Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận cao học_chính sách đối ngoại của đảng và nhà nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.66 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã đề ra đường lối đổi
mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
cùng với đổi mới kinh tế là đổi mới chính trị và các lĩnh vực và các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực đối ngoại.
Đảng ta đánh giá trên thế giới và trong khu vực đã và đang diễn ra các
xu thế lớn như các nước lớn giảm cam kết về quân sự ra bên ngoài, cạnh tranh
gay gắt về kinh tế, thương mại, khoa học – công nghệ; nguy cơ chiến tranh
thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, trong những thập niên tới ít có khả năng xảy ra
chiến tranh thế giới; hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở
thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới, các nước vừa
hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình; toàn cầu hóa và khu vực
hóa diễn ra ngày càng sâu sắc, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế
ngày càng gia tăng… Bên cạnh đó, cộng đồng thế giới cũng đứng trước nhiều
vấn đề có tính toàn cầu như vấn đề môi trường, bùng nổ dân số, sự lan tràn
dịch bệnh …, không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết mà phải có
sự hợp tác đa phương. Những đặc điểm và xu thế trên đã làm nảy sinh tính đa
phương, đa dạng trong quan hệ quốc tế và trong chính sách đối ngoại của các
nước. Nằm ở Đông Nam châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam vừa có cơ hội
lớn do xu thế phát triển rất năng động và gia tăng hợp tác trong khu vực, vừa
phải đối mặt với không ít nhân tố bất trắc còn tiềm ẩn ở đây.
Những đánh giá trên đã tạo tiền đề quan trọng để Đảng ta hoạch định
chính sách đối ngoại trong giai đoạn mới. Mục tiên đối ngoại nhất quán trong
thời kì này là tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta xác định lấy việc giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định, để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Để
thực hiện mục tiêu này, Đảng ta đã đề ra những đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với tất cả các nước trên
tinh thần “ Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Tinh thần này tiếp tục được


1


phát triển qua các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo. Đến Đại hội Đảng X, Đảng ta
khẳng định: “ Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”.
Trước những yêu cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Đại hội X nhấn mạnh “ đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào
chiều sâu, ổn định, bền vững”.
Những đổi mới trên đã đem lại những thành công lớn trong lĩnh vực đối
ngoại. Từ chỗ bị cô lập về chính trị, bao vây cấm vận về kinh tế, ngày nay
Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 174 nước, quan hệ kinh tế - thương
mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, và đầu tư với 64 nước và vùng lãnh
thổ. Việt Nam cũng đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO). Chúng ta đã thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với tất cả
các nước lớn và láng giềng khu vực. Đồng thời chúng ta tham gia tích cực vào
nhiều tổ chức quốc tế và khu vực như ASEAN, APEC, ASEM … Đặc biệt,
Việt Nam là ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
nhiệm kì 2008-2009.
Nhận thấy tầm quan trọng về tình hình thế giới nói chung và Việt Nam
riêng, công tác đối ngoại, quan hệ quốc tế đóng một vai trò đặc biệt quan
trọng. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta đóng vai trò chủ chốt
trong việc đưa Việt Nam ra thế giới và mang thế giới lại gần với Việt Nam. Và
đây là lí do mà tôi chọn đề tài “ Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước
ta hiện nay”. Đề tài này cũng nhằm làm rõ những quyết sách đúng đắn, sáng
tạo của Đảng gần hơn 20 năm đổi mới, có ý nghĩa lý luậnvà thực tiễn cập nhật
những vấn đề lý luận đặt ra hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
-


Mục đích:

Thông qua quá trình xác định chính sách đối ngoại theo đường lối đổi
mới toàn diện đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam, khẳng định sự nhạy bén
chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng đã kịp thời đổi mới
chính sách đối ngoại phù hợp với chính sách đối nội và xu thế thời đại để hội
nhập với cộng đồng quốc tế vì hòa bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển.
2


-

Nhiệm vụ:

+ Trình bày những cơ sở dẫn đến sự xác định chính sách đối ngoại theo
đường lối đổi mới.
+ Trình bày giai đoạn phát triển của đường lối đối ngoại đổi mới, cái
mới, cái sáng tạo của Đảng trong việc phân tích những thành tựu, tồn tại
khẳng định chủ trương hiện nay của Đảng trong quan hệ quốc tế là môt quyết
sách đúng đắn. Từ đó bước đầu nêu lên những kinh nghiệm thực hiện chính
sách đối ngoại hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chính sách đối ngoại của Đảng là một đề tài rộng vì vậy tiểu luận chỉ đề
cập tới những vấn đề sau:
-

Thời gian và không gian đề cập ở Việt Nam trong thời kì đổi mới.

