè phái trong phong trào Cộng sản và
công nhân quốc tế. Mâu thuẫn này lập tức được Mỹ lợi dụng triệt để nhằm
9


chống phá cách mạng miền Nam Việt Nam, leo thang, mở rộng chiến tranh xâm
lược trên phạm vi cả nước. Trước tình hình đó, Đảng và Hồ Chí Minh, một mặt
chủ trương kêu gọi nhân dân ta nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực cánh
sinh, mặt khác ra sức hoạt động nhằm góp phần ngăn ngừa sự chia rẽ và duy trì
tinh thần đoàn kết với công cuộc xây dựng và chiến đấu của nhân dân ta.
Bất đồng giữa Liên Xô - Trung Quốc bộc lộ công khai từ 1960 và ngày
càng trầm trọng, Đảng và Nhà nước ta tăng cường đẩy mạnh các hoạt động trên
mặt trận đối ngoại hướng trực tiếp vào mục tiêu củng cố, phát triển tình hữu nghị
hợp tác Liên Xô - Trung Quốc. Năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm
không chính thức Liên Xô và Trung Quốc với mục đích tích cực đóng góp cho
tình đoàn kết hữu nghị giữa Liên Xô - Trung Quốc. Qua cuộc viếng thăm này,
Hồ Chí Minh đã gợi ý tổ chức họp các Đảng Cộng sản và công nhân thế giới.
Vào mùa thu 1960, Hội nghị 81 đảng Cộng sản và công nhân quốc tế đã họp ở
Matxcơva. Đoàn đại biểu của Đảng Lao động Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí
Minh dẫn đầu dự họp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tích cực và chủ động ký vào
bản tuyên bố chung nhằm góp phần quan trọng vào thành công của Hội nghị.
Cùng với những hoạt động trực tiếp gặp gỡ, thuyết phục Liên Xô, Trung
Quốc tiến hành đàm phán, thương lượng kêu gọi các đảng anh em chấm dứt
công kích lẫn nhau và đề nghị triệu tập hội nghị các đảng để giải quyết bất
đồng. Nhưng khi thấy việc hội họp quốc tế bị lợi dụng thành diễn đàn tập hợp
lực lượng theo ý đồ của các bên tranh chấp gây chia rẽ thêm phong trào cộng
sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khước từ tham gia, tránh đào sâu thêm hố ngăn
cách và làm phương hại đến phong trào cách mạng vô sản quốc tế. Nhờ đó mà
ý đồ thành lập “quốc tế cộng sản mới” của Trung Quốc không thực hiện được.
Mặc dù vậy, lập trường của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan hệ Liên

Xô - Trung Quốc đã có lúc bị bạn bè quốc tế chê trách hiểu nhầm, thậm chí đã
có lúc ngay chính bản thân hai nước đã có phản ứng, gây sức ép hoặc phê phán
với những lời lẽ gay gắt. Người ta cho rằng Cụ Hồ đã rất khó khăn trong việc
cân bằng mối quan hệ ba nước Việt - Xô - Trung: “Cần phải có trái tim theo

10


Matxcơva và cái bụng theo Bắc Kinh là phù hợp hơn bao giờ hết”1, con mắt
của họ thật chẳng dễ dàng gì khi: “Tìm sự lựa chọn giữa một bên là lập trường
tư tưởng, một bên là thực tế về địa lý chính trị” 2. Tuy nhiên, sự thật về thái độ
của Đảng đối với mối quan hệ Việt – Xô- Trung là rất rõ ràng, đúng nguyên tắc
tự chủ, kiên định về đường lối không dễ lợi dụng, xúi bẩy, dễ cầu lợi.
Kiên trì, quan tâm đến đoàn kết giữa các đảng Cộng sản, 11/2/1963,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt
Nam và gửi đến Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô - Trung
Quốc lời kêu gọi hai đảng chấm dứt công kích lẫn nhau, ngồi vào đàm phán.
Lời kêu gọi của Đảng ta còn nhấn mạnh “Đối với sự đoàn kết của phong trào
Cộng sản quốc tế, thì sự đoàn kết giữa Đảng Cộng Sản và công nhân trong
phe CNXH là vô cùng quan trọng, mà sự đoàn kết giữa Liên Xô - Trung Quốc
là trụ cột để đoàn kết phe XHCN và phong trào công nhân quốc tế”3.
Bằng tất cả những hành động đúng đắn, đầy thiện chí và mang tính xây
dựng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan hệ Việt –Xô không những được
củng cố mà còn có sự thay đổi trong lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên-Xô, quan
hệ giữa hai đảng và hai nhà nước đã tiến hành lên cấp độ mới, biểu hiện rõ rệt nhất
là chuyến thăm Việt Nam và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng A. Côxưghin (3/1965).
Như vậy, nhờ có sự chỉ đạo kịp thời và trực tiếp của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, quan hệ Việt - Xô đã vượt qua một thời kỳ khó khăn và phức
tạp nhất, đây là những đóng góp tích cực từ hoạt động trực tiếp của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, không những ta vẫn giữ được ngọn cờ độc lập, tự chủ về đối

ngoại, mà còn tiếp tục duy trì được nguồn viện trợ to lớn của Liên Xô cho
công cuộc xây dựng CNXH trên miền Bắc.
Từ năm 1961-1965 theo các hiệp định kinh tế và thương mại được ký
kết giữa chính phủ ta và chính phủ Liên Xô (23/12/1960), Liên Xô tiếp tục
1

