Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Công giáo tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 23 trang )

Công giáo tại Việt Nam


Mục lục
1

Công giáo tại Việt Nam

1

1.1

Tên gọi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

1

1.2

Lịch sử . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

1

1.2.1

ời kỳ khai sinh (1533 - 1659) . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

1

1.2.2

ời kỳ hình thành (1659 - 1802) . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .



3

1.2.3

ời kỳ thử thách (1802 - 1885) . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

4

1.2.4

ời kỳ phát triển (1885 - 1975) . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

5

1.2.5

ời kỳ từ năm 1975 đến nay . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

6

Các đóng góp của Công giáo cho Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

7

1.3.1

Chữ quốc ngữ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

7


1.3.2

Kỹ thuật in ấn và báo chí . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

8

1.3.3

Khoa học và y khoa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

8

an hệ giữa Giáo hội và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam . . . . . . . . . . . .

8

1.4.1

an hệ giữa Tòa thánh và chính quyền . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

8

1.4.2

Nhà nước can thiệp vào sinh hoạt nội bộ tôn giáo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

9

1.4.3


an điểm của giới Công giáo về các vấn đề xã hội, chính trị . . . . . . . . . . . . . . .

9

1.4.4

Các cơ sở Công giáo mà Nhà nước Việt Nam đã chuyển quyền sử dụng . . . . . . . . . .

10

1.4.5

Các vụ bất đồng hoặc xung đột giữa giáo dân và chính quyền . . . . . . . . . . . . . . .

10

1.5

Xem thêm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

10

1.6

Chú thích

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

11


1.7

Liên kết ngoài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

12

1.3

1.4

2

Negev

13

2.1

Địa lý . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

13

2.2

Khí hậu

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

14


2.3

Lịch sử . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

14

2.3.1

Du mục . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

14

2.3.2

Kinh thánh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

14

2.3.3

Nabataeans . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

14

2.3.4

Byzantine và La Mã . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

14


2.3.5

Người Bedouin: dân cư và lịch sử từ năm 1000 sau công nguyên đến năm 1948 . . . . . .

14

2.3.6

Người Bedouin ở Israel 1948-nay . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

15

Negev hiện tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

16

2.4

i


ii

MỤC LỤC
2.4.1

Các vấn đề môi trường hiện tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

16


2.4.2

Năng lượng mặt trời . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

17

2.5

am khảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

17

2.6

Liên kết ngoài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

18

2.7

Nguồn, người đóng góp, và giấy phép cho văn bản và hình ảnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

19

2.7.1

Văn bản . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

19


2.7.2

Hình ảnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

19

2.7.3

Giấy phép nội dung . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

20


Chương 1

Công giáo tại Việt Nam
tu sĩ, 1.249 đại chủng sinh và 53.800 giáo lý viên.[5] Tới
năm 2008, theo thống kê của Giáo hội, số lượng tín hữu
Công giáo Việt Nam là hơn 6,18 triệu người, chiếm tỉ lệ
7,18% tổng dân số.[6]

1.1 Tên gọi
Trong tiếng Việt, thuật ngữ Công giáo được dùng để
dịch chữ καθολικος, catholicus hoặc catholique, với ý
nghĩa đó là "đạo chung, đạo phổ quát” đón nhận mọi
người, chứ không riêng cho dân tộc hay quốc gia nào.[7]
Các văn kiện tiếng Việt của Giáo hội hoặc Hội đồng
Giám mục Việt Nam đều dùng chữ “Công giáo”, Ban
Tôn giáo Chính phủ Việt Nam cũng dùng chữ “Công

giáo”.[8] Tuy nhiên, trong ngữ cảnh không chính thức
thì “Công giáo” cũng được gọi là “iên Chúa giáo” hay
"đạo iên Chúa”.

1.2 Lịch sử
1.2.1 Thời kỳ khai sinh (1533 - 1659)
Những tiếp xúc ban đầu
Cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, Việt Nam bắt đầu giao
thương với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha,
Anh, Pháp và cả Nhật Bản ở châu Á để trao đổi hàng
hóa và vũ khí quân sự. ời gian này, Công giáo cũng
phát động cuộc truyền giáo quy mô lớn đi đến khắp nơi
trên thế giới, trong đó có miền Viễn Đông Á châu.

Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn

Cộng đồng Công giáo tại Việt Nam là một bộ phận
của Giáo hội Công giáo Rôma,[1] dưới sự lãnh đạo tinh
thần của Giáo hoàng và Giáo triều Rôma. Với khoảng
6,87%,[2] Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ người Công
giáo (trong tổng dân số) xếp thứ năm ở châu Á, sau
Đông Timor, Philippines, Liban và Hàn ốc. ời cực
thịnh, Công giáo tại Việt Nam còn được mệnh danh là
“Trưởng nữ Giáo hội bên Viễn Đông”.[3]

Bấy giờ là thời kỳ hoàng kim của 2 cường quốc thực
dân Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Đều là những quốc
gia Công giáo kỳ cựu, cả hai nước cạnh tranh nhau
quyết liệt trong địa hạt kinh tế và khai thác thuộc địa.
Các mâu thuẫn lớn đến mức, cả hai nước phải cùng

xin Giáo hoàng làm trọng tài giải quyết. Do đó, Giáo
hoàng Alexandre VI đã ban Sắc chỉ “Inter Caetera” ngày
Giáo hội Công giáo có mặt tại Việt Nam từ thế kỷ 16 4 tháng 5 năm 1493, phân chia theo hướng Đông Tây
khi các nhà truyền giáo châu Âu tới giảng đạo. Trải quả địa cầu cho hai vương quốc Bồ Đào Nha và Tây
qua nhiều thăng trầm và biến đổi lịch sử, cho đến năm Ban Nha, theo đó vùng đất bờ phía Tây Phi Châu và
2016, Công giáo tại Việt Nam có hơn 6 triệu tín hữu[4] vùng Đông Ấn, bao quát từ Ấn Độ, Xiêm La, Malacca,
trong tổng số dân 82 triệu, với 3.100 linh mục, 14.400 Sumatra, Java, Đại Việt, Trung Hoa và Nhật Bản, được
1


2
đặt dưới chế độ bảo trợ của Bồ Đào Nha. Phần lại của
thế giới mới được đặt dưới chế độ bảo trợ của Tây Ban
Nha.

CHƯƠNG 1. CÔNG GIÁO TẠI VIỆT NAM
nhiều nhà truyền giáo thuộc nhiều dòng tu và hội thừa
sai khác đã đến Việt Nam. Năm 1596 thầy dòng người
Tây Ban Nha tên là Don Diego d’Averte đã đặt chân
đến Huế, nhưng bị đuổi đi ngay. Năm 1614 những nhà
truyền giáo dòng Tên theo chân các thương nhân người
Bồ Đào Nha từ Macao, qua phía nam Trung Hoa, để đến
Việt Nam. Các bề trên Dòng Tên còn thành lập hẳn
một tổ chức truyền giáo tại Đàng Trong (la Mission de
Cochinchine) năm 1615.

Do sự phân chia này, các thừa sai Bồ Đào Nha hay các
quốc tịch khác đều phải tập trung, bị kiểm soát tại hải
cảng Lisbõa để xuống tàu lên đường truyền giáo vùng
Đông Ấn. Sử liệu Pháp ghi lại rằng vào năm 1516 có

một nhà hàng hải Bồ Đào Nha tên là Fernao Perez de
Andrade đã đến tận bờ biển Việt Nam. Trong bộ Khâm
định Việt sử ông giám Cương mục được soạn thảo
dưới triều Tự Đức có nói đến chỉ dụ cấm đạo Công giáo
(khi đó gọi là đạo Gia-tô, phiên âm từ chữ Giê-su trong Các cộng đoàn sơ khai
tiếng Hán) chú thích như sau:
Những nỗ lực truyền giáo đầu tiên thực tế chỉ là những
Các làng trên nay lần lượt thuộc các huyện Trực Ninh,
sự dọ dẫm, chuẩn bị cho giai đoạn khai phá chính thức.
Hải Hậu và Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Tuy nhiên
Giai đoạn này kéo dài từ năm 1615-1665 với các vị thừa
những chi tiết liên hệ tới I-nê-khu (có thể là phiên âm
sai Dòng Tên, cùng thời điểm, lãnh thổ Việt Nam bị
của Inácio trong tiếng Bồ Đào Nha, Ignacio hoặc Íñigo
chia cắt thành hai miền Nam Bắc, lấy sông Gianh làm
trong tiếng Tây Ban Nha) ngày nay không còn được
ranh giới. Phía Nam gọi là Đàng Trong, do các chúa
ghi nhớ, và do đó không ai biết rõ về tông tích, cũng
Nguyễn cai quản. Phía Bắc gọi là Đàng Ngoài do vua
như về công cuộc truyền đạo của vị thừa sai thứ nhất
Lê, chúa Trịnh nắm quyền.
này. Mặc dù vậy, với dấu tích đầu tiên trong tài liệu sử
chính thống, nhiều nhà sử học Công giáo Việt Nam đã Các linh mục Dòng Tên theo chân Phanxicô Xaviê
chọn năm 1533 là năm khởi đầu cho đạo Công giáo tại truyền giáo tại Nhật Bản năm 1549, bị Nhật hoàng
Daifusama (?) trục xuất khỏi đất Phù Tang năm
Việt Nam.
1614,[10] đã tập trung tại Macao (được xem như một
eo linh mục Marcos Gispert, O.P., nhà sử học Dòng
đầu cầu thành lập từ năm 1564). Từ kinh nghiệm truyền
Anh Em uyết Giáo đã sống tại Việt Nam 34 năm, sau

giáo ở Trung ốc và Nhật Bản, các thừa sai rất quan
Inekhu còn một số nhà truyền giáo khác như:
tâm đến việc học ngôn ngữ, phong tục Việt và giảng
đạo bằng tiếng Việt. Các linh mục Dòng Tên ở lại Việt
• Linh mục Gaspar da Cruz, thuộc Tỉnh Dòng ánh
Nam cho tới năm 1788. Vắng bóng đi trong một thời
Giá Đông Ấn, vào năm 1550 từ Malacca đổ bộ lên
gian 169 năm (1788-1957).
Hà Tiên, và sau đó từ cửa biển Bà Rịa đi ảng
Ngày 15 tháng 1 năm 1615, linh mục Francesco Buzomi,
Đông.
Diego Carvalho và các trợ sĩ đến Cửa Hàn, Đà Nẵng.
• Hai linh mục Lopez và Acevedo: năm 1558 đã tới
Tiếp theo là Francisco de Pina, Cristoforo Borri, nhất
giảng vùng Cao Miên trong 10 năm.
là khi Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đến Cửa Bạng,
• Hai linh mục Luis de Fonseca, O.P. (Bồ Đào Nha) anh Hóa (1629). Vì nhu cầu học hỏi ngôn ngữ Việt
và Grégoire de la Moe, O.P. (Pháp) cũng từ (lúc đó còn dùng chữ Hán và chữ Nôm) để giao tiếp
Malacca tới, suốt 6 năm đi truyền giáo tại ảng với người Việt mà các giáo sĩ bắt đầu ghi lại bằng cách
Nam trong thời Chúa Nguyễn Hoàng (1580-1586). phiên âm tiếng Việt dưới dạng chữ La tinh. Các giáo sĩ
đã có gắng tổ chức giáo hội bằng cách tập trung khắp
Để thuận lợi hơn trong vấn đề truyền giáo, ngày 3 nơi từng nhóm thanh thiếu niên và cả người đã đứng
tháng 11 năm 1534, Giáo hoàng Phaolô III ban Sắc chỉ tuổi thiện chí, sống đời độc thân và cùng với các linh
“Aequum Reputamus” thiết lập Giáo phận Goa khởi từ mục trong giáo xứ hay là trong các nơi xa xôi hẻo lánh
mũi Hảo Vọng (Nam Phi) đến Nhật Bản, bao gồm quốc để chia sẻ việc truyền đạo, nhất là chuyện dạy giáo lý
gia Đại Việt. Ngày 4 tháng 2 năm 1557, Giáo hoàng cho dân chúng và cũng giúp nâng cao đời sống xã hội
Phaolô IV ký Sắc chỉ “Pro Exellenti Praeminentia” thiết của người dân.
lập Giáo phận Malacca, bao gồm lãnh thổ Indonesia, Chữ ốc ngữ ban đầu chưa được công nhận và chỉ
Malaysia, Xiêm, Cam Bốt, Chàm, Đại Việt, Trung Hoa dùng như chữ phiên âm cách phát âm, và phải cạnh
và Nhật Bản. Năm 1558, giáo sĩ Jorge da Santa Lucia, tranh với chữ Nôm, vốn có một chỗ đứng nhất định

Dòng Đa Minh Bồ Đào Nha, được phong Giám mục trong văn hóa Việt Nam. Kho tàng văn chương Hántiên khởi Giáo phận Malacca. Đến ngày 23 tháng Nôm Công giáo cũng rất lớn, tuy nhiều giáo sĩ chỉ có
1 năm 1576, Giáo hoàng Grêgôriô XIII ban Sắc chỉ thể nói tiếng Việt (qua cách học chữ ốc ngữ phiên
“Super Specula Militantis Ecclesiae”, thành lập Giáo âm) mà không thể viết chữ Nôm. Chỉ riêng giáo sĩ
phận Macao, tách ra từ Giáo phận Malacca, gồm lãnh Girolamo Majorica, trong khoảng 1632-1656, đã viết 45
thổ Trung Hoa, Đại Việt và Nhật Bản.[9]
tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm, nổi tiếng nhất là cuốn
Mặc dù cả hai giáo phận Malacca và Macao đều thuộc Các ánh Truyện viết năm 1646. Nhiều tác phẩm bị hư
“quyền bảo trợ" của Bồ Đào Nha, tuy nhiên đã có rất hỏng và mất mát do thời gian, chiến tranh và bách hại


1.2. LỊCH SỬ
tôn giáo.
Việc truyền đạo được vua chúa Việt Nam cho phép
trong một số nơi với nhiều hạn chế của các quan lại địa
phương, nên các tín đồ gặp nhiều khó khăn trong việc
giữ đạo, có nơi phải bị giết chết như trường hợp thầy
giảng Anrê Phú Yên ở ảng Nam ngày 26 tháng 7 năm
1644. Ngày 3 tháng 7 năm 1645, linh mục Alexandre
de Rhodes rời Việt Nam về Roma để báo cáo cho Tòa
ánh về những tiến triển mau chóng trong việc truyền
đạo tại Việt Nam, nhất là xin gửi một số Giám mục
đến truyền giáo tại Việt Nam, nơi mà ông gọi là “cánh
đồng truyền giáo phì nhiêu” để củng cố nền móng cho
Giáo hội tại nước này. Ông được Tòa ánh cho phép đi
khắp nước Pháp đi tìm kiếm những linh mục sẵn sàng
xung phong và tiếp tục công việc đã khởi sự với nhiều
thành quả may mắn. Tại đây mới có Hội ừa sai Paris
(Missions Étrangères de Paris), ra đời năm 1658 và được
chấp nhận năm 1664 dưới thời Giáo hoàng Alexanđê
VII.