Đây là thời kì Đảng lãnh đạo và tiến hành đổi mới toàn diện nhằm đáp ứng
những yêu cầu cấp thiết của đất nước và đáp ứng xu thế thời đại.

-

Nội dung: Thông qua những phân tích biến chuyển của tình hình

trong nước, thế giới, khái quát có hệ thống sự chuyển biến, sự phát triển chính
sách đối ngoại của Đảng – Nhà nước tiến hành xây dựng kết hợp bảo vệ chủ
quyền quốc gia và giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội.
4. Cơ sở lý luậnvà phương pháp nghiên cứu
- Tư liệu phục vụ cho tiểu luận dựa vào:
+ Tài liệu của Học viện Ngoại giao – Bộ Ngoại giao
+ Một số sách kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh.
+ Một số sách lý luận của các nhà lãnh đạo Đảng – Nhà nước Việt Nam.
+ Kế thừa những tư liệu được công bố qua các công trình nghiên cứu
của một số tác giả đã nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu
Theo phương pháp luận sử học, đồng thời dựa vào phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và kết
hợp chặt chẽ các phương pháp lịch sử với so sánh, thống kê nhằm làm nổi bật
3


những thắng lợi trong đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng gần 20 năm
qua.
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo, tiểu luận gồm 3
chương:
Chương I: Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế là
đòi hỏi khách quan của đất nước và xu thế chung của thế giới.
Chương III: Quá trình hình thành đường lối, chính sách đối ngoại của

Đảng
Chương III: Tình hình quan hệ của Việt Nam với các nước, các khu vực
và các tổ chức quốc tế
Chương IV: Những thành tựu – phương hướng chiến lược trong chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta

4


CHƯƠNG I
MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN CỦA ĐẤT NƯỚC
VÀ XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI
I. NỀN TẢNG CỦA VIỆC MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ
CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của
chính sách đối ngoại
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ chính sách đối ngoại là sự tiếp nối chính
sách đối nội, là bộ phận quan trọng trong đường lối chính trị và chính sách
của mọi quốc gia, dân tộc.
Chính sách đối ngoại là một bộ phận của đấu tranh chính trị. Quan điểm
của các nhà kinh điển chỉ ra rằng một quốc gia, một dân tộc thì tất yếu phải
thực hiện chính sách đối ngoại để tập hợp bạn bè quốc tế, tranh thủ những
điều kiện thuận lợi và sự giúp đỡ của các nước nhằm xây dựng thực lực của
đất nước, giành thắng lợi cho cách mạng và góp phần giải quyết những vấn đề
quốc tế chung.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là hệ thống quan điểm về quốc tế,
chiến lược, sách lược cả cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới.
Là một nhà ngoại giao lỗi lạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho đời
sau những bài học vô cùng quý giá về phong cách của một người làm công tác

đối ngoại. Những tư tưởng này là kim chỉ nam dẫn đường cho việc hoạch định
và thực thi chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước. Chính sách đối ngoại
mới của Việt Nam sẽ không thể thành công nếu không biết kế thừa và phát
huy những giá trị vượt thời gian của những quan điểm này.
2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc
Ngoại giao truyền thống Việt Nam là nền ngoại giao truyền thống có bản
sắc. Đó là những đặc trung ổn định và bền vững, có nguồn gốc xuất xứ từ bản
sắc dân tộc và văn hóa dân tộc Việt Nam, đồng thời là kết quả của hoạt động
giao lưu quốc tế của Đại Việt với các nước láng giềng, của quá trình đấu tranh
5


bảo vệ chủ quyền dân tộc là phục vụ công cuộc xây dựng đất nước, phát triển
quốc gia – dân tộc.
Đặc trưng ngoại giao truyền thống Việt Nam có thể biểu đạt bằng những
từ sau: hòa hiếu, “lấy nhu thắng cương”, “trong đế ngoài vương”
Trước tiên, nhân dân Việt Nam luôn có ý thức bảo vệ độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Nền ngoại giao luôn xem trọng việc giữ gìn hòa
khí, khiêm nhường với các nước lớn, hữu nghị với các nước liên bang, phấn
đấu cho sự thái hòa.
Yêu chuộng hòa bình là bản chất của ngoại giao Việt Nam. Trong khi
kiên trì lập trường nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia, chống ngoại xâm, Đại Việt kiên trì đường lối hòa bình trong quan hệ
ngoại giao với các nước láng giềng.
Hòa hiếu là tư tưởng cốt lõi của ngoại giao Đại Việt. Nhà sử học Phan
Huy Chú đúc kết lịch sử liên bang của đất nước đã nhấn mạnh: “ Trong việc
cai trị nước, hòa hiếu với láng giềng là một việc lớn”
Ngoại giao Việt Nam thấm nhuần tinh thần nhân đạo và chủ nghĩa nhân
văn. Tuy phải trải qua của các cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, người Việt
Nam vẫn giàu lòng nhân ái, khoan dung đối với những kẻ địch đã bị đánh bại.