Triệu Quang Tiến: “Tìm hiểu chiến lược tranh thủ đồng minh của Hồ Chí Minh trong thời
kỳ vận động giải phóng độc lập”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5/1994, tr. 29, 30.
2
Triệu Quang Tiến, Sđd.
3
Vụ Liên Xô - Bộ Ngoại giao: Quan hệ Việt - Xô trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(7/1954 - 1975), bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh, tr. 20.

11


giúp Việt Nam xây dựng 37 xí nghiệp và các công trình làm cơ sở cho công
nghiệp. Đồng thời Liên Xô cho Việt Nam vay dài hạn 430 triệu rúp.
Nhờ có viện trợ to lớn và sự giúp đỡ của đông đảo chuyên gia Liên Xô
(tính cho đến cuối năm 1964), miền Bắc đã tiến hành cải tạo và xây dựng 90
xí nghiệp và công trình các loại trong đó có 43 công trình công nghiệp, đáng
kể nhất là một số nhà máy điện. Cùng với các hiệp định viện trợ kinh tế, trong
những năm 1961 -1965, Liên Xô viện trợ (không hoàn lại) cho Việt Nam hàng
chục ngàn tấn vũ khí, đạn dược, khí tài và phương tiện chiến tranh hiện đại
cũng như huấn luyện và đào tạo nhiều đơn vị, sĩ quan chỉ huy, sĩ quan kỹ
thuật cho quân đội nhân dân Việt Nam. Nhờ thế mà miền Bắc hoàn thành tốt
nhiệm vụ vừa xây dựng vừa chi viện đắc lực cho nhân dân miền Nam, từng
bước đánh lại “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Thời kỳ 1961-1965, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc cũng có nhiều vấn

đề phức tạp, chủ yếu bị ảnh hưởng bởi những nhân tố xuất phát từ mâu thuẫn
Trung - Xô, những nảy sinh đáng lo ngại trong quan hệ Trung - Mỹ và sự áp
đặt mang tư tưởng dân tộc Đại Hán trong quan hệ quốc tế của Trung Quốc.
Quan hệ điểm của Đảng ta trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt
Nam - Trung Quốc là xây dựng tinh thần đoàn kết, trước sau như một, vun
đắp thành mối quan hệ đặc biệt. Đối với vấn đề mâu thuẫn Trung - Xô nguyên
tắc của Đảng ta là cố gắng “dàn hòa”, đề nghị hai bên Đảng giải quyết bất
đồng thông qua đàm phán trực tiếp, không công kích nhau trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Những lá thư mà Đảng Lao động Việt Nam gửi Đảng
Cộng sản Liên Xô đồng thời gửi Đảng Cộng sản Trung Quốc, với mong muốn
hai đảng xóa bỏ bất đồng chính trị cùng nhau tiến tới. Tuy nhiên, với những lý
do khác nhau liên quan đến quyền lợi của mỗi nước, Liên Xô - Trung Quốc
vẫn cùng nhau đẩy tình hình này tới mức căng thẳng, dẫn đến xung đột (19611962) ở biên giới làm hơn 5000 người Trung Quốc thiệt mạng.
Có thể nói trên hình thức, Trung Quốc là nước ủng hộ Việt Nam mạnh
mẽ nhất trên cả hai phương diện: viện trợ và ủng hộ tinh thần. Lãnh đạo

12


Trung Quốc phát động phong trào “ủng hộ Việt Nam chống Mỹ”. Chính phủ
Trung Quốc ngày 9/6/1964 công khai đưa tuyên bố “rất mạnh” để phản đối đế
quốc Mỹ. “Chúng ta nói thẳng với Mỹ rằng, nhân dân Trung Quốc quyết
không khoanh tay ngồi nhìn Mỹ mở rộng xâm lược Việt Nam và Đông
Dương…” (Tuyên bố ngày 6/9/1964).
Tất cả các sự kiện xảy ra được Đảng ta phân tích và xử lý một cách tinh
tế và khéo léo. Đảng Lao động Việt Nam rất ủng hộ thái độ của Trung Quốc
đã nhiệt tình ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Phải nói rằng nhờ có sự chỉ đạo
trực tiếp của Đảng, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong thời gian trước khi
nổ ra chiến tranh phá hoại và chiến tranh cục bộ của Mỹ đã được duy trì ở
mức độ gắn bó mật thiết và hợp tác toàn diện.