1.2.2

Thời kỳ hình thành (1659 - 1802)

Một gia đình Công giáo sùng đạo ở Miền Nam Việt Nam (1970),
với 3 người con làm linh mục, 3 người con làm nữ tu.

Ngày 9 tháng 9 năm 1659, Giáo hoàng Alexanđê VII
qua Sắc chỉ Super Cathedram quyết định thiết lập ở Việt
Nam hai giáo phận tách ra từ giáo phận Macao, và chọn
hai người thừa sai thuộc Hội ừa sai Paris làm Đại diện
Tông Tòa. Giáo phận Đàng Trong từ sông Gianh trở
vào Nam, gồm cả phần đất Chiêm ành, Chân Lạp do
Giám mục Pierre Lambert de la Moe cai quản. Giáo
phận Đàng Ngoài từ sông Gianh trở ra Bắc, bao gồm
cả Lào và 5 tỉnh miền Nam Trung ốc do Giám mục
François Pallu cai quản.

3
Giám mục Lambert de la Moe đã quy định thể
chế nhà Đức Chúa Trời (giáo hội), và thành lập
Dòng Mến ánh Giá, các chị em nữ tu là những
cộng tác viên rất đắc lực của hàng giáo phẩm trong
việc truyền đạo bên cạnh giáo dân, nhất là trong
các vùng thôn quê.
• Đã xây dựng Đại chủng viện Penang (1870) để đào
tạo các linh mục bản xứ châu Á và Việt Nam: các
thánh linh mục tử đạo miền Nam đều xuất thân từ
đây; và suốt ba thế kỷ đã gắn bó với giáo hội địa

phương cho tới sáng ngày 12 tháng 8 năm 1975,
ngày mà các vị thừa sai ngoại quốc sau cùng được
lệnh ra khỏi Việt Nam.
eo lời mời của Giám mục Phanxicô Pallu vì những
đòi hỏi rất khẩn trương tại Việt Nam, số tín hữu tân
tòng tiếp tục gia tăng, linh mục giám tỉnh Dòng Anh
Em uyết Giáo là Felipe Pardo, O.P., từ Manila đã phái
hai linh mục Juan de Santa Cruz và Juan Arjona đi lối
Trung Linh (Bùi Chu) lên Phố Hiến (Hưng Yên) ngày 7
tháng 7 năm 1676. Nhưng sự bất hoà giữa các thừa sai
Dòng Tên và các Giám mục thuộc Hội ừa sai Paris,
cùng với các sắc chỉ cấm đạo của vua chúa Việt Nam
khi ấy khiến các vị thừa sai đã đi tìm một giải pháp mới,
mà người ta cho rằng, đã tạo cơ hội người Pháp có điều
kiện can thiệp và xâm chiếm Việt Nam bằng vũ lực sau
này.
Năm 1679, Giáo hoàng Innôcentê XI lại chia giáo phận
Đàng Ngoài thành hai giáo phận: Tây Đàng Ngoài (từ
sông Hồng tới ranh giới Ai Lao) trao cho Hội ừa sai
Paris dưới quyền quản nhiệm của Giám mục Bourges,
và Đông Đàng Ngoài (từ tả ngạn sông Hồng chạy ra
biển), ban đầu cũng do Giám mục Deydier của Hội ừa
sai Paris phụ trách nhưng năm 1693, Giám mục Deydier
qua đời, Giám mục De Bourges xin Tòa ánh trao giáo
phận này cho Dòng Đa Minh, vì từ 20 tháng 8 năm 1679
tất cả số nhân sự của dòng đó đã tập trung về đây.

Đồng thời, linh mục Tổng quyền Dòng Anh Em uyết
Giáo sát nhập các cơ sở truyền giáo của Hội Dòng tại
miền Bắc hồi đó vào Tỉnh dòng Đức Mẹ Mân Côi tại

Philippines. Từ Nhà Tổng quyền S. Sabina (tại Roma)
cha Raimondo Lezoli, O.P., được ánh bộ Truyền giáo
đề cử sang tiếp tay với linh mục Juan de Santa Cruz (lúc
đó đang ở Trung Linh), về sau Tòa ánh yêu cầu ông
chính thức lãnh trách nhiệm tất cả miền Đông. Ngày 2
tháng 2 năm 1702, tại Kẻ Sặt linh mục Raimondo Lezoli
được thụ phong Giám mục tiên khởi của Dòng Đa Minh
Năm 1669, Lambert tới Phố Hiến (Hưng Yên) và đầu tại miền Bắc. Nền móng vững chắc Đa Minh đã được
năm 1670, ông truyền chức linh mục cho 7 thầy, chủ toạ xây dựng tại Việt Nam, và một trong những hạt giống
công đồng đầu tiên ở Phố Hiến, lập Dòng Mến ánh Dòng uyết Giáo đã gieo sâu trong lòng dân tộc bản
Giá tại Kiên Lao (Bùi Chu) và Bái Vàng (Hà Tây).
xứ, sự tôn sùng tràng hạt Đức Mẹ Mân Côi vẫn còn tồn
Hội ừa sai Paris có công lớn với giáo hội Việt Nam tại cho tới ngày nay.
bằng cách:
Giám mục Pigneau de Béhaine, quen gọi là Bá Đa Lộc,
Đại diện Tông tòa Đàng Trong (1771-1799), đã hết lòng
• Đã triệu tập Hội nghị Mục vụ đầu tiên: ngày 14 giúp đỡ Nguyễn Phúc Ánh, khi ông đang bị khốn đốn
tháng 2 năm 1670 tại Đình Hiến tỉnh Nam Định, bởi cuộc vây hãm của quân Tây Sơn. Giám mục này đã


4

CHƯƠNG 1. CÔNG GIÁO TẠI VIỆT NAM

đưa hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh (lúc bấy giờ mới lên
4 tuổi) sang Pháp và vận động người Pháp giúp đỡ tàu
chiến, vũ khí để Nguyễn Phúc Ánh chống Tây Sơn và
chúa Trịnh.
Tâm định của các vị thừa sai và của Giám mục Bá Đa
Lộc là muốn cho người Công giáo Việt Nam được an

thân giữ đạo và đạo Chúa được mở rộng. Ông đã nuôi
dạy Hoàng tử Cảnh ở dinh Tân Xá. Sau khi ở Pháp về
năm 1789, hoàng tử Cảnh không chịu làm lễ bái trước
bàn thờ chư vị tiên đế khiến Gia Long rất bực tức. Bá
Đa Lộc cũng đã khuyên hoàng tử Cảnh phải tôn trọng
tục lệ thờ kính ông bà và lễ bái trước bàn thờ chư vị
tiên đế.[11] Đây cũng là một trong những nguyên nhân
sâu xa khiến vua Gia Long không chọn hoàng tôn Đán
mà lại chọn người con thứ là hoàng tử Đảm sau này.

đạo lý nhưng quá nghiêm khắc với tục đa thê. Đối với
ta, không thể chỉ lấy một vợ, mặc dù ta thấy là trị cả
nước còn dễ dàng và ít mệt mỏi hơn là giữ cho gia đình
ta được yên ấm”.[12] Sau này, người Công giáo bắt đầu
gặp nhiều cuộc cấm đạo kể từ triều vua Minh Mạng.
Đặc biệt là Phong trào Văn ân với khẩu hiệu “Bình
Tây sát Tả" vào những năm 1867-1868, 1873-1874 và
1883-1885.
Năm 1844, Giáo hoàng Grêgôriô XVI chia giáo phận
Đàng Trong thành hai giáo phận mới: Tây Đàng Trong
(trung tâm là Sài Gòn) gồm sáu tỉnh Nam Kỳ và Cao
Miên do Giám mục Dominique Leèbvre Ngãi cai quản,
Đông Đàng Trong (trung tâm là y Nhơn) do Giám
mục E.T. Cuénot ể cai quản.

Năm 1846, giáo phận Tây Đàng Ngoài được chia làm
Bá Đa Lộc chết ngày 9 tháng 10 năm 1799 và hoàng hai: Tây Đàng Ngoài (trung tâm là Hà Nội) doa Giám
tử Cảnh chết năm 1801 làm dập tắt hi vọng của người mục P.A. Retord Liêu cai quản và Nam Đàng Ngoài
Công giáo Việt Nam về một thời kì tự do truyền đạo.
(trung tâm là Vinh) do Giám mục Gauthier Hậu cai

quản.

1.2.3

Thời kỳ thử thách (1802 - 1885)

Năm 1848, giáo phận Đông Đàng Ngoài lại chia thành
Đông Đàng Ngoài (trung tâm là Hải Phòng) và Trung
Đàng Ngoài (trung tâm là Bùi Chu). Cũng trong năm
này, Tự Đức lên ngôi vua và ra dụ cấm đạo,[13] cũng vì
sự cấm đạo tàn nhẫn này dẫn tới thực dân Pháp có cớ
xâm chiếm Việt Nam.[13] Một trong những tuyên cáo
của Tự Đức có ghi:
Ba năm sau đó, năm 1851, sự khoan dung này dành cho
các linh mục bản xứ đột nhiên bị bãi bỏ. Từ đó dụ cấm
đạo càng khắt khe hơn trước.[13] Từ đó về sau: “hoặc
là họ [người Công giáo] phải chà đạp lên thánh giá, nếu
không sẽ chém làm hai ở ngang lưng.” (trảm yêu). Trong
năm đó và năm kế tiếp, bốn vị giáo sĩ truyền đạo người
Pháp đã bị chém đầu và thi thể bị ném trôi sông hay ra
biển. Báo chí Công giáo tại Pháp kêu la trong sự kinh
hoàng, và sự khích động đã thu nhận được một cảm
tình nơi Hoàng Hậu Pháp Eugenie, nhất là khi trong số
các nạn nhân sau này có tên một vị tu sĩ Tây Ban Nha
mà khi còn là thiếu nữ, hoàng hậu này có quen biết tại
Andalusia.

Tranh vẽ thời Nguyễn cảnh xử tử giáo sĩ Pháp Jean-Charles
Cornay


Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu là
Gia Long, triều đại đầu tiên của nhà Nguyễn đóng đô ở
Phú Xuân, Huế. Nhớ ơn Giám mục Bá Đa Lộc, Gia Long
cho phép tự do truyền bá đạo Công giáo. Nhà vua có
thiện cảm với đạo nhưng không muốn theo đạo vì thấy
luật lệ đạo quá nghiêm khắc đối với tục đa thê và việc
thờ cúng tổ tiên. Ông nói: "Đạo iên Chúa rất hợp với

Năm 1850, Tòa ánh lại chia địa phận Tây Đàng Trong
thành hai: Tây Đàng Trong (các tỉnh Biên Hòa, Gia
Định, Định Tường, Vĩnh Long) do Giám mục Leèbvre
cai quản và Nam Vang (phần đất các tỉnh phía nam Hậu
Giang của Việt Nam và cả nước Cao Miên) do Giám mục
J.C. Miche Mịch cai quản. Giáo phận Đông Đàng Trong
cũng chia thành hai: Bắc Đàng Trong là Huế (gồm Huế,
ảng Bình, ảng Trị, ừa iên) do Giám mục F.M.
Pellerin Phan cai quản và Đông Đàng Trong gồm các
tỉnh từ ảng Nam vào đến Bình uận và các tỉnh
Tây Nguyên do Giám mục Cuénot ể cai quản.
Năm 1856, chiến thuyền Catinat vào cửa Đà Nẵng rồi
cho người đem thư lên trách triều đình Việt Nam về
việc giết giáo sĩ Công giáo. Không được trả lời, quân
Pháp bắn phá các đồn lũy rồi bỏ đi. Có Giám mục
Pellerin trốn được lên tàu, về Pháp thuật lại cho triều
đình Pháp cảnh tượng các giáo sĩ Công giáo bị đàn áp


