Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

nguon goc cac loai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.93 KB, 19 trang )

Tác phẩm vừa online của Darwin: "Nguồn gốc muôn loài"
bản mới?
Mới đây, toàn bộ tác phẩm của Charles Darwin đã được đưa lên mạng Internet. Chúng ta có
thể tìm thấy rất nhiều điều bất ngờ trong bản thảo On the origin of species (Nguồn gốc
muôn loài, xuất bản năm 1859). Những bí mật dữ dội của tự nhiên, sự tương tác máu thịt
giữa con người và loài vật, sự bất tử của phả hệ.... Nhằm giúp bạn đọc tiếp cận với bản
in đầu tiên của tác phẩm Nguồn gốc muôn loài (1859), Vietimes trân trọng giới thiệu một
bản dịch mới về tác phẩm này.
Khi chúng ta để ý đến những cá thể cùng loài hoặc loài bậc thấp hơn những cây trồng và vật nuôi
từ xa xưa, một trong những điểm đầu tiên đập vào mắt chúng ta là thường thì chúng khác nhau
hơn rất nhiều so với bất cứ chủng loại nào hay loài nào trong môi trường tự nhiên

Khi chúng ta suy ngẫm về tính đa dạng rộng lớn của những loài cây và những vật nuôi đã thay đổi
qua nhiều kỉ qua dưới tác động của nhiều hoàn cảnh khí hậu khác biệt nhất, tôi nghĩ là chúng ta đã
đi đến kết luận rằng tính biến thiên lớn này đơn giản chỉ vì những sản phẩm thuần hoá của chúng
ta đã tăng lên dưới các điều kiện của đời sống không đồng nhất về hình thức, và phần nào khác
với những cái mà chủng loại gốc đã thải loại dưới điều kiện tự nhiên.
Mặt khác, khi ta thấy những động vật và cây trồng được thuần hoá, dù thường cằn cỗi và yếu ớt,
song sinh sản hoàn toàn thoải mái dưới sự giam cầm; và mặt khác, khi ta thấy những cá thể, con
non lấy từ tự nhiên, được thuần hoá một cách hoàn hảo, sống lâu và khoẻ mạnh (tôi có thể đưa ra
nhiều ví dụ minh hoạ), hệ thống sinh sản của chúng còn bị tác động nghiêm trọng như nhau bởi
những nguyên nhân không nhận thấy dẫn đến thất bại, chúng ta không cần ngạc nhiên về cơ thể
này, vì chúng hoạt động dưới sự giam cầm và, hoạt động không hoàn toàn đều đặn, và đem lại kết
quả không hoàn chỉnh như bố mẹ chúng hoặc hay thay đổi về lượng.
Sự mất khả năng sinh sản được cho là tai ương trong việc làm vườn. Nhưng trên phương diện
này ta công nhận sự thay đổi là nguồn gốc của những nguyên nhân giống nhau gây ra sự mất khả
năng sinh sản; và sự hay biến đổi là điểm bắt đầu cho sự chọn lọc những sản phẩm tốt nhất trong
vườn.
Tôi có thể thêm vào, rằng vì các sinh vật sẽ sinh sản rất thoải mái dưới những điều kiện không tự
nhiên nhất (ví dụ, thỏ và chồn sương ở trong chuồng), cho thấy rằng vì thế cơ quan sinh sản
không bị ảnh hưởng, do đó các cây trồng và vật nuôi sẽ chống lại sự thuần hoá và nuôi dưỡng, và