Điều đó có cội nguồn từ lý tưởng nhân nghĩa của dân tộc, biết đứng trên nghĩa
lớn khi buộc phải đương đầu với những thế lực ngoại xâm hung bạo.
Đồng thời, nó cũng xuất phát từ tầm nhìn sâu xa trong quan hệ bang giao
với các nước láng giềng có chung biên giới, xem trọng sự hòa mục.
Ngoại giao Đại Việt cũng luôn thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc. Phẩm
chất tiêu biểu của sứ thần là trí dũng song toàn, giữu gìn quốc thế. Người đi sứ
luôn thấu triệt phương châm “ đi sứ bốn phương, không làm nhục mệnh vua”
II. ĐÒI HỎI BỨC THIẾT CỦA TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC VÀ
XU THẾ CỦA THẾ GIỚI
1. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước
Với cuộc tống tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước đã giành được thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn. Đất

6


nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất và bước vào kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập tự do và định hướng đi lên xã hôi chủ nghĩa.
Trong quá trình đi lên xã hội chủ nghĩa chúng ta có nhiều thuận lợi: có
Đảng lãnh đạo, một Đảng được tôi luyện, thử thách trưởng thành trong quá
trình đấu tranh cách mạng; có Nhà nước của nhân dân và khối liên minh công
nông. Sau ngày thống nhất đất nước, uy tín của Việt Nam được nâng cao trên
trường quốc tế. Việt Nam có vị trí dịa lí thuận lợi để giao lưu hợp tác quốc tế,
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Nhân dân Việt Nam có truyền
thống đoàn kết trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc cũng như trong lao động sản
xuất. Đồng thời, Việt Nam còn có kinh nghiệm từ quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội hơn 20 năm ở miền Bắc.
Tuy nhiên, sau chiến tranh, Việt Nam còn vô vàn khó khăn, chiến tranh
đã tàn phá hầu hết các công trình thủy lợi, trường học, bệnh viện… Hòa bình
chưa được bao lâu, đất nước đã phải đối mặt với cuộc chiên tranh biên giới

Tây Nam và phía Bắc Tổ quốc, trong khi đó các thế lực thì địch tiến hành
cuộc chiến phá hoại nhiều mặt; đứng đầu là Mỹ đẩy mạnh bao vây cấm vận
ngăn cản sự phát triển của Việt Nam.
Các mô hình kinh tế được xây dựng trong thời chiến không còn phù hợp
với tình hình mới, nay bộc lộ những yếu kém. Nền kinh tế tăng trưởng thấp,
đời sống nhân dân cực kì khó khăn; trật tự, luật pháp lỏng lẻo, tệ nạn quan
liêu, tiêu cực xã hội và tham nhũng ngày một tăng. Sản xuất bị đình đốn, lưu
thông phân phối rối ren, những sai lầm trong việc phải quyết quyết tiền lương.
Việt Nam rơi vào khủng hoảng kinh tế xã hội. Niềm tin của quần chúng nhân
dân vào Đảng, Nhà nước bị giảm sút, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
bi giảm nhiều.
Trước bối cảnh thế giới và trong nước, Việt Nam phải tìm ra giải pháp phù
hợp để thoát khỏi cuộc khủng hoảng. Để tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược của đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã nghiêm
khắc kiểm điểm về những sai lầm, tìm nguyên nhân, biện pháp khắc phục.
Trên cơ sở tư duy đổi mới Đảng ta lựa chọn con đường đổi mới sâu sắc,
toàn diện, triệt để và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội.
Trước hết, về kinh tế, Đảng chủ trương nhằm xây dựng một nền kinh tế hàng
7


hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước. Để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất nước, chính sách đối ngoại của
Việt Nam cũng phải có những điều chỉnh trong chiến lược và sách lược.
Để đảm bảo tính đúng đắn, khách quan khoa học, sáng tạo cao nhất trong
việc hoạch định các chính sách. Đặc biệt, chính sách đối ngoại phải dựa trên
quan điểm lịch sử cụ thể, vừa kế thừa truyền thống ngoại giao cha ông, vừa
kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạng thời đại trong thời đại mới. Kết hợp
nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế cao cả
của giai cấp công nhân, để phục vụ hữu hiệu nhất sự phát triển của đất nước,

