1
A.
MỞ ĐẦU
Hiện nay vấn đề dân số đang là mối quan tâm của nhiều Quốc gia trên Thế giới
và thực tế đang trở thành vấn đề có tính toàn cầu, sự gia tăng dân số quá nhanh là
một trong những nguyên nhân tạo ra sức ép cho sự phát triển nền kinh tế
-
xã
hội, kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Công tác dân số – Kế hoạch hoá gia đình luôn được đảng và nhà nước quan
tâm, coi đó là một trong nhiệm vụ quan trọng của chiến lược phát triển đất nước.
Do vậy Đảng và nhà nước ta đã sớm có chủ trương chính sách liên quan đến công
tác dân số từ năm 1961 trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ tổ quốc đến nay các
chủ chương chính sách ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn. Đảng ta đã
Khẳng định tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VII) "
Công tác dân số Kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trong của chiến
lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế xã hội hàng đầu của đất
nước ta là yếu tố cơ bản, để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng gia đình và của
toàn xã hội. Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân
quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tếxã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiệ
n đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hoá và thể lực giống nòi.
Nếu xu hướng này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai không xa đất
nước Việt nam sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí nguy cơ về
nhiều mặt...".
Bước vào những năm đầu thế kỷ 21 Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt chiến
lược dân số Việt nam giai đoạn 2001 - 2010 với mục tiêu là “Thực hiện gia đình ít
1
2
con và khoẻ mạnh, tiến tới ổn định Quy mô dân số ở mức hợp lý để có cuộc sống
ấm no hạnh phúc” và cụ thể là “ Duy trì việc giảm sinh một cách vững chắc để đạt
mức sinh thay thế bình quân trong toàn quốc nhất vào năm 2005, ở vùng sâu vùng
xa vùng nghèo chậm nhất vào năm 2010” .
Hiện nay mục tiêu đã và đang được cả nước phấn đấu và thực hiện đã đạt được
một số kết quả nhất định. Kết quả giảm sinh chưa thực sự vững chắc song thực
tế hiện nay tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm chậm và vẫn còn cao, thẩm trí còn
tăng trở lại.
1. Lý do chọn đề tài
Dân số là một trong những những yếu tố quyết định hành đầu cho sự phát triể
n bền vững của đất nước. Chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình (DS-KHHGĐ)
luôn được xác định là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước,
một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của quốc gia. Thực hiện tốt chính
sách dân số - kế hoạch hoá gia đình là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc
sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt nam đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách, luật pháp, chiến lược nhằm quan tâm toàn diện đến vấn đề dân số - kế
hoạch hoá gia đình. Tổng cục dân số - kế hoạch hoá gia đình và các Bộ, ngành liên
quan đã ban hành nhiều thông tư liên tịch, văn bản hướng dẫn để thực hiện có hiệu
quả các chủ trương, chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước về chính sách
này.
Ngày 14/01/1993 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI,
Đảng cộng sản Việt nam đã ban hành Nghị quyết số 04 về chính sách dân số và kế
hoạch hoá gia đình (gọi tắt là Nghị quyết TW 4 khoá VII), đây là văn bản có tính
2
3
chất quan trọng, làm tiền đề cho những quyết sách về dân số - kế hoạch hoá gia đình
sau này của Đảng và Nhà nước.
Quán triệt và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, qua hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết TW 04 khoá VII, với sự chỉ đạo
sâu sắc của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể và sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân, chính sách dân số - kế
hoạch hoá gia đình đã thực sự đi vào cuộc sống và đạt được nhữngkết quả quan
trọng: nhận thức của toàn xã hội đã có bước chuyển rõ rệt, quy mô gia đình có một
hoặc hai con được chấp hành ngày càng rộng rãi; tốc độ gia tăng dân số đã được
khống chế, số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 3,5 con
năm 2000 xuống 2,7 con, và tới năm 2013 còn 2,1 con, tỷ lệ tăng dân số giảm tương
ứng từ hơn 2% còn 1,32%.
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do chúng ta chưa nhận thức đầy đủ
tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của chính sách này trong bối cảnh kinh tế,
văn hoá và xã hội của đất nước, dẫn đến chủ quan, thoả mãn với những kết quả đạt
được ban đầu, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo. Tổ chức bộ máy và cán bộ làm chính
sách dân số - kế hoạch hoá gia đình thiếu ổn định, quá tải, quản lý kém hiệu quả,
việc ban hành Pháp lệnh Dân số và một chính sách liên quan thiếu chặt chẽ. Trong
hoàn cảnh kinh tế - xã hội nước ta chưa phát triển, tình trạng đói nghèo còn nhiều,
tài nguyên thiên nhiên hạn hẹp, quy mô dân số hiện nay khá lớn với hơn 85 triệu
người (theo kết quả tổng điều tra Dân số và Nhà ở vào thời điểm 0 giờ tháng
01/4/2009 của Tổng cục Thống Kê), mật độ dân số vào hàng cao nhất thế giới (259
người/km2 vào năm 2009), chất lượng dân số chưa được cải thiện đáng kể… Do đó,
việc tăng dân số nhanh trở lại sẽ phá vỡ những thành tựu đạt được, cản trở sự phát
triển kinh tế - xã hội và việc nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, làm chậm
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đặt nước ta trước nguy cơ tụt
hậu xa hơn. Vì vậy, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá
gia đình là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong thời gian tới.
3
4
Xuất phát từ mục đích ý nghĩa to lớn ấy, chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình
cần phải được quan tâm, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động.Nhằm góp phần
nhận thức đúng đắn hơn về vấn đề này, cho nên em lựa chọn đề tài “Qúa trình thực
hiện chính sách dân số- kế hoạch hóa gia đình ở việt nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay có rất nhiều các công trình nghiên cứu về chính sách dân số- kế
hoạch hóa gia đình ở Việt Nam, tiêu biểu là những công trình của tổng cục dân số
và kế hoạch hóa gia đình và của các cá nhân quan tâm đến vấn đề này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tương nghiên cứu: Đề tài đi sâu một số vấn đề về cuộc sống con người và
những tác động cũng như những biện pháp để nâng cao được đời sống của
người dân.