biến đổi rất nhẹ- có lẽ khó mà nhiều hơn trong tự nhiên.
Một danh sách dài có thể dễ dàng được đưa ra về những loài cây thắng thế, thuật ngữ những
người làm vườn dành cho một chồi cây hay mầm cây riêng lẻ, bất ngờ có một đặc điểm mới hoặc
đôi khi rất khác với những đặc điểm còn lại của cây. Những mầm cây như thế có thể được nhân
giống bởi kĩ thuật ghép,... và đôi khi bằng hạt giống. Những loài cây biến dị này khá hiếm trong tự
nhiên, nhưng không hề hiếm trong trồng trọt, và trong trường hợp này ta thấy rằng sự xử lý của
cây mẹ tác động đến một mầm cây hay chồi cây, mà không phải với noãn và phấn hoa. Nhưng
quan điểm của rất nhiều nhà sinh lý học là không có sự khác biệt cần thiết nào giữa một chồi cây
và một noãn trong những giai đoạn hình thành đầu tiên của chúng, thực tế, với kết quả là những
loài biến dị bổ sung củng cố cho quan điểm của tôi, rằng sự biến đổi ở mức độ lớn có thể được
quy cho noãn hoặc phấn hoa, hoặc cả hai, bị ảnh hưởng bởi sự xử lý cây mẹ trước khi đem vào
gây giống.
Dù thế nào đi nữa những trường hợp này cho thấy rằng biến dị không nhất thiết được liên hệ, như
vài tác giả đã tưởng, với sự sinh ra thế hệ sau. Cây trồng từ hạt của cùng một loại quả, và con của
cùng một lứa đẻ, đôi khi khác nhau đáng kể, dù cả con con lẫn con mẹ, như Muller nhận xét, hình
như được bộc lộ chính xác điều kiện của đời sống, và điều này cho biết ảnh hưởng trực tiếp của
điều kiện sống không quan trọng so với quy luật sinh sản, quy luật phát triển, và di truyền, vì tác
động của những điều kiện này đã điều khiển, nếu bất cứ con con nào thay đổi, tất cả sẽ có thể
biến đổi trong cùng một kiểu giống nhau. Để đánh giá mức độ, trong các biến đổi, ta quy cho là do
ảnh hưởng trực tiếp của hơi nóng, hơi ẩm, ánh sáng và thức ăn,... là rất khó.

Cảm giác của tôi là, với các con vật những tác dụng như vậy tạo ra rất ít những ảnh hưởng trực
tiếp, dù có vẻ nhiều hơn với trường hợp của các cây trồng. Với quan điểm này, những thí nghiệm
gần đây của Mr. Buckman về các loại cây có vẻ có giá trị nhất.
Khi tất cả hoặc gần như tất cả các cá thể đặt vào điều kiện nào đó bị tác động bởi cùng một cách,
lúc đầu sự thay đổi hình như xuất hiện ngay lập tức vì những điều kiện như thế, nhưng trong vài
trường hợp cho thấy rằng những điều kiện hơi trái ngược tạo ra những biến đổi tương tự về cấu
trúc. Tuy nhiên tôi cho rằng vài số lượng lớn thay đổi nhẹ có thể bị quy cho các ảnh hưởng trực
tiếp của điều kiện sống- như, trong vài trường hợp, tăng thêm qui mô nhờ lượng thức ăn, màu sắc
nhờ những loại thức ăn đặc biệt và từ ánh sáng, và có lẽ độ rậm rạp của bộ lông nhờ khí hậu.