công tác đối ngoại phục vụ chính sách đối nội.
2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình thế giới
Từ giữa những năm 80 của thế kỉ XX, tình hình thế giới và khu vực diễn
biến nhanh chóng, phức tạp, đặt cho các nước, các dân tộc nhiều vấn đề mới
gồm cơ hội, điều kiện thuận lợi để phát triển và cả những khó khăn, thách
thức lớn.
Chiến tranh lạnh kết thúc, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ phát
triển mạnh mẽ, tác động toàn diện đến tình hình chính trị và kinh tế thế giới.
Kể từ thập kỷ 90, thế giới bước vào thời kì quá độ. Sự sụp đổ của các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô (1991), sự tan rã của Đảng
cộng sản Liên Xô làm cho cục diên thế giới có sự thay đổi. Chấm dứt trật tự
thế giới tồn tại trong suốt nửa thế kỷ.
Trung Quốc trở thành một thách thức đối với Mỹ với 1 tỷ dân. Trung
Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn bằng cải cách kinh tế và chính sách
mở cửa.
Ưu tiên phát triển kinh tế trở thành một trong những xu hướng chung ở
mọi quốc gia, dân tộc. Kinh tế trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh
tổng hợp của mỗi quốc gia, đảm bảo vai trò, vị trí của quốc gia đó trong đời
sống quốc tế. Xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đang
diễn ra mạnh mẽ và trở thành phổ biến. Điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới
những năm gần đây là xu hướng liên kết kinh tế khu vực. Các nước vừa và
nhỏ có nhu cầu hợp lực với nhau để đối phó có hiệu quả trước chính sách bảo
8


vệ mậu dịch, chính sách can thiệp hoặc gây sức ép về kinh ế các trung tâm
kinh tế thế giới. Đây chính là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình hợp tác,
liên kết, nhất thể hóa nền kinh tế khu vực.
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị khủng hoảng sâu sắc, phải
đấu tranh trong hoàn cảnh hết sức khó khăn. Chủ nghĩa đế quốc và giai cấp tư

sản ra sức tấn công vào Đảng, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, làm một số Đảng
bị khủng hoảng về đường lối, tư tưởng tan rã.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là Đông Nam Á là một
khu vực phát triển năng động, là nơi tập trung các nền kinh tế phát triển nhanh
nhất thế giới. Đông Á trở thành khu vực có tốc độ tăng trưởng cao, hàng đầu
trên thế giới. Đa số các nước trong khu vực đều có nguyện vọng cùng tồn tại
hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển, đặt ưu tiên hàng đầu cho phát triển
kinh tế và thực hiện chính sách kinh tế và đối ngoại.
Sự cam kết mạnh mẽ của chính phủ các nước trong khu vực đối với công
nghiệp hóa và hiện đại hóa, chính sách mở cửa, hội nhập và hợp tác khu vực
là nét nổi bật của các nền kinh tế ở khu vực, từ những nền kinh tế phát triển
đến những nước ASEAN trong đó có Việt Nam. Những cơ chế hợp tác khu
vực trong lĩnh vực kinh tế, tài chính còn khiêm tốn, nhưng ngày càng có vai
trò tích cực thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các nước và góp phần cho sự phát
triển kinh tế năng động trong khu vực. Sự phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu của
các chương trình hợp tác như tổ chức Hợp tác kinh thế châu Á – Thái Bình
Dương (APEC), khu vực Thương mại tự do ASEAN (AFTA)…
Hầu hết các quốc gia trong khu vực đều muốn mở rộng thị trường, phối
hợp các nguồn nhân lực,, tài lực, kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực, tài lực,
kết cấu hạ tầng và nguồn tài nguyên sẵn có để hợp tác, cùng phát triển.
Cuối năm 90 của thế kỷ XX, các nước Đông Á lâm vào khủng hoảng tài
chính, kéo theo khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng. Môi trường hòa
bình, ổn định, phát triển của khu vực chưa thật vững chắc, còn tiềm ẩn nhân
tố gây mất ổn định. Nội bộ một số nước và giữa các nước với nhau còn tồn tại
mâu thuẫn, xung đột chính trị, tôn giáo, kinh tế, biên giới lãnh thổ (đất liền,
hải đảo, trên biển). Đặc biệt là cuộc tranh chấp liên quan đến nhiều nước ở
biển Đông. Những diễn biến quan hệ giữa các nước lớn có liên quan đến khu
9



vực, có sự can thiệp gây phức tạp cho các quốc gia và quan hệ giữa các nước
trong khu vực với nhau.
Nhìn chung bối cảnh thế giới sau chiến tranh lạnh, các quốc gia tập trung
ưu tiên giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở trong nước, đẩy mạnh đấu
tranh để phát triển. Do đó, xu thế hòa bình ổn định hợp tác để cùng phát triển,
giải quyết mọi tranh chấp bất đồng thông qua đàm phán, thương lượng chính
trị trở thành xu thế chủ đạo trong đời sống quan hệ quốc tế hiện nay. Xu thế
bình thường hóa, đa dạng hóa và đa phuương hóa quan hệ đối ngoại trở thành
một đòi hỏi khách quan, bức bách của tất cả các nước do tính tùy thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia trong nền sản xuất được quốc tế hóa và sự mất đi của
trật tụ thế giới cũ.
Tóm lại, mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế là đòi
hỏi khách quan của tình hình thế giới và trong nước. Đây không chỉ là truyền
thống của dân tộc, đòi hỏi Đảng phải phát huy tinh thầ mới.