Pham vi nghiên cứu: Dân số ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin , căn cứ vào một số quan điểm trong đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (121986), đặc biệt là những vấn đề lý luận và từ thực tiễn công tác dân số - kế hoạch
hóa gia đình.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài em có sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp
kết hợp với phương pháp quy nạp – diễn dịch và phương pháp lịch sử – logic.
5. Cấu trúc của đề tài
Kết cấu của bài tiểu luận gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.Trong đó nội
dung gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA
ĐÌNH
Chương 2: THỰC TRẠNG DÂN SỐ VÀ CHÍNH SÁCH DÂN SỐ - KẾ
HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
4
5
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC DÂN SỐ TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
5
6
B.
Nội dung
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
1.1. Cơ sở lý luận chung về chính sách công
1.1.1. Khái niệm, vai trò thực hiện chính sách công trong quy trình chính
sách
1.1.1.1. Khái niệm về chính sách
Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế xã hội,khái
niệm chính sách được thể hiện với các cách hiểu khác nhau:
Chính sách là những sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt mục đích nhất định
dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế đề ra.
Chính sách là các chủ trương và các biện pháp của một đảng phái, một chính phủ
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội.
Chính sách là phương thức hành động được chủ thể khẳng định và thực hiện
nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trong đời sống hiện tại.
Từ trên ta có thể kết luận chính sách là những sách lược những kế hoạch do chủ thể
vạch ra để tiến hành một quá trình hướng đến mục tiêu nhất định.
1.1.1.2. Khái niệm chính sách công
Chính sách công là một trong những vấn đề quan trọng của chính trị, tuy nhiên cho
đến nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, nhận thức về vấn đề này vẫn chưa thực
sự thống nhất.
Ở nước ta, chính sách công thường được hiểu là chính sách, với nghĩa hẹp là
những chủ trương cụ thể của Nhà nước trong một lĩnh vực nào đó. Một số công
trình đã cố gắng đưa ra quan niệm về chính sách: “Chính sách là những chuẩn tắc
cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ; chính sách được thực hiện trong một thời
gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương
hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội…” .
6
7
Các nhà nghiên cứu có cách tiếp cận cụ thể hơn như sau: “Chính sách công
là chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực
công cộng…Đó là chương trình hoạt động được suy tính một cách khoa học, liên
quan với nhau một cách hữu cơ và nhằm những mục đích tương đối cụ thể; chủ thể
hoạch định chính sách công nắm quyền lực nhà nước; chính sách công bao gồm
những gì được thực sự thi hành chứ không phải chỉ những là tuyên bố”
Theo nghĩa rộng, chính sách công bao gồm những việc Nhà nước định là
hoặc không định làm. Điều đó có nghĩa là không phải mọi mục tiêu của chính sách
công đều dẫn tới hành động, mà nó có thể là yêu cầu của chủ thể không được hành
động. Chính sách tác động đến các đối tượng của chính sách - là những người chịu
sự tác động hay điều tiết của chính sách. Phạm vi điều tiết của mỗi chính sách rộng
hay hẹp tùy theo nội dung của từng chính sách. Có thể chia thành đối tượng trực
tiếp và đối tượng gián tiếp. Chính sách công được Nhà nước đề ra nhằm phục vụ lợi
ích chung của cộng đồng hoặc của quốc gia, gắn với việc phân phối và sử dụng các
nguồn lực công của Nhà nước.
Khái quát lại chúng ta có thể hiểu, Chính sách công là quyết định của các
chủ thể quyền lực Nhà nước, nhằm quy định mục đích, cách thức và chế định hành
động của những đối tượng liên quan, để giải quyết những vấn đề nhất định mà xã
hội đặt ra. Đó là tổng thể các chuẩn mực, biện pháp, thủ thuật mà Nhà nước sử
dụng để quản lí xã hội.
1.1.1.3. Khái niệm thực hiện chính sách công
Thực hiện chính sách công là giai đoạn chính trong quy trình chính sách, giai đoạn
các chính sách đi vào cuộc sống. Các chính sách được hoạch định xuất phát từ yêu
cầu khách quan của cuộc sống, từ những nhu cầu của xã hội và của nhân dân.Thực
hiện chính sách là quá trình giải quyết những nhu cầu đó, đem lại những biến đổi
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân. Đó là
chuỗi các hành động và biện pháp cụ thể để thi hành một quyết định chính sách đã
được thông qua.
7
8
Về thực chất đó là quá trình chuyển những tuyên bố trên giấy tờ của chính quyền về
các loại dịch vụ, mục tiêu, đối tượng, phương thức thành những hành động nhất
định nhằm phân phối lợi ích từ tuyên bố. Trong quá trình thực hiện chính sách, các
nguồn lực về tài chính công nghệ, con người được đưa vào sử dụng một cách có
định hướng. Nói cách khác đây là quá trình kết hợp giữa yếu tố con người với các
nguồn lực này một cách có hiệu quả theo những mục tiêu đề ra.
Từ đó ta có thể có khái niệm thực hiện chính sách: Thực hiên chính sách là giai
đoạn biến các ý đồ chính sách thành những kết quả thực tế thông qua hoạt động có
tổ chức của các cơ quan trong bộ máy nhà nước ,nhằm đạt tới mục tiêu đề ra.
1.1.1.4. Khái niệm chính sách dân số
Chính sách dân số là những quy định về mặt pháp lý, những chương trình quản lý,
điều hành và những hoạt động khác của Chính phủ nhằm vào việc thay thế hoặc sửa
đổi xu hướng phát triển dân số trong thời điểm hiện tại có quan tâm tới lợi ích và sự
sống còn của quốc gia.
Chính sách dân số là những chủ trương biện pháp của Đảng và Nhà nước đề ra và
thực hiện, nhằm ổn định dân số, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế- xã hội.
Chính sách dân số là các giải pháp và các chương trình nhằm đạt được các mục tiêu
kinh tế - xã hội, dân số, chính trị và các mục tiêu khác thông qua ảnh hưởng của các
biến dân số như qui mô, tốc độ gia tăng và phân bố dân số theo địa lí (trong nước và
quốc tế) và các đặc trưng nhân khẩu khác (Ủy ban Dân số của Hội đồng kinh tế xã
hội Liên hiệp quốc).