Mặc dù không được Việt Nam đồng tình trong chiến dịch chống Liên
Xô, phong trào “trăm hoa đua nở”, không tham gia Hội nghị 17 Đảng Châu
Á…Trung Quốc vẫn thừa nhận tính đúng đắn về quan điểm, đường lối đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Sử dụng hợp lý phương châm sách lược,
mềm mỏng và khôn khéo trong ửng xử, sáng tạo trong hình thức ngoại giao,
dù không thuyết phục được Liên Xô ngồi vào đàm phán, nhưng có công lớn
xây dựng nên mối quan hệ hữu nghị Việt - Trung.
Từ thành công của công tác đối ngoại, ta đã nhanh chóng thu được sự ủng
hộ giúp đỡ to lớn và hiệu quả của Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, giáo dục, quốc phòng… góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách
mạng XHCN ở miền Bắc và chi viện cho miền Nam. Nhiều hiệp định kinh tế
thương mại trong đó có hiệp định ký ngày 31/1/1962, đồng ý cho Việt Nam vay
dài hạn số tiền là 141.750.000 USD xây dựng và mở rộng 28 xí nghiệp, công
trình giao thông… Ngoài ra, phải kể đến vũ khí, đạn dược, quân trang, quân
dụng, thiết bị quân sự. Một phần trong số vũ khí này đã được gửi vào chiến
trường miền Nam giúp quân và dân ta đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Có
thể nói rằng nhờ có sự hỗ trợ đắc lực các nguồn viện trợ to lớn và toàn diện của
Trung Quốc, Liên Xô và các nước XHCN anh em khác, kế hoạch phát triển 5

13


năm lần thứ nhất của Việt Nam đã căn bản hoàn thành. Trên cơ sở đó, miền Bắc
đã có sự chuẩn bị cả về mặt vật chất lẫn tinh thần trở thành hậu phương cách
mạng của cả nước, sẵn sàng đối phó với hành động chiến tranh leo thang của
Mỹ.
Nhìn vào diễn biến quan hệ Việt Nam - Liên Xô - Trung Quốc trong
những năm gần đầu thập kỷ 60, người ta thấy dù tình hình thế giới có nhiều
vấn đề phức tạp, mâu thuẫn Liên Xô - Trung Quốc ngày càng gay gắt, nhưng
Đảng đã kịp thời chỉ đạo, xử lý những vấn đề quốc tế một cách sáng tạo, hợp

lý. Thành công trong việc giải quyết mối quan hệ Việt - Trung - Xô chính là
tiền đề để tạo ra nguồn động lực vật chất, tinh thần vô cùng to lớn, thúc đẩy
sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Trong quan hệ với Liên Xô, Đảng luôn duy trì nguyên tắc đoàn kết và
đấu tranh để tăng cường đoàn kết với thái độ có lý, có tình, tích cực tranh thủ
sự chi viện của bạn bè anh em. Trong những giờ phút khó khăn thử thách
quan hệ Việt - Xô, Đảng vẫn tin tưởng vào quy luật phát triển tất yếu của lịch
sử, làm hết sức để củng cố quan hệ giữa hai dân tộc.
Trong quan hệ với Trung Quốc, Đảng sử dụng phương thức ngoại giao
giữa hai Đảng trên cơ sở kết bạn với các hoạt động ngoại giao nhà nước và
vận động nhân dân nước bạn ủng hộ Việt Nam. Phương thức đó phần nào thể
hiện được tình cảm gần gũi thân thiết để làm mềm lại các vấn đề căn bản giữa
hai bên, tất nhiên các nguyên tắc về mục tiêu, đường lối đối ngoại vẫn phải
luôn được giữ vững.
Nhờ tiếp tục được đường lối ngoại giao có trọng tâm và đúng hướng,
chúng ta luôn duy trì được mối quan hệ tốt đẹp với cả hai nước Xô - Trung,
tranh thủ được sự giúp đỡ ủng hộ toàn diện và nguồn viện trợ to lớn của các
nước anh em. Đây là điều kiện khách quan tiên quyết đưa đến thắng lợi trong
công cuộc xây dựng hậu phương miền Bắc và góp phần đánh bại “chiến tranh
đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam.
b. Giai đoạn 1965-1975
14


Đến 1965 chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở Việt Nam đã bị
phá sản. Trong lúc đó, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đang phát
triển mạnh, đánh đổ thực dân kiểu cũ và đang tấn công mạnh mẽ và chủ nghĩa
thực dân mới. Lợi ích chiến lược của Mỹ là hòa hoãn với Liên Xô, tập trung
sức đối phó với phong trào giải phóng dân tộc. Việt Nam là ngọn cờ đầu của
phong trào giải phóng dân tộc, là thách thức lớn nhất đối với các cam kết của