1.2. LỊCH SỬ

5


dã man ở Việt Nam. Pellerin nói rằng chỉ cần có loạn là
các tín đồ Công giáo sẽ nổi lên đánh giúp. Cùng sự tác
động của Hoàng hậu Pháp Eugénie, một người rất sùng
đạo, Hoàng đế Pháp Napoléon III (1808 - 1873) quyết ý
đánh Việt Nam.[14]

số ở miền Nam; sau năm 1954, các con số này đã đảo
ngược. Hệ quả là Giáo hội Công giáo ở Miền Bắc bị xáo
trộn còn Công giáo ở Miền Nam bị thay đổi cấu trúc.
Lúc này, giáo phận Cần ơ được thành lập, tách ra từ
giáo phận Nam Vang; giáo phận Nha Trang được thành
Vào năm 1883, Tòa ánh lại tách giáo phận Đông lập, tách ra từ giáo phận y Nhơn.
Đàng Ngoài thành: Đông (Hải Phòng) và Bắc (gồm các Năm 1957, giáo hội Việt Nam (Miền Nam) yêu cầu các
tỉnh ở phía Bắc như Bắc Ninh, Bắc Giang, Bắc Kạn, Cao linh mục Dòng Tên trở lại. Ngày 13 tháng 9 năm 1958
Bằng, Lạng Sơn) do Giám mục Colomer Lễ cai quản.
những linh mục dòng Tên nhận trách nhiệm điều khiển
Như vậy, các giáo phận lúc này gồm: ở Đàng Trong Giáo hoàng Học viện Piô X Đà Lạt, đồng thời khuếch
là Tây Đàng Trong (Sài Gòn), Đông Đàng Trong (y trương nhiều hoạt động khác nhau trong lãnh vực văn
Nhơn), Bắc Đàng Trong (Huế), Nam Vang (Cần ơ). hóa xã hội ở Miền Nam Việt Nam. Đặc biệt, họ lập ra
Ở Đàng Ngoài là Tây Đàng Ngoài (Hà Nội), Nam Đàng cả kênh Truyền hình Đắc Lộ với mục tiêu giáo dục cho
Ngoài (Vinh), Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng), Trung nhân dân, thay vì truyền giáo.
Ngày 24 tháng 11 năm 1960, qua Tông Hiến
Venerabilium Nostrorum, Giáo hoàng Gioan XXIII thiết
lập Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam, tức là hệ
1.2.4 Thời kỳ phát triển (1885 - 1975)
thống giáo sĩ lãnh đạo Giáo hội tại Việt Nam được giao
cho người Việt, với 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài
Thời kỳ 1885-1945
Gòn. Ngày 22 tháng 8 năm 1961, ánh địa La Vang

được tôn phong là Vương cung thánh đường. Một năm
Khi triều đình Huế ký Hiệp ước Giáp ân 1884 với sau, ngày 13 tháng 11 năm 1962, Nhà thờ Đức Bà Sài
Pháp, công nhận sự bảo hộ của Pháp thì Công giáo Gòn cũng được Tòa ánh tôn phong lên hàng Vương
Việt Nam lúc đó mới thật sự được tự do, công khai hoạt cung thánh đường.
động. Giáo dân tăng nhanh, cơ sở tôn giáo như: nhà
thờ, tu viện, tòa giám mục, trường học, viện dưỡng lão, Các giám mục Việt Nam cũng đi dự Công đồng Vatican
viện cô nhi… được xây dựng khắp nơi. Các giáo phận II, các nghị phụ gồm có: Tống giám mục chính tòa
được chia nhỏ lại. Miền Bắc gồm các giáo phận: Hà Nội, Tổng giáo phận Sài Gòn Phaolô Nguyễn Văn Bình,
Phát Diệm, Hưng Hoá, Vinh, Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Tổng giám mục chính tòa Tổng giáo phận Huế Phêrô
Ninh và một Phủ doãn Tông Tòa là Lạng Sơn. Miền Máctinô Ngô Đình ục, Giám mục Philípphê Nguyễn
Nam gồm các giáo phận: Sài Gòn, y Nhơn, Huế, và Kim Điền (Giáo phận Cần ơ), Giám mục Micae
một phần của giáo phận Nam Vang. Tổng cộng là 12 Nguyễn Khắc Ngữ (Giáo phận Long Xuyên), Giám mục
giáo phận. Năm 1925, Tòa ánh lập Tòa khâm sứ ở chính tòa Giáo phận Mỹ o Giuse Trần Văn iện,
Đông Dương, đặt tại Phủ Cam (Huế). Ngày 10 tháng 01 Giám mục Đa Minh Hoàng Văn Đoàn (sau đó là Giám
năm 1933, Giáo hoàng Piô XI ra sắc lệnh bổ nhiệm linh mục Giáo phận i Nhơn), Giám mục Giáo phận Đà
mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm Giám mục Nẵng Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi và hai giám mục
hiệu tòa Sozopoli, giữ chức Giám mục phó với quyền chính tòa ngoại quốc ở Việt Nam là Giám mục Paul
Tum) và Marcel Piquet Lợi
kế vị giáo phận Phát Diệm. Ông là vị Giám mục người Seitz Kim (Giáo phận Kon
[16]
(Giáo
phận
Nha
Trang).
Việt Nam đầu tiên.
Ngày 18 tháng 3 năm 1967, tức 291 năm sau (16761967), linh mục Aniceto Fernandez - bề trên Tổng
Thời kỳ 1945-1954
quyền Dòng Anh Em uyết Giáo tuyên bố là đã tới
thời điểm tách dòng ở Việt Nam ra khỏi sự phụ thuộc
Thời kỳ 1954-1975

dòng ở Philippines, để thành lập Tỉnh dòng Anh Em
uyết Giáo riêng với danh hiệu Tỉnh dòng Nữ vương
Từ 1954-1975, Việt Nam chia thành hai miền: miền Bắc
Các ánh Tử đạo Việt Nam.
với chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và miền
Nam với chính thể Việt Nam Cộng hòa.
Đàng Ngoài (Bùi Chu) và Bắc Đàng Ngoài (Bắc Ninh).

eo Hiệp định Genève, 1954, người Việt Nam ở Bắc
hay Nam vĩ tuyến 17 sẽ được phép di chuyển qua đường
phân ranh tạm thời trong thời hạn 300 ngày. Trong số
những người rời miền Bắc, có số liệu nói là gồm 700.000
là người Công giáo, 619 linh mục và 5 giám mục (bỏ lại
chừng 375 linh mục, 4 Giám mục Việt Nam và 2 Giám
mục ngoại quốc ở miền Bắc).[15] Cuộc di cư 1954 này đã
thay đổi một cách triệt để tỷ lệ người Công giáo ở miền
Bắc và miền Nam. Trước đó, người Công giáo chiếm
khoảng 10% dân số ở miền Bắc và chỉ chiếm 5% dân

Miền Bắc Sau cuộc di cư 1954, số linh mục còn lại tại
miền Bắc chừng 28%, giáo dân chừng 60%, có những
giáo phận như ái Bình, Bùi Chu, Bắc Ninh, Phát
Diệm, Hải Phòng… số người Công giáo di cư vào miền
Nam khá đông.[17] Các hoạt động chủ yếu của người
Công giáo miền Bắc là giữ đạo thay vì truyền giáo bởi
vì thiếu người lãnh đạo, cộng với chính sách kiềm chế
tôn giáo, đặc biệt là đạo Công giáo của chính quyền
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả các chủng viện,
trường học và hầu hết các tu viện Công giáo đều bị nhà



6

CHƯƠNG 1. CÔNG GIÁO TẠI VIỆT NAM

nước tịch thu. Một số linh mục và chức sắc của xứ đạo
bị bắt, đi tù trong chính sách cải cách ruộng đất (19551956). Ngoại trừ Dòng Chúa Cứu ế và Dòng ánh
Phaolô còn lại ở miền Bắc, các dòng tu khác đều rút
lui vào miền Nam.[18] Vì nhu cầu cần có thêm linh mục
nên nhiều Giám mục đã phải truyền chức "chui" (lén
chính quyền) cho một số người làm linh mục.

cho thấy bản án này có liên quan đến chính trị, ngược
lại, chỉ trưng ra lý do duy nhất: các giám mục, linh mục
trong số bị kết án vì họ là đạo trưởng (giáo sĩ), các giáo
dân bị kết án vì họ không chịu bỏ đạo Công giáo, không
chịu bước qua cây thập giá. Nói cách khác, lý do được
công khai tuyên bố có tính cách hoàn toàn tôn giáo.[19]
Hà Nội nhận định, việc phong thánh này sẽ làm cho
mối liên lạc giữa chính quyền và Giáo hội Công giáo
tại Việt Nam, cũng như mối quan hệ giữa Việt Nam
và Vatican thêm căng thẳng. Đài phát thanh Việt Nam
đọc lệnh của Chính phủ, cấm người Công giáo cử hành
lễ phong thánh này. Các giám mục lẫn giáo dân tại
Việt Nam cũng không được chính quyền cho phép sang
Vatican dự lễ.

Miền Nam Suốt nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam,
Tổng thống Ngô Đình Diệm - một người Công giáo
sùng đạo - đã có những chính sách tạo điều kiện cho

Giáo hội Công giáo dấn thân phục vụ xã hội cách rộng
rãi. Năm 1959, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã đặt Việt
Nam Cộng hòa dưới sự bảo trợ của Đức Mẹ Maria.
áng 5 năm 1963 xảy ra biến cố Phật giáo khiến sau đó
chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ và anh em ông bị
Các bổ nhiệm quan trọng của Tòa Thánh
ám sát vào ngày 2 tháng 11 cùng năm. Dù vậy, những
năm sau đó, Công giáo tại miền Nam Việt Nam vẫn có
những bước phát triển.. Cuối năm 1959, Tòa ánh cho
thành lập Tòa Khâm sứ mới tại miền Nam Việt Nam,
đặt tại thủ đô Sài Gòn. Ngày 23 tháng 4 năm 1975, Giám
mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn uận của Giáo phận
Nha Trang được Tòa ánh bổ nhiệm làm Tổng Giám
mục hiệu tòa Vadesi, Tổng Giám mục phó của Tổng
giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị. Ông là cháu ruột
của cựu Tổng thống Ngô Đình Diệm.

1.2.5

Thời kỳ từ năm 1975 đến nay

Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (Chính phủ
Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam) kiểm soát
được miền nam Việt Nam từ sau Sự kiện 30 tháng 4 năm
1975. Những ngày sau đó xảy ra sự bất ổn tại Tổng giáo
phận Sài Gòn và Tòa khâm sứ Sài Gòn. Ngày 27 tháng 6
năm 1975, tại Dinh Độc Lập, Ủy ban ân quản ành
phố Sài Gòn - Gia Định công bố quyết định không
cho Tổng giám mục phó Nguyễn Văn uận được hoạt
động mục vụ tại Sài Gòn vì họ cho rằng việc bổ nhiệm

này là một âm mưu chính trị, sau đó, họ yêu cầu ông
trở về lại giáo phận Nha Trang như trước đây. Ngày 19
tháng 12 năm 1975, chính quyền yêu cầu Khâm sứ Tòa
ánh Henri Lemaitre phải rời khỏi Việt Nam. Kể từ
đó, giữa chính quyền Việt Nam với Tòa ánh không
còn kênh liên hệ chính thức nào.

Logo Năm Thánh 2010

Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II
đã chính thức phong thánh cho 117 vị tu sĩ và giáo dân
Công giáo Việt Nam. Khi được tin về việc phong thánh,
chính quyền Việt Nam lên tiếng phản đối và cho rằng
đây là lý do chính trị vì trong số những người sẽ được
phong thánh, có nhiều người là “tay sai của đế quốc,
lót đường cho thực dân Pháp đô hộ Việt Nam" từ năm
1884. Tuy nhiên, theo quan điểm của phía Công giáo
thì họ là những tín hữu đã chết vì lý do tín ngưỡng, họ
bị hành quyết bởi bản án do chính tay vua, hay đại diện
triều đình thời đó ký nhận. Không có bằng chứng nào

Sau khi Hồng y Trịnh Như Khuê qua đời, Tòa ánh
tôn phong người kế nhiệm của ông là Tổng Giám mục
Giuse Maria Trịnh Văn Căn lên chức hồng y vào ngày
2 tháng 5 năm 1979. Sau khi nhận chức, ông tiếp xúc
với chính quyền và ban Tôn giáo Trung ương để vận
động thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam (thống
nhất). Từ 24 tháng 4 đến 1 tháng 5 năm 1980, có 33 Giám
mục trong cả nước về Hà Nội dự Đại hội các Giám mục
Việt Nam, quyết định thành lập Hội đồng Giám mục

Việt Nam (thống nhất), khẳng định đường hướng mục
vụ cho giáo hội tại Việt Nam "Sống Phúc Âm giữa lòng

Ngày 24 tháng 5 năm 1976, Giáo hoàng Phaolô VI đã
nâng Tổng Giám mục Hà Nội Giuse Maria Trịnh Như
Khuê lên chức Hồng y linh mục (thuộc nhà thờ hiệu
tòa San Francesco di Paolo of Monti). Đây là vị hồng y
đầu tiên của Việt Nam và cũng là người Việt Nam đầu
tiên được quyền tham gia bầu chọn giáo hoàng.


1.3. CÁC ĐÓNG GÓP CỦA CÔNG GIÁO CHO VIỆT NAM

7

dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào".[20] Hồng
y Trịnh Văn Căn, với tư cách là chức sắc cao cấp nhất
của Giáo hội tại Việt Nam, khi ấy trở thành chủ tịch ủy
ban thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam.

Hội đồng Giám mục Việt Nam là tổ chức, cơ cấu duy
nhất của các vị Giám mục tại Việt Nam, với mục đích
hội nghị, và đưa ra đường hướng chung cho cả Giáo hội
tại Việt Nam.

Năm 1990, sau cái chết của Hồng y - Tổng giám mục
Hà Nội Trịnh Văn Căn, Tòa ánh bổ nhiệm Giám mục
chính tòa Giáo phận Bắc Ninh Phaolô Giuse Phạm Đình
Tụng làm Tổng giám mục Giám quản tiên khởi Tổng
giáo phận Hà Nội, kiêm chức Giám đốc Đại Chủng viện

ánh Giuse Hà Nội. Bốn năm sau đó, năm 1994, Giám
mục Tụng chính thức được bổ nhiệm là Tổng giám mục
chính tòa Hà Nội và chỉ sáu tháng sau, Giáo hoàng
Gioan Phaolô II chọn ông làm hồng y.

