Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Hôn nhân đồng giới (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.54 MB, 45 trang )

Hôn nhân đồng giới
Hôn nhân đồng giới là hôn nhân giữa hai người có
cùng giới tính sinh học. Hôn nhân đồng giới có khi
còn được gọi là “hôn nhân bình đẳng” hay “bình đẳng
hôn nhân”, thuật ngữ này sử dụng phổ biết nhất từ
những người ủng hộ[1][2][3][4][5] . Việc hợp pháp hoá hôn
nhân đồng giới còn được mô tả bằng thuật ngữ "định
nghĩa lại hôn nhân” từ các trường phái có quan điểm
đối lập.[6][7][8]

tác động tiêu cực lâu dài của nó với xã hội và trẻ em.
Để đảm bảo xã hội và trẻ em phát triển lành mạnh
thì Chính phủ không nên công nhận dạng hôn nhân
này[26][27]
Công nhận hôn nhân đồng giới là một vấn đề chính trị,
xã hội, nhân quyền và quyền công dân, cũng như vấn
đề tôn giáo ở nhiều quốc gia và trên thế giới. Những
tranh cãi tiếp tục diễn ra rằng hai người đồng giới có
nên được kết hôn, được công nhận một mối quan hệ
khác (kết hợp dân sự) hoặc từ chối công nhận những
quyền đó.[28][29][30] Hôn nhân đồng giới đem đến cho
những người LGBT, cũng là những người đóng thuế
cho chính phủ, được sử dụng những dịch vụ công và
hiện thực nhu cầu tài chính như những cặp khác giới
khác. Hôn nhân đồng giới cũng đem đến cho họ sự bảo
vệ hợp pháp ví dụ như quyền thừa kế và quyền thăm
nuôi.[31] Những lợi ích hoặc tác hại của việc công nhận
hôn nhân đồng tính là chủ đề tranh luận của nhiều tổ
chức khoa học.

Hôn nhân đồng giới là vấn đề còn tồn tại tranh cãi gay


gất giữa những người ủng hộ và không ủng hộ. Những
người ủng hộ hôn nhân đồng giới cho rằng việc hợp
pháp hoá hôn nhân đồng giới là để đảm bảo nhân quyền
(quyền con người), đảm bảo sự bình đẳng và quyền lợi
giữa những người thuộc các thiên hướng tình dục khác
nhau trong xã hội; các cặp đôi đồng tính thiết lập mối
quan hệ bền vững tương đương các cặp đôi khác giới
trên tất cả các góc độ tâm lý; sự phân công vai trò giữa
các thành viên ở những gia đình đồng tính công bằng
hơn; thể chất và tâm lý của con người được tăng cường
tốt bởi hôn nhân hợp pháp đồng thời xã hội sẽ được
hưởng nhiều lợi ích từ việc công nhận hôn nhân đồng
giới, loại bỏ được kỳ thị và phân biệt đối xử. Mặt khác,
sự đồng thuận cao của các hiệp hội nghiên cứu khoa
học hàng đầu về tâm lý, xã hội, nhân chủng, nhi khoa
học rằng trẻ em được nuôi dưỡng và phát triển tốt bởi
các cặp cha mẹ đồng tính, sự phát triển tâm sinh lý,
giới tính và hạnh phúc của trẻ em không phụ thuộc vào
xu hướng tình dục của cha mẹ; con cái của các cặp vợ
chồng đồng tính được hưởng lợi khi được nuôi dưỡng
bởi cha mẹ có tình trạng hôn nhân hợp pháp và nhận
được sự hỗ trợ của các tổ chức, đoàn thể xã hội. eo
các hiệp hội này, hôn nhân đồng tính không gây ra bất
kỳ nguy cơ nào mà chỉ tốt hơn cho xã hội, do đó các
Chính phủ cần ban hành đầy đủ các quyền dân sự bình
đẳng cho người đồng tính trong Luật pháp.[9][10][11][12]
ế kỷ 21 được xem là thế kỷ của bình đẳng hôn nhân,
sau khi đã có quyền bình đẳng của người da màu,
quyền bình đẳng của phụ nữ và quyền bình đẳng tôn
giáo.[12][13][14][15][16][17][18][19][20][21][22][23][24][25] Ngược

lại, những người khác phản đối hôn nhân đồng giới vì
họ cho rằng kiểu gia đình này có những khiếm khuyết
(trẻ em được nuôi bởi cặp đồng tính sẽ dễ gặp tổn
thương tâm lý và lệch lạc hành vi, hôn nhân đồng tính
thường không bền vững, không có khả năng duy trì
nòi giống, làm sụt giảm giá trị của hôn nhân trong văn
hóa xã hội, thúc đẩy tình trạng làm cha/mẹ đơn thân…),
do vậy nếu chấp thuận và để hôn nhân đồng tính nhân
rộng thì sẽ gây tác hại cho xã hội và trẻ em. eo những
người phản đối, hôn nhân đồng tính không thể coi là
một vấn đề về nhân quyền, mà vấn đề chính là ở những