10


CHƯƠNG II
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TA
Việc hình thành đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng ta là một quá
trình, bắt đầu từ khi Đảng ta ra đời đến nay nhưng rõ nhất là bắt đầu từ đại hội
Đảng lần lần thứ VI.
1. Đại hội VI-1986:
Về hoàn cảnh quốc tế, đến thời điểm của đại hội VI của Đảng có một đặc
điểm nổi bật đó là chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới đã bộc lộ sự trì trệ cả về
kinh tế và chính trị xã hội.
Về tình hình trong nước, ngoài những khó khăn chung của như các nước
khác, nước ta còn ba khó khăn lớn chưa được giải quyết đó là: Vấn đề

Campuchia; vấn đề Mỹ cấm vận và vấn đề quan hệ với Trung Quốc.
Trong hoàn cảnh như vậy đại hội VI của Đảng đã xác định các chủ
trương lớn trong quan hệ quốc tế đó là: chủ trương thêm bạn bớt thù; tiến tới
bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và tiến tới bình thường hóa quan hệ
với Mỹ.
Có thể nói đại hội VI, ngoài việc khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước
còn là đại hội chuyển hướng và mở cửa cho quan hệ ngoại giao của Việt Nam.
2. Đại hội VII-1991:
Đến thời điểm đại hội VII của Đảng, chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu đã tan
rã, còn chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sau 6 năm cải tổ đã gặp rất nhiều khó khăn
cả về kinh tế và chính trị xã hội.
Về tình hình trong nước, sau 6 năm đổi mới chúng ta vẫn giữ được sự ổn
định chính trị xã hội và đạt được những kết quả bước đầu đáng kể và rất quan
trọng về kinh tế.
Đại hội VII của Đảng đã nêu rõ đường lối đối ngoại đổi mới của Việt
Nam là độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế đối
ngoại và tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu và hòa bình, độc lập và phát triển”.
11


Đại hội VII cũng chỉ rõ nhiệm vụ của công tác đối ngoại là: “Giữ vững
hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác tạo điều kiện quốc tế thuận lợi
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội”.
3. Hội nghị trung ương lần thứ ba khóa VII-1992:
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ ba khóa VII-1992 là Hội nghị tiếp tục
và cụ thể hóa hơn nữa đường lối chính sách đối ngoại của đại hội VII.
Đến cuối năm 1991, chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ hoàn toàn cả ở Đông Âu

và cả ở Liên xô. Phạm vi của chủ nghĩa xã hội thế giới bị thu hẹp lại, chủ
nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thế thoái trào và ở vào hoàn cảnh khó khăn
nhất từ trước đến nay.
Hội nghị Trung ương Đảng lần này đã xác định tư tưởng chỉ đạo của
công tác đối ngoại là: “giữ vững nguyên tắc vì độc lập thống nhất và xã hội
chủ nghĩa, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí,
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như những diễn biến của tình
hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đặc điểm, từng đối tượng ta có
quan hệ”.
Hội nghị Trung ương 3 cũng chỉ rõ 4 phương châm của công tác đối
ngoại là:
- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
- Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại.
- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Tránh
hợp tác một chiều, tránh đấu tranh một chiều và tránh trực diện đối đầu trong
quan hệ quốc tế hiện nay.
- Tham gia hợp tác khu vực và mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên
thế giới.
Có thể nói Hội nghị Trung ương lần thứ ba khóa VII, đường lối đối ngoại
của Đảng ta đã ngày càng được bổ sung, phát triển hoàn thiện.
12