1.1.1.5. Khái niệm kế hoạch hóa gia đình
Ngày nay khi đời sống càng được nâng cao thì con người đã chú ý tới nhiều mặt
đặc biệt là vấn đề dân số kế hoạch hóa gia đình, trước đây ở Việt nam tỷ lệ sinh con
thứ 3 thứ 4 còn cao tuy nhiên dưới sự tác động của đời sống trong và ngoài nước do
những chính sách, do ý thức của người dân được nâng cao do đó tỷ lệ sinh đã có xu
hướng giảm nhưng vẫn còn tương đối cao so với các nước trong và ngoài khu vực,
vấn đề đặt ra ở đây đó là chúng ta phải vạch ra được một kế hoạc sao sao cho có
8
9
mức dân số hợp lý. Chúng ta có thể hiểu khái niệm kế hoạc hóa theo nhiều cách
khác nhau tuy nhiên tựu chung lại chúng ta có cách hiểu khái quát như sau.
Kế hoạch hóa gia đình là sự cố gắng có ý thức của một cặp (hoặc cá nhân)
nhằm điều chỉnh số con và khoảng cách sinh con, không chỉ bao hàm việc lựa chọn
sử dụng các biện pháp tránh thai mà còn là những cố gắng của các cặp vợ chồng để
có thai. Công tác Dân số, kế hoạch hóa gia đình ở những nước đang phát triển chủ
yếu là giảm gia sự tăng dân số .
1.1.2. Vai trò của công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình
Từ những phân tích trên, bên cạnh các biện pháp phát triển kinh tế, y tế, giáo
dục, kiểm soát việc khai thác tài nguyên, phân bố dân cư hợp lý, giải quyết ô nhiễm
môi trường thì kế hoạch hóa gia đình là một biện pháp căn cơ giúp giải quyết vấn đề
dân số và nâng cao chất lượng cuộc sống. Kế hoạch hóa gia đình ngoài mục đích
hạn chế sự gia tăng dân số còn nhằm bảo vệ sức khỏe của người phụ nữ và trẻ em
đồng thời đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Nên sinh từ 1-2 con: sinh ít con sẽ làm giảm khả năng tai biến sản khoa, tránh sa
sinh dục, bảo vệ được sức khỏe người phụ nữ tránh các tình trạng kém dinh dưỡng
đồng thời còn bảo vệ vẻ đẹp của người phụ nữ.
Khoảng cách sinh con nên từ 3-5 năm: không làm tăng thêm gánh nặng cho người
phụ nữ về dinh dưỡng cũng như về sức khỏe giúp giảm suy dinh dưỡng, giảm tai
biến sản khoa, giúp sinh dễ. Đồng thời người mẹ có thời gian chăm sóc trẻ, tránh
bệnh tật. Không sinh khoảng cách quá xa vì có thể đã quên kinh nghiệm nuôi con.
Tuổi có con nên từ khoảng 22-35. Sinh lúc còn quá trẻ khi cơ thể chưa phát triển
đầy đủ làm tăng tai biến sản khoa, tăng tỉ lệ suy dinh dưỡng cho cả mẹ và con.
1.2. Cơ sở pháp lý
1.2.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước
a) Quan điểm của Đảng
Tại Nghị quyết TW 4 khoá VII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về
chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, Đảng cộng sản Việt nam nêu rõ:
9
10
Công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng của chiến lược
phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của nước
ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từngngười, từng gia
đình và của toàn xã hội.
Giải pháp cơ bản để thực hiện công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là
vận động, tuyên truyền và giáo dục gắn liền với đưa dịch vụ kế hoạch hoá gia
đìnhđến tận người dân; có chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người chấp nhận
gia đình ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng thực hiện kế hoạch
hoá gia đình.
Đầu tư cho công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là đầu tư mang lại hiệu
quả kinh tế trực tiếp rất cao. Nhà nước cần tăng mức chi ngân sách cho công tác dân
số và kế hoạch hoá gia đình, đồng thời động viên sự đóng góp của cộng đồng và
tranh thủ sự viện trợ của quốc tế.
Huy động lực lượng của toàn xã hội tham gia công tác dân số và kế hoạchhoá gia
đình, đồng thời phải có bộ máy chuyên trách đủ mạnh để quản lý theo chương trình
mục tiêu, bảo đảm cho các nguồn lực nói trên được sử dụng có hiệu quả và đến tận
người dân.
Để đạt được mục tiêu trong thời gian tương đối ngắn, điều có ý nghĩa quyết
định là Đảng và chính quyền các cấp phải lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện
công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình theo chương trình.
b) Quan điểm của Nhà nước
Tại Quyết định số 147/2000/QĐ-TTg ngày 22/12/2000 của Thủ tướng
Chínhphủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 nêu
rõ:
Công tác dân số là bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước,là
một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người,
từng gia đình và toàn xã hội, góp phần quyết định để thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
10
11
Thực hiện đồng bộ, từng bước và có trọng điểm việc điều hoà quan hệ giữa
số lượng với chất lượng dân số, giữa phát triển dân số với phát triển nguồn nhân
lực, giữa phân bố và di chuyển dân cư với phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ
quan trọng của công tác dân số; tập trung ưu tiên cho các vùng có mức sinh
cao,vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa để giải quyết các vấn đề dân số và nâng cao
mức sống nhân dân.
Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho sự phát triển bền vững và mang lại
hiệu quả kinh tế - xã hội trực tiếp, gián tiếp và rõ rệt. Nhà nước đảm bảo đủ nguồn
lực cho công tác dân số, đồng thời vận động sự đóng góp của cộng đồng và tranh
thủ sự viện trợ của quốc tế.
Đẩy mạnh công tác truyền thông - giáo dục về dân số và phát triển, kết hợp
với việc thực hiện đầy đủ, có hiệu quả Chương trình chăm sóc sức khoẻ sinh sản kế hoạch hoá gia đình, tăng cường vai trò của gia đình và thực hiện bình đẳng giới
trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ sinh sản/kế hoạch hoá gia đình là các giải pháp cơ
bản để đảm bảo tính bền vững của chương trình dân số và phát triển.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền các cấp đối vớicông tác
dân số, đẩy mạnh xã hội hoá là yếu tố quyết định sự thành công của chương trình
dân số và phát triển.