Hôn nhân đồng giới có thể được thực hiện một cách đơn
giản hoặc theo nghi thức tôn giáo. Nhiều cộng đồng tín
ngưỡng trên thế giới đã cho phép hai người cùng giới
kết hôn hoặc thực hiện hôn lễ cùng giới, ví dụ như:
Phật giáo ở Đài Loan, Úc, Nhà thờ ở ụy Điển, Giáo
hội Presbyterian, Do ái giáo bảo thủ, Giáo hội ống
Nhất Canada…[32][33][34][35]
Trước khi công nhận hôn nhân đồng giới, nhiều nước
đã có luật cho các cặp đồng tính đăng ký sống chung
gọi là kết hợp dân sự, quy định quyền lợi và bổn phận
của họ như Đan mạch từ năm 1989[36] ,[37] , Na Uy năm
1993[38] .
Hiện tại, đã có 23 quốc gia chính thức công nhận hôn
nhân đồng giới. Các quốc gia gần đây nhất hợp pháp
hóa hôn nhân đồng giới là Ireland vào tháng 10 năm
2015 [39] và Colombia vào tháng 04 năm 2016[40] .

1 Nghiên cứu

1.1 Tổ chức ủng hộ
Từ ngày 26/06/2014, Liên Hợp ốc đã chính thức công
nhận quyền kết hôn đồng tính với hơn 43.000 nhân
viên thuộc tổ chức này trên toàn cầu, bao gồm các hình
thức “hôn nhân” và “kết hợp dân sự" đồng tính. Trước
kia, tình trạng hôn nhân của nhân viên Liên Hiệp quốc
được xác định bởi quốc tịch của họ, tuy nhiên kể từ đây,
Liên Hiệp quốc sẽ công nhận pháp lý đối tất cả các cặp
1


2

Hôn nhân cho các cặp đồng giới (vòng tròn = những trường hợp
riêng lẻ)
Công nhận hôn nhân đồng giới ở nền luật pháp khác
Toà án cấp cao đã quyết định cho phép, nhưng chưa được thực
hiện
Cho phép kết hợp dân sự và có hầu hết quyền như hôn nhân
Chung sống không đăng ký
Chính phủ có ý định và có khả năng hợp pháp hóa
Hôn nhân đồng giới không hợp pháp
(Màu nằm cao hơn trong danh sách vô hiệu hóa màu thấp hơn.
Những vòng tròn thể hiện những trường hợp rải rác; ở châu Phi,
đây là hôn nhân đồng giới truyền thống (một dạng nghi lễ) chứ
không phải đồng tính luyến ái.)

vợ chồng đồng tính đã thực hiện kết hôn tại nước mà
hôn nhân đồng giới là hợp pháp, không phân biệt quốc
tịch của họ. Tổng thư ký Liên Hợp ốc Ban Ki-moon

tuyên bố: “yền con người là sứ mệnh cốt lõi của Liên
Hiệp ốc. Tôi rất tự hào khi đứng lên vì sự bình đẳng
của tất cả nhân viên, và tôi cũng kêu gọi tất cả các quốc
gia thành viên của Liên Hiệp ốc hãy đoàn kết lại để
loại trừ hội chứng kỳ thị đồng tính và những sự phân
biệt đối xử mà chắc chắn nó không thể được chấp nhận
tại nơi đây”.[41][42][43]

.
Ngoài ra, Liên Hiệp ốc đã có nhiều hành động thúc
đẩy việc hợp pháp hoá hôn nhân đồng giới và các quyền
đối với người đồng tính, các xu hướng tình dục thiểu
số khác tại các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới.
Vào tháng 4/2011, Liên Hiệp ốc đã phối hợp với Tổ
chức Y tế thế giới (WHO) xuất bản một tài liệu có tựa
đề “Phát ngôn của Liên hiệp quốc về giải quyết vấn đề
phân biệt đối xử trên cơ sở thiên hướng tình dục và
bản sắc giới”[44][44] . Vào tháng 9/2012, Liên hiệp quốc

1

NGHIÊN CỨU

Cờ cầu vồng - biểu tượng của phong trào đấu tranh của cộng
đồng LGBT và phong trào “niềm tự hào đồng tính” từ năm
1978, gồm 6 màu: đỏ, cam, vàng, lục, xanh dương, tím. Số
lượng sọc được chọn là chẵn để tránh việc sọc chính giữa của
cờ bị che khuất bởi cột cờ khi treo thẳng đứng