Nhân dịp kỷ niệm 350 năm thành lập hai giáo phận
tông toà Đàng Ngoài, Đàng Trong và 50 năm thành lập
hàng giáo phẩm Việt Nam, năm thánh 2010 của riêng
giáo đoàn Việt Nam đã diễn ra với sự chấp thuận của
Tòa thánh. Năm thánh 2010 khai mạc vào tối 23 tháng
11 năm 2009 tại Sở Kiện và bế mạc vào ngày 6 tháng 1
năm 2011 tại La Vang.[23]

Năm 2001 và 2003, Giáo hoàng Gioan Phaolô II lần lượt
phong tước Hồng y cho Tổng giám mục Nguyễn Văn
uận - Nguyên Tổng giám mục phó Tổng giáo phận
ành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch ánh bộ Công lý
và Hòa Bình của Vatican, và Tổng giám mục Tổng giáo
phận ành phố Hồ Chí Minh lúc đó là Gioan Baotixita
Phạm Minh Mẫn.

Công giáo Việt Nam hải ngoại

Trong dòng người thuyền nhân rời Việt Nam có đông
đảo người Công giáo. Ngày nay, với hơn nửa triệu người
ở rải rác khắp nơi trên thế giới, Cộng đồng Công giáo
Việt Nam ở hải ngoại có nhiều hình thức sinh hoạt khác
nhau. Có nơi thì họ tạo thành giáo xứ Việt Nam do một
linh mục Việt Nam làm quản xứ (quản nhiệm, tuyên
Ngày 4 tháng 1 năm 2015, Giáo hoàng Phanxicô thăng uý); có nơi thì lập giáo đoàn Việt Nam trong một giáo

Hồng y cho Tổng giám mục Hà Nội Phêrô Nguyễn Văn xứ địa phương do linh mục Việt Nam làm cha phó phụ
Nhơn, ông là vị Hồng y thứ sáu của Công giáo tại Việt trách với tính cách quản nhiệm (Hoa Kỳ) hay tuyên uý
(Úc); có nơi chỉ là một cộng đoàn nhỏ bé, chưa có người
Nam.
phụ trách, thỉnh thoảng mới tụ họp nhau dâng thánh lễ
Tính đến hết tháng 4 năm 2015, Việt Nam có 3 Tổng
bằng tiếng Việt. Đặc biệt, Dòng Đồng Công đã tổ chức
giáo phận Hà Nội, Huế, Sài Gòn và 23 giáo phận. Có cả
Ngày ánh Mẫu hằng năm, và được coi là một trong
thảy trên một trăm vị được tấn phong giám mục, trong
những dịp quy tụ người Việt lớn nhất hải ngoại.
đó có 6 vị nhận tước Hồng y.
Tổ chức chia địa giới

1.3 Các đóng góp của Công giáo
cho Việt Nam

Hiện nay, Giáo hội Công giáo tại Việt Nam được chia Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, người Công giáo Việt
Nam còn đóng vai trò quan trọng: là lực lượng xã hội
thành ba giáo tỉnh:
đầu tiên nối với văn minh phương Tây từ nửa cuối thế
• Giáo tỉnh Hà Nội: với một tổng giáo phận và 10 kỷ XIX, từ Nam kỳ rồi lan ra cả nước. Nhiều xứ họ đạo
bỗng nhiên trở thành một đơn vị hạt nhân cho việc hiện
giáo phận.
đại hóa cả về kinh tế, kỹ thuật và quan hệ xã hội.[24]
• Giáo tỉnh Huế: với một tổng giáo phận và 6 giáo
phận.
• Giáo tỉnh Sài Gòn: với một tổng giáo phận và 10
giáo phận.
Trong thời gian sắp tới, theo kế hoạch thì sẽ có thêm 3

giáo phận mới gồm Lào Cai (giáo tỉnh Hà Nội),[21] Hà
Tĩnh (giáo tỉnh Hà Nội) và Pleiku (giáo tỉnh Huế).[22] ,
đồng thời chuyển Giáo phận Vinh về Giáo tỉnh Huế.

1.3.1 Chữ quốc ngữ

Khi truyền đạo cho người Việt Nam, khó khăn đầu tiên
mà các giáo sĩ vấp phải là sự khác biệt về ngôn ngữ và
văn tự; các giáo sĩ có thể học tiếng Việt được, nhưng
học chữ Nôm thì quá khó. Bởi vậy họ đã dùng bộ chữ
cái Latinh quen thuộc có bổ sung thêm các dấu phụ (mà
một số ngôn ngữ phương Tây như chữ Bồ Đào Nha đã
từng làm) để ghi âm tiếng Việt – thứ chữ này về sau
được gọi là chữ ốc ngữ. Chữ ốc ngữ là thành quả
công sức tập thể của các giáo sĩ Công giáo người Bồ
Đào Nha, Ý, Pháp… và những người Việt đã từng giúp
họ học tiếng Việt.

Đứng đầu mỗi tổng giáo phận hay giáo phận là một vị
Tổng giám mục hay Giám mục chính tòa do Tòa ánh
bổ nhiệm, với sự đồng thuận của Chính phủ Việt Nam.
Trong trường hợp một tổng giáo phận hay giáo phận
bị trống tòa, Tòa ánh sẽ bổ nhiệm một Giám mục
làm Giám quản Tông Tòa hoặc linh mục đoàn của giáo Năm 1632 Gaspar d’Amaral đã soạn cuốn từ điển Bồ
phận ấy bầu ra một vị linh mục giám quản.
- Việt. Song công lao lớn nhất trong việc củng cố và


8


CHƯƠNG 1. CÔNG GIÁO TẠI VIỆT NAM

phát triển thứ chữ này thuộc về linh mục Alexandre de
Rhodes, người đã dày công sưu tập, bổ sung biên soạn
và năm 1651 đã cho xuất bản ở Rôma cuốn từ điển Việt
– Bồ - La tinh với ngữ pháp tiếng An Nam. Tuy mục
đích ban đầu của việc soạn chữ ốc ngữ chỉ là giúp
các giáo sĩ truyền đạo, rồi sau được chính quyền Pháp
sử dụng phục vụ cho việc cai trị, nhưng nếu so với chữ
Hán và chữ Nôm nó có ưu điểm lớn là rất dễ học.[25]
Chữ ốc ngữ có khả năng biểu thị chính xác bất kỳ
âm thanh nào của tiếng Việt, cấu tạo lại đơn giản, dễ
học, dễ nhớ, người Việt chỉ cần học ba tháng là đã có
thể sử dụng được chữ ốc ngữ.[26] Do đó, chữ ốc
ngữ ra đời đã kết thúc thời kỳ kéo dài sự cách biệt giữa
tiếng Việt và chữ viết. Đây là lý do quan trọng nhất
khiến cho chữ ốc ngữ ngày càng được phổ biến và
sử dụng rộng rãi và có vai trò to lớn trong sự phát triển
văn hoá Việt Nam các thời kỳ sau này.

1.3.2

Kỹ thuật in ấn và báo chí

Cùng với việc truyền bá đạo Công giáo, các giáo sĩ đã
du nhập vào Việt Nam rất nhiều thành tựu của kỹ thuật
hiện đại phương Tây. Trong đó, một ngành công nghệ
có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của
văn hoá Việt Nam được các giáo sĩ ừa sai đưa vào
nước này khá sớm: đó là ngành in ấn. Sự du nhập công

nghệ in hiện đại đã góp phần làm thay đổi diện mạo
văn hoá Việt Nam bản địa những năm đầu thế kỷ XIX,
đặc biệt trên lĩnh vực báo chí.[26] Trước khi kỹ thuật in
chữ rời được các ừa sai Công giáo du nhập, ở Việt
Nam phổ biến là kỹ thuật in ván khắc. ời Giám mục
Retord (1840 – 1858), một nhà in được lập ở Vĩnh Trị
năm 1855 do ừa sai eurel trông nom, chủ yếu là in
các sách giáo lý bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Latinh
và chữ ốc ngữ. Nhà in này vừa áp dụng công nghệ
in khắc gỗ để in chữ Hán, chữ Nôm đồng thời kết hợp
với in chữ rời để in chữ Latinh và chữ ốc ngữ. Công
nghệ in chữ rời có thể được coi là công nghệ in tiên tiến
nhất ở Việt Nam lúc bấy giờ. Vào những năm 60 của
thế kỷ XIX, một xưởng in khác nữa cũng được thành
lập ở giáo phận Đông Nam Kỳ, in các sách chữ Hán,
chữ Nôm, chữ Latinh và chữ ốc ngữ.
Có thể thấy, mặc dù các xưởng in đó lúc đầu chỉ phục
vụ cho Giáo hội, nhưng điều quan trọng là sự du nhập
kỹ thuật in tiên tiến của phương Tây vào Việt Nam đã
là tiền đề vật chất quan trọng cho sự phát triển của
văn hoá bản địa sau này, mà trước hết là sự phát triển
của báo chí – một lĩnh vực của văn hoá được du nhập từ
phương Tây vào nước ta. ế kỷ XX chứng kiến sự phát
triển rầm rộ của báo chí Việt Nam, điều đó là do sự phát
triển của công nghệ in và việc phổ cập chữ ốc ngữ.
Trong buổi đầu phát triển của nền báo chí Việt Nam,
sự đóng góp của báo chí Công giáo là không nhỏ. Tờ
báo Công giáo đầu tiên là tờ Nam Kỳ địa phận ra ngày
26 tháng 11 năm 1908 ở Sài Gòn. Tiếp đến là các tờ:
ánh thể (1919) (ở địa phận Phát Diệm – Ninh Bình),

ánh giáo tuần báo Bắc Kỳ (1920 – 1923), Trung Hoà

nhật báo ở Hà Nội (1924 – 1943), Công giáo Tiến hành
(1936 – 1938), Công giáo Đồng inh (1927 – 1937)…
Ngay từ khi ra đời, báo chí Công giáo đã sớm tiếp cận
được cách trình bày, minh hoạ, cập nhật thông tin của
báo chí phương Tây. Việc sử dụng chữ ốc ngữ của
báo chí Công giáo góp phần phát triển tiếng Việt. Hơn
nữa, báo chí Công giáo còn là kho tư liệu về lịch sử tôn
giáo, về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam
thời cận đại.[26]

1.3.3 Khoa học và y khoa
Trong số những nhà truyền giáo buổi đầu ở Việt Nam,
không ít người được đào tạo bài bản trong các dòng
tu, học viện phương Tây nên họ cũng là những nhà
khoa học tinh thông nhiều lĩnh vực. Họ đã góp công
đưa nền khoa học phương Tây tiếp cận đến Việt Nam.
Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) thuộc Dòng Tên - một
dòng tu về nghiên cứu khoa học - năm 1627 đã mang
biếu Chúa Trịnh chiếc đồng hồ chạy bằng bánh xe và
cuốn Kỷ hà nguyên bản của nhà toán học Euclide, đồng
thời ông cũng giảng giải cho Trịnh Tráng nghe. Năm
1626, Giáo sĩ Badinoti (người Ý) cũng được vời về phủ
chúa ở ăng Long để giảng về thiên văn học, địa lý và
toán học. Các giáo sĩ khác như Da Coxta, Langerloi đã
mang vào Đàng Trong phương pháp chữa bệnh theo lối
Tây y nên được chúa cho mở nhà thương (bệnh viện).
Tại ăng Long - Kẻ Chợ, khi giáo sĩ Đắc Lộ truyền
giáo đến đây cũng đã thiết lập một nhà thương chữa

bệnh cho người nghèo ở Cầu Dền. Đây là những cơ
sở từ thiện và chữa bệnh theo lối Tây y sớm nhất ở
Việt Nam.[27] Một số giáo sĩ cũng phổ biến kỹ thuật
dệt vải mịn và khổ rộng bằng khung dệt mang từ nước
ngoài vào để sản xuất tại Dòng Mến ánh Giá Di Loan
(ảng Trị) và sản phẩm đã được trưng bày tại Hội
chợ Triển lãm Paris năm 1867. Người ta cũng ghi nhận
chính các giáo sĩ đã đưa giống cừu vào Phan Rang để
nuôi và linh mục Henry cũng là người đầu tiên đưa cây
phi lao về trồng ở xứ Hà Úc (Huế).