1.2.2. Cơ sở pháp lý
Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình hiện nay được tập trung thực hiện
theo quy định tại các văn bản sau:
Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 14/01/1993 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá VII về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 06/3/1995 của Ban Bí thư về việc đẩy mạnhthực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 về chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình.
Chỉ thị số 37-CT/TTg ngày 17/01/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy
nhanh thực hiện chiến lược dân số - kế hoạch hoá gia đình.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng.
11
12
Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Ban Chấp hành Trung ươngvề
việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Quyết định số 09/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyếtsố
47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiệnchính
sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Nghị định số 114/NĐ-CP ngày 03/10/2006 của Chính phủ quy định xửphạt
hành chính về dân số và trẻ em.
Chỉ thị số 13/2007/CT-TTg ngày 06/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc
tăng cường thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết
số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thựchiện
chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Quy định số 94-QĐ/TW ngày 15/10/2007 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ
luậtđảng viên vi phạm.
Hướng dẫn số 11/HD-UBKTTW ngày 24/03/2008 của Ban Chấp hànhTrung
ương về việc thực hiện Quy định số 94-QĐ/TW ngày 15/10/2007 của BộChính trị
về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.Thông báo kết luận số 160-TB/TW ngày
04/6/2008 của Ban Bí thư về thựchiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình và
một số giải pháp cấp bách.
Quyết định 170/2007/Qđ-TTg ngày 08/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ về
Phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia dân số - kế hoạch hoá gia đình giai đoạn
2006 - 2010.Chỉ thị số 23/2008/CT-TTg ngày 04/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ
về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình.
Kết luận số 44-KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị về kết quả 3
nămthực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
12
13
Chương 2:
THỰC TRẠNG DÂN SỐ VÀ CHÍNH SÁCH DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA
GIA ĐÌNH
2.1. Thực trạng dân số
Dân số thế giới tăng trưởng ngày một nhanh, thời gian tăng thêm một tỷ
người ngày càng rút ngắn trong thế kỷ XX nhưng đã xuất hiện xu hướng giảm tốc
độ gia tăng dân số trong thế kỷ XXI.
Thế kỷ XX thường được gọi là “Thế kỷ dân số” hoặc thế kỷ của “Bùng nổ
dân số”. Nhân loại đã chứng kiến dân số tăng phi thường từ 1,65 tỷ người vào đầu
thế kỷ lên 6,06 tỷ người vào năm 2000, tăng 3,7 lần trong vòng 100 năm. Trong khi
đó, vào thế kỷ XIX dân số thế giới chỉ tăng 1,7 lần từ gần 1 tỷ người lên 1,65 tỷ
người cũng trong cùng khoảng thời gian 100 năm. Tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm
ngày một tăng lên khoảng 0,5% vào năm 1850, khoảng 1,78% vào giai đoạn 1950
đến 1955, khoảng 2,04% vào giai đoạn từ 1965 đến năm 1970, khoảng 1,57% vào
giai đoạn 1990 đến năn 1995 và hiện nay là 1,3%.
Quy mô dân số lớn vẫn tiếp tục gia tăng về số lượng tuyệt đối, song tốc độ
gia tăng có xu hướng giảm. Theo số liệu Tổng điều tra dân số ngày 01/4/1989 nước
ta có 64.412.000 người, đến năm 2007 số dân đã tăng lên tới 85.154.000 người, năm
2008 tăng lên 86.160.000 người. Đến tổng điều tra dân số và nhà ở tại thời điểm 0
giờ ngày 01/4/2009 dân số nước ta còn 85.789.573 người.
Từ nửa sau thế kỷ XX đến nay dân số Việt Nam tăng nhanh hoặc quá nhanh
như giai đoạn 1954-1960 với tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm là 3,93%; 1960-1970:
3,24%; 1970-1976: 3%. Năm 1992 nhịp độ tăng dân số của nước ta là 2,26%, năm
1997: 1,88%. Tốc độ tăng dân số đã giảm từ 2,34% vào năm 1979 xuống còn 1,51%
vào năm 1999 và 1,21% vào năm 2007. Với tỷ lệ gia tăng dân số quá nhanh nói
trên, mỗi ngày nước ta có thêm 3.100 người (tương đương dân số 1 xã nhỏ), mỗi
tháng thêm khoảng 97.000 người (khoảng 1 huyện) và mỗi năm thêm khoảng 1,1
triệu người (tương đương dân số 1 tỉnh trung bình).
13
14
Sự gia tăng dân số quá nhanh đã tạo nên sức ép rất lớn đối với việc phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của từngthành viên
trong xã hội.
2.2. Thực trạng chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình
Từ khi thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp chành Trung ương
Đảng khóa VII về “chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình” và Nghị quyết 47NQ/TW, ngày 22-3-2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về “tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình”, công tác dân số - kế hoạch hóa gia
đình đã đạt được những kết quả quan trọng:
Nhận thức của toàn xã hội đã có những chuyến biến rõ rệt, quy mô gia đình
có 1 hoặc 2 con được chấp nhận ngày càng rộng rãi; tốc độ gia tăng dân số nhanh đã
được khống chế, số con trung bình của một phụ nữ trong đội tuổi sinh đẻ đã giảm
mạnh từ trên 3,8 con (năm 1990) xuống 2,2 con (năm 2000) và đến nay đạt tiệm cận
mức sinh thay thế (mỗi cặp vợ chồng có khoảng 2,1 con); tỉ lệ phát triển dân số
giảm tương ứng từ hơn 2% xuống còn 1,25%.
Kết quả công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã góp phần rất quan trọng
vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm, xóa
đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân (với những thành tự
của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình năm 1999, Việt Nam đã được nhận
giải thưởng Dân số của Liên hợp quốc).