in một ấn phẩm gồm 60 trang về vấn đề “thiên hướng

tình dục và bản sắc giới trong luật nhân quyền quốc tế"
như một cẩm nang giúp các quốc gia hiểu rõ hơn bản
chất các nghĩa vụ của mình đồng thời hướng dẫn các
bước cần thiết để họ thực hiện xây dựng luật và chính
sách đảm bảo các quyền cơ bản cho những người đồng
tính, song tính và chuyển giới. Vào Ngày quốc tế chống
kỳ thị, phân biệt đối xử với người đồng tính, song tính
và chuyển giới (ngày 17 tháng 5 hàng năm), hầu hết
các cơ quan của Liên Hiệp quốc đều đánh dấu kỷ niệm
ngày này với các sự kiện cụ thể[45][46] .
Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ (American Psychological
Association, APA) - tổ chức nghiên cứu chuyên nghiệp
về tâm lý học lớn nhất thế giới (với hơn 137.000 chuyên
gia ngành tâm lý) đã tuyên bố trong Nghị quyết bình
đẳng hôn nhân cho người đồng tính ngày 03 tháng 05
năm 2011:
Đồng tính luyến ái là một biểu hiện bình
thường của thiên hướng tình dục con người
mà không gây trở ngại cố hữu nào để có thể
tạo lập một cuộc sống hạnh phúc, khỏe mạnh
và hiệu quả, gồm cả khả năng tạo lập mối
quan hệ bền vững với một người cùng giới,
cũng như nuôi dạy con cái tốt. Hiệp hội tâm
lý học Hoa Kỳ ủng hộ bình đẳng hôn nhân
đầy đủ cho các cặp vợ chồng đồng tính, phản
đối các chính sách, pháp luật phân biệt đối
xử với họ. Hiệp hội cũng kêu gọi các chính
phủ liên bang mở rộng công nhận đầy đủ hôn
nhân đồng giới. Hiệp hội khuyến khích các
nhà tâm lý học, khoa học và các chuyên gia

khác tiến hành nghiên cứu nhằm nâng cao sự
hiểu biết của dân chúng về đồng tính và song
tính, cũng như đẩy mạnh các biện pháp can
thiệp và giáo dục công chúng nhằm giảm bớt
thành kiến, kỳ thị và phân biệt đối xử. Hiệp
hội sẽ tiếp tục làm việc với các cơ quan chính
phủ, các tổ chức xã hội để thúc đẩy nghiên
cứu và can thiệp để cải thiện sức khỏe và


1.1

Tổ chức ủng hộ
phúc lợi của người đồng tính và song tính[47]

Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ đã ủng hộ mạnh mẽ cho
quyền bình đẳng đầy đủ cho những người LGBT trong
gần 35 năm, trên cơ sở các nghiên cứu khoa học xã hội
về khuynh hướng tình dục. APA đã hỗ trợ lợi ích hợp
pháp cho các cặp vợ chồng đồng tính từ năm 1997 và
quyền kết hôn đối với các cặp vợ chồng đồng tính từ
năm 2004. APA đã thông qua nhiều báo cáo chính sách,
vận động sửa đổi Luật hôn nhân liên bang, nộp báo cáo
tóm tắt hỗ trợ hôn nhân đồng tính tại nhiều bang của
Hoa Kỳ…[48]
Hiệp hội tâm thần học Hoa Kỳ (American Psychiatric
Association, APA) - tổ chức nghiên cứu chuyên nghiệp
về tâm thần học lớn nhất thế giới (với hơn 36.000 bác sĩ
tâm thần học) đã nêu trong Tuyên bố về hỗ trợ pháp lý
công nhận hôn nhân đồng giới vào tháng 5 năm 2005:

Cam kết hôn nhân bền vững và các mối
quan hệ gia đình là nền tảng của xã hội hỗ trợ
con người trước những thách thức của cuộc
sống, bao gồm cả bệnh tật và mất mát. Các
cặp đôi đồng tính trải nghiệm nhiều phân
biệt đối xử có thể ảnh hưởng xấu đến sự ổn
định của các mối quan hệ và sức khỏe tâm
thần của họ. Con cái của các cặp đồng tính
chưa được công nhận pháp lý cũng không có
sự bảo vệ tương tự như hôn nhân dân sự đã
tạo cho con cái của các cặp vợ chồng khác
giới. Việc từ chối công nhận pháp lý của hôn
nhân dân sự cũng để lại hậu quả ngày càng
có nhiều người lớn tuổi trong các mối quan
hệ đồng tính đối mặt với các vấn đề sức khỏe
liên quan đến tuổi và vấn đề tài chính khi về
già… Vì lợi ích của việc duy trì và phát huy
sức khỏe tâm thần, Hiệp hội Tâm thần học
Hoa Kỳ ủng hộ và hỗ trợ công nhận pháp lý
hôn nhân cùng giới với tất cả các quyền, lợi
ích và trách nhiệm bằng hôn nhân hợp pháp,
và phản đối việc hạn chế các quyền, lợi ích,
và trách nhiệm tương đương này.[49]
Hiệp hội Xã hội học Hoa Kỳ (American Sociological
Association, ASA) - tổ chức nghiên cứu chuyên nghiệp
về xã hội học lớn nhất thế giới (với hơn 14.000 nhà xã
hội học) đã tuyên bố trong nghị quyết của mình:
Không có bằng chứng cho thấy con cái
của các cha mẹ cùng giới hay khác giới là
khác nhau về hạnh phúc. ật vậy, sự ổn định

lớn hơn được cung cấp bởi hôn nhân cho các
cặp đồng tính cũng như các bậc cha mẹ khác
giới có thể là một tài sản cho các con mình[50] .
Sửa đổi hiến pháp định nghĩa hôn nhân là
giữa một người nam và một người phụ nữ là
cố tình phân biệt đối xử chống lại người đồng
tính nữ và đồng tính nam cũng như con cái

