Chuyên đề: Phân tích nội dung sau đây trong Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Nhiệm vụ của công tác
đối ngoại là giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011, tr.236).
Lời nói đầu
Đối với mỗi quốc gia việc đề ra đường lối đối ngoại là việc rất quan
trọng có tính chất quyết định thành bại trong công tác đối ngoại. Từ đó, để
thực hiện đường lối đối ngoại thì phải xác định được mục tiêu, phương hướng,
phương châm đối ngoại cũng như xác định những nhiệm vụ cần tiến hành
trong công tác đối ngoại. Đối với Việt Nam, qua mỗi giai đoạn cách mạng
khác nhau, với những yêu cầu cụ thể của thực tiễn, Đảng ta đã đề ra đường lối,
chính sách đối ngoại phù hợp với điều kiện thực tiễn lúc bầy giờ. Tại Đại hội
XI của Đảng, Đảng ta đã đề ra đường lối đối ngoại; đồng thời cũng đã xác
định nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian này là: “Giữ vững môi trường hoà
bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế
của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội 2011, tr.236).
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề ra nhiệm vụ công tác đối ngoại
Để đề ra nhiệm vụ nêu trên, Đảng ta đã tiến hành tổng kết thực tiễn,
phân tích trên nhiều khía cạnh trong công tác ngoại giao làm sao để vừa thực
hiện thắng lợi đường lối, chính sách ngoại giao nhưng đạt được mục tiêu hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển cho đất nước. Qua phân tích ta
thấy:
1
Thứ nhất, về cơ sở lý luận của việc đề ra nhiệm vụ đối ngoại trên, trước
hết là dựa trên cơ sở của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hoạt động ngoại giao của Đảng và
Nhà nước ta nhằm khai thác tốt nhất nhân tố quốc tế phục vụ cho nhu cầu phát
triển đất nước và mở rộng và phát huy ảnh hưởng của Đảng, đóng góp với cộng
đồng quốc tế trong cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
phát triển. Chủ tich Hồ Chí Minh đã chỉ rõ thực lực của đất nước là cái chiêng,
ngoại giao là cái tiếng. Thực lực của đất nước mạnh tức là cái chiêng lớn mà cái
chiêng lớn thì tiếng sẽ vang, ảnh hưởng của nó sẽ càng lớn trường quốc tế. Từ
nhận thức đó, Đại hội XI của Đảng đã xác định đường lối, chính sách đối ngoại
và nhiệm vụ đối ngoại như đã nêu trên.
Hai là đề ra nhiệm vụ đối ngoại nêu trên là trên có sở của việc thực hiện
đường lối đối ngoại của Đảng đã đề ra là “Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc,
vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh” (Đảng Cộng sản Việt Nam:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2011, tr.235-236) nhằm mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển
cho đất nước ta.
Thứ hai về cơ sở thực tiễn, Đảng ta đã kế thừa sáng tạo và phát huy truyền
thống đối ngoại của dân tộc Việt Nam, của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
những giai đoạn trước đây, đặc biệt là kết quả công tác ngoại giao thời kỳ đổi
mới, trong đó có việc căn cứ vào thực trạng và đặc thù địa lý, lịch sử, chính trị,
kinh tế, xã hội, tôn giáo, dân tộc của đất nước. Đồng thời, việc phân tích tình
hình thế giới và trong nước, xu thế vận động của thế giới và khu vực là một
trong những cơ sở thực tiễn để chúng ta xác định nhiệm vụ đối ngoại trên.
Cùng với đó, trên thế giới giai đoạn này, chủ nghĩa xã hội và phong trào
cộng sản, công nhân quốc tế lâm vào vào cuộc khủng hoảng toàn diện, sâu sắc.
Cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc vẫn diễn ra gay gắt ; xung đột vũ
trang, chiến tranh cục bộ, những bất ổn do mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo,
chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố xảy ra ở nhiều nơi,
nhất là tại khu vực các nước đang phát triển. Song khu vực Châu Á - Thái Bình
2
Dương và Đông Nam Á xu thế hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển là một xu
thế lớn, phản ánh những đòi hỏi bức xúc của các dân tộc trên thế giới. Chính vì
thế, Đảng ta xác định nhiệm vụ đầu tiên trong thực hiện đường lối và chính sách
đối ngoại là phải thực hiện nhiệm vụ giữ vững môi trường hòa bình bởi đây là
một xu thế chung của cả khu vực, là một xu thế lớn, phản ánh những đòi hỏi bức
xúc của các dân tộc trên thế giới. Đồng thời, tránh mất ổn định chính trị, xung đột
vũ trang, triến tranh cục bộ, bạo loạn… không cần thiết ảnh hưởng đến tình hình
trong nước và khu vực là không cần thiết.
Bên cạnh đó, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có bước tiến nhảy
vọt, toàn cầu hóa là xu hướng tất yếu, tác động sâu sắc tình hình kinh tế, chính trị
xã hội và quan hệ quốc tế ở tất cả các quốc gia, dân tộc với cả thời cơ và thách
thức. Hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mang đến cho chúng ta nhiều cơ
hội, nhất là khả năng tranh thủ hiệu quả hơn các nguồn lực bên ngoài. Cùng với
hội nhập kinh tế, hội nhập trong các lĩnh vực khác sẽ tạo cơ hội lớn hơn trong
tiếp cận tới tri thức tiên tiến của nhân loại, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, từng
bước làm cho đất nước trở thành bộ phận hữu cơ của khu vực và thế giới, chiếm
vị trí ngày càng cao trong nền kinh tế, chính trị và văn hóa toàn cầu. Hội nhập
quốc tế trên các lĩnh vực cũng tạo cho chúng ta khả năng tận dụng được sự tác
động qua lại, bổ sung lẫn nhau giữa hội nhập trong từng lĩnh vực. Các nước đều
đứng trước cơ hội để phát triển, nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường
thuộc về các nước tư bản chủ nghĩa và các công ty đa quốc gia, nên các nước
đang phát triển như nước ta đang đững trước những thử thách to lớn, nếu không
nắm được cơ hội, tranh thủ những khả năng mới đẻ phát triển sẽ tụt hậu. Ngược
lại nếu biết đón trước, khai thác được thời cơ, nỗ lực vươn tới thì có thể vượt lên
nhanh chóng. Từ đó, nhiệm vụ đặt ra cho hoạt động đối ngoại là cần phải tranh
thủ được điều kiện mang tính ưu thế của các quốc gia, dân tộc trên thế giới để tạo
điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Song
việc tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp
hóa hiện đại hóa phải đi đôi với nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước. Độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là cơ sở tồn tại của một quốc gia. Bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ luôn luôn là một trong những
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Việc nêu rõ điều này trong nhiệm vụ đối ngoại
3
là nhằm đáp ứng những phát triển mới của tình hình, đồng thời khẳng định vai trò
của đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước. Trong khi đó, dưới tác động của toàn cầu hóa, các nước
đang phát triển còn phụ thuộc nhiều vào các nước tư bản phát triển, nên các nước
lớn có xu thế áp đặt và can thiệp vào nội bộ các nước đang phát triển, trong đó có
nước ta. Trong thời chiến, người lính phải đi đầu trong chiến tranh, bảo vệ đất
nước. Trong thời bình, cán bộ ngoại giao hay nói rộng ra là công tác ngoại giao
phải đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và thu hút nguồn lực cho
phát triển đất nước. Chúng ta phải nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn bài học
của ông cha ta là: "Dựng nước đi đôi với giữ nước", "giữ nước từ khi nước chưa
nguy", có kế sách ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ chiến tranh từ sớm, từ xa.
Nghĩa là làm sao cho kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, lòng dân phải
yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất. Nhiệm
vụ này càng trở nên cấp bách khi cuộc chạy đua về kinh tế, cuộc canh tranh về
đối tác và thị trường đang diễn ra quyết liệt; nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
vẫn là nguy cơ dễ xảy ra đối với một nước đang phát triển như nước ta.