Tuy nhiên, những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2003, Pháp lệnh Dân số của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) (số 06/2003/PL-UBTVQH) được ban hành
còn có chỗ thiếu chặt chẽ, làm cho tình hình dân số có diễn biến phức tạp, mức sinh
và tỉ lệ sinh con thứ ba tăng trở lại, nhất là trong cán bộ, đảng viên, làm ảnh hưởng
tiêu cực đến phong trào thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình. Năm
2007, tỉ lệ sinh con thứ ba tăng hơn nhiều so với năm 2006, nhiều chỉ tiêu về thực
hiện các biện pháp tránh thai đạt kết quả thấp. Quý I năm 2008, số trẻ sinh ra tăng
7,2%, tỉ lệ sinh con thứ ba tăng 17,3% so với cùng kỳ năm 2007, kết quả thực hiện
14
15
các biện pháp tránh thai giảm nhiều so với kế hoạch, đây là thách thức gay gắt đối
với công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trong giai đoạn tới.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém:
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan về tâm lý, tập quán, điều kiện kinh
tế, dịch vụ xã hội phát triển, cơ cấu dân số trẻ, số phụ nữ bước vào tuổi sinh đẻ hàng
năm lớn; còn có những nguyên nhân chủ quan là:
Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp còn có tư tưởng chủ quan, thỏa mãn,
buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình; chưa quán
triệt đầy đủ các nội dung Nghị quyết 47-NQ/TW, ngày 22-3-2005 của Bộ Chính trị
về “tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình”.
Các cơ quan cấp Trung ương ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện mô hình
tổ chức bộ máy còn chậm, dẫn tới việc mỗi địa phương hiểu và thực hiện rất khác
nhau. Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Dân số thiếu chặt chẽ. Các
cấp, các ngành chưa xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
thiếu gương mẫu, vi phạm chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, đã có tác động
tiêu cực đến phong trào toàn dân thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia
đình.
Hệ thống tổ chức làm công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trong những
năm qua có nhiều thay đổi, không ổn định. Đặc biệt, vừa qua nhiều tỉnh, thành phố
đã triển khai, xử lý việc giải thể Ủy ban Dân số - gia đình và trẻ em địa phương
không đúng với tinh thần chỉ đạo của Trung ương.
Một bộ phận nhân dân, trong đó có cả cán bộ, đảng viên cho rằng, công tác
dân số - kế hoạch hóa gia đình đã kết thúc, dẫn tới việc coi nhẹ công tác này, tỉ lệ sử
dụng các biện pháp tránh thai giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước mà hậu quả sẽ
tăng sinh vào cuối năm nay và những năm tiếp theo.
15
16
Chương 3:
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC DÂN SỐ TRONG QUÁ
TRÌNH PHÁT TRIỂN
3.1. Phương hướng
Năm 2010 là năm cuối cùng thực hiện Chiến lược Dân số giai đoạn 2001 2010 của Chính phủ với mục tiêu tổng quát là ổn định quy mô dân số, nâng cao chất
lượng dân số, tiến tới đạt mức sinh thay thế. Để phát huy những kết quả đạt được
trong năm qua và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu về DS-KHHGĐ trong thời
gian tới, cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương cần quan tâm các phương hướng
sau:
Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và Nhà nước đối với công tác
DS-KHHGĐ, xem đây là nhiệm vụ chính trị mà cả hệ thống chính trị của địa
phương cần phải quan tâm thực hiện.
Củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức của Ban DS-KHHGĐ xã, đảm bảo ổn
định số lượng và chất lượng hoạt động của đội ngũ cộng tác viên các ấp. Tiếp tục
đưa đi đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác dân
số.
Thực hiện thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát công tác quản lý địa bàn của
cộng tác viên, thực hiện tốt phương châm “Đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối
tượng” để tránh những thiếu sót trong quá trình cập nhật thông tin về dân số - kế
hoạch hoá gia đình.
Xây dựng kế hoạch thực hiện mô hình đưa chính sách DS-KHHGĐ vào quy
ước xóm, ấp theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn cấp trên.
3.2. Giải pháp
Thực trạng và đặc điểm nêu trên của dân số Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đang đặt ra cho công tác dân số của nước ta nhiều
cơ hội và thách thức mới. Để củng cố, phát huy những thành tựu đã đạt được; đồng
thời, tiếp tục có được những thành công mới trong công tác dân số thời gian tới, cần
tập trung giải quyết một số vấn đề cốt yếu sau:
16
17
Tranh thủ sự lãnh chỉ đạo của các cấp Ủy Đảng, chính quyền cơ sở qua
côngtác xây dựng kế hoạch, tham mưu đề xuất các giải pháp thực hiện có hiệu quả.
Phối hợp với các ngành thành viên một cách chặt chẽ và đồng bộ nhằmthực
hiện tốt các mục tiêu theo Nghị quyết và các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước,
Chính phủ trong lĩnh vực DS-KHHGĐ.
Tiếp tục củng cố hoàn thiện bộ máy hoạt động của Ban Dân số, nâng caochất
lượng nghiệp vụ đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng tác viên, chuyên môn hóacông
tác quản lý chương trình đối với CBCT và CTV.Tăng cường công tác kiểm tra giám
sát thường xuyên các hoạt động vềcông tác quản lý, theo dõi cập nhật, thu thập các
thông tin biến động DS-KHHGĐở địa bàn các ấp.
Tăng cường công tác tư vấn tại trạm về các BPTT hiện đại, chăm sóc sứckhoẻ
sinh sản vị thành niên, chăm sóc thai nghén, sản phụ sau sinh và phòng chốngcác
bệnh lây truyền qua đường sinh sản.
Đầu tư nguồn lực đủ để đáp ứng nhu cầu thực hiện các mặt công tác dânsố,
kế hoạch hoá gia đình, nâng cao hiệu quả hoạt động sớm hoàn thành các mục tiêu
đề ra.
Đầu tư cho chất lượng dịch vụ qua các hoạt động tư vấn, cung cấp các dịchvụ
tránh thai có chất lượng cao, đảm bảo an toàn thuận tiện đối với người sử dụng,đa
dạng hoá các phương tiện tránh thai để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Tiếp tục vận động người sử dụng các BPTT thuốc viên, thuốc tiêm tránh thai,
bao cao su tiếp cận nguồn cung cấp các sản phẩm tiếp thị ngoài xã hội để tạothói
quen vì nhu cầu lợi ích của bản thân, giảm chi phí của nhà nước trong việc đầutư
cho chương trình.