3
của họ bằng cách từ chối truy cập đến các
biện pháp bảo vệ, quyền lợi và trách nhiệm
mở rộng tự động cho các cặp vợ chồng kết
hôn… Chúng tôi tin rằng sự biện minh chính
thức về việc sửa đổi hiến pháp được đề xuất
dựa trên thành kiến hơn là nghiên cứu thực
nghiệm. Các nghiên cứu xã hội học đã nhiều
lần chỉ ra rằng sự bất bình đẳng gây phương
hại đến lợi ích xã hội. Hiệp hội Xã hội học
Hoa Kỳ cực lực phản đối việc sửa đổi hiến
pháp được đề xuất định nghĩa hôn nhân là
giữa một người nam và một người nữ[51] .
Hiệp hội Nhân chủng học Hoa Kỳ (American
Anthropological Association, AAA) - tổ chức lớn nhất
thế giới của các nhà nghiên cứu nhân chủng học với gần
10.000 thành viên, tuyên bố vào tháng 3 năm 2004:[52]
Những kết quả trong hơn một thế kỷ qua
của các nghiên cứu nhân chủng học về mô
hình gia đình, các mối quan hệ về gia đình,
thân tộc và các nền văn hoá qua các thời kỳ,
không cung cấp một hỗ trợ nào cho quan

điểm rằng sự văn minh và trật tự xã hội bền
vững phụ thuộc vào mô hình hôn nhân là
một tổ chức độc quyền dành cho tình dục
khác giới. ay vào đó, các nghiên cứu nhân
chủng học đã hỗ trợ kết luận rằng một mô
hình đa dạng các kiểu gia định, bao gồm cả
gia đình xây dựng dựa trên quan hệ đồng
giới, có thể đóng góp cho việc xây dựng xã
hội vững mạnh và nhân văn. Hiệp hội Nhân
chủng học Hoa Kỳ cực lực phản đối hôn nhân
hạn chế chỉ dành cho các cặp dị tính.
Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of
Pediatrics, viết tắt: AAP) kết luận vào năm 2006, trong
một bản phân tích công bố trên Tạp chí Nhi khoa:[53][54]
Có nhiều bằng chứng cho thấy không có
mối quan hệ giữa thiên hướng tình dục của
cha/mẹ với các yếu tố tình cảm, tâm lý và
cách cư xử của một đứa trẻ… chứng tỏ không
có rủi ro đối với trẻ em lớn lên trong một gia
đình với cha/mẹ là đồng tính. Những người
lớn tận tâm và biết cách nuôi dạy, cho dù họ
là nam hay nữ, đồng tính hay dị tính, đều có
thể là những bậc cha mẹ tốt. yền lợi và sự
bảo vệ của hôn nhân dân sự có thể làm cho
những gia đình như vậy thêm vững mạnh.
Học viện trẻ vị thành niên và tâm thần học Hoa Kỳ
(American Academy of Child & Adolescent Psychiatry,
viết tắt (AACAP) đã nêu trong tuyên bố chính sách của
mình:[55] :
Không có bằng chứng cho thấy hoặc hỗ

trợ rằng cha mẹ là người đồng tính hay là


4

1
có nguy cơ cao hoặc thiếu kỹ năng làm cha
mẹ hơn khi so sánh với các cặp cha mẹ khác
giới. Không có bằng chứng nào đáng tin cậy
cho thấy rằng thiên hướng tình dục của cha
mẹ có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển
của trẻ em. Cá nhân những người đồng tính,
song tính hay chuyển giới phải đối mặt với sự
giám sát chặt chẽ hơn so với những người dị
tính liên quan đến các quyền lợi của họ hoặc
trở thành cha mẹ. Các nghiên cứu đã chứng
minh trẻ em được nuôi dưỡng bởi các cha mẹ
đồng tính không có gì khác biệt so với trẻ
em của cha mẹ dị tính về việc phát triển các
vấn đề tình cảm hoặc hành vi.[56] Học viện
trẻ em và tâm thần học Hoa Kỳ phản đối bất
kỳ sự phân biệt nào dựa trên khuynh hướng
tình dục hoặc giới tính đối với cá nhân liên
quan đến quyền lợi của họ như giám hộ, nuôi
dưỡng, hoặc cha mẹ nuôi.