Thế giới ngày nay vừa có cơ sở, tiền đề cho xu thế hòa bình, hợp tác và
phát triển; vừa tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn, đe dọa an ninh quốc gia và an ninh
toàn cầu. Những nguy cơ đe dọa an ninh rất đa dạng, trong đó, còn nguyên các
nguy cơ, quen thuộc: đó là các âm mưu, thủ đoạn chống phá độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, trật tự, an toàn xã hội, tính mạng công dân do các thế lực bên
ngoài câu kết với các lực lượng đối lập bên trong gây ra. Bên cạnh đó, xuất hiện
ngày càng nhiều nguy cơ phi truyền thống, rất mới lạ, như: chủ nghĩa khủng bố,
tội phạm công nghệ cao, tội phạm tài chính - tiền tệ ảo, di dân quốc tế, thảm họa
thiên nhiên, chủ nghĩa cường quyền trong sinh hoạt quốc tế Song, xu thế hòa
bình, độc lập lập dân tộc hiện nay là một xu thế lớn, phản ánh những đòi hỏi bức
xúc của các dân tộc trên thế giới. Trên cơ sở nắm bắt kịp thời những biến động
mau lẹ, phức tạp trong đời sống an ninh thế giới, Đảng ta đề ra nhiệm vụ công tác
đối ngoại là phải góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Bởi vì, việc mở rộng quan hệ ngoại
giao, ngoại giao đa phương đã phát huy đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, yêu
chuộng hoà bình, hợp tác và phát triển của Việt Nam ở các diễn đàn quốc tế,
đóng góp tích cực vào việc giảm căng thẳng và hỗ trợ giải quyết các vấn đề còn
4
tồn tại ở các khu vực trên thế giới. Minh chứng cho điều đó, thể hiện rõ qua
thông điệp của Thủ tướng Chính phủ tại Đại hội đồng LHQ khóa 68 tháng 9/2013
về “Nhân loại cần một thế giới không có chiến tranh, không còn đói nghèo” và
việc Việt Nam luôn ủng hộ mạnh mẽ các nỗ lực chung về hòa bình, an ninh, giải
trừ quân bị, không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và chủ trương giải quyết
hòa bình các xung đột trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên
Hợp Quốc (LHQ) và luật pháp quốc tế đã được các nước và dư luận quốc tế
đánh giá cao. Tại Đối thoại Shangri-La, Singapore tháng 5/2013, Thủ tướng
Chính phủ lần đầu tiên đã chính thức công bố việc Việt Nam quyết định tham gia
các hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ. Quyết định này khẳng định chính sách
nhất quán của Việt Nam là chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, sẵn sàng đóng
góp một cách tích cực, có trách nhiệm vào các công việc chung của cộng đồng
quốc tế, ủng hộ các mục tiêu cao cả của LHQ về duy trì hòa bình trên thế giới…
2. Phương châm xử lý các vấn đề quốc tế
Từ đó, Đại hội XI của Đảng đã xác định và thực hiện bốn phương châm xử
lý các vấn đề quốc tế hay còn gọi là bốn phương châm chỉ đạo hoạt động đối
ngoại:
Một là: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Thực chất phương
châm này là nhằm xử lý mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và đoàn kết quốc tế
trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong tình hình mới.
Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá,
đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Với việc nêu ra phương châm này, thì đây là
lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đề cập đến khái niệm
đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, nhấn mạnh giữ vững độc lập tự chủ
gắn liền với đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế để xây dựng được thế
đứng vững chắc trên trường quốc tế, tránh những tình huống bất lợi về đối ngoại,
tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Đây là sự
phát triển sáng tạo bài học của cách mạng Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế trong điều kiện
lịch sử mới.