Mỹ đối với đồng minh. Chính quyền Mỹ cho rằng nếu Hoa Kỳ rút khỏi miền
Nam thì vị trí, uy tín của Hoa Kỳ ở Châu Á và trên thế giới sẽ suy yếu.
Tháng 2/1965, không quân và hải quân Mỹ đánh vào miền Bắc Việt
Nam, tại Quảng Bình, Vĩnh Linh, Nghệ An… mở đầu cuộc chiến tranh phá
hoại chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Hoa Kỳ tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam là đe dọa an ninh và
thách thức hệ thống XHCN, uy hiếp phong trào giải phóng dân tộc, đe dọa
hòa bình thế giới. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống Mỹ là đóng góp to
lớn cho hòa bình thế giới, cho độc lập dân tộc và an ninh của các nước
XHCN. Bởi vậy, cuộc đụng đầu giữa Việt Nam và Mỹ là tiêu điểm của mâu
thuẫn hai phe CNXH và CNTB, của cuộc đấu tranh giữa hòa bình và chiến
tranh, giữa cách mạng và phản cách mạng. Cuộc kháng chiến của Việt Nam
thành tuyến đầu của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam liên quan đến nhiều nước, nhiều dân tộc
trên thế giới. Đó là nguồn gốc sâu xa của sự đồng tình ủng hộ sâu rộng của
các nước và nhân dân trên thế giới đối với sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân
Việt Nam.
Trong tình hình ấy, ban chỉ đạo của Liên Xô điều chỉnh chính sách
nhằm ổn định nội bộ và khôi phục uy tín quốc tế của Đảng và nhà nước Xô
Viết. Giúp Việt Nam đánh Mỹ là củng cố và đề cao vai trò của Liên Xô trong
hệ thống XHCN, trong phong trào giải phóng dân tộc và thế giới thứ ba.
Chiến tranh Việt Nam làm cho Mỹ sa lầy, suy yếu có lợi cho việc Liên Xô
củng cố sức mạnh trật tự từ thế giới hai cực. Sau khi Khơrutxốp bị gạt ra khỏi
15


Ban lãnh đạo Liên Xô và Brêgiơnhép lên thay, Ban lãnh đạo mới của Liên Xô
đã mời đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước Việt Nam sang thăm Liên Xô, đoàn
do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Trong cuộc hội đàm và tiếp xúc, Ban
lãnh đạo mới đã khẳng định với đoàn Việt Nam là Liên Xô sẽ tích cực ủng hộ

nhân dân Việt Nam chống Mỹ, cứu nước.
Đầu năm 1965, Liên Xô cử đoàn đại biểu cấp cao của mình do Thủ
tướng Côxưghin dẫn đầu đoàn đại biểu đã sang thăm chính thức Việt Nam.
Trong cuộc gặp với Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn thể Bộ Chính trị, Ban chấp
hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Thủ tướng Côxưghin nói: “Từ
nay, Liên Xô hoàn toàn ủng hộ Việt Nam, ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ,
cứu nước của Việt Nam”.
Về Trung Quốc là một trong những nước mạnh mẽ lên tiếng phản đối
cuộc chiến tranh Việt Nam. Ngày 9/2/1965 Mỹ dùng không quân và pháo hạm
đánh phá dữ dội thị xã Đồng Hới và một số mục tiêu thuộc tỉnh Quảng Bình,
Vĩnh Linh và đảo Cồn Cỏ, thì 10/2/1965 nhân dân thủ đô Bắc Kinh đã tổ chức
cuộc mít tinh tại quảng trường Thiên An Môn với hơn 1 triệu người tham dự,
các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa:
Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai … cũng tham gia lên tiếng phản
đối tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ và tỏ rõ quyết tâm của họ trong cuộc
đấu tranh chính nghĩa ở Việt Nam. Ngày 22/07/1966 Trung Quốc đã tổ chức
một cuộc mít tinh lớn ở quảng trường Thiên An Môn để ủng hộ Việt Nam.
Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12
(21 - 27/1/1967) được tổ chức. Hội nghị đã đi đến quyết định: “Công tác ngoại
giao của ta lúc này chủ yếu là nhằm tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ mạnh mẽ
hơn của phe XHCN và của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước của nhân dân ta”1. Để hoàn thành nhiệm vụ chủ yếu đó, Đảng ta đưa ra
phương án: “Ra sức phấn đấu để mở rộng và tăng cường mặt trận nhân dân thế
giới chống đế quốc Mỹ xâm lược và ủng hộ các cuộc đấu tranh chính nghĩa của
1

Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ cứu nước, tập 2, Nxb Sự thật, H., 1986, tr. 32.