Hiệp hội tâm lý học Canada (Canadian Psychological
Association, viết tắt: CPA) khẳng định vào năm
2006:[57]
Các tài liệu (bao gồm tài liệu về những

yếu tố cơ sở của hôn nhân đồng giới) chỉ ra
rằng tình trạng tài chính, tâm lý và thể chất
của các bậc cha mẹ được tăng cường bởi hôn
nhân và trẻ em được hưởng lợi từ cha mẹ có
hôn nhân được công nhận pháp lý… Như đã
nêu trong báo cáo năm 2013 của CPA, các yếu
tố gây stress ở các cặp đồng tính nam, người
đồng tính nữ và con cái của họ là kết quả
của các cách thức mà xã hội đối xử với họ
hơn vì bất kỳ thiếu sót nào về mô hình gia
đình. CPA quả quyết rằng trẻ em được hưởng
lợi khi mối quan hệ của hai người nuôi dạy
chúng được công nhận và ủng hộ bởi những
tổ chức xã hội. Các nghiên cứu tâm lý của
CPA kết luận rằng con cái của cha mẹ đồng
tính không khác biệt với con cái cha mẹ khác
giới về phát triển tâm lý, phát triển giới tính
cũng như giới tính của họ, trẻ em lớn lên từ
các cặp cha mẹ đồng tính không thể hiện bất
kỳ sự khác biệt đáng kể nào so với các cặp cha
mẹ khác giới. CPA tiếp tục khẳng định rằng
trẻ em được hưởng lợi từ sự hạnh phúc đó kết
quả từ khi mối quan hệ của cha mẹ được công
nhận và hỗ trợ của các tổ chức xã hội.
Hiệp hội tâm lý - xã hội học Australia (e Australian
Psychological Society, APS)[58] - tổ chức của các nhà
tâm lý và xã hội học tại Úc với hơn 20.000 thành viên,
trong kiến nghị gửi ượng viện ban hành Luật Bình
đẳng Hôn nhân sửa đổi Bill 2010 đã tuyên bố[59][60] :
Không có cơ sở khoa học cho một khẳng

định rằng đồng tính nữ, đồng tính nam, lưỡng

NGHIÊN CỨU

tính, và những người chuyển giới là ít phù
hợp để kết hôn hay để trở thành cha mẹ của
những trẻ em khỏe mạnh và được nuôi dạy
tốt như ở những người dị tính. APS hỗ trợ
bình đẳng hôn nhân đầy đủ cho tất cả mọi
người, bất kể giới tính và thiên hướng tình
dục, về các khía cạnh quyền con người, sức
khỏe và an sinh xã hội… APS đã có các kiến
nghị: Chính phủ Úc sửa đổi luật để loại bỏ
phân biệt đối xử dựa trên khuynh hướng tình
dục và giới tính; Các chính quyền bang và
lãnh thổ Úc bãi bỏ tất cả các biện pháp phủ
nhận cặp vợ chồng đồng tính, bao gồm cả
những người chuyển giới và lưỡng tính đồng
thời ban hành luật để cung cấp bình đẳng hôn
nhân đầy đủ cho các cặp vợ chồng đồng tính;
Chính phủ Úc mở rộng công nhận đầy đủ
quyền kết hôn hợp pháp cặp vợ chồng đồng
tính, tương đương tất cả các quyền, lợi ích
và trách nhiệm ở các cặp vợ chồng khác giới
kết hôn hợp pháp; Nhà nước và chính quyền
lãnh thổ Úc tăng cường ban hành Luật chống
phân biệt đối xử để bảo vệ tất cả người dân Úc
trước phân biệt đối xử trên cơ sở định hướng
tình dục và giới tính.
Đại học Tâm thần Hoàng gia Vương quốc Anh tuyên

bố:[61]
Người đồng tính là và nên được xem là
những thành viên giá trị của xã hội, những
người có chính xác các quyền và nghĩa vụ
hoàn toàn tương tự như tất cả những công
dân khác. Nó bao gồm quyền bình đẳng trong
việc tiếp cận với chăm sóc sức khỏe, các
quyền và trách nhiệm tham gia vào một quan
hệ đối tác/hôn nhân, quyền và trách nhiệm
được sinh đẻ và nuôi dạy con cái…

1.2 Tổ chức phản đối
Nhiều tổ chức khác thì có quan điểm phản đối hôn nhân
đồng tính do e ngại các hệ lụy xã hội mà nó gây ra.
Ví dụ, như Đảng Cộng hòa (Hoa Kỳ) luôn duy trì lập
trường chống lại hôn nhân đồng tính. Năm 2013, Đảng
đã bỏ phiếu nhất trí tái khẳng định cam kết sẽ duy trì
thể chế hôn nhân giữa một nam và một nữ tại Hoa Kỳ.
Tại Nghị quyết năm 2012 của Đảng Cộng hòa khẳng
định[62][63] :
ể chế hôn nhân là nền tảng của xã hội
dân sự, nó sẽ quyết định sự thành công của
quốc gia. Kinh nghiệm và nghiên cứu khoa
học xã hội luôn cho thấy hôn nhân truyền
thống là tốt nhất cho trẻ em: tăng tỷ lệ đỗ
đại học, có thể chất và tình cảm lành mạnh,
ít nghiện ma túy hoặc rượu, phạm tội hoặc