Tăng cường các hoạt động phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể thành viên
thông qua kế hoạch liên tục hàng năm.
Tăng cường và có sự đổi mới trong công tác tuyên truyền, vận động, tư vấn,
giáo dục các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về DSKHHGĐ trong cộng đồng bằng nhiều hình thức cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, tập
trung nhiều hơn nữa cho các vùng khó khăn về 2 lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh
17
18
sản và KHHGĐ. Lấy sự chuyển biến từ nhận thức sang hành vi thực hiện làm thước
đo hiệu quả.
3.3. Chiến lược dân số của Việt Nam trong quá trình phát triển
Muốn tăng trưởng kinh tế thì yếu tố đầu tiên phải là con người - nguồn nhân
lực, mà nguồn nhân lực lại gắn liền với tình hình biến đổi dân số. Mặt khác, mục
đích cuối cùng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội không ngoài việc nâng cao
chất lượng cuộc sống của mỗi người dân. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được với một
quy mô, tốc độ tăng trưởng, sự phân bố dân cư và nguồn nhân lực phù hợp với nền
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Năm 1957 Đại hội đồng Liên hợp quốc nhất trí thông qua nghị quyết về các
vấn đề dân số, trong đó kêu gọi các nước thành viên tính đến mối quan hệ tương hỗ
giữa phát triển kinh tế và biến đổi dân số và cổ vũ các chính phủ đi theo con đường
"Kế hoạch hoá gia đình" để giảm bớt sự gia tăng dân số quá nhanh. Đặc biệt, đối
với các nước đang phát triển (chiếm tới 67% dân số thế giới vào năm 1950), chịu
ảnh hưởng trầm trọng của vấn đề bùng nổ dân số đã ngày càng quan tâm đến
chương trình kiểm soát sinh. Theo dự báo của Liên hợp quốc thì ngay cả khi các các
quốc gia đã có những nỗ lực và thành công nhất định trong công tác dân số thì quy
mô dân số thế giới vẫn có khả năng đạt tới con số 8 tỷ người vào năm 2025 với số
tăng trung bình hàng năm khoảng 80-90 triệu người. Ngày nay, hơn một nửa số các
cặp vợ chồng trên thế giới đã tích cực sử dụng các biện pháp tránh thai và họ đã có
ít con hơn so với cha mẹ mình vài chục năm trước đây. Mặc dù vậy, số trẻ sinh ra
hàng năm vẫn ở mức cao bởi số người bước vào độ tuổi sinh đẻ vẫn lớn hơn nhiều
so với số người bước ra khỏi độ tuổi sinh đẻ. Các nhà khoa học, lãnh đạo và các nhà
quản lý của nhiều quốc gia trên thế giới nhận thấy rằng, gia tăng dân số nhanh có
tác động hạn chế đến quá trình phát triển của từng quốc gia và cả thế giới. Gia tăng
dân số nhanh cũng góp phần làm căng thẳng thêm các vấn đề toàn cầu như: cạn kiệt
nguồn tài nguyên, suy thoái môi trường, hiện tượng nóng lên của khí hậu toàn cầu,
quá tải dân cư ở các khu đô thị lớn... Chính các hiện tượng này cùng với các nhu
cầu sống cơ bản của người dân không được đáp ứng đầy đủ như lương thực, chăm
18
19
sóc sức khoẻ, giáo dục, nhà ở..., sự phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng trong hưởng
thụ dẫn đến những mâu thuẫn và xung đột... là những yếu tố cản trở các nỗ lực ổn
định dân số ở mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam từ đầu thập niên 60 đến nay, Đảng và Nhà nước Việt nam luôn
quan tâm đến việc hoạch định và thực thi chính sách dân số quốc gia, nhằm làm
giảm mức sinh, mức chết, nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý.
Chính sách dân số hướng tới giảm mức sinh ở Việt Nam ra đời cách đây hơn 40
năm được đánh dấu bằng Quyết định 216/CP ngày 26-12-1961 của Hội đồng Chính
phủ. Tại thời điểm này dân số nước ta mới khoảng 30-31 triệu người. Điều đó
chứng tỏ Nhà nước ta đã sớm ý thức tầm quan trọng của việc kiểm soát mức sinh và
hơn nữa, có tầm nhìn chiến lược đối với công tác này khi xác định mục tiêu của sinh
đẻ có hướng dẫn không chỉ đơn thuần là để hạn chế quy mô dân số mà mục đích
quan trọng của nó là: "Vì sức khoẻ của người mẹ, vì hạnh phúc và sự hoà thuận của
gia đình, để cho việc nuôi dạy con cái được tốt...".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII
(năm 1993) nhận định: "Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên
nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho việc
cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hoá và thể lực của
nòi giống. Nếu xu thế này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai không xa nước ta sẽ
đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí những nguy cơ về nhiều mặt". Nghị
quyết đã nêu lên quan điểm về mối quan hệ giữa dân số và phát triển, vị trí của công
tác dân số và kế hoạch hoá gia đình: "Công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là
một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn
đề kinh tế - xã hội hàng đầu của từng người, từng gia đình và toàn xã hội.".
Chiến lược dân số - kế hoạch hoá gia đình đến năm 2000 được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt ngày 06/3/1993 đã thể chế hoá một giai đoạn thực hiện Nghị
quyết Trung ương lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) tạo nên
bước ngoặt có tính quyết định thành công của chương trình dân số Việt Nam.