CHƯƠNG III
TÌNH HÌNH QUAN HỆ CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC,
CÁC KHU VỰC VÀ CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ
Trong bối cảnh môi trường đối ngoại ngày càng phức tạp, tình hình kinh
tế-xã hội trong nước gặp nhiều khó khăn, công tác đối ngoại của Đảng và Nhà

nước năm 2012 tiếp tục được triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả, góp
phần giữ vững môi trường hòa bình, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi
để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu
vực và trên thế giới, và đã đạt nhiều kết quả nổi bật.
1.Với các nước láng giềng
- Ta đã trao đổi nhiều chuyến thăm, tiếp xúc các cấp, nhất là cấp cao với
các nước láng giềng, khu vực, đối tác lớn, bạn bè truyền thống và các đối tác
tiềm năng, đồng thời nâng tầm quan hệ với một số đối tác ưu tiên, quan trọng.
Về tổng thể, việc số lượng đoàn cấp cao các nước thăm Việt Nam tăng mạnh
(năm 2012 dự kiến gấp 4-5 lần so với năm 2011) và nhiều nước thể hiện
mong muốn nâng cấp quan hệ với ta cho thấy vai trò và vị thế ngày càng gia
tăng của ta trong khu vực và trên quốc tế.
- Trong Năm Đoàn kết Hữu nghị Việt - Lào và Năm Hữu nghị Việt Nam
- Cam-pu-chia 2012
+ Quan hệ giữa Việt Nam với Lào và Cam-pu-chia tiếp tục được củng cố
và thúc đẩy mạnh mẽ. Với Lào, mật độ trao đổi đoàn cấp cao cũng như các
Bộ ngành, địa phương tăng cao. Hai bên thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của
các cơ chế hợp tác hiện có, thúc đẩy công tác phân giới cắm mốc đúng theo
kế hoạch.
+ Với Cam-pu-chia, ta chủ động thúc đẩy hơn nữa trao đổi Đoàn cấp cao
giữa hai nước và tăng cường hợp tác giữa các Bộ ngành và địa phương của
hai nước trong năm kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và năm Chủ
tịch ASEAN của Cam-pu-chia. Đặc biệt, Lãnh đạo cấp cao hai nước cùng chủ
trì nhiều sự kiện quan trọng
- Với Trung Quốc, hai nước tích cực triển khai những thoả thuận cấp cao
đạt được trong chuyến thăm Trung Quốc. Tuy nhiên, quan hệ hai nước căng
13



thẳng hơn sau khi Trung Quốc lấy cớ Việt Nam thông qua Luật Biển để tăng
sức ép mọi mặt đối với ta. Trong bối cảnh đó, ta chủ động trao đổi nhiều
chuyến thăm cũng như tranh thủ tiếp xúc cấp cao nhằm tháo gỡ căng thẳng,
đưa quan hệ hai nước trở lại quỹ đạo phát triển bình thường. Hợp tác thương
mại, đầu tư và du lịch phát triển tương đối ổn định. Bên cạnh mặt hợp tác, ta
kiên quyết đấu tranh với những hành động của Trung Quốc vi phạm chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa và vùng biển, Vùng Đặc quyền Kinh tế và thềm lục
địa của Việt Nam.
2. Với các nước công nghiệp phát triển
Quan hệ giữa Việt Nam và các đối tác chiến lược chủ chốt tiếp tục được
thúc đẩy theo hướng thực chất, đi vào chiều sâu, bền vững.
- Quan hệ Việt - Mỹ tiếp tục phát triển thực chất trên các lĩnh vực chính
trị - ngoại giao, quốc phòng - an ninh, khoa học công nghệ và hợp tác nhân
đạo trong vấn đề nạn nhân chất độc dam cam/đi-ô-xin. Trao đổi đoàn giữa hai
nước gia tăng. Mỹ cử nhiều đoàn quan chức cấp cao của chính quyền và Quốc
hội thăm Việt Nam. Quan hệ kinh tế - thương mại, đầu tư giữa hai nước phát
triển tốt. Bên cạnh mặt hợp tác, ta tiếp tục đấu tranh với Mỹ trong lĩnh vực
dân chủ, nhân quyền và tôn giáo cũng như đối với việc Mỹ kiện chống bán
phá giá, chống trợ cấp đối với một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
- Quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam và các đối tác hàng đầu
trong EU như Anh, Pháp, Đức, I-ta-li-a được đẩy mạnh.
3. Với các nước bạn bè truyền thống và các nước khác.
- Với Nga, trong chuyến thăm chính thức Liên bang Nga, hai bên nhất trí
đưa quan hệ hợp tác Việt - Nga lên tầm “đối tác chiến lược toàn diện”. Việc
Tổng thống Pu-tin ra Sắc lệnh “Về các biện pháp thực hiện chính sách đối
ngoại” (5/2012), trong đó khẳng định Việt Nam là một trong 3 đối tác chiến
lược quan trọng nhất của Liên bang Nga ở Châu Á – Thái Bình Dương (Trung
Quốc, Ấn Độ và Việt Nam) cho thấy tầm quan trọng và tính bền vững của
quan hệ Việt - Nga.