1.2


Tổ chức phản đối
mang thai ngoài hôn nhân. Việc phá vỡ mô
hình gia đình sẽ dẫn đến lãng phí tài chính
và tăng sự kiểm soát của chính phủ… Chúng
tôi tin rằng hôn nhân, sự kết hợp giữa một
người nam và một người nữ phải được tôn
trọng như là tiêu chuẩn quốc gia, một mục
tiêu để khuyến khích thông qua luật quản lý
hôn nhân.

Hội đồng nghiên cứu gia đình, một tổ chức với quan
điểm “Tin tưởng iên Chúa là tác giả của cuộc sống,
của quyền tự do và gia đình” và hoạt động nhằm “thúc
đẩy thế giới quan Kitô giáo làm cơ sở cho một xã hội
công bằng, tự do và ổn định”, tin rằng hôn nhân và
gia đình là nền tảng của nền văn minh và đức hạnh xã
hội. Hội đồng nghiên cứu gia đình tham gia tranh luận
công khai và đưa ra các chính sách công nhằm tôn vinh
phẩm giá con người và duy trì các tổ chức hôn nhân và
gia đình[64] đã tuyên bố:[65]
Hội đồng nghiên cứu gia đình cho rằng
hành vi tình dục đồng giới là có hại cho
những người tham gia vào nó và cho xã hội
nói chung, và không bao giờ nên được chấp
nhận. Đó là một quan niệm phi tự nhiện, và
như vậy sẽ liên quan đến các tác động tiêu
cực tới sức khỏe thể chất và tâm lý. Trong
khi nguyên nhân của hấp dẫn đồng tính là rất
phức tạp, hiện không có bằng chứng thuyết

phục rằng đồng tính là do di truyền hay bẩm
sinh. Chúng tôi phản đối những nỗ lực của
các nhà hoạt động đồng tính yêu cầu đồng
tính luyến ái được chấp nhận là tương đương
với tình dục khác giới trong pháp luật, trong
các phương tiện truyền thông, và trong các
trường học. Việc chấp nhận “hôn nhân” giữa
2 người cùng giới tính sẽ tạo nên sự định
nghĩa lại khái niệm căn bản và làm sai lệch
mô hình hôn nhân.

5
pháp, chính sách công cộng và phương tiện
truyền thông.”
Năm 2013, tại Đài Loan đã diễn ra cuộc biểu tình của
hàng chục ngàn người phản đối hôn nhân đồng giới.
Họ cho rằng động thái này sẽ đẩy xã hội rơi vào tình
trạng hỗn loạn. Nhóm “Vì hạnh phúc của thế hệ mai
sau” - một trong những nhóm tổ chức cuộc biểu tình
- tuyên bố rằng việc cho phép đồng tính kết hôn và
nhận con nuôi sẽ khuyến khích “tình dục thiếu kiểm
soát”, làm suy yếu giá trị gia đình truyền thống và gây
ra vấn đề dễ nhầm lẫn giới tính ở trẻ em. Nhà lập pháp
Lai Shyh-bao của ốc Dân Đảng nói trước đám đông:
"Chúng ta phải đứng lên nói “không” để bảo vệ giá trị gia
đình, chính sách này có thể tạo ra một tác động cực kỳ
nghiêm trọng, ảnh hưởng đến dân số cũng như công cuộc
giáo dục con cái chúng ta.” Một đại diện khác cũng của
ốc Dân Đảng là Ting Shou-chung nói rằng ông tôn
trọng người đồng tính nhưng “gia đình được xây dựng

từ một người nam với một người nữ vẫn là một yếu tố
quan trọng cho sự ổn định của xã hội và không nên thay
đổi điều này.” Nhiều diễn giả tại cuộc biểu tình không
ngừng cáo buộc rằng đề xuất hợp thức hóa hôn nhân
đồng giới là để mở đường cho tình dục tự do, loạn luân
và quan hệ tình dục tập thể.[69]