19
20
Mức sinh giảm nhanh hơn so với kế hoạch đề ra đã tạo điều kiện thuận lợi để
đạt được mục tiêu hạ tỷ lệ phát triển dân số từ 2,1% (năm 1992) xuống còn trên
1,3% (năm 2002), quy mô dân số 79,7 triệu người (năm 2002), số con trung bình
của 1 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 2,28 con. Đây là một tiến bộ vượt bậc so với
mục tiêu của Chiến lược dân số - kế hoạch hoá gia đình đến năm 2000. Như vậy
mục tiêu đạt mức sinh thay thế vào năm 2015 chúng ta sẽ đạt sớm hơn 10 năm. Quy
mô dân số theo mục tiêu Nghị quyết Trung ương 4 là 85,2 triệu người thực tế nước
ta chỉ ở mức 79,5 triệu người (giảm 5,5 triệu người). Theo tính toán của Tổng cục
Thống kê dựa trên kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở (1999) đáng lẽ dân số nước
ta là 80 triệu người vào năm 1999 thì đến cuối 2002 chúng ta mới đạt con số này lùi
lại được 3 năm. Kết quả này đã góp phần giảm bớt chi ngân sách nhà nước cho dịch
vụ phúc lợi xã hội như giáo dục, y tế, trực tiếp góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng
cao mức sống cho những gia đình thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình.
Suy cho cùng tăng trưởng kinh tế nhằm đạt mục tiêu phát triển, chỉ tiêu tích
hợp này được thể hiện qua tỷ lệ tăng thu nhập bình quân đầu người (GDP). Tỷ lệ
tăng GDP đầu người phụ thuộc trực tiếp vào tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội và tỷ
lệ tăng dân số, trong đó tỷ lệ tăng sản phẩm quốc nội là tử số và tỷ lệ tăng dân số là
mẫu số. Để tăng được GDP bình quân đầu người thì tổng sản phẩm quốc nội phải
tăng nhanh hơn tỷ lệ tăng dân số. Việc hạ thấp tỷ lệ tăng dân số vừa góp phần làm
tăng GDP thông qua việc tăng số lượng và chất lượng lao động và tăng tiết kiệm chi
tiêu dùng để đầu tư phát triển kinh tế, nhưng được thấy rõ hơn là làm tăng GDP bình
quân đầu người, đặc biệt khi xem xét kết quả của việc thực hiện chương trình DSKHHGĐ làm tăng GDP bình quân đầu người được thấy đậm nét trong một giai
đoạn dài.
Trong giai đoạn 1991-2000, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng liên tục
qua các năm với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 7,56%. Đến năm 2000 tổng sản
phẩm trong nước đã gấp 2,07 lần năm 1990, đạt và vượt mức mục tiêu tổng quát đề
ra cho Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000 là tổng sản phẩm
trong nước gấp 2 lần. Đồng thời, tỷ lệ tăng dân số đã giảm rất nhanh và đạt mức
20
21
tăng 1,7% mỗi năm. Do đó, tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người cao nhất trong 3
thập kỷ qua là 5,86% bình quân mỗi năm.
3.4. Tăng trưởng kinh tế và gia tăng dân số 2000-2010
Các quốc gia trên thế giới cho thấy, hầu hết các nước đang phát triển có sự
phát triển nhảy vọt về kinh tế khi trước đó đã thực hiện có kết quả cao về DSKHHGĐ. Các nhà kinh tế học đã thừa nhận, việc giảm sinh trong 3 thập kỷ qua đã
góp phần lớn vào việc tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan,
Xingapo. Đối với Việt Nam, Liên hợp quốc dự báo rằng, nếu thực hiện tốt chương
trình DS-KHHGĐ thì quy mô dân số sẽ ổn định ở mức 120 triệu người và đến 2035,
GDP bình quân đầu người bằng 31,2 lần GDP bình quân đầu người năm 1990. Và
ngược lại, nếu không thực hiện tốt chương trình DS-KHHGĐ thì quy mô dân số sẽ
ổn định ở mức 160 triệu người và đến năm 2035, GDP bình quân đầu người chỉ
bằng 25 lần GDP bình quân đầu người năm 1990.
Như vậy chúng ta thấy trong thập kỷ 90, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
của Việt Nam vào khoảng 7,56% nhưng nếu tỷ lệ tăng dân số không giảm xuống
mức 1,7% mà vẫn tăng ở mức 2,4-2,5% như những năm đầu thập kỷ 80 thì tỷ lệ
tăng GDP bình quân đầu người sẽ giảm 1%. Vì vậy việc thực hiện thành công mục
tiêu của chương trình DS-KHHGĐ trong những năm thập kỷ 90 đã góp phần làm
tăng GDP bình quân đầu người mỗi năm. Trong 2 năm đầu của thế kỷ 21 mặc dù tốc
độ tăng trưởng kinh tế không đạt so với chỉ tiêu đề ra nhưng nhờ thực hiện tốt
chương trình DS-KHHGĐ nên tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người vẫn đạt ở mức
cao.
Nhằm tiếp tục phát huy thành quả của Chương trình Dân số đã đạt được góp
phần xây dựng đất nước phát triển, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ đã
chỉ đạo các ngành, các cấp tiến hành đánh giá tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược
dân số - kế hoạch hoá gia đình và 10 năm thực hiện Nghị quyết ban chấp hành
Trung ương lần thứ 4 khoá VII (1993-2003). Qua tổng kết sẽ rút ra những bài học
kinh nghiệm, đặc biệt là những mặt yếu kém cần khắc phục để có giải pháp thực
21
22
hiện tốt hơn những mục tiêu được đặt ra trong Chiến lược Dân số Việt Nam 20102020.
3.5. Nâng cao chất lượng dân số
Việt Nam đã có chương trình mục tiêu quốc gia về Dân số - kế hoạch hóa gia
đình với mục tiêu “Nâng cao chất lượng dân số” cũng như dự thảo chiến lược Dân
số và sức khoẻ sinh sản giai đoạn 2011-2020. Chương trình này bao gồm nâng cao
chất lượng dân số; cải thiện sức khoẻ sinh sản; duy trì cơ cấu dân số; quy mô, mật
độ dân số và mức sinh... Chiến lược này cũng ưu tiên quan tâm đến người nghèo,
vùng sâu vùng xa ở Việt Nam lẫn vấn đề giáo dục cho trẻ em ở miền núi và nông
thôn.
Bà Urmila Singh góp ý rằng Việt Nam cần phải tiếp tục củng cố hệ thống y tế
và cải thiện các dịch vụ cấp cứu sản khoa và chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh. Bà phát
biểu Việt Nam cần “nâng cao năng lực và tay nghề cho các nữ hộ sinh, đồng thời
thực hiện giáo dục về sinh đẻ an toàn”.