Thói quen cũng có một ảnh hưởng nhất định, như trong giai đoạn ra hoa, cây được chuyển từ
vùng khí hậu này tới vùng khí hậu khác. Ở động vật, có một ảnh hưởng rõ rệt hơn; ví dụ, tôi thấy
trong những con vịt nuôi xương cánh nhẹ hơn và xương phần lưng nặng hơn rất nhiều, tương
xứng với toàn bộ xương sườn, so với những bộ phận xương tương tự của vịt trời; và tôi phỏng
đoán rằng sự thay đổi này chắc chắn có thể được quy cho những con vịt nuôi ít bay hơn nhiều, và
bước nhiều hơn con vịt hoang dã.
Sự phát triển lớn và được di truyền của bộ phận vú ở bò cái và dê ở những vùng chúng thường
xuyên bị vắt lấy sữa, so với những cơ thể đó ở các vùng khác, là ví dụ khác về hiệu quả sử dụng.
Không phải một vật nuôi riêng lẻ có thể được định rõ tên mà ở nhiều vùng nó không có đôi tai cụp.
Và quan điểm được một vài tác giả đưa ra, rằng sự cụp xuống là vì sự không dùng đến cơ tai, từ
những động vật không bị hoảng sợ lắm bởi mối đe doạ, có vẻ là có thể chấp nhận được.
Có nhiều quy luật quy định sự biến thể, một vài trong số đó có thể được nhìn thấy một cách mập
mờ, và từ nay trở đi sẽ được đề cập đến một cách ngắn gọn. Ở đây tôi sẽ chỉ nói đến những điều
mà có thể được gọi là thể tương quan của sự phát triển.
Bất cứ sự thay đổi nào trong phôi thai hoặc ấu trùng gần như tất nhiên sẽ gây ra những thay đổi ở
động vật trưởng thành. Ở những vật quái dị thể tương quan giữa những bộ phận hoàn toàn riêng
biệt rất lạ lùng; và nhiều ví dụ đã được đưa ra trong tác phẩm xuất sắc của Isidore Geoffrog St.
Hilaire về vấn đề này.
Những người gây giống cho rằng phiến lá dài gần như luôn được phụ thêm vào bởi phần đầu có
hình thon dài. Vài ví dụ về thể tương quan đúng là hơi kì quái. Do đó những con mèo với đôi mắt
xanh lúc nào cũng điếc, màu sắc và nét đặc biệt về thể chất gắn với nhau, những cái mà nhiều ví
dụ đặc biệt có thể được mang lại trong động vật và thực vật. Từ những cơ sở lập luận được
Heusinger rút ra, hình như cừu trắng và lợn bị tấn công theo cách khác nhau từ những cá thể da
màu bởi những chất độc thực vật nào đó. Những con chó không có lông có hàm răng không hoàn
chỉnh; những động vật có lông dài và thô có khuynh hướng, như đã được khẳng định, có râu nhiều
và dài; chim bồ câu với đôi chân có lông có lớp da giữa hai ngón chân bên ngoài; chim bồ câu mỏ
ngắn có chân nhỏ và mỏ dài thì chân ngắn.
Do đó, nếu con người tiếp tục chọn lọc thì làm tăng thêm, bất cứ nét đặc biệt nào, anh ta sẽ gần
như chắc chắn vô tình sửa đổi những bộ phận khác trong cấu trúc, vì những quy luật khó giải thích
về sự tương quan của sự phát triển.

Thế giới chung một "Tổ tiên" duy nhất?
Kết quả khác nhau, hoàn toàn không nhận ra, hoặc những định luật biến dị được nhận thấy lờ mờ
vô cùng phức tạp và đa dạng. Nó có nhiều giá trị để nghiên cứu kĩ lưỡng luận thuyết bàn về các
giống cây trồng của chúng ta, như cây lan dạ hương, cây khoai tây, thậm chí cây thược dược,...Và
thật sự ngạc nhiên khi lưu ý đến những luận điểm vô tận về cấu trúc và thể tạng, mà các giống và
giống phụ khác nhau ở một mức độ không đáng kể. Toàn bộ cấu trúc hình như trở nên mềm dẻo,
và có chiều hướng thoát khỏi cấu trúc gốc của tiêu thức bố mẹ một mức độ nhỏ.
Bất cứ biến dạng nào không được di truyền không quan trọng với chúng ta. Nhưng số lượng và
tính đa dạng của những sai khác cấu trúc có thể di truyền, cả những sai khác sinh lý học không
đáng kể hay đáng kể đều vô tận. Luận thuyết của tiến sĩ Prosper Lucas, với hai tập lớn, là xuất sắc
và đầy đủ nhất. Không người gây giống nào không biết xu hướng di truyền mạnh mẽ thế nào: like
produces like là tư tưởng chủ đạo của ông. Sự hồ nghi về nguyên lý này đã bị thổi bạt đi nhờ các
tác giả luận thuyết. Khi một sai khác xuất hiện không phải là hiếm, và ta thấy nó ở cả cha và con,
ta không thể nào nói không thể vì cùng nguyên nhân nguồn gốc có ở cả hai người; nhưng trong
nhóm nhiều cá thể, hình như bị đặt trong cùng những điều kiện giống nhau, bất cứ sai khác rất
hiếm nào, do sự kết hợp khá khác thường về hoàn cảnh, xuất hiện ở cá thể cha- khi đặt trong
khoảng vài triệu cá thể, thì nó lại xuất hiện ở cá thể con, học thuyết ngẫu nhiên hầu như buộc
chúng ta quy cho sự lặp của nó là do di truyền. Mọi người hẳn đã từng nghe về những trường hợp
bị bạch tạng, da sần, rậm lông,... xuất hiện ở vài thành viên trong cùng gia đình. Nếu sự sai khác
lạ thường và hiếm có về cấu trúc hoàn toàn được di truyền, thì những sai khác ít lập dị và phổ biến
hơn có thể được di truyền thoải mái. Có lẽ cách nhìn chính xác về toàn bộ đề tài sẽ là xem xét sự
di truyền mọi đặc tính như quy luật, và những cái không di truyền là sự dị thường.