Ba là: Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
Trong điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng
5
hóa, Việt Nam đứng trước những cơ hội mới, song nguy cơ và thách thức từ bên
ngoài cũng gia tăng. Do đó, cần nhận thức đúng và nắm vững vấn đề hợp tác và
đấu tranh, coi đây là hai mặt gắn bó hưu cơ của quan hệ quốc tế. Trong đó, Đảng
ta nhấn mạnh một nhận thức mới, đó là đấu tranh nhằm thúc đẩy hợp tác, tránh
đối đầu.
Bốn là: Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả
các nước. Phương châm này thể hiện chính sách nhất quán của Đảng và Nhà
nước Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế, góp phần vào hoà bình, ổn định, phát
triển ở khu vực và trên thế giới. Việt Nam đặc biệt chú trọng hợp tác khu vực,
nhất là đối với các nước láng giềng nhằm tạo một môi trường hoà bình, ổn định
lâu dài chung quanh đất nước. Việc tạo lập được mối quan hệ hợp tác trên cơ sở
tùy thuộc lẫn nhau về an ninh cũng như về phát triển với các nước trong khu vực
sẽ là bảo đảm hết sức quan trọng đối với Việt Nam nhằm xác lập một vị thế có
lợi hoặc chí ít là ít bất lợi nhất trong quan hệ quốc tế.
Bốn phương châm đối ngoại nêu trên có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
việc xử lý các mối quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Xử lý đúng
các mối quan hệ quốc tế sẽ tạo nên sự thông suốt trong tư tưởng và thành công
trong hành động. Ngược lại, nếu xử lý không đúng sẽ gây lúng túng trong hoạt
động đối ngoại cụ thể, ảnh hưởng tiêu cực tới công cuộc đổi mới theo định hướng
xã hội.
3. Phương hướng hoạt động đối ngoại từ Đại hội XI đến nay
Từ Đại hội XI đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định phương
hướng hoạt động đối ngoại là tăng cường phát triển quan hệ với các nước láng
giềng, mặt khác đề cao quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa.
Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Đảng và
Nhà nước Việt Nam nhấn mạnh chủ trương nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp
tác với các nước thuộc Hiệp hội, cùng xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực
hoà bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển. Hiện nay, Việt Nam khẳng định rõ
quan điểm cùng với các nước ASEAN phấn đấu xây dựng ASEAN trở thành một
Cộng đồng hòa bình, thịnh vượng và phát triển đồng đều.
Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc
lập dân tộc, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, các nước
6
trong Phong trào Không liên kết là một hướng hoạt động đối ngoại thường xuyên
được Đảng và Nhà nước Việt Nam chú trọng thúc đẩy. Việt Nam xây dựng quan
hệ đối tác chiến lược với Liên bang Nga và Ấn Độ, khôi phục quan hệ hữu nghị
truyền thống và sự hợp tác hiệu quả trên nhiều mặt với các nước Đông Âu.
Thấm nhuần tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh và kiên định chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trên tinh thần đổi mới, Đảng Cộng sản Việt
Nam coi trọng việc củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác với các
đảng cộng sản và công nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng và
độc lập dân tộc, với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định nhất quán quan điểm thúc đẩy
quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế, tham gia giải
quyết các vấn đề toàn cầu, chống khủng bố quốc tế, góp phần xây dựng trật tự
chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng. Đối với các nước lớn, Việt Nam
nêu rõ cần thúc đẩy quan hệ đa dạng, bao gồm cả quan hệ chính phủ và phi chính
phủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ , tạo môi
trường hoà bình, ổn định lâu dài. Trong quan hệ với các nước và trung tâm lớn
trên thế giới, Việt Nam kiên trì nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can
thiệp công việc nội bộ của nhau, tạo thế đan xen lợi ích, tránh bị rơi vào thế đối
đầu, cô lập hay lệ thuộc.
Với tư cách là một đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương
mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền trên thế giới.
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm mở rộng và phát triển công tác
đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu
quả”, tăng cường quan hệ song phương và đa phương với các tổ chức nhân dân các
nước, nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát
triển kinh tế - xã hội.
Lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ
quan điểm về chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn
sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế về vấn đề nhân quyền.
4. Thành tựu công tác đối ngoại từ Đại hội XI đến nay
Từ sau Đại hội XI của Đảng đến nay, thông qua việc xác định và triển khai
thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã giành được những
thành tựu rất quan trọng.
7
- Chúng ta đã giữ vững và củng cố được môi trường hòa bình, ổn định, tạo
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh tình hình khu
vực và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, kinh tế thế giới và kinh tế
đất nước còn nhiều khó khăn, việc chúng ta tiếp tục duy trì được môi trường hòa
bình, ổn định, từng bước ổn định kinh tế vĩ mô, có tăng trưởng khá, bảo đảm an
sinh xã hội, huy động được đáng kể các nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA),
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), mở rộng được thị trường, tăng kim ngạch
xuất khẩu là những thành tựu rất đáng khích lệ. Nó khẳng định và làm nổi rõ
hình ảnh của một nước Việt Nam hòa bình, ổn định và đang phát triển - đối tác tin
cậy của các nước và cộng đồng quốc tế.
- Chúng ta tiếp tục giữ vững được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước, kịp thời giải quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh trên biển. Đã hoàn
thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc trên thực địa với Lào và khoảng 75%
với Cam-pu-chia; tích cực đàm phán phân định vùng cửa Vịnh và hợp tác trong
lĩnh vực ít nhạy cảm với Trung Quốc, phân định vùng đặc quyền kinh tế với In-đô-
nê-xi-a. Đã giải quyết thành công nhiều vấn đề tồn tại với các nước láng giềng trên
cơ sở luật pháp quốc tế, các bên cùng chấp nhận, từng bước làm cho đường biên
giới chung của nước ta với các nước thành biên giới hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Những khác biệt trong tranh chấp ở Biển Đông tuy còn không ít trở ngại, song
đang có xu hướng thu hẹp, đi vào đàm phán, đối thoại trên cả bình diện song
phương và đa phương.
- Đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của bạn bè quốc tế. Quan
hệ song phương và đa phương ngày càng được củng cố, phát triển và dần dần đi
vào chiều sâu. Các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện được xác lập
giữa Việt Nam với một số nước, nhất là với các nước lớn, tạo ra bước chuyển mới
về chất trong hoạt động đối ngoại, tạo thuận lợi cho nhiệm vụ hội nhập quốc tế của
nước ta trong giai đoạn mới. Có thể nói, chưa bao giờ chúng ta có được nhiều bạn
bè và đối tác như ngày nay; chủ đề ủng hộ Việt Nam dành được sự đồng thuận khá
cao tại nhiều diễn đàn quan trọng, kể cả tại Quốc hội một số nước.
- Đã thực sự phát huy được vai trò là thành viên tích cực của các thể chế khu
vực và toàn cầu. Nước ta đã tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình liên kết
khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương thông qua các tổ chức và diễn
8
đàn: ASEAN, Diễn đàn An ninh khu vực (ARF), Cộng đồng kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC), Diễn đàn cấp cao Đông Á (EAS); đã tham gia 8 hiệp định
thương mại tự do song phương và khu vực và đang đàm phán 6 hiệp định khác,
trong đó có 2 hiệp định có phạm vi rộng lớn chưa từng có là Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Đối tác hợp tác kinh tế khu vực
(RCEP). Việt Nam đã cùng các nước thành viên, đóng góp tích cực vào quá trình
xây dựng cộng đồng ASEAN và có vị trí, uy tín ngày càng cao trong cộng đồng
khu vực. Lần thứ hai, Việt Nam đã chính thức ứng cử làm Ủy viên không thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2020 - 2021); đăng cai tổ chức Đại
hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới IPU lần thứ 132 (năm 2015); và cũng lần
thứ hai đứng ra đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao APEC (năm 2017). Mới đây,
nước ta đã được bầu vào Hội đồng Thống đốc Tổ chức Năng lượng Nguyên tử
quốc tế (IAEA), Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO và lần đầu tiên được bầu
vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016) với số phiếu rất
cao. Kết quả đó thể hiện uy tín quốc tế của nước ta và lòng tin của Cộng đồng quốc
tế dành cho Việt Nam.