1.4 Quan hệ giữa Giáo hội và Nhà
nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam

1.4.1 Quan hệ giữa Tòa thánh và chính
quyền
an hệ Tòa ánh và chính quyền Việt Nam bắt đầu
được nối lại bằng những cuộc tiếp xúc trực tiếp từ năm
1990, sau khi Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa. Năm
1994, Campuchia và Tòa ánh thiết lập quan hệ ngoại


1.4. QUAN HỆ GIỮA GIÁO HỘI VÀ NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

9

giao và vị Sứ thần tại Campuchia vẫn đảm nhận liên Nam mỗi năm để thảo luận về hoạt động của Giáo hội
lạc với Việt Nam.
Công giáo và cũng để bàn bạc với giới chức Việt Nam

Ngày 5 tháng 3 năm 2000, Giáo hoàng Gioan Phaolô II về việc bổ nhiệm giám mục. Mặc dù Tòa ánh luôn
đã tôn phong thầy giảng Anrê Phú Yên lên bậc Chân nhấn mạnh rằng việc bổ nhiệm giám mục phải xin phép
phước. Chính quyền Việt Nam không phản ứng như chính phủ vốn không phải là thông lệ của họ, nhưng họ
đợt phong trước, một biểu hiện sự ấm dần lên trong có thể tạm thời chấp[35]nhận trong bối cảnh quan hệ hai
quan hệ giữa Giáo hội và chính quyền. Có ý kiến cho bên đang tiến triển.
rằng chính quyền Việt Nam không tìm cách loại trừ mà
muốn “quản lý" Giáo hội Công giáo ở Việt Nam.[28]
Tuy trong thời gian gần đây, một số người công giáo
tại Việt Nam tham gia các lực lượng đối lập với chính
quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nên
bị chính quyền theo dõi hoạt động,[29] có trường hợp
bị quản thúc hoặc xử tù,[30] nhưng chính quyền Việt
Nam cũng cố gắng xây dựng một số động thái làm “tan
băng” trong quan hệ với Tòa ánh.
Đầu năm 2007, ủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng
đã viếng thăm Vatican, hội kiến Giáo hoàng Biển Đức
XVI và ủ tướng Vatican, Hồng y Tarcisio Bertone.
Đây là vị thủ tướng đầu tiên của Việt Nam đến Vatican
hội kiến Giáo hoàng, kể từ sau năm 1975.[31] Giáo hoàng
Biển Đức XVI đã ra sắc lệnh tôn phong hai nhà thờ ở
Việt Nam lên hàng vương cung thánh đường là Phú
Nhai (ngày 12 tháng 8 năm 2008) và Sở Kiện (ngày 24
tháng 6 năm 2010). Như vậy, Việt Nam hiện có 4 Vương
cung thánh đường.

1.4.3 Quan điểm của giới Công giáo về các
vấn đề xã hội, chính trị
áng 5 năm 2012, Ủy ban Công lý và Hòa bình trực
thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đưa ra bản
thông cáo “Nhận định về một số tình hình tại Việt Nam

hiện nay”.[36] eo đó, họ cho rằng nền kinh tế Việt
Nam đang bộc lộ những nguy cơ nghiêm trọng, tác
động trực tiếp đến cuộc sống của người dân và tương lai
của đất nước. Định hướng kinh tế lấy quốc doanh làm
chủ đạo đã tạo ra độc quyền và lạm quyền, làm méo mó
sự vận hành cần có của nền kinh tế thị trường. Doanh
nghiệp nhà nước đóng góp ít vào tăng trưởng kinh tế
nhưng lại nhận nhiều đặc quyền đặc lợi, gây bất công
và kìm hãm sự phát triển của khối tư nhân. Bên cạnh
đó, ủy ban này còn chỉ trích Luật đất đai hiện hành của
Việt Nam vừa đi ngược tự nhiên, vừa không tôn trọng
Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Luật đất đai đó quy
định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng do Nhà nước
quản lý đã làm cho hàng triệu người cảm thấy mất đất
và chẳng có quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông
bà tổ tiên”. Trên thực tế, sở hữu toàn dân không phải
là phương thức quản lý đất đai tốt nhất, còn việc Nhà
nước làm chủ sở hữu đã phát sinh đặc quyền, đặc lợi của
chính quyền các cấp trong việc quy hoạch và thu hồi
đất cho các dự án, tước mất quyền căn bản của người
dân.

áng 2 năm 2009, phái đoàn của Tòa ánh do ứ
trưởng ngoại giao - Đức ông Pietro Parolin dẫn đầu
- đã đến thăm và làm việc tại Hà Nội, cả hai bên đã
quyết định thành lập các “Nhóm Công tác hỗn hợp Việt
Nam - Vatican” để thảo luận vấn đề về quan hệ ngoại
giao.[32] Ngày 11 tháng 12 năm 2009, nhân chuyến công
du Italia, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng đã có
cuộc hội kiến với Giáo hoàng Biển Đức XVI và Hồng y

Tarcisio Bertone.[33] Ông là vị nguyên thủ quốc gia đầu
Đến ngày 1 tháng 3 năm 2013, Hội đồng Giám mục Việt
tiên của chính phủ Việt Nam hội kiến Giáo hoàng.
Nam cũng chính thức gửi thư nhận định và góp ý sửa
Ngày 22 tháng 1 năm 2013, ông Nguyễn Phú Trọng đổi Hiến pháp cho Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đến thăm Vatican
năm 1992.[37] a lá thư này, họ chất vấn chính quyền
và có cuộc hội kiến Giáo hoàng Biển Đức XVI. Giới
Việt Nam về việc làm sao có thể thực hiện quyền tự do
quan sát nhận định, đây là điều ít khi xảy ra, vì Giáo
ngôn luận và tự do sáng tạo văn học, nghệ thuật khi
hoàng thông thường chỉ tiếp các nguyên thủ quốc gia,
mà tư tưởng bị đóng khung trong một chủ thuyết là
các thủ tướng hoặc các lãnh đạo chính trị tiếng tăm thế
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ đề
giới,[34] ít khi tiếp một lãnh đạo chính đảng.
xuất nền tảng chủ thuyết để tổ chức và điều hành xã
Ngày 18 tháng 10 năm 2014, ông Nguyễn Tấn Dũng - hội Việt Nam là truyền thống văn hóa phong phú của
thủ tướng Nước CHXHCN Việt Nam đến thăm Vatican dân tộc chứ không phải bất kỳ một hệ ý thức nào khác.
và có cuộc hội kiến với Giáo hoàng Phanxicô.
ư này cũng cho rằng Hiến pháp Việt Nam không nên
và không thể khẳng định sự lãnh đạo mặc nhiên, không
thông qua bầu cử của bất kỳ đảng phái chính trị nào.
1.4.2 Nhà nước can thiệp vào sinh hoạt nội ư góp ý đề xuất nhà nước Việt Nam thực hiện mô
hình quản lý theo kiểu tam quyền phân lập: lập pháp,
bộ tôn giáo
hành pháp và tư pháp; phân biệt rõ vai trò của đảng
Khi Tòa ánh muốn bổ nhiệm một người làm giám cầm quyền và nhà nước pháp quyền. Nhìn chung, thư
mục, họ phải danh sách ứng viên đến chính phủ Việt góp ý sửa đổi Hiến pháp này được sự ủng hộ của nhiều
Nam. Chỉ khi chính phủ đồng ý thì người đó mới được tín hữu và giới bất đồng chính kiến.[38] Có ghi nhận

công nhận là giám mục ở Việt Nam. Trong nhiều năm, rằng nhiều giáo xứ, tổ chức Công giáo trong và ngoài
các nhà ngoại giao hàng đầu của Vatican đến thăm Việt nước đã tổ chức lấy ý kiến ủng hộ cho thư góp ý đó.


10

CHƯƠNG 1. CÔNG GIÁO TẠI VIỆT NAM

Ngày 9 tháng 5 năm 2014, Tổng giám mục Phaolô Bùi
Văn Đọc - thay mặt Hội đồng Giám mục Việt Nam viết
thư kêu gọi nêu quan điểm về tình hình Biển Đông, cụ
thể là Sự kiện giàn khoan HD-981. Trong đó, ông nói
rằng những thỏa ước tôn trọng tình hữu nghị giữa hai
quốc gia láng giềng, giữa hai Đảng cộng sản (Việt Nam
và Trung ốc) thực tế đã cho thấy không mang lại
lợi ích cho dân nước Việt Nam, mà còn đưa đất nước
vào tình trạng lâm nguy. Ông kêu gọi Chính phủ Việt
Nam kiên trì đường lối ngoại giao, đối thoại để giải
quyết xung đột nhưng có lập trường kiên định lấy đạo
lý truyền thống dân tộc vì dân, vì nước để thực hiện
đường lối chính sách với Trung ốc.[39]

1.4.4

quyền cũng đã trao trả lại một phần hoặc toàn bộ của
một vài cơ sở, đất đai của họ trên danh nghĩa là “cấp
quyền sử dụng đất” thay vì “trao trả",[46] ví dụ như: linh
địa hành hương La Vang (2008), nhưng cũng thường
không giải quyết với các trường hợp khác. Chính quyền
có ban hành các văn bản pháp luật có nội dung đề cập

đến chính sách này như sau: “Nhà nước không xem xét
lại chủ trương, chính sách và việc thực hiện các chính
sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ
nghĩa liên quan đến nhà đất đã ban hành trước ngày
1/7/1991. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất
mà nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình
thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính
sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất” [47]
để viện dẫn như một lý do chính yếu để bác các đơn đòi
lại cơ sở tôn giáo của Công giáo đã bị chiếm dụng.[48]

Các cơ sở Công giáo mà Nhà nước
Việt Nam đã chuyển quyền sử dụng Tuy nhiên, cũng có ghi nhận cho thấy, chính quyền
muốn cấp đất ở những nơi khác nếu Giáo hội có nhu
cầu dùng, nhưng Giáo hội chỉ muốn nhận lại đất và cơ
sở mà họ đã từng sở hữu.[46]

eo thống kê, vào năm 1969, Giáo hội Công giáo ở
Trên bình diện chung, Hội đồng Giám mục Việt Nam miền Nam Việt Nam đã sở hữu 226 trường trung học,
thông qua Ủy ban Công lý và Hòa bình của họ - ra một
1030 trường tiểu học, cô nhi viện, 48 bệnh viện, 35 viện
thông cáo mang tên “Nhận định về một số tình hình tại
dưỡng lão, 8 trại phong cùi và 159 phòng phát thuốc.[40]
Việt Nam hiện nay”,[49] Luật đất đai đó quy định đất đai
Chính quyền Việt Nam kể từ sau năm 1975 đã tiến thuộc sở hữu toàn dân, nhưng do Nhà nước quản lý đã
hành việc đóng cửa nhiều nhà thờ, quốc hữu hóa nhiều làm cho hàng triệu người cảm thấy mất đất và chẳng có
cơ sở của Giáo hội Công giáo trên danh nghĩa là tiếp quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông bà tổ tiên”.[49]
quản, trưng thu hoặc mượn. Việc trưng dụng đất đai Trên thực tế, sở hữu toàn dân không phải là phương
của chính quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những thức quản lý đất đai tốt nhất, còn việc Nhà nước làm
nguyên nhân chính làm cho mối quan hệ giữa chính chủ sở hữu đã phát sinh đặc quyền, đặc lợi của chính

quyền và Giáo hội Công giáo rạn nứt.[41] Ở miền Nam quyền các cấp trong việc quy hoạch và thu hồi đất cho
Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, rất nhiều đất các dự án, tước mất quyền căn bản của người dân.[49]
đai, tài sản của Giáo hội Công giáo cũng như các tôn
Hiện nay, hầu hết các tổ chức tôn giáo thuộc Giáo hội
giáo khác bị nhà nước trưng dụng vào những mục đích
Công giáo ở Việt Nam không được công nhận tư cách
khác nhau. Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn
pháp nhân, ngoại trừ Hội đồng Giám mục Việt Nam.
(nguyên Tổng Giám mục Tổng giáo phận Sài Gòn) cho
Tuy nhiên, khi nhà dòng muốn mua nhà thì không được
biết, sau 1975 thì chỉ riêng Giáo phận Sài Gòn bị mất,
vì không có tư cách pháp nhân. Một nhà dòng không
nghĩa là bị chính quyền tước quyền sử dụng, 400 cơ
thể đứng tên sở hữu nhà mà phải nhờ một người khác
sở;[42] còn tòa tổng giáo phận Hà Nội nói rằng hiện có
đứng tên. Hệ quả là thủ tục phức tạp, tốn kém và đối
95 cơ sở của tổng giáo phận Hà Nội nhà nước đang sử
diện nguy cơ mất nhà.[50]
dụng.[43][44]
Việc trưng dụng đất đai của chính quyền xã hội chủ
nghĩa là một trong những nguyên nhân chính làm cho
mối quan hệ giữa chính quyền và Giáo hội Công giáo
rạn nứt.[41] Ở miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng 4
năm 1975, rất nhiều đất đai, tài sản của Giáo hội Công
giáo cũng như các tôn giáo khác bị nhà nước trưng
dụng vào những mục đích khác nhau. Điều này tạo nên
những làn sóng bất bình âm ỉ trong người dân.[41]
ời gian gần đây, việc tranh chấp đất đai và tài sản
của Giáo hội là chủ đề nổi cộm trong một số vụ đụng
độ giữa giáo dân Công giáo và chính quyền.[45] Ở quy

mô nhỏ và đơn lẻ, một số tổ chức thuộc Giáo hội Công
giáo Việt Nam đã viết đơn xin hoặc lên tiếng đòi chính
quyền trả lại những cơ sở, đất đai mà họ đã từng sở hữu
để dùng vào việc sinh hoạt tôn giáo. Một vài bất đồng
đã dẫn đến tranh chấp giữa họ và chính quyền. Chính

1.4.5 Các vụ bất đồng hoặc xung đột giữa
giáo dân và chính quyền
Ngày 6 tháng 1 năm 2010, xảy ra vụ xô xát có thương
tích giữa lực lượng công an và người Công giáo tại
Đồng Chiêm.[51]

1.5 Xem thêm
• Kitô giáo tại Việt Nam
• Danh sách giám mục người Việt
• Hội đồng Giám mục Việt Nam


1.6. CHÚ THÍCH
• Danh sách Giáo phận Công giáo Việt Nam theo số
giáo dân
• Danh sách Giáo phận Công giáo Việt Nam theo số
linh mục
• Danh sách Giáo phận Công giáo Việt Nam theo
diện tích
• Danh sách Giáo phận Công giáo Việt Nam theo số
giáo xứ