Hợp tác kinh tế-thương mại Việt - Nga phát triển tốt. Tại cuộc gặp bên lề
14


Hội nghị Cấp cao APEC 20 (9/2012), đã nhất trí tăng cường hơn nữa quan hệ
nhiều mặt giữa hai nước, đặc biệt trong vùng Viễn Đông của Nga và trên các
lĩnh vực khai khoáng, chế biến gỗ, may mặc, thủy sản, giáo dục đào tạo.
- Với Nhật Bản, trao đổi nhiều đoàn các cấp. Hợp tác kinh tế - thương
mại - đầu tư - ODA đạt những kết quả nổi bật. Đáng chú ý, FDI của Nhật vào
ta có xu hướng tăng mạnh
- Với Hàn Quốc, quan hệ chính trị-ngoại giao, kinh tế-thương mại, đầu
tư và hợp tác quốc phòng-an ninh được thúc đẩy. Hai bên đã khởi động đàm
phán FTA Việt Nam - Hàn Quốc.
- Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ tiếp tục phát triển với việc hai nước gia
tăng hợp tác khoa học công nghệ và quốc phòng.
- Ta cũng đẩy mạnh quan hệ với các nước bạn bè truyền thống ở khu vực
châu Á, Đông Âu, Trung Đông - châu Phi và châu Mỹ La-tinh với việc trao
đổi nhiều đoàn cấp cao và có nội dung hợp tác thiết thực.
4. Với các tổ chức quốc tế
- Trong khuôn khổ ASEAN, ta đã tham gia, đóng góp thiết thực vào việc
xây dựng các văn kiện, các nội dung ưu tiên của Hội nghị Cấp cao ASEAN,
đồng thời nỗ lực thúc đẩy các vấn đề thuộc lợi ích chiến lược của ta.
Quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa ta và các nước ASEAN khác tiếp tục
được tăng cường. Tổng Bí thư ta thăm chính thức Xinh-ga-po (9/2012), hai
nước nhất trí thúc đẩy hợp tác và lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm
2013. Chủ tịch nước ta thăm chính thức Bru-nây và Mi-an-ma (27/11-1/12).
Ta đón Tổng thống Mi-an-ma (20-21/3), Tổng thống Xinh-ga-po (23-27/4),
Chủ tịch QH Mi-an-ma thăm Việt Nam Hợp tác đảng giữa ta với các nước
ASEAN cũng được thúc đẩy.
- Ngoại giao đa phương có bước chuyển về chất với bước tiến từ việc gia

nhập, tham gia đến “văn hóa thực thi” - coi trọng việc chủ động, tích cực
đóng góp thực chất và đưa sáng kiến tại các diễn đàn đa phương và quốc tế.
- Quan hệ Việt Nam - EU tiếp tục được thúc đẩy. EU coi trọng vị trí của
ta và đề nghị Việt Nam ủng hộ thiết lập quan hệ đối tác chiến lược EU ASEAN.

15


CHƯƠNG IV
NHỮNG THÀNH TỰU – PHƯƠNG HƯỚNG CHIẾN LƯỢC TRONG
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
1. Về thành tựu của công tác đối ngoại:
- Đại hội VIII đánh giá kết quả của công tác đối ngoại sau 10 năm đổi
mới và sau 5 năm thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII là “phát triển
mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào
đời sống cộng đồng quốc tế”.
- Chúng ta đã từng bước thực hiện bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc; Đẩy lùi âm mưu bao vây cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Mỹ;
Đã khai thông quan hệ với Đông Nam Á, với Tây âu và Bắc âu; tiếp tục duy
trì quan hệ với các nước Đông âu; xác lập quan hệ với các nước cộng hòa
thuộc Liên xô cũ và mở rộng quan hệ với nhiều nước trên thế giới.
- Thành tựu của công tác đối ngoại đã tạo điều kiện cho bước chuyển đầu
tiên rất quan trọng và những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tiếp theo của
đất nước.
2. Phương hướng chiến lược trong chính sách đối ngoại hiện nay
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có biến đổi phức
tạp tác động nhiều chiều tới môi trường an ninh và phát triển của Việt Nam,
trong năm 2013 và những năm tiếp theo, công tác đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta sẽ tập trung vào những hướng chính như sau:
- Về chính trị đối ngoại, tích cực triển khai các nhiệm vụ đối ngoại:

+ Tiếp tục đưa quan hệ với các đối tác ưu tiên, quan trọng đi vào chiều
sâu, thực chất, hiệu quả hơn, trong đó triển khai chủ trương nâng cấp quan hệ
với một số đối tác ưu tiên theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị
+Chuẩn bị và triển khai hiệu quả các hoạt động đối ngoại quan trọng của
Lãnh đạo cấp cao ta và đón Lãnh đạo Cấp cao các nước thăm Việt Nam
+Tiếp tục triển khai các hoạt động kỷ niệm tròn, năm chẵn trong quan hệ
ngoại giao của ta với các nước; Tích cực chuẩn bị cho việc ta đảm nhiệm chức
Tổng Thư ký ASEAN.
16