Charles Darwin
Định luật di truyền hoàn toàn chưa được biết đến; không ai có thể nói tại sao nét đặc biệt giống
nhau ở những cá thể khác nhau cùng chủng loại, và những cá thể khác loài đôi khi được di truyền
và đôi khi lại không; tại sao cá thể con lại lại giống nguyên thể của ông bà trong vài đặc tính nào đó
hoặc những con con khác lại khác xa với tổ tiên của chúng; tại sao cái lập dị lại được truyền từ
một giới sang cả hai giới, hoặc chỉ truyền cho riêng một giới, phổ biến hơn nhưng không dành
riêng cho cùng một giới. Đó là cơ sở lập luận khá quan trọng với ta, những nét riêng biệt đó xuất

hiện ở các cá thể đực giống thuần hoá thường được truyền riêng hoặc mức độ lớn hơn cho riêng
các cá thể đực.
Một nguyên tắc quan trọng hơn nhiều, mà theo tôi là có thể tin tưởng được là ở bất cứ giai đoạn
nào trong vòng đời lúc đầu sự lập dị xuất hiện, nó có chiều hướng xuất hiện ở cá thể con trong giai
đoạn thích hợp, dù có lúc sớm hơn. Ở nhiều trường hợp điều này có thể khác; do đó những lập dị
được di truyền ở sừng gia súc có thể chỉ xuất hiện ở con con gần trưởng thành; những lập dị ở
tằm được biết là xuất hiện ở sâu bướm tương ứng hoặc giai đoạn làm kén. Nhưng những bệnh di
truyền và vài sự kiện khác làm tôi tin rằng quy luật có sự mở rộng hơn, và nếu không có lý do rõ
ràng tại sao một lập dị lại xuất hiện ở giai đoạn cụ thể, nó còn xuất hiện ở con con cùng một giai
đoạn mà trước đó đã xuất hiện ở các cá thể cha mẹ. Tôi tin rằng quy luật này có ý nghĩa nhất
trong việc giải thích những định luật phôi học. Những nhận xét này tất nhiên bị hạn chế với sự xuất
hiện đầu tiên của biến dị, mà không phải với những nguyên nhân nguyên sinh, điều có thể diễn ra
ở các tế bào trứng hoặc yếu tố đực, theo dạng gần giống như trong cá thể con lai được sinh ra từ
cá thể bò cái sừng ngắn với một cá thể bò đực sừng dài, sừng dài hơn, dù xuất hiện muộn màng
trong vòng đời, rõ ràng là do yếu tố đực.
Sau khi đã nói đến vấn đề lại giống, giờ tôi có thể xem xét các báo cáo mà các nhà tự nhiên hay
đưa ra.- cụ thể là, các giống loại thuần hoá, khi sống trong môi trường hoang dã, dần dần nhưng
nhất định các đặc tính trở lại gốc nguyên sơ. Vì vậy, người ta đã tranh cãi rằng không một điều
suy luận nào được đưa ra từ những giống thuần hóa tới những chủng loại hoang dã. Tôi đã cố
gắng vô ích để tìm ra những cơ sở lập luận quyết định mà báo cáo trên được tạo nên một cách
liều lĩnh và rất thường xuyên. Sẽ có khó khăn trong việc chứng minh tính đúng đắn của nó. Ta có
thể kết luận chắc chắn rằng rất nhiều giống loài thuần hoá rõ ràng nhất không thể sống trong môi
trường hoang dã.