1.6 Chú thích
[1] Không giống như Trung ốc có Hội Công giáo Trung

Hoa Yêu nước - một tổ chức tôn giáo độc lập với Tòa
ánh, cộng đồng những người Công giáo Việt Nam
là thành viên của Giáo hội Công giáo Rôma, và vì thế,
không hề có khái niệm nào gọi là “Giáo hội Công giáo
Việt Nam”.
[2] Catholic Population, Statistics by Country
[3] Gương truyền giáo
[4] Ảnh hưởng của Công giáo với nền văn hóa Việt Nam,
Ban Tôn giáo Chính phủ
[5] eo linh mục Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, ư ký Hội
đồng Giám mục Việt Nam
[6] “Nhìn lại Sứ mạng Truyền giáo trong 50 năm qua và
hướng đến tương lai”. VietCatholic. 24. Truy cập ngày
29 tháng 3 năm 2014. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date= (trợ giúp)
[7] Đạo iên Chúa, đạo Gia Tô, đạo Cơ Đốc, đạo Công
giáo? Nên gọi thế nào cho chính danh?, trên talawas.
[8] Cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Chính phủ.
[9] Đỗ ang Chính, Hai Giám mục Đầu Tiên tại Việt Nam,
trang 11-24.
[10] eo sách sử Nhật Bản, thì đây thuộc giai đoạn trị vì của
iên hoàng Kotohito, hay Hậu ủy Vỹ iên hoàng
(1611-1629). Tuy nhiên, thực quyền bấy giờ nằm trong
tay Shōgun Tokugawa Ieyasu. Sama là một kính ngữ để
chỉ một người cực kỳ tôn kính trong tiếng Nhật, không
phải là tên riêng. Có lẽ tài liệu của các nhà truyền giáo
bị nhầm lẫn danh xưng này.
[11] Trần Đình Sơn, Vua Gia Long với quyết định chọn người
kế vị, tạp chí Xưa và Nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam, số 81B, tháng 11-2000, tr. 26-27.34

[12] Nguyễn Văn Kiệm, Góp phần tìm hiểu một số vấn đề
lịch sử cận đại Việt Nam, trang 27, Nhà xuất bản Văn
hóa thông tin, 2003

11
[16] Những năm Tỵ trong lịch sử Giáo hội tại Việt Nam
[17] Khái quát về lịch sử truyền giáo
[18] Giáo hội Việt Nam dưới thời chế độ Cộng sản
[19] Niềm Tin sắt đá và đức tính kiên cường chịu đựng của
các ánh Tử Ðạo Việt Nam
[20] Giáo hội Công giáo Việt Nam và nỗ lực truyền giáo 50
năm qua, phần 3
[21] Hội nghị sơ kết mục vụ Giáo phận Hưng Hóa
[22] GH Việt Nam: các Giám mục thảo luận về việc thành
lập một số giáo phận mới
[23] Tổng hợp tài liệu năm thánh 2010, Giáo xứ Đa Minh Ba
Chuông
[24] Mục 4.c “Công giáo và Dân tộc ở nước ta trong bối cảnh
đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”, GS.TS Đỗ
ang Hưng
[25] Ảnh hưởng của Công giáo với nền văn hóa Việt Nam
[26] Đóng góp của iên Chúa giáo với văn hóa Việt Nam
[27] Đóng góp của đạo Công giáo với văn hóa Việt
[28] Đặt Công giáo trong quan hệ với Đảng
[29] Noël: cent millions de chrétiens sous surveillance
[30] Tuyên phạt Nguyễn Văn Lý 8 năm tù về tội “Tuyên
truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”
[31] Vietnamnet: ủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Italia
và hội kiến Giáo hoàng

[32] Bộ ngoại giao Việt Nam: Đoàn Bộ Ngoại giao Tòa thánh
Vatican sẽ thăm Việt Nam
[33] Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết gặp Giáo hoàng và
ủ tướng Vatican
[34] Lãnh đạo Cộng sản VN vào Tòa ánh
[35] an hệ Việt Nam – Vatican có ‘cải thiện'
[36] Nhận định về một số tình hình tại Việt Nam hiện nay,
ỦY BAN CÔNG LÝ & HÒA BÌNH, TRỰC THUỘC HỘI
ĐỒNG Giám mục Việt Nam
[37] ư của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi Ủy ban Dự
thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhận định và góp ý
sửa đổi Hiến pháp, TRANG TIN CỦA HỘI ĐỒNG Giám
mục Việt Nam
[38] Bản Góp ý Hiến pháp của Hội đồng Giám mục Việt Nam
được ủng hộ rộng rãi

[13] Trần, Kim. Việt Nam sử lược. tr. 242.

[39] ư kêu gọi của Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ
tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam về Tình hình Biển
Đông

[14] “CUỘC TẤN CÔNG QUÂN SỰ ĐẦU TIÊN CỦA PHÁP
VÀO VIỆT NAM”. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2012.

[40] yển niên giám Công giáo Việt Nam 2004, Nhà xuất
bản tôn giáo

[15] Catholicism and Politics in Communist societies


[41] Đất đai, chính quyền và Công giáo


12
[42] Tổng Giám mục Hà Nội phải ra đi
[43] ông báo (số 3): Về việc Sở Y tế Hà Nội tiếp tục phá dỡ
Tu viện kín Camêlô - 72 phố Nguyễn ái Học
[44] Hình ảnh Tu viện kín Camêlô - 72 Nguyễn ái Học
đang bị phá dỡ
[45] Chính sách đất đai 'tạo bất công'
[46] ánh địa La Vang có thêm đất
[47] Nghị yết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của ốc
hội Việt Nam
[48] Bản góp ý của TGP Saigòn về xây dựng Dự thảo Nghị
định thay thế Nghị định số 22/2005 NĐ-CP
[49] Nhận định tình hình công giáo Việt Nam
[50] Chức sắc tôn giáo góp ý sửa Hiến pháp
[51] Xô xát vì thánh giá ở Đồng Chiêm, BBC tiếng Việt

1.7 Liên kết ngoài
• Hội đồng Giám mục Việt Nam, hoặc demo
• Công giáo Việt Nam
• ông tấn xã Công giáo Việt Nam
• Liên đoàn Công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.
• Mạng lưới cầu nguyện Công giáo

CHƯƠNG 1. CÔNG GIÁO TẠI VIỆT NAM


Chương 2


Negev

Thung lũng Zin nhìn từ Midreshet Ben Gurion, nơi chôn cất
David Ben-Gurion.

Wadi ở Nahal Paran, Negev, Israel.

Negev (còng được gọi là Negeb; tiếng Hebrew: ‫נ ֶּג ֶב‬, phát
âm Tiberia: Néḡeḇ, tiếng ổ Nhĩ Kỳ:
Necef Çölü)
là một khu vực hoang mạc và bán hoang mạc nằm về
phía nam của Israel. Người Ả rập, bao gồm người bản
địa Bedouin gọi khu vực này là al-Naqab (tiếng Ả Rập:
‫)النقب‬. Nguồn gốc của từ Negev bắt nguồn trong tiếng
Hebrew có nghĩa là 'khô'. Trong kinh thánh từ Negev
được dùng để chỉ về hướng nam.

2.1 Địa lý
Hoang mạc Negev chiếm hơn một nửa diện tích của
Israel, vào khoảng 12.000 km² (4.600 dặm vuông) và
chiếm trên một nửa diện tích đất liền của nước này[1] .
Sa mạc này có hình tam giác đảo ngược với đỉnh
nằm dưới, bờ phía tây nối liền với sa mạc của Bán
đảo Sinai, và bờ phía đông nằm ở thung lũng Arabah.
Sa mạc Negev chứa đựng trong nó nhiều thắng cảnh
thiên nhiên và đặc điểm văn hóa kỳ thú. Đặc biệt
là ba kiến tạo địa hình giống như hố thiên thạch
được gọi là makhtesh, độc nhất cho khu vực này bao
gồm: Makhtesh Ramon, Makhtesh Gadol, và Makhtesh

Katan.
Negev là một sa mạc đá. Địa hình của nơi này là một
sự kết hợp giữa các ngọn núi nâu, đầy đá, bụi bị ngắt
quãng bởi các wadi (các dòng sông khô cằn chỉ có nước

sau mưa) và các miệng núi lửa. Có thể chia sa mạc
làm năm vùng địa lý khác nhau: bắc, tây và trung tâm
Negev, cao nguyên và thung lũng Arabah. Khu vực bắc
Negev, hay vùng Địa Trung Hải nhận được 300 mm
nước mưa hằng năm và có đất đai tương đối màu mỡ.
Khu vực tây Negev nhận được khoảng 250 mm nước
mưa hằng năm, và có đất xốp và được bao phủ một phần
bởi cát. Các đụn cát có thể đạt chiều cao mét ở khu vực
này. Là nơi tọa lạc của thành phố Beersheba, khu vực
trung tâm Negev có lượng mưa hằng năm là 200 mm và
đất ở nơi này có đặc điểm là không thấm nước, do đó
nước chảy thành dòng trên mặt đất gây ra xói mòn, với
chỉ có một lượng ít nước là có thể ngấm vào đất. Khu
vực cao nguyên của Ramat HaNegev (tiếng Hebrew:
‫רמת הנגב‬, e Negev Heights) nằm trên mặt nước biển
trong khoảng 370 mét và 520 mét với khí hậu, có khí
hậu khắc nghiệt với nhiết độ đặc biệt cao trong mùa
hè và xuống thấp trong mùa đông. Khu vực này nhận
được 100 mm nước mưa hằng năm, và đất ở đây kém
màu mỡ, một phần bị nhiễm mặn. ung lũng Arabah
nằm dọc theo biên giới Jordan kéo dài 180 km từ Eilat
ở phía nam đến đầu mút biển Chết ở phía bắc. ung
lũng Arabah có khí hậu đặc biệt khô cằn chỉ nhận được
50 mm mưa hằng năm. Đất ở nơi này cằn cỗi và chỉ một
vài loài thực vật có thể sinh trưởng mà không cần tưới

tiêu và bổ sung thêm đất màu.

13


14

CHƯƠNG 2. NEGEV

2.2 Khí hậu

2.3.3 Nabataeans

Khí hậu của sa mạc Negev đặc biệt khô hạn, chỉ nhận
được rất ít mưa do vị trí nằm ngay phía đông sa mạc
Sahara (đối lập với khu vực Địa Trung Hải ở phía tây
Israel), và nhiệt độ cao nhất nằm ở vĩ tuyến 31 bắc.
Lượng mưa trung bình từ tháng 6 đến tháng 10 là bằng
không.[2]

2.3 Lịch sử
Các tàn tích trong sa mạc Negev.

Vào thế kỷ 4 trước công nguyên, sự có mặt của người
Nabateans mang lại sự phát triển hệ thống tưới tiêu,
nhờ đó đã giúp phát triển năm khu vực định cư là:
Avdat, Mamshit, Shivta, al-Khalasa (hay Elusa), và
Nitzana.[8] Người Nabateans cũng kiểm soát việc buôn
bán và tuyến đường gia vị giữa thủ đô Petra của họ và
cảng biển Gazan. Tiền tệ của người Nabatean và các

mảng gốm sứ đỏ và nâu, được xác định là một dấu hiệu
của nền văn minh của họ, vẫn được tìm thấy dọc theo
tuyến đường xưa kia.[8]
Cây Acacia ở Makhtesh Gadol.

2.3.1

Du mục

Các cư dân du mục xuất hiện tại Negevdates ít nhất
là 4.000 năm trước đây [5] và có thể là đến 7.000 năm
trước.[6] Các khu định cư đầu tiên được thành lập
bởi một phức hợp các nhóm Canaan, Amalekite, và
Edomite khoảng 2000 năm trước công nguyên.[5] Các
Pharaon Ai Cập được cho là đã truyền kỹ thuật nấu và
khai thác đồng đến Negev và Sinai trong khoảng 1400
và 1300 năm trước công nguyên.[5][7]

Việc người Nabataeans kiểm soát miền nam Palestine
đã kết thúc thời kì đế quốc La Mã sát nhập các vùng
đất của họ vào lãnh thổ đế quốc năm 106 sau công
nguyên.[8] Dân số ở đây gồm phần lớn là các bộ lạc
du cư người Ả rập và người Nabataeans định cư, phần
lớn vẫn theo lối sống bộ lạc và độc lập đối với người La
Mã với một hệ thống tôn giáo theo thuyết vật linh.[8]

2.3.4 Byzantine và La Mã
Dưới thời Đế quốc Byzantine cai trị vào thế kỷ thứ tư
sau công nguyên, đạo Cơ đốc được truyền tới Negev.[8]
Các thành phố sống dựa vào nông nghiệp được thiết

lập và dân số tại đây tăng đột biến.[8]

2.3.5 Người Bedouin: dân cư và lịch sử từ
năm 1000 sau công nguyên đến năm
eo ghi chép Kinh thánh Hebrew, phía bắc Negev là
1948
2.3.2

Kinh thánh

nơi định cư của Bộ lạc Judah và phía nam Negev là
Bộ lạc Shimon. Sau đó Negev trở thành một phần của
Vương quốc Solomon và sau nữa là Vương quốc Judah.