- Đã có những chuyển biến rõ rệt trong công tác vận động cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài theo tinh thần Nghị quyết số 36 của Bộ Chính trị. Người
Việt ở xa đất nước ngày càng hướng về quê hương, gắn bó và có nhiều đóng góp
thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các cơ quan đại diện Việt
Nam ở nước ngoài đã và đang làm tốt nhiệm vụ bảo hộ công dân, thực sự trở thành
chỗ dựa tin cậy của cộng đồng người Việt sinh sống và làm việc ở nước ngoài.
5. Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác đối ngoại năm 2014
Năm 2014, chúng ta cần tập trung triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm là:
Thứ nhất, chúng ta sẽ chủ động, tích cực tham gia vào các hoạt động tại
các diễn đàn, các tổ chức quốc tế và khu vực như LHQ, APEC, ASEM phối
hợp thúc đẩy các cuộc đàm phán kinh tế, thương mại quan trọng, nhất là Hiệp
định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), Khu vực mậu dịch tự do với
Liên minh châu Âu (EU); tranh thủ mức cao nhất các nguồn lực từ các tổ chức
quốc tế và khu vực, nhất là LHQ, cũng như từ các tổ chức phi chính phủ nước
ngoài, nhằm góp phần phát triển đất nước.
9
Thứ hai, chúng ta cần tiếp tục chủ động, tích cực đóng góp vào việc củng
cố đoàn kết nội khối và xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột là Chính
trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa-Xã hội; tham gia sâu hơn vào đối thoại, hợp tác
trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có giáo dục, y tế, văn hóa, du lịch; thu
hẹp khoảng cách phát triển; tăng cường giao lưu nhân dân. Chúng ta cũng sẽ tích
cực tham gia vào các cuộc tham vấn chính thức giữa ASEAN và Trung Quốc
nhằm tiến tới ký Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).
Thứ ba, trong lĩnh vực nhân quyền, chúng ta sẽ tham gia tích cực tại Hội
đồng Nhân quyền LHQ và Ủy ban Nhân quyền ASEAN; bảo vệ Báo cáo quốc
gia theo cơ chế Kiểm điểm định kỳ phổ quát chu kỳ II của LHQ; chủ động thúc
đẩy và tăng cường đối thoại, chia sẻ thông tin với các nước, các tổ chức quốc tế
và khu vực nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau trong lĩnh vực nhân quyền,
qua đó giảm thiểu và vô hiệu hóa việc lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để
chống phá ta.
Thứ tư, chúng ta cần chuẩn bị và triển khai tốt việc cử lực lượng tham gia
các hoạt động gìn giữ hòa bình LHQ, qua đó khẳng định chính sách nhất quán
của Việt Nam là chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, sẵn sàng đóng góp một
cách tích cực, có trách nhiệm vào các công việc chung của cộng đồng quốc tế,
ủng hộ các mục tiêu cao cả của LHQ.
Kết luận
Những thành tích và kết quả kể trên là sự kiểm chứng sinh động đối với
đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, đồng thời cũng thể hiện sự vận dụng
sáng tạo và hiệu quả các bài học của thời kỳ đổi mới. Chúng ta đã luôn quán triệt
tư tưởng đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia, dân tộc với mục tiêu xuyên suốt là giữ
vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chế độ chính trị xã hội chủ
nghĩa, kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất
cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội nhằm xây dựng một nước Việt Nam
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Chúng ta cũng đã vận
dụng sáng tạo các bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với hội nhập quốc tế; kiên định về nguyên tắc,
nhưng linh hoạt về sách lược; triển khai các hoạt động đối ngoại một cách đồng
bộ và toàn diện.
10
11