Biểu tình quy mô nhỏ chống hôn nhân đồng tính tại Pháp năm

Hiệp hội gia đình Hoa Kỳ, một tổ chức chuyên nghiên 2013 để phản đối việc chính phủ Pháp thông qua luật hôn nhân
cứu các chính sách gia đình, từng tự xác định “Là một đồng tính vào năm 2013.[70][71][72]
tổ chức Cơ đốc giáo thúc đẩy đạo đức Kinh ánh"[66]
Năm 2013, Croatia đã thông qua Hiến pháp mới, theo
đã tuyên bố[67][68] :
đó quy định cấm hôn nhân đồng tính đã được thông qua
với tỷ lệ 65,87% cử tri ủng hộ[73] . Đảng Dân chủ Nhân
Về phong trào đồng tính, đây chỉ là biểu
dân iên Chúa giáo Hungary (KDNP) đã hoan nghênh
hiện mới nhất và cơ bản nhất của cuộc cách
kết quả trên. eo KDNP, đó là chiến thắng của “giá trị
mạng tình dục trong 40 năm qua và sẽ dẫn
Kitô giáo châu Âu”. Vlado Košić đã nhấn mạnh rằng
đến việc bình thường hóa của nhiều hành
người Croatia là những người Công giáo biết trân quý
vi lệch lạc hơn. úc đẩy phong trào hôn
truyền thống mà họ đã sống trong nhiều thế kỷ[74][75] .
nhân đồng tính sẽ làm suy yếu tổ chức gia
đình và theo đó là nền tảng của tất cả các xã
hội…. Các chương trình đồng tính làm nảy
sinh hàng loạt các hệ lụy… AFA phản đối

những nỗ lực để đưa phong trào đồng tính
hiện diện trong các trường học, chính phủ,
doanh nghiệp và nơi làm việc thông qua luật

Tổ chức quốc gia về hôn nhân (Hoa Kỳ) (National
Organization for Marriage) đã giúp chính phủ Nga
thông qua Đạo luật chống tuyên truyền đồng tính năm
2013. Chủ tịch tổ chức là Brian Brown tin rằng những
người LGBT nên dừng ngay việc nhận con nuôi và ngay
sau đó, Nga đã ban hành một đạo luật người đồng tính


6

1

cấm nhận con nuôi. Brian Brown tiết lộ ông đã vận
động hành lang chống lại dự luật hôn nhân bình đẳng
tại Pháp (nơi các cuộc biểu tình bạo lực nổ ra). Brown
gọi Nga là một ví dụ tiên phong, và ông hi vọng phong
trào này phát triển trên toàn thế giới. Brown đã gom
các lập luận của mình vào một nhu cầu phải bảo vệ trẻ
em, và là luật “chống tuyên truyền đồng tính” của Nga
cũng được đóng khung theo cách đó, khiến cho bất kỳ
ai trao đổi về đồng tính luyến ái với một trẻ vị thành
niên cũng trở thành bất hợp pháp. Trước ốc hội Nga,
Brian Brown phát biểu[76]
Ngay bây giờ các bạn đang có cuộc chiến
về nhận con nuôi, nhưng vấn đề nhận con
nuôi không thể tách rời từ các vấn đề hôn

nhân. Nếu các bạn không bảo vệ các giá trị
văn hóa của đất nước mình, tôi e rằng chúng
ta sẽ nhìn thấy sự phát triển rất tiêu cực trên
toàn thế giới. Trong một số trường học Hoa
Kỳ, trẻ em đang nói chuyện với nhau về tình
dục đồng tính, nhưng trong thực tế, các em
không nên tìm hiểu về điều đó cho đến một
độ tuổi nhất định. Chúng ta cần đoàn kết
với nhau, chúng ta cần bảo vệ con em chúng
ta. Mọi trẻ em đều có quyền có cha mẹ bình
thường: Một người cha và một người mẹ đúng
nghĩa

1.3

Quan điểm khác của một số cá nhân

Việc công nhận hôn nhân đồng tính hay không là chủ
đề tranh cãi tại nhiều nơi trên thế giới. Những người
ủng hộ cho rằng việc công nhận hôn nhân đồng tính là
thể hiện sự bình đẳng và đảm bảo quyền con người, và
việc công nhận hôn nhân đồng giới mang lại nhiều lợi
ích cho xã hội. Ngược lại, những người phản đối hôn
nhân đồng tính thì lo ngại những hệ lụy mà nó gây ra
cho xã hội.
1.3.1

Ủng hộ

Tổng ư ký Liên Hiệp ốc Ban ki-moon đã phát

biểu: “Văn hóa truyền thống không nên là một trở lực
đối với việc thực hiện nhân quyền cho mọi người trên
cơ sở xu hướng tình dục. Vì vậy người đồng tính, song
tính và chuyển giới cũng nên có quyền được kết hôn
như người dị tính và không thể sử dụng văn hóa, truyền
thống làm lý do từ chối quyền cơ bản này đối với những
người thiểu số tính dục”.[77]
Ngày 06/3/2015, Chính yền của tổng thống Obama
đã chính thức ủng hộ hôn nhân đồng giới bằng việc
gửi kiến nghị ủng hộ vấn đề này lên Tối cao Pháp viện
Hoa Kỳ. Luật sư Donald B. Verrilli - đại diện cho chính
quyền ông Obama, đã phát biểu việc cấm đoán hôn
nhân đồng giới ở một số bang là vi phạm hiến pháp
nước Mỹ, và không có lý do thỏa đáng nào để biện