Trong thế kỷ 9 trước công nguyên, việc phát triển và
mở rộng khai khoáng ở cả Negev và Edom (Jordan ngày
nay) xảy ra đồng thời với sự bành trướng của Đế quốc
Assyria.[8] ành đô Beersheba vốn là thành phố chính
của vùng và là trung tâm giao thương trong thế kỷ 8
trước công nguyên.[8] Các khu vực định cư nhỏ của
người Do ái trong các vùng quanh Beersheba tồn
tại trong khoảng thời gian giữa năm 1020 và 928 trước
công nguyên.[8]

Các bộ lạc du mục sinh sống ở Negev phần lớn đều độc
lập với nhau và ít bị quy phục trong khoảng thời gian
một ngàn năm tiếp theo.[8] Hầu hết những kiến thức
chúng ta biết về khoảng thời gian này ở Negev đều do
các câu chuyện lịch sử truyền miệng và các truyện dân
gian bắt nguồn từ khu vực Wadi Musa và Petra, nơi mà

hiện nay thuộc Jordan[8]


2.3. LỊCH SỬ

15

Người Bedouin ở Negev tồn tại trong lịch sử chủ yếu có ít nhất 75.000 cư dân sinh sống trong 40 ngôi làng
dựa vào chăn nuôi cừu và dê. Sự khan hiếm nước và không được công nhận.
nguồn cỏ ăn cho gia súc khiến họ di chuyển thường
xuyên và sống theo lối du mục. Người Bedouin trong
quá khứ cũng đã thiết lập được một vài khu định cư
dài hạn, nhưng sau đó những căn nhà đá của họ lại bị
bỏ hoang và được gọi là 'baika.' [6] Năm 1900, Đế quốc
Ooman thiết lập một trung tâm cai quản miền nam
Palestine nằm tại Beersheba, họ xây dựng ở đây trường
học và một trạm xe lửa.[8] Trong khi đó, chủ quyền của
các thủ lĩnh bộ lạc ở khu vực này vẫn được thừa nhận
bởi người Ooman.[8] Một đường ray nối nơi này với
cảng Rafah được xây. Đến năm 1922, dân số ở đây là
2.356 người, bao gồm cả 98 người Do ái và 235 người
Cơ đốc giáo.[9] Nhưng theo một bản báo cáo năm 1914,
chính quyền người Turk đã ước tính dân số của các bộ
lạc du mục vào khoảng 55.000 người.[10]
Trước năm 1948, các cuộc điều tra dân số chủ yếu đề Rìa phía bắc Makhtesh Ramon trên đường nối giữa Beersheba
cập đến năm bộ lạc chính ở Negev: Tayaha, Tarabn, và Eilat.
Azazma, Jabarat và Hanajra.
Nhằm siết chặt lệnh cấm chăn nuôi ngoài khu vực
Nền văn hóa bộ lạc và lối sống của người Bedoin đã Siyag, chính phủ đã thiết lập một cơ chế ràng buộc
có những biến đổi quan trọng trong thời gian gần đây, thông qua Luật Dê Đen năm 1950. Luật này ngăn cấm

ngày nay khó mà tìm thấy được một cư dân Bedouin chăn thả súc vật bên ngoài các phần đất được nhà
nào của Israel còn duy trì lối sống du mục.[11]
nước công nhận cho các cá thể vì lý do ngăn chặn sự
xói mòn đất. Do đó rất ít phần đất do người Bedouin
tuyên bố chủ quyền được công nhận, và pần lớn đất
2.3.6 Người Bedouin ở Israel 1948-nay
chăn thả bị đưa vào diện bất hợp pháp. (Trước kia cả
người Ooman và Anh đều thất bại trong việc kiểm
soát vùng Negev. Phần lớn người Bedouin đều chọn
giải pháp không đăng ký đất đai của họ nhằm tránh các
khoản thuế từ nhà nước). Những người Bedouin trước
kia không đăng ký đất đai của họ, gần như không thể
chăn thả dê chỉ trong khu vực cho phép, và vào thập
niên 1970 và 80, chỉ còn lại một thiểu số người Bedouin
vẫn tiếp tục nghề chăn dê của cha ông họ. ay vì sống
theo lối du cư tìm đồng cỏ cho đàn dê, đa số người
Bedouin chuyển sang tìm kiếm các công việc được trả
lương.[13]

Rahat, thành phố lớn nhất của người Bedouin ở Negev.

Trong khoảng thời gian từ năm 1948 đến năm 1967,
Nhà nước Israel tiến hành các cuộc chiến tranh kiểm
soát các vùng đất của người Ả rập và xác định rằng 85%
đất của người Negev là "Đất Nhà nước.” Do đó tất cả cư
dân Bedouin sinh sống trong các khu vực sinh sống
trước đây đều bị coi là bất hợp pháp và “không được
công nhận.” Hiện tại các vùng đất của người Negev sinh
sống trên 500 năm đều được xác định là đất của nhà
nước, do đó người Bedouin không còn có thể làm các

công việc nuôi sống chính bản thân họ là trồng trọt
và chăn nuôi. Sau đó chính phủ đã ép buộc các bộ lạc
Bedouin định cư trong khu vực tam giác Siyag tạo bởi
ba đỉnh là Beersheba, Arad và Dimona [12] . Hiện nay,

Năm 1979, Bộ trưởng Nông nghiệp Ariel Sharon ra
tuyên bố rằng 1.500 kilomet vuông ở Negev, trở thành
khu bảo tồn tự nhiên, khiến cho phần lớn diện tích
Negev nằm ngoài vùng chăn thả của người Bedouin.
êm vào đó, ông còn thành lập lực lượng 'Tuần tra
Xanh,' [14] là 'đơn vị bán vũ trang môi trường' có nhiệm
vụ ngăn chặn những người Bedouin ‘xâm nhập' vào đất
đai quốc gia Israel không cho họ chăn thả gia súc ở nơi
này. Trong suốt nhiệm kỳ Bộ trưởng Nông nghiệp của
Sharon (1977–1981), lực lượng Tuần tra Xanh đảo dỡ
bỏ 900 lều trại của người Bedouin và cắt giảm số lượng
người chăn thả xuống hơn 1/3.[15] Ngày nay, dê đen
ở nơi này gần như rơi vào tình trạng tuyệt chủng, và
người Bedouin ở Israel không có đủ lông cừu để dệt lều
cho chính họ. Bị cưỡng ép từ bỏ phương cách sinh sống
của cha ông, chịu thiệt thòi về khả năng tiếp cận nước,
điện, đường sá, giáo dục, và chăm sóc sức khỏe ở các
ngôi làng không được công nhận, và tin tưởng vào lời
hứa của chính phủ rằng họ sẽ nhận được các dịch vụ


16

CHƯƠNG 2. NEGEV


nếu rời đi; trong thập niên 1970 và 80, mười ngàn nười gian giữa hai thập niên 1960 và 1980 như Rahat, đồng
Bedouin đã tái định cư tại 7 thị trấn hợp pháp được thời là thành phố lớn nhất được xây.
xây dựng bởi chính phủ.[16] Tuy nhiên, các thị trấn này
thiếu các cơ sở kinh doanh tạo đủ việc làm cần thiết
và lan tràn các tệ nạn xã hội do tình trạng thiếu việc 2.4.1 Các vấn đề môi trường hiện tại
làm[17] .
85% diện tích Negev được sử dụng bởi Lực lượng phòng
vệ Israel nhằm mục đích huấn luyện.[20] Phần còn lại
được dùng cho mục đích dân sự, một số đông cư dân
2.4 Negev hiện tại
sinh sống trong các cộng đồng gần nhau với cơ sở hạ
tầng khá nguy hiểm, bao gồm một nhà máy hạt nhân,
Ngày nay, ít nhất 80.000 cư dân Bedouin sống trong các 22 nhà máy hoá dầu, một kho dầu, các khu vực quân sự
ngôi làng không được công nhận dưới nguy cơ bị dỡ bỏ kế cận, các mỏ đá, một lò thiêu chất thải độc hại Ramat
bất cứ lúc nào; những cư dân này luôn chống lại việc Hovav, một nhà máy năng lượng, các trạm tiếp sóng,
di dời thông qua Luật Chống Xâm nhập.[18]
vài sân bay, một nhà tù và con sông để xả chất thải.[17]

Sân Học viện nghiên cứu sa mạc Jacob Blaustein, là trung tâm
nghiên cứu năng lượng mặt trời của Israel.

ành phố lớn nhất trong vùng và trung tâm hành
chính là Beersheba (dân số 185.000), nằm ở phía bắc.
Nằm về phía nam gần vịnh Aqaba của vùng có thành
phố du lịch Eilat. Nơi này có vài thị trấn phát triển bao
gồm Dimona, Arad, Mitzpe Ramon, tồn tại song song
với các thành phố nhỏ của người Bedouin gồm Rahat và
Tel as-Sabi. Nơi đây có vài kibbutz, bao gồm Revivim và
Sde Boker; nơi mà ủ tướng Israel đầu tiên nghỉ hưu,
David Ben-Gurion, sau khi rời khỏi chính trường.

Negev là nơi đặt trụ sở Đại học Ben-Gurion của Negev,
bao gồm các cơ sở Học viện nghiên cứu Sa mạc Jacob
Blaustein và Trường ốc tế nghiên cứu Sa mạc Albert
Katz, cả hai đều tọa lạc tại Midreshet Ben-Gurion cận
kề với Sde Boker.
Ngày nay, Negev là nơi có sự hiện diện đông đảo quân
đội Israel và là nơi toạ lạc nhiều căn cứ chính của Các
Lực lượng Phòng vệ Israel. Vào năm 2010, Negev là nơi
sinh sống của khoảng 630.000 người, (hay 8,2% dân số
Israel) trong khi sa mạc này chiếm hơn 55% diện tích
đất liền nước này. 470.000 cư dân chiếm 75% dân số ở
Negev là người Do ái trong khi 160.000 người chiếm
25% dân số là người Negev Bedouin.[19] Trong thiểu
số người Bedouin; một nửa sống trong các ngôi làng
không được công nhận, và một nửa sống trong các thị
trấn được xây dựng bởi chính phủ trong khoảng thời

Cảnh người nằm nghỉ trên mặt đất tại Midreshet Ben Gurion.

ành phố Tel Aviv thải rác ra khu vực Sa mạc
Negev,[21] tại bãi rác Dudaim. Năm 2005, Hiệp hội Các
nhà sản xuất Israel quyết định bắt đầu lên kế hoạch
di dời 60 trong 500 cơ sở công nghiệp đang hoạt động
trong vùng Tel Aviv đến Negev.[22]
Nhà máy chất thải độc hại Ramat Hovav được xây dựng
trong khu vực Beer Sheva và Wadi el-Na'am vào năm
1979 vì lý do những khảo sát trước đó cho thấy nơi
đây có thể tránh được rò rỉ chất đội ra môi trường. Tuy
nhiên, chỉ trong vòng mười năm, các vết nứt được tìm
thấy trong nền đá dưới nhà máy Ramat Hovav.[23] Và

kể từ phát hiện này, tại nhà máy đã xảy ra liên tiếp
nhiều tai nạn và nhiều lần phải tạm ngưng hoạt động;
trong quá khứ, hội đồng vùng thường xuyên khám phá
ra các hồ nước bay hơi của nhà máy hóa học Ramat
Hovavhad bị quá tải và nước thải bị rò rỉ từ ống xả vào
hồ chứa nước. Gần mười năm sau khi được thành lập,
sự trồi lên của nền đá vôi bên dưới Ramat Hovav làm
xuất hiện các mảnh nứt có nguy cơ dẫn đến các tai nạn
ô nhiễm đất và nguồn nước ngầm trong tương lai.[15]
Năm 2004, Bộ trưởng Y tế Israel công bố các khám phá
nghiên cứu của Đại học Ben Gurion giải thích các vấn
đề sức khỏe của các cộng đồng dân cư nằm trong khu
vực phụ cận trong vòng bán kính 20 km quanh nhà máy
Ramat Hovav. Nghiên cứu này, được tài trợ phần lớn bởi
nhà máy Ramat Hovav, phát hiện thấy tỉ lệ ung thư và


2.5. THAM KHẢO

17

tử vong của 350.000 người sống trong khu vực đã lên tới
mức khủng hoảng sức khỏe công cộng. Trước khi được
công bố cho các phương tiện truyền thông thông qua
nguồn vô danh, nghiên cứu sơ bộ đã khiến công chúng
thiếu tin tưởng;[24] tuy nhiên, kết luận cuối cùng – rằng
các cư dân Bedouin và Do ái sống gần Ramat Hovav
dễ bị mắc bị mắc các chứng sẩy thai, khuyết tật bẩm
sinh nghiêm trọng, và các bệnh hô hấp hơn phần còn
lại của dân số - được các cấp chính phủ thông qua vài

tháng sau đó.[25]

Nhà khoa học David Faiman thuộc Trung tâm Năng lượng Mặt
trời Quốc gia đứng trước chảo parabol mặt trời lớn nhất thế
giới.

Israel và chỉ một phần nhỏ đất đai ở đây là có thể trồng
trọt được, đây là những lý do khiến cho nơi này trở
thành trung tâm công nghiệp mặt trời của Israel.[33]
David Faiman, một chuyên gia hàng đầu thế giới về
năng lượng mặt trời, dự đoán nhu cầu năng lượng trong
tương lai của Israel có thể được đáp ứng bởi các nhà
máy năng lượng mặt trời ở Negev. Hiện tại với chức
Một cộng đồng nhà di động Blueprint Negev.
vụ giám đốc Trung tâm Năng lượng Mặt trời ốc gia
ỹ ốc gia Do ái dã giới thiệu chương trình Ben-Gurion, ông đang điều hành các chảo năng lượng
[34]
Blueprint Negev vào năm 2005, đây là một kế hoạch mặt trời lớn nhất trên thế giới.
trị giá 600 triệu dollar nhằm mục đích thu hút 500.000 Một công viên năng lượng mặt trời 250 MW ở Ashalim,
các người định cư mới đến Negev và xây dựng các khu một khu vực phía bắc Negev, đang được lên kế hoạch
định cư mới cho họ. eo dự kiến, kế hoạch sẽ làm tăng xây dựng trong vòng năm năm, và được mong đợi sẽ
dân số ở Negev lên đến 250.000 người vào năm 2013, hoạt động sau năm 2013.[35] Năm 2008, công việc xây
cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông, tạo các cơ hội việc dựng ba nhà máy năng lượng mặt trời được khởi động
làm và kinh doanh, bảo tồn nguồn nước và bảo vệ môi gần thành phố; hai nhà máy nhiệt mặt trời và một
trường.[26] Kế hoạch Blueprint Negev tạo các con sông quang điện.[36]
nhân tạo trong sa mạc, hồ bơi và các sân golf dấy lên
mối quan ngại giữa các nhà môi trường về vấn đề thiếu Tổ hợp Công nghiệp Rotem ở ngoại vi Dimona, Israel
nước ở Israel.[27][28] Động cơ chính dẫn đến các chỉ trích có công nghệ năng lượng mặt trời sử dụng các tấm kính
là phương cách xử lý thích hợp đối với việc tăng dân số tập trung tia nắng lên một ngọn tháp để đốt nóng nước
không phải là thu hút thêm hàng trăm ngàn người định để tạo ra hơi nước làm quay turbine tạo ra điện. Luz

cư mới, và việc giải quyết vấn đề phát triển quá mức ở II, Ltd. lên kế hoạch sử dung công nghệ mới này để
ở California cho Pacific Gas and
phía bắc không phải là xây dựng các không gian mở xây dựng ba nhà máy
[37][38][39]
Electric
Company.
cuối cùng trong khu vực đông dân cư thứ nhì của đất
nước; mà phải lập một kế hoạch duy nhất phát triển các
mảng xanh cho các trung tâm dân cư đang sinh sống
ở Negev, đầu tư vào các cơ sở đảm bảo sinh hoạt cho 2.5 Tham khảo
các ngôi làng Bedouin, dọn dẹp nhiều nhà máy độc hại
(như Ramat Hovav), và phát triển một kế hoạch khả thi [1] Kevin Avruch. “Topography”. A Country Study: Israel.
tập trung tạo việc làm hơn là làm tăng làn sóng nhập
ư viện ốc hội Hoa Kỳ. Truy cập ngày 29 tháng 8
cư và tạo việc làm cho họ.[29][30][31][32]
năm 2010.