Ở nhiều trường hợp ta không rõ gốc ban sơ là gì, và vì vậy không thể nói sự trở lại hình thái
nguyên thuỷ (lại giống) gần như hoàn toàn có xảy ra hay không. Điều đó rất cần thiết, để ngăn cản
tác động của giao phối lai chéo, mà chỉ một giống đơn lẻ bị yếu đi trong môi trường sinh sống mới
của nó. Tuy nhiên, vì các giống loại thuần hoá của ta chắc chắn thỉnh thoảng một vài đặc tính của
chúng trở lại hình dáng của tổ tiên chúng, đối với tôi nó hình như không chắc có thực, rằng nếu ta
thành công trong việc làm hợp thuỷ tổ(nhập tịch), hoặc trồng trọt, trong nhiều thế hệ, nhiều loài, ví

dụ cải, ở đất rất xấu ( tuy vậy, trong nhiều trương hợp, vài tác động sẽ phải bị quy cho tác động
trực tiếp của đất xấu), rằng chúng sẽ có quy mô lớn hơn, hoặc thậm chí hoàn toàn, trở lại gốc ban
sơ hoang dã.
Thí nghiệm có thành công hay không, không quá quan trọng đối với phạm vi chủ đề của chúng ta,
vì điều kiện sống đã bị thay đổi vì chính thí nghiệm đó. Nếu có thể chỉ ra rằng những giống thuần
hoá của ta biểu lộ khuynh hướng lại giống (trở lại hình thái) nguyên thuỷ mạnh mẽ- có nghĩa
là, mất đi các đặc điểm đã có được, mặc dù vẫn trong những điều kiện không thay đổi, dù vẫn
trong một nhóm có số lượng đáng kể, để mà việc giao phối tự do có thể dừng lại, bằng cách trộn
lẫn với nhau, bất cứ sai khác nhỏ nào về cấu trúc, trong trường hợp như vậy, tôi công nhận là
chúng ta không thể từ những loài giống thuần hoá suy ra điểm liên quan đến muôn loài. Nhưng
không có một bằng chứng nào ủng hộ quan điểm này: để khẳng định rằng ta không thể gây giống
ngựa đua và ngựa chở hàng, gia súc sừng ngắn và dài, và các giống gia cầm khác nhau, và các
loại thực vật ăn được, vì vô số cái được sinh ra có thể trái với mọi thí nghiệm. Tôi có thể thêm vào,
rằng khi điều kiện sống trong tự nhiên thay đổi, các giống loại và sự trở lại hình thái nguyên thuỷ
của các đặc tính có thể xuất hiện; nhưng chọn lọc tự nhiên, sau đây sẽ được giải thích, sẽ định rõ
những đặc tính mới xuất hiện theo cách đó sẽ duy trì được bao lâu.
Khi ta xem xét những tính chất di truyền hoặc dòng giống những vật nuôi và cây trồng của ta, và
so sánh chúng với những loài có quan hệ gần với nhau, ta thường thấy ở mỗi giống thuần hoá,
được nhận thấy là có ít đồng đều về đặc tính hơn các chủng loại thuần.. Những dòng giống thuần
hoá của những chủng loại giống nhau, cũng thường có đặc tính có phần quái dị, ý của tôi là, dù
khác nhau và khác với những chủng loại cùng giống, trong vài khía cạnh không quan trọng, chúng
thường khác nhau rất nhiều ở một vài bộ phận, khi so sánh bộ phận này với bộ phận khác, và đặc
biệt hơn khi so sánh với tất cả chủng loại trong tự nhiên tới những loài mà chúng có quan hệ họ
hàng gần nhất.
Với những ngoại lệ này (và với trường hợp đặc biệt là khả năng sinh sản lý tưởng của các loài khi
giao phối chéo- vấn đề sẽ được bàn luận sau đây) Những dòng thuần hoá của những chủng loại
giống nhau khác nhau ở cùng một kiểu, chỉ nhiều trường hợp ở một múc độ nhỏ hơn, so với các
loài có quan hệ họ hàng cùng một giống trong tự nhiên mới như vậy. Tôi nghĩ điều này có thể chấp
nhận được, nếu ta thấy rằng, hầu như không có bất cứ loài thuần hoá nào, bao gồm cả động vật
hay cây cối, mà không được xếp loại bởi những các chuyên gia phân loài là các giống nhỏ, và bởi

những chuyên gia khác là đời con của các loài vốn riêng biệt. Nếu bất kì sự tương phản đáng kể
nào tồn tại giữa các giống thuần hoá và các chủng loại, nguồn ngờ vực này không thể tái diễn quá
thường xuyên.
Khí hậu hay Thượng đế đã thuần hóa muôn loài?