16



nhân dân Việt Nam”. Đảng cho rằng, việc mở rộng mặt trận nhân dân thế giới là
“vấn đề có tầm quan trọng rất lớn đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta, dân
tộc ta”. Do vậy, “đi đôi với đấu tranh quân sự ta phải đẩy mạnh đấu tranh
chính trị và đấu tranh ngoại giao góp phần củng cố sự đoàn kết của phe
CNXH , luôn giữ thế chủ động, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và hòa
bình.”1
Về đoàn kết Xô - Trung, phát biểu tại Hội nghị (27/`2/`965) Tổng Bí
thư Lê Duẩn nói rằng: “Cần tìm mọi cách đoàn kết với Liên Xô, Trung
Quốc… có một cách là: Đảng ta phải độc lập. Có độc lập thì mới có đoàn kết
được, nếu ngả về bên nào thì không thể đoàn kết được. Kinh nghiệm lịch sử
của Đảng ta khi nào độc lập thì thắng lợi”2.
Trong những năm cuộc chiến tranh ở Việt Nam diễn ra khốc liệt, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đi thăm Trung Quốc hai lần trong năm 1965, 1966. Việt
Nam đồng ý để Trung Quốc cử một đội quân sang làm đường ở vùng đất Việt
Nam gần biên giới với Trung Quốc. Tháng 2/1965, Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Liên Xô A.N. Côxưghin đã được Việt Nam đón tiếp trọng thể và thân
thiết. Việt Nam cử đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước do đồng chí Lê Duẩn, Bí
thư thứ nhất Trung ương Đảng, dẫn đầu đi thăm Liên Xô (4/1965), dự Đại hội
lần thứ XXIII Đảng Cộng sản Liên Xô (3/1966). Lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta
trao đổi và thông báo với lãnh đạo Liên Xô, Trung Quốc về các vấn đề lớn
qua các cuộc gặp gỡ cấp cao khá thường xuyên. Trong 7 năm (1965 - 1972)
đã có tới 51 cuộc gặp cấp cao Việt Nam - Liên Xô (từ cấp Ủy viên Bộ Chính
trị trở lên). Với Trung Quốc, số lần gặp gỡ cũng xấp xỉ 3.
Nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, đặt lợi ích dân tộc, lợi ích bảo đảm
thắng Mỹ lên hàng đầu, Việt Nam luôn tôn trọng riêng nói và vai trò của Liên
Xô, Trung Quốc trong các vấn đề có liên quan. Đảng, Nhà nước Việt Nam đề
ra sách lược mềm dẻo, sáng tạo, tránh phê phán trực tiếp ý định của Liên Xô
1
2

3

Sđd, tr. 34.
Biên bản Hội nghị BCH TƯ 12, Phòng BCH TƯ, ĐVBQ 63, Cục LTTƯ Đảng, tr. 61.
Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005, tr. 235.

17


muốn chúng ta tạm thời giảm chi viện cho miền Nam, xuống thang kỹ thuật
với Mỹ (một điều không thể có được khi đế quốc Mỹ đang mở rộng chiến
tranh và khi tương quan lực lượng ở chiến trường và trên thế giới chưa cho
phép thực hiện); thúc đẩy hòa hoãn với Mỹ (trong bối cảnh Mỹ leo thang và
sa lầy trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam), nhưng không phủ nhận hoàn toàn
lời khuyên của Liên Xô: “sớm tìm một giải pháp kết thúc chiến tranh thông
qua thương lượng”. Với Trung Quốc, khi cuộc “cách mạng văn hóa” diễn ra,
Việt Nam coi đó là công việc nội bộ của Trung Quốc và bày tỏ mong muốn
tình hình Trung Quốc sớm ổn định, không làm ảnh hưởng đến sự ủng hộ, chi
viện của Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta, không gây trở
ngại cho việc quá cảnh hàng viện trợ từ Liên Xô và các nước XHCN Đông
Âu cho Việt Nam. Đảng, Chính phủ Việt Nam trước sau như một, ủng hộ lập
trường của Đảng, Chính phủ nhân dân Trung Quốc trong vấn đề giải phóng
Đài Loan và một số vấn đề quốc tế khác. Việt Nam luôn coi trọng vai trò của
Trung Quốc trong quan hệ quốc tế, coi trọng truyền thống hữu nghị, lâu đời
giữa nhân dân hai nước và vai trò của Trung Quốc đối với sự nghiệp chống
Mỹ của nhân dân ba nước Đông Dương. Do vậy, chúng ta đã trao đổi, giải
thích với Trung Quốc về bước đi, sách lược của ta nhằm kiềm chế Mỹ và
ngày 17/11/1968, Chủ tịch Mao Trạch Đông khi tiếp đoàn đại biểu Chính phủ
Việt Nam thăm Trung Quốc đã nói rằng: Việt Nam đánh giỏi, đàm phán cũng
giỏi và khẳng định ủng hộ phương châm vừa đánh vừa đàm của Việt Nam 1.

Khi đặt mục tiêu giữ vững cân bằng trong quan hệ với Liên Xô và Trung
Quốc, tăng cường, củng cố tình đoàn kết quốc tế XHCN, Đảng, Nhà nước Việt
Nam trong những trường hợp cần thiết đã bày tỏ quan điểm của mình, đấu tranh
thẳng thắn trên tinh thần anh em nhằm mục tiêu khẳng định sự nhất trí, thu hẹp
bất đồng về những vấn đề mang tính nguyên tắc, quan hệ trực tiếp tới sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Từ 1971, trước thực tế Liên Xô và Trung
Quốc đang điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm phục vụ lợi ích chiến lược của
mỗi nước, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định đường lối độc lập tự chủ của
1

Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Sđd, tr. 227.