2.4.2

Năng lượng mặt trời

Sa mạc Negev và khu vực phụ cận, bao gồm ung lũng
Arava, là những vùng có nắng chiếu nhiều nhất của

[2] “Beersheba, ISR Weather”. MSN. Truy cập ngày 25 tháng
1 năm 2008.
[3] “Averages and Records for Beersheba (Precipitation,
Temperature and Records [Excluding January and June]
wrien in the page)”. Israel Meteorological Service.
áng 8 năm 2011.



18
[4] “Records Data for Israel (Data used only for January and
June)”. Israel Meteorological Service.
[5] Mariam Shahin. Palestine: A Guide. (2005) Interlink
Books. ISBN 156656557
[6] Israel Finkelstein; Avi Perevolotsky (tháng 8 năm 1990).
“Processes of Sedentarization and Nomadization in the
History of Sinai and the Negev”. Bulletin of the American
Schools of Oriental Research (279): 67–88.
[7] J.M. Tebes (2008) Centro y periferia en el mundo antiguo.
El Negev y sus interacciones con Egipto, Asiria, y el
Levante en la Edad del Hierro (1200-586 A.D.) ANEM 1.
SBL - CEHAO.
[8] Mariam Shahin. Palestine:A Guide. (2005) Interlink
Books. ISBN 156656557
[9] Palestine, Report and General Abstracts of the Census
of 1922, October 1922, J.B. Barron, Superintendent of the
Census, tr 10.
[10] ibid, Census of Palestine 1922,'Explanatory note',page 4.
[11] Kurt Goering (Autumn 1979). “Israel and the Bedouin
of the Negev”. Journal of Palestine Studies 9 (1): 3–20.
doi:10.1525/jps.1979.9.1.00p0173n.
[12] />20of%20Self-subsistence%20-%20english.pdf
[13] />20SELF-SUBSISTENCE.pdf
[14] “Uprooting Weeds”. Truy cập 26 tháng 3 năm 2015.
[15] />20ENVIRONMENTAL%20HAZARDS.pdf
[16] Falah, Ghazi. “e Spatial Paern of Bedouin
Sedentarization in Israel,” GeoJournal, 1985 Vol. 11, No.

4, tr 361–368

CHƯƠNG 2. NEGEV
[25] Sarov, Batia, and peers at Ben Gurion University: “Major
congenital malformations and residential proximity to
a regional industrial park including a national toxic
waste site: An ecological study;" Environmental Health:
A Global Access Science Source 2006, 5:8; Bentov et al.,
licensee BioMed Central Ltd.
[26] THE 12 POINTS OF BLUEPRINT NEGEV
[27] Daniel Orenstein.“When an ecological community is
not”; ngày 25 tháng 3 năm 2007
[28] Water use concerns
[29] Daniel Orenstein and Steven Hamburg.“e JNF’s
Assault on the Negev”; e Jerusalem Report, ngày 28
tháng 11 năm 2005
[30] Rebecca Manski.A Desert Mirage: e Rising Role of
US Money in Negev Development;News from Within
October/November 2006
[31] Ohalah resolution
[32] Neohasid’s Save the Negev Campaign
[33] Head of Kibbutz Movement: We will not be
discriminated against by the government, Ehud
Zion Waldoks, Jerusalem Post, ngày 10 tháng 3 năm
2008.
[34] Giant solar plants in Negev could power Israel’s future,
John Leice, e Register, ngày 25 tháng 1 năm 2008
[35] e solar vote, Yosef I. Abramowitz and David Lehreer,
Haaretz, ngày 2 tháng 11 năm 2008.
[36] Solar energy could raise electricity prices Haaretz, ngày

6 tháng 8 năm 2008
[37] Calif. solar power test begins — in Israeli desert,
Associated Press, ngày 12 tháng 6 năm 2008; accessed
ngày 23 tháng 12 năm 2008.

[17] />[38] Israel site for California solar power test, Ari
bedouin-vilified-among-top-10-environmental-hazards-in-israel-20070418.
Rabinovitch, Reuters, ngày 11 tháng 6 năm 2008.
html
[18] />ItemID=9434
[19] “A Bedouin welcome”. ynet. Truy cập 26 tháng 3 năm
2015.

[39]

2.6 Liên kết ngoài

[20] />20American%20Money%2C%20Demographics%
20and%20Negev%20Development.pdf

• Sde Boker archive of articles on the Negev

[21] Gali Berger. “Sin of waste / Municipal garbage that’s out
of sight, out of mind”; Haaretz, ngày 12 tháng 10 năm
2005

• Israel’s Negev Desert

[22] Hadas Manor.“Manufacturers promoting transfer of 60
factories to Negev”; Globes - ngày 11 tháng 8 năm 2005


• About changes in Bedouin life

[23] />socioenv.html
[24] Rebecca Manski.“e Bedouin as Worker-Nomad”;
Bustan, 2005

• Israel’s Negev Information Site

• About the Bedouin in unrecognized villages

• About Negev environmental issues
• Negev Desert Socio-Environmental Timeline
Tọa độ: 30°30′00″B 34°55′01″Đ / 30.500°B 34.917°Đ


2.7. NGUỒN, NGƯỜI ĐÓNG GÓP, VÀ GIẤY PHÉP CHO VĂN BẢN VÀ HÌNH ẢNH

19

2.7 Nguồn, người đóng góp, và giấy phép cho văn bản và hình ảnh
2.7.1

Văn bản

• Công giáo tại Việt Nam Nguồn: />26615554 Người đóng góp: DHN, Mekong Bluesman, Arisa, Linhbach, Sz-iwbot, ái Nhi, Lưu Ly, Apple, Newone, Kimkha, DHN-bot,
Trần ế Vinh, VolkovBot, e Huong Niem Nho, Duyệt-phố, Panzerschreck, Qbot, ChinTam, Ti2008, usinhviet, Luckas-bot, Chio,
Nguyentrongphu, Peter Nguyễn Minh Trung, Xqbot, Obersachsebot, Truonghongtrung, Phương Huy, TuHan-Bot, EmausBot, Abc00,
RedBot, Kuntaku Trần, Cheers!-bot, Bichq4, Trịnh Bạch Đằng, MerlIwBot, DanGong, Hoàng Lương, Pakon111, Greenknight dv, Trần
Ái ốc, TuanUt, Alphama, Makecat-bot, Hoang Dat, AlphamaBot, Xuanloc, En xua, Earthshaker, Addbot, Felo, Minhle20002013,

Brum, itxongkhoiAWB, Bolocom, TAN HONG Nguyen, Bimbom, Hoangdat bot, Motoro, PhanAnh123, Tuanminh01, TuanminhBot,
Tranthuan1502, Haipqhn, Tailuong, Én bạc AWB, iênĐế98, MTC3700, Trantrongnhan100YHbot, Nhnminh và 39 người vô danh
• Negev Nguồn: Người đóng góp: DHN, Newone, Trungda, Qbot, PixelBot, Luckasbot, Vani Lê, DixonDBot, TuHan-Bot, EmausBot, G'knecht, ChuispastonBot, WikitanvirBot, Cheers!-bot, TRMC, HiW-Bot, Ssbbplayer,
AlphamaBot, Addbot, itxongkhoiAWB, TuanminhBot, Én bạc, Én bạc AWB, Acer và 2 người vô danh

2.7.2

Hình ảnh

• Tập_tin:Beer-Sheeva_Negev.jpg Nguồn: Giấy phép:
Public domain Người đóng góp: Chuyển từ en.wikipedia sang Commons. Nghệ sĩ đầu tiên: Bnwwf91 tại Wikipedia Tiếng Anh
• Tập_tin:Blueprint_Negev_planned_community.jpg Nguồn: />Negev_planned_community.jpg Giấy phép: CC BY 3.0 Người đóng góp: David Shankbone Nghệ sĩ đầu tiên: David Shankbone
• Tập_tin:CBCVietnam.png Nguồn: Giấy phép: Public
domain Người đóng góp: Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra Nghệ sĩ đầu tiên: Tran e Vinh
• Tập_tin:Campus_at_Jacob_Blaustein_Institutes_for_Desert_Research.jpg
Nguồn:
/>commons/e/eb/Campus_at_Jacob_Blaustein_Institutes_for_Desert_Research.jpg Giấy phép: CC BY 3.0 Người đóng góp: David
Shankbone Nghệ sĩ đầu tiên: David Shankbone
• Tập_tin:Commons-logo.svg Nguồn: Giấy phép: Public
domain Người đóng góp: is version created by Pumbaa, using a proper partial circle and SVG geometry features. (Former versions
used to be slightly warped.) Nghệ sĩ đầu tiên: SVG version was created by User:Grunt and cleaned up by 3247, based on the earlier
PNG version, created by Reidab.
• Tập_tin:David_Faiman_of_the_Ben-Gurion_National_Solar_Energy_Center.jpg Nguồn: />commons/7/7b/David_Faiman_of_the_Ben-Gurion_National_Solar_Energy_Center.jpg Giấy phép: CC BY 3.0 Người đóng góp: David
Shankbone Nghệ sĩ đầu tiên: David Shankbone
• Tập_tin:Gia_đình_Công_giáo.jpg Nguồn: />C3%A1o.jpg Giấy phép: CC-BY-SA 3.0 Người đóng góp:
nhà truyền thống giáo xứ
Nghệ sĩ đầu tiên:
Trình ế Vânthảo luận sưu tầm
• Tập_tin:Jean-Charles_Cornay.jpg Nguồn: Giấy
phép: Public domain Người đóng góp: 19th century Vietnamese painting. Reproduction in [1] Nghệ sĩ đầu tiên: Unknown Vietnamese

artist
• Tập_tin:Logo_năm_thánh_2010_GHCGVN.svg Nguồn: />A1nh_2010_GHCGVN.svg Giấy phép: Sử dụng hợp lý Người đóng góp:
/>giao-hoi-viet-nam Nghệ sĩ đầu tiên: ?
• Tập_tin:MakhteshGadolAcacia.jpg Nguồn: Giấy
phép: Public domain Người đóng góp: Photograph taken by Mark A. Wilson (Department of Geology, e College of Wooster). [1]
Nghệ sĩ đầu tiên: Wilson44691 tại Wikipedia Tiếng Anh
• Tập_tin:Midreshet_Ben_Gurion.jpg Nguồn: />Giấy phép: CC BY 3.0 Người đóng góp: David Shankbone Nghệ sĩ đầu tiên: David Shankbone
• Tập_tin:NachalParan1.jpg Nguồn: Giấy phép: Public
domain Người đóng góp: Photograph taken by Mark A. Wilson (Department of Geology, e College of Wooster). [1] Nghệ sĩ đầu
tiên: Wilson44691 tại Wikipedia Tiếng Anh
• Tập_tin:Notre_dame_saigon.jpg Nguồn: Giấy phép:
CC BY-SA 3.0 Người đóng góp: Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra Nghệ sĩ đầu tiên: Kevin1243
• Tập_tin:Rahat_largest_Bedouin_city_in_Israel.jpg Nguồn: />Bedouin_city_in_Israel.jpg Giấy phép: CC BY 3.0 Người đóng góp: David Shankbone Nghệ sĩ đầu tiên: David Shankbone
• Tập_tin:Ruins_in_Negev_desert_Israe.jpg Nguồn: />Israe.jpg Giấy phép: CC-BY-SA-3.0 Người đóng góp: Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra Nghệ sĩ đầu tiên: User:Leif Knutsen
• Tập_tin:Wikivoyage-Logo-v3-icon.svg Nguồn: />svg Giấy phép: CC BY-SA 3.0 Người đóng góp: Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra Nghệ sĩ đầu tiên: AleXXw
• Tập_tin:Zin_Valley_in_the_Negev_Desert_of_Israel_2.jpg Nguồn: />Valley_in_the_Negev_Desert_of_Israel_2.jpg Giấy phép: CC BY 3.0 Người đóng góp: David Shankbone Nghệ sĩ đầu tiên: David
Shankbone


20

CHƯƠNG 2. NEGEV

2.7.3

Giấy phép nội dung

• Creative Commons Aribution-Share Alike 3.0




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×