3.6. kiến nghị về chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình
Nhằm phát huy những mặt đạt được, khắc phục những khó khăn, hạn chế
trong thời gian qua, để nâng cao chất lượng hoạt động về công tác dân số - kế hoạch
gia đình trong năm 2010 và những năm tiếp theo, người viết xin đề xuất một số kiến
nghị sau:
Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật có liên quan đến công tác dân sốkế hoạch hoá gia đình, đảm bảo khi ban hành có thể thực hiện được ngay.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp Uỷ đảng, chính quyền địa phương đối
với công tác này, hàng năm cần đưa các mục tiêu về DS-KHHGĐ vào Nghị
quyếtcủa Đảng uỷ - HĐND để thực hiện.
Các ban ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội cần quan tâm hơn nữacông
tác phối hợp thực hiện các hoạt động của công tác này; đưa nội dung, chươngtrình,
mục tiêu về DS-KHHGĐ vào kế hoạch hoạt động của từng ban ngành để tiến hành
thực hiện.
22
23
UBND xã thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá từng hoạt động của
chương trình dân số nhằm rút ra những kinh nghiệm, kịp thời chấn chỉnh những sai
sót trong quá trình thực hiện; có hình thức khen thưởng các tổ chức, đơn vị, cánhân
gương mẫu thực hiện chính sách DS-KHHGĐ, xử lý nghiêm những trường hợp vi
phạm chính sách dân số theo quy định của Đảng và Nhà nước.
Tăng mức đầu tư về kinh phí cho chương trình dân số nhằm đảm bảo thực
hiện hoàn thành các chỉ tiêu được cấp trên giao.
Thường xuyên tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác
dân số và đội ngũ cộng tác viên nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng tuyên truyền về
công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình.
Điều chỉnh mức thù lao cho cộng tác viên nhằm đảm bảo cuộc sống cũng như
tạo điều kiện cho việc tham gia công tác lâu dài. Quan tâm đến việc khuyến khích
thi đua khen thưởng cho từng tập thể, cá nhân đạt được nhiều thành tích cũng như
có sự cống hiến cho công tác DS-KHHGĐ.
Đa dạng hoá các sản phẩm truyền thông về DS-KHHGĐ, cung cấp tài liệu, tờ
bướm, pa nô, áp phích…cho tuyến cơ sở nhằm phục vụ cho công tác tuyên truyền
được sinh động, phong phú hơn, phù hợp hơn với từng nhóm đối tượng.
23
24
C. KẾT LUẬN
Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình là bộ phận quan trọng trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước cũng góp một phần không nhỏ trong công cuộc xây
dựng và tiến tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ngày nay Việt nam ngày một phát triển, đời sống nhân dân không ngừng
được nâng cao về vật chất mà cùng với đó là mặt tinh thần, họ không chỉ chú ý đến
ăn, mặc ở mà còn là đi lạ nghĩ ngơi… có rất nhiều quốc gia đã giảm tỷ lệ sinh như
Đức, Nga… chính phủ phải có nhiều chính sách để tăng dân số tuy nhiên do cuộc
sống, do trình độ nên tỷ lệ sinh ở các nước này dang giảm mạnh.
Việt nam được đánh giá là nước có tỷ lệ dân số “vàng” trong giai đoạn hiện
nay, tuy nhiên với diện tích hiện tại cùng với mức dân số trên 90 triệu người thì đây
vừa là một thế mạnh giúp cho Việt nam có được nguồn lao động dồi dào, tuy nhiên
nếu khôn có chính sách đúng đắn rất có thể dẫn đến là gánh nặng cho xã hội, gây ra
những khó khăn cho nền kinh tế và cũng có thể kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình là giải pháp cơ bản để
nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội.
Việc xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước với các ngành,
đoàn thể, tổ chức xã hội, chính trị - xã hội là yếu tố quan trọng đảm bảo cho việc
kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động về công tác dân số - kế hoạch hoá
gia đình ở cở sở, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng và Nhà nước giao
cho công tác này đó là “Ổn định quy mô dân số, nâng cao chất lượng dân số, tiến tới
đạt mức sinh thay thế” trong năm 2020 và những năm tới.
Trên đây là bài tiểu luận kết thúc môn chính sách công, do là sinh viên Lào
tiếng Việt chưa tốt còn hạn chế về ngôn ngữ do đó bài viết sẽ còn nhiều hạn chế em
rất mong nhận được lời nhận xét của thầy cô để em hoàn thành bài tiểu luận của
mình. Em xin cảm ơn.
24
25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 14/01/1993 của Hội nghị lần thứ 4
BanChấphành Trung ương Đảng khoá VII về chính sách dân số và kế hoạch hoá
gia đình.
2.Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 06/3/1995 của Ban Bí thư về việc đẩy mạnh
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình.
3.Chỉ thị số 37-CT/TTg ngày 17/01/1997 của Thủ tướng Chính phủ về
việcđẩy nhanh thực hiện chiến lược dân số - kế hoạch hoá gia đình.
4.Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng.
5.Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Ban Chấp hành Trung
ươngvề việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia
đình.
6.Quyết định số 09/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006 của Thủ tướng Chínhphủ
về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyếtsố
47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiệnchính
sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
7.Nghị định số 114/NĐ-CP ngày 03/10/2006 của Chính phủ quy định xửphạt
hành chính về dân số và trẻ em.
8.Chỉ thị số 13/2007/CT-TTg ngày 06/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ
vềviệc tăng cường thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện
Nghịquyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
9.Quy định số 94-QĐ/TW ngày 15/10/2007 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ
luậtđảng viên vi phạm.
10.Hướng dẫn số 11/HD–UBKTTW ngày24/03/2008 của Ban Chấp
hànhTrung ương về việc thực hiện Quy định số 94-QĐ/TW ngày 15/10/2007 của
BộChính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.Thông báo kết luận số 160-TB/TW
ngày 04/6/2008 của Ban Bí thư về thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia
đình và một số giải pháp cấp bách.
25