18


mình. Tuy vậy, trong những tuyên bố chính thức của Việt Nam lúc đó vẫn đề cao
quan hệ và sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc. Việt Nam yêu cầu Liên Xô,
Trung Quốc giữ vững lập trường ủng hộ Việt Nam trên phương diện chính trị,
ủng hộ tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ vì độc lập dân tộc và
hòa bình, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Lập trường trên đây của
Việt Nam đã có tác động nhất định tới hai nước này. Trong tuyên bố công khai
sau khi tiếp H. Kitxinggơ vào năm 1971, Trung Quốc nhấn mạnh, vấn đề Việt
Nam phải do chính người Việt Nam quyết định. Còn Liên Xô cũng thường
xuyên khẳng định tinh thần đoàn kết, ủng hộ Việt Nam.
Trong những năm 1965 - 1968, khi quan hệ Việt Nam - Liên Xô có
bước phát triển đáng kể, Liên Xô tăng số hàng viện trợ quân sự cho Việt Nam.
Mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967, khi cuộc chiến đấu của quân dân ta trên
cả hai miền Nam, Bắc diễn ra quyết liệt, chúng ta rất cần vũ khí, đạn dược,
Liên Xô đã đưa gấp sang Việt Nam “100 khẩu súng chống tăng, 500 súng cối
các loại, 400 dàn pháo phản lực và 45 chiếc máy bay chiến đấu” 1. Tính ra

“Liên Xô đã cung cấp 500 triệu rúp trang thiết bị cho lực lượng quân sự Bắc
Việt Nam (xấp xỉ 550,5 triệu USD)” 2. Trong những năm 1969 - 1972, mức
viện trợ quân sự của Liên Xô cho ta đạt 143.793 tấn. Chỉ riêng năm 1969, giá
trị trong viện trợ quân sự lên tới 1,1 tỉ rúp. Cùng với viện trợ quân sự, Liên
Xô còn tích cực đào tạo giúp Việt Nam đội ngũ cán bộ quân sự giỏi, có thể
vận hành được những vũ khí hiện đại do Liên Xô cung cấp. Riêng năm 1966,
có 2.600 sĩ quan Việt Nam được đào tạo tại Liên Xô. Đồng thời, nhiều chuyên
gia quân sự của Liên Xô cũng đã sang chiến trường Việt Nam trực tiếp giúp
bộ đội Việt Nam về mặt kỹ thuật. Từ năm 1969, do hoạt động quân sự trên
chiến trường miền Bắc của Việt Nam giảm, cho nên viện trợ của Liên Xô có
giảm hơn trước đó, nhưng cũng lên tới 500 triệu USD 3.
1

Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt - Trung, Nxb Đà Nẵng,
1996, tr. 73.
2
Gaiđuk.V.I: Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
1998, tr. 127.
3
Theo Hoàng Hải: “Quan hệ kinh tế Việt - Nga những năm cuối thế kỷ XX”, Hội thảo 50
năm quan hệ Việt Nga, 2000, tr. 40.

19


Cùng với Liên Xô và các nước XHCN khác, Trung Quốc cũng đã dành
cho nhân dân ta sự ủng hộ, viện trợ quý báu trên các lĩnh vực chính trị, quân sự,
kinh tế, văn hóa. Tính chung trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, tổng
khối lượng viện trợ quốc tế ước tính 2.368.682 tấn 1, trị giá 7 tỉ rúp, thì viện trợ
của Trung Quốc chiếm khoảng trên 50% tổng số viện trợ nói trên. Trên lĩnh vực

quân sự, Trung Quốc viện trợ cho ta chủ yếu là vũ khí bộ binh, quân trang, quân
dụng, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, một phần nhiên liệu, phương tiện
vận tải và một số xe quân sự, pháo và đạn pháo, mặc dù trong khoảng thời gian
trên, Trung Quốc còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, mức thu nhập bình quân
tính theo đầu người còn thấp. Ngoài việc giúp đỡ vật chất, vũ khí, phương tiện
chiến tranh cho nhân dân Việt Nam đánh Mỹ, Trung Quốc còn đảm nhiệm một
công việc rất quan trọng là vận chuyển quá cảnh số lượng hàng hóa, vũ khí, đạn
dược mà các nước khác viện trợ cho Việt Nam. Ngoài ra, theo thỏa thuận giữa ta
và bạn, một số đơn vị công binh và pháo binh của Trung Quốc đã sang giúp Việt
Nam nâng cấp, sửa chữa mở rộng thêm và bảo vệ các tuyến đường giao thông
trên bộ thuộc các tỉnh biên giới giáp Trung Quốc.
Đây rõ ràng là một trong những điều kiện đảm bảo cho quân dân ta đẩy
mạnh các hoạt động quân sự và giành thắng lợi quyết định trên chiến trường,
buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (1/1973). Ngay sau khi Hiệp định Pari ký
kết, nhân dân Việt Nam đấu tranh thi hành Hiệp định trong tình hình quốc tế
có thuận lợi: Liên Xô và các nước XHCN ủng hộ Việt Nam bảo vệ, thi hành
Hiệp định. Liên Xô ủng hộ Việt Nam dân chủ cộng hòa khôi phục kinh tế, xóa
hoàn toàn những khoản nợ khá lớn cho vay trong chiến tranh; lên án mạnh mẽ
Mỹ dung túng chính quyền Sài Gòn phá Hiệp định. Các nước XHCN khác đề
ủng hộ Việt Nam trong giai đoạn mới. Ba Lan và Hunggari là thành viên của
Ủy ban quốc tế, hết lòng phối hợp với Việt Nam. Trung Quốc ủng hộ Việt
Nam đấu tranh thi hành hiệp định, khuyên nên duy trì đấu tranh chính trị; hứa
tiếp tục giúp Việt Nam trong năm năm như mức trước Hiệp định Pari. Đầu
1

Chiến tranh cách mạng Việt Nam, thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.
601.