Người ta thường cho rằng con người chọn con vật và cây cối để thuần hoá có chiều hướng
biến đổi vốn khác thường, và tương tự có khuynh hướng chống lại được các kiểu khí hậu
hay thay đổi. Tôi không tranh cãi rằng những khả năng này đã làm tăng thêm một múc độ
lớn giá trị những sản phẩm mà ta đã thuần hoá; nhưng làm thế nào người nguyên thuỷ có
thể biết được; nếu là lần đầu tiên họ thuần hoá chúng, nó sẽ thay đổi trong những thế hệ
tiếp theo không, và nó sẽ chịu được kiểu khí hậu khác không?
Người ta thường cho rằng các dòng thuần hoá không khác nhau về những đặc tính phân loại
giống loài. Tôi nghĩ có thể cho rằng báo cáo này khó mà chính xác, nhưng các nhà tự nhiên rất bất
đồng trong việc định rõ những đặc điểm gì là đặc điểm chung của giống loài, tất cả mọi đánh giá
đó là theo thí nghiệm. Và theo ý kiến về dòng dõi các giống mà tôi sẽ đưa ra sau đây, chúng ta
không có quyền mong đợi luôn gặp phải những điểm khác nhau của giống loài trong những sản
phẩm đã được thuần hoá của chúng ta. Khi ta cố gắng ước lượng độ khác nhau về cấu trúc giữa
giống loài thuần hoá với các chủng loại tương tự, chúng ta sớm hồ nghi việc không biết chúng có
tổ tiên là một hay vài chủng loại cha mẹ.
Ý kiến này, nếu có thể được làm sáng tỏ, sẽ rất thú vị; ví dụ nếu nó chỉ ra được rằng chó săn màu
xám, chó săn, chó sục, chó xpanhơn, và chó sói đực, mà chúng ta đều biết bản tính chúng rất
trung thành, là đời con của những chủng loại đơn lẻ bình thường, thì những cơ sở lập luận như
thế sẽ có tác dụng lớn trong việc làm chúng ta nghi ngờ về tính không biến đổi của những chủng
loại có quan hệ gần hoặc có quan hệ máu mủ (cận huyết)- ví dụ về nhiều con cáo sống ở các miền
khác nhau trên thế giới. Như hiện thời chúng ta thấy, tôi không cho rằng tất cả những loài chó của
ta có nguồn gốc từ một chủng loại hoang dã, nhưng trong trường hợp của vài giống thuần hoá
khác có chứng cứ có cơ sở, thậm chí là chắc chắn củng cố cho ý kiến này.

Sự thay đổi nhỏ của lừa, gà Nhật hay khả năng chống lại sức nóng của hươu nai, chống lại cái
lạnh của loài lạc đà thông thường có cản trở việc thuần hoá của họ hay không? Tôi không thể

không biết chắc rằng các loài động vật và loài cây khác, có quy mô ngang bằng với các sản phẩm
thuần hoá của ta, và thuộc vào các lớp gồm nhiều loại khác nhau hoặc vùng tương tự, có nguồn
gốc tự nhiên, và có thể được gây giống với số đời con giống nhau trong điều kiện đã thuần hoá,
chúng có thể sẽ biến đổi ở mức trung bình như loài bố mẹ của những sản phẩm thuần hoá chúng
ta đang có đã thay đổi.
Trong trường hợp nhiều vật nuôi và cây trồng lâu đời của ta, tôi không cho rằng có thể đi đến một
kết luận rõ ràng nào, chúng có nguồn gốc từ một hay nhiều loài. Luận cứ này phần lớn dựa vào
bởi những người tin vào nguồn gốc phức tạp của vật nuôi rằng ta nhận thấy trong nhiều sổ sách
cũ xưa nhất, nhất là của người Hy Lạp, tính đa dạng của các nòi giống, và rằng nhiều nòi giống
của ta tương tự nhau một cách sít sao, có thể là giống hệt với những giống hiện hành. Dù cho vấn
đề thứ hai dường như với tôi được nhận thấy là hoàn toàn và thường đúng đắn hơn., nó cho biết
điều gì, trừ phi nòi giống của ta có nguồn gốc từ đó, bốn hoặc năm nghìn năm trước?

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×