- Hoàn thành xây dựng Nghị quyết của Bộ Chính trị về Hội nhập Quốc tế
và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết, góp phần tạo thống nhất về
nhận thức và hành động trong toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội về hội nhập
quốc tế.
- Về ngoại giao đa phương
+ Cùng với các nước ASEAN củng cố đoàn kết nội khối, tạo chuyển biến
mạnh mẽ hướng tới xây dựng cộng đồng ASEAN 2015, chủ động thúc đẩy
các vấn đề thuộc lợi ích chiến lược của ta
+ Tham gia tích cực, đóng góp hiệu quả tại các diễn đàn đa phương, khu
vực và quốc tế trong khuôn Liên Hợp quốc,các diễn đàn và cơ chế trong khu
vực: APEC, ASEM 9, ARF, EAS…; tiếp tục đẩy mạnh công tác vận động Việt
Nam ứng cử vào các cơ quan quan trọng của Liên Hợp Quốc, đặc biệt là Hội
đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2014-2016).
- Về công tác biên giới lãnh thổ
+ Triển khai đồng bộ các biện pháp bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền
chủ quyền, quyền tài phán của ta trên Biển Đông
+ Tiếp tục thúc đẩy việc xây dựng COC. Thúc đẩy công tác tăng dày, tôn
tạo mốc giới với Lào, phân giới cắm mốc với Cam-pu-chia.
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác ngoại giao kinh tế trên cơ sở bám sát yêu

cầu phát triển đất nước, phục vụ mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, chuyển đổi
cơ cấu kinh tế với trọng tâm là:
+ Chú trọng công tác nghiên cứu, tham mưu phục vụ Chính phủ và các
ban ngành trong điều hành kinh tế - xã hội
+ Phối hợp xây dựng Chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế;
phấn đấu đạt mục tiêu đàm phán TPP và đàm phán các FTA khác
+ Chuẩn bị tốt các hoạt động ngoại giao kinh tế trọng điểm

17


+ Tiếp tục hoàn thành khuôn khổ pháp lý cho công tác ngoại giao kinh
tế, đặc biệt là xây dựng “Đề án công tác ngoại giao kinh tế đến năm 2015, tầm
nhìn 2020”.
- Tích cực triển khai thực hiện Kết luận số 16 ngày 14/2/2012 của Bộ
Chính trị về Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020.
Chú trọng theo dõi dư luận báo chí, kịp thời định hướng tuyên truyền, đưa tin
về các vấn đề đối ngoại, tình hình thế giới và khu vực; làm tốt công tác thông
tin tuyên truyền cả trong và ngoài nước về Luật Biển và các văn bản hướng
dẫn dưới luật.
- Tích cực triển khai Kế hoạch Hành động thực hiện Chiến lược Ngoại
giao Văn hóa đến năm 2020; tăng cường phối hợp giữa Bộ Ngoại giao với các
bộ ngành và các địa phương trong việc vận động UNESCO công nhận các di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Việt Nam.
- Tiếp tục chú trọng công tác người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ
công dân với phương châm hiệu quả, kịp thời; Tăng cường công tác bảo hộ
công dân, hợp tác và đấu tranh với các nước hữu quan để bảo vệ các lợi ích
chính đáng của công dân ta

18



KẾT LUẬN
Có thể nói đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta nêu ra là sự
tiếp tục của đường lối chính sách đối ngoại đổi mới nhưng ở mức cao hơn. Vì
trong quan hệ quốc tế ta đã có bề rộng nay phải đi vào chiều sâu của công tác
đối ngoại. Ta đã có vị thế cao trên trường quốc tế thì nay phải chủ động, tích
cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực và phải có trách nhiệm tham
gia giải quyết những vấn đề có tính chất toàn cầu. Đồng thời phải tiếp tục mở
rộng quan hệ với tất cả các nước, các khu vực và các vùng đất còn lại mà ta
chưa quan hệ trên thế giới.
Với truyền thống vẻ vang của dân tộc Việt Nam, cùng với đường lối
chính sách đối ngoại đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhất định chúng ta sẽ vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại trong giai đoạn mới, góp phần tăng cường, củng
cố hơn nữa vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ thiết thực và có
hiệu quả sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Ngoại giao phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, Tạp chí Cộng

sản, 4/1995
2.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại trong thời kì đổi


mới, Tạp chí Cộng sản, 6/2004
3.

Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng đó

trong thời kì đổi mới
4.

www.wikipedia.com

5.

www.google.com

6.

www.quehuongonline.vn

7.

www.mofa.gov.vn

8.

www.vietnamnet.vn

20



MỤC LỤC

21



×