20



năm 1974, lợi dụng Mỹ suy yếu, ngụy rối ren, Trung Quốc chiếm quần đảo
Hoàng Sa từ tay chính quyền Sài Gòn ở biển Đông. Đến 30/4/1975, Việt Nam
hoàn toàn giải phóng, giành độc lập dân tộc từ tay đế quốc sừng sỏ nhất là
Mỹ, đánh dấu thắng lợi to lớn của CNXH trên trường quốc tế.
III. Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta ra sức tăng cường
đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh của thời đại, coi đó là một bộ phận
hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước và đặt hoạt động đối ngoại, đấu
tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng trong chiến lược, góp
phần tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta để đánh thắng kẻ thù.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta diễn ra trong lúc trên thế giới, hệ
thống XHCN, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản đã có bước phát
triển vượt bậc làm thay đổi lực lượng so sánh có lợi cho sự nghiệp cách mạng
và hòa bình. Phong trào đấu tranh chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân, bảo vệ
hòa bình thế giới thu hút nhân dân các nước tham gia ngày càng đông đảo.
Những nhân tố mới đó là những thuận lợi cơ bản cho cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân ta.
Tuy nhiên, trên bình diện quốc tế, nhân dân ta cũng phải đương đầu với
những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng phát sinh từ sự bất hòa ngày càng
sâu sắc trong phong trào cộng sản quốc tế, giữa các đảng và các nước XHCN
anh em, nhất là Liên Xô - Trung Quốc. Đế quốc Mỹ ra sức lợi dụng và khai
thác tình hình đó để mở rộng chiến tranh. Trong bối cảnh đó, nhờ có đường
lối kháng chiến và chính sách đối ngoại đúng đắn, sáng tạo, đồng thời nhờ
kinh nghiệm hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao, ta đã phát huy các
nhân tố thuận lợi, hạn chế những khó khăn phức tạp, biến yếu tố quốc tế, yếu
tố thời đại thành sức mạnh hiện thực để tăng cường thực lực của nhân dân ta
trong cách mạng và kháng chiến.


21


Trên thực tế, dưới tác động của hoạt động đối ngoại và của chính cuộc
kháng chiến của nhân dân ta, dưới sự giúp đỡ tận tình của Liên Xô, Trung
Quốc và các nước XHCN. Một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn
kết với Việt Nam và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược đã được hình
thành và phát triển.
Có thể nói, sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã biến
thành lương tri và sự nghiệp của cả loài người tiến bộ. Đảng đã biết khai thác
và phát huy đến mức rất cao sức mạnh đoàn kết quốc tế chống Mỹ và thắng
Mỹ. Từ cuộc kháng chiến ta đã có những bài học kinh nghiệm quý báu sau:
Một là, kiên trì đoàn kết quốc tế, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ. Đảng
ta luôn luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời
của cách mạng thế giới. Vì vậy, thực hiện đoàn kết quốc tế trên cơ sở chủ
nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế chân chính là một vấn đề nguyên tắc
có quan hệ sống còn của cách mạng và sự thành bại của công cuộc cứu nước.
Đảng ta chủ trương trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải thực hiện cho được
sự đoàn kết liên minh với các lực lượng cách mạng của thời đại, trước hết là
với Liên Xô, Trung Quốc, lấy đó làm cơ sở, làm hạt nhân để mở rộng đoàn
kết với tất cả những người cộng sản, những lực lượng cách mạng, hòa bình,
dân chủ và tiến bộ khác trên thế giới.
Mặt khác, Đảng ta luôn luôn nhận rõ rằng, cách mạng nước nào phải do
nhân dân nước đó tự làm lấy là chính và Đảng Cộng sản mỗi nước trước hết
phải chịu trách nhiệm đối với vận mệnh của dân tộc mình, có nghĩa vụ lãnh
đạo nhân dân nước mình làm cách mạng thành công, qua đó góp phần tích
cực vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Hai là, lấy việc đánh thắng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ làm
mục tiêu tối cao, làm phương tiện hữu hiệu để mở rộng và tăng cường mặt

trận đoàn kết quốc tế ủng hộ Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của nhân dân ta ngay từ đầu đã giành được sự đồng tình, ủng hộ và sự
đoàn kết của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Các nước

22


XHCN nói chung đã dành cho nhân dân ta một sự giúp đỡ quý báu trên tinh
thần quốc tế chủ nghĩa. Đặc biệt với sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc.
Tuy nhiên, do vẫn còn khoảng cách nhất định giữa ta và Liên Xô, Trung
Quốc, và vẫn còn những dè dặt, lo ngại chiến tranh có thể lan rộng làm nguy
hại đến hòa bình thế giới và chưa tin rằng nhân dân ta có thể đương đầu nổi
với sức mạnh khổng lồ của đế quốc Mỹ. Trước tình hình đó, Đảng đã đưa ra
chủ trương tiến hành kháng chiến thắng lợi, lấy việc đánh bại các chiến lược
chiến tranh của Mỹ làm mục tiêu tối cao, làm phương tiện hữu hiệu tranh thủ
sự đồng tình của các bạn đồng minh và mở rộng, tăng cường mặt trận đoàn
kết ủng hộ Việt Nam. Do đó ta đã giữ vững và tăng cường đoàn kết giữa ta
với Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN khác.
Ba là, khéo lợi dụng mâu thuẫn nội bộ, phân hóa, cô lập cao độ kẻ thù
chủ yếu. Đảng đã chủ trương thêm bạn bớt thù, Đảng luôn chú ý và khéo léo
lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch, phân hóa, tranh thủ những lực lượng có thể
tranh thủ và cô lập cao độ kẻ thù chủ yếu để đánh thắng chúng.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự,
đấu tranh chính trị, kết hợp chặt chẽ cuộc đấu tranh trên chiến trường với đấu
tranh bàn đàm phán.
Năm là, huy động và phối hợp mọi lực lượng, đẩy mạnh hoạt động đối
ngoại và đấu tranh ngoại giao. Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, hoạt
động đối ngoại và đấu tranh ngoại giao có vai trò rất quan trọng. Phải thông
qua nó thì mới thực hiện được sự kết hợp lực lượng trong nước với lực lượng
quốc tế. Để đạt được hiệu quả tối đa trong hoạt động đối ngoại và đấu tranh

ngoại giao, ta đã chủ động, tích cực, linh hoạt, sử dụng nhiều hình thức tổ
chức, nhiều phương thức đấu tranh, huy động nhiều lực lượng tham gia, phối
hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Tóm lại, kinh nghiệm cách mạng và chiến tranh cách mạng Việt Nam
cũng như của nhiều nước trên thế giới hơn nửa thế kỷ qua cho thấy: trong thời
đại ngày nay, thời đại đông đảo nhân dân thế giới đã hướng vào mục tiêu
chung là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, bất cứ dân tộc
23


nào muốn giành thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc chống những kẻ thù lớn mạnh, thì đi đôi với việc dựa vào sức
mình là chính, nhất thiết phải tranh thủ cho được sự đồng tình, ủng hộ của
đông đảo bầu bạn quốc tế, khai thác tối đa sức mạnh của thời đại.
Hiện nay, trên thế giới đã và đang diễn ra những biến động chính trị to
lớn, gây tổn thất chưa từng có cho lực lượng cách mạng, đem lại lợi thế tạm
thời cho thế lực đế quốc, đặt mỗi nước trước những cơ hội và thách thức mới.
Trong bối cảnh đó, bài học đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh thời đại trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta cần được nghiên cứu
và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với tình hình thế giới hiện
nay, để thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại rộng mở: “Việt Nam muốn là
bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới” nhằm phục vụ đắc lực cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới của Đảng ta.

24


C - KẾT LUẬN
Suốt những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một trong những chủ
trương chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt của Đảng, Nhà nước ta là thu hẹp

bất đồng, tăng cường tình đoàn kết, tranh thủ sự ủng hộ, viện trợ của Liên Xô,
Trung Quốc, của các nước XHCN, củng cố chỗ dựa vững chắc cho cuộc kháng
chiến của dân tộc. Đó là một quan điểm mang tính nguyên tắc, bắt nguồn từ
bản chất cách mạng của Đảng, Nhà nước ta và từ nhận thức về sự giúp đỡ to
lớn của Liên Xô, Trung Quốc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Bằng sự
nỗ lực cao độ, Việt Nam đã tranh thủ được Liên Xô, Trung Quốc từng bước
đồng tình, đi đến ủng hộ đường lối, mục tiêu, lập trường và quyết tâm chiến
đấu của nhân dân ta, dành cho ta sự giúp đỡ to lớn, quý báu về mọi mặt. Việt
Nam đã tranh thủ vai trò quan trọng của Liên Xô trên trường quốc tế, đặc biệt
là đối với các nước Đông Âu, các tổ chức dân chủ, hòa bình, với phong trào
giải phóng dân tộc. Việt Nam tranh thủ vai trò to lớn của Trung Quốc là hậu
phương trực tiếp của Việt Nam, góp phần đào tạo cán bộ, xây dựng lực lượng,
cung cấp hậu cần… Việt Nam đã tranh thủ được các viện trợ không hoàn lại,
cho vay không tĩnh lãi với nhiều chương trình kinh tế, thương mại, lương thực,
ngoại tệ… và đặc biệt là quân sự của Liên Xô và Trung Quốc.
Bằng đường lối đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với thực tiễn
quan hệ quốc tế lúc đó, Đảng và Nhà nước đã hạn chế đến mức thấp nhất tác
động tiêu cực của mâu thuẫn Xô - Trung, của sự chia rẽ và phân biệt trong
phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế. Chúng ta đã đánh bại mưu đồ của
Mỹ lợi dụng mâu thuẫn trong hệ thống XHCN, đặc biệt giữa Liên Xô và
Trung Quốc nhằm cô lập Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Bài học đó vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới.

25


×