NGHIÊN CỨU

minh cho sự phân biệt đó. Bộ trưởng Bộ tư pháp Mỹ
cũng cho rằng sự bình đẳng trong vấn đề hôn nhân là ý
tưởng đã tới lúc chín muồi. Bản thân Ông Omaba trong
cuộc phỏng vấn với ABC News, đã tuyên bố ủng hộ hôn
nhân đồng tính: “Tôi cho rằng từ góc độ cá nhân, một
việc rất quan trọng với tôi là xúc tiến và khẳng định
việc những cặp đôi đồng giới nên được phép kết hôn”.
Trong một bài diễn văn khác năm 2013, ông khẳng
định người đồng giới cũng cần được đối xử giống như
những người khác theo pháp luật[78] . Sự vận động để
hôn nhân đồng tính được công nhận trên toàn nước Mỹ
là một nỗ lực thực hiện trong quá trình kéo dài trong
suốt gần 3 thập kỷ, từ năm 1996 của Ông Obama[79] . Bà

Hillary Clinton, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ phát biểu
ngày 18/1/2013: Những người Mỹ LGBT là những công
dân đầy đủ và bình đẳng, và xứng đáng được hưởng các
quyền công dân, bao gồm cả kết hôn. Đó là lý do tại sao
tôi ủng hộ hôn nhân cho các cặp vợ chồng đồng tính, nam
cũng như nữ. Cá nhân tôi ủng hộ vấn đề này, và như là
một vấn đề của chính sách và pháp luật, trong bối cảnh
nỗ lực ngày càng rộng rãi để thúc đẩy bình đẳng và cơ
hội cho những người Mỹ LGBT và tất cả người Mỹ.[80][81]
Tiến sĩ Nguyễn u Nam (Viện Chiến lược và chính
sách y tế) cho rằng hôn nhân đồng giới có tính bình
đẳng cao vì hai người ít có sự phân công lao động hay
trách nhiệm theo giới. Nghiên cứu trong thời gian ba
năm ở Vermont, Mỹ về chất lượng cuộc sống ở các cặp
đồng tính sống chung có đăng ký và các cặp kết hôn dị
tính cho thấy, các cặp đồng tính sống chung có đăng ký
có mối quan hệ hài hòa hơn, gần gũi nhau và ít xảy ra
xung đột hơn so với các cặp kết hôn thông thường.[82]
ị trưởng thành phố New York Michael Bloomberg
nhận định: “Bình đẳng Hôn nhân đã làm thành phố của
chúng ta cởi mở hơn, toàn diện hơn và tự do hơn. Nó
cũng đã giúp tạo ra nhiều công ăn việc làm và hỗ trợ
nền kinh tế của chúng ta.”[83]
ị trưởng thành phố San Francisco Gavin Newsom
khẳng định: “Bình đẳng hôn nhân là vấn đề về phẩm
giá của con người, quyền của con người. Bạn thích hay
không thích cũng vậy thôi”. “Chúng ta chưa thể dừng
lại cho đến khi mọi người Mỹ đều có quyền bình đẳng
như nhau và được tôn trọng như nhau.”[84][85][86]
1.3.2 Phản đối

Tiến sĩ David Blankenhorn cho rằng: để phát triển tốt
về tâm lý, trẻ em cần phải có một gia đình với một người
mẹ và một người cha.[87][88] Trong cuốn sách Tương lai
của hôn nhân, ông viết:
Luật pháp là một giáo viên tuyệt vời, và nếu
những người ủng hộ hôn nhân đồng tính thành
công, trẻ em sẽ bị trục xuất khỏi bài học về
hôn nhân. Chấp nhận hôn nhân đồng tính sẽ
khiến cho các thế hệ tương lai nghĩ rằng hôn
nhân không phải là vì trẻ em mà chỉ vì sự gắn


1.3

Quan điểm khác của một số cá nhân
kết quan hệ. Khi hôn nhân không còn gì nhiều
hơn sự gắn kết quan hệ, ít người sẽ kết hôn để
có con… Người dân vẫn sẽ sinh con, tất nhiên,
nhưng rất nhiều trong số trẻ em là con ngoài
giá thú. Đó là một thảm họa cho tất cả mọi
người. Trẻ em bị tổn thương vì thiếu sự nuôi
nấng của cha hoặc mẹ. Xã hội bị tổn thương
vì sẽ bắt đầu một chuỗi các tác động tiêu cực
dẫn đến nghèo đói, tội phạm, các chi phí phúc
lợi cao hơn dẫn đến bộ máy nhà nước phình to
hơn, thuế cao hơn, và một nền kinh tế trì trệ
hơn.[87]

Tiến sĩ Richard Kay dẫn số liệu tại Bắc Âu cho biết:
Hệ quả của hôn nhân đồng tính thể hiện rõ ở

các nước Bắc Âu. Ở Na Uy, nơi hợp pháp hôn
nhân đồng tính kể từ đầu thập niên 1990. Trên
toàn Na Uy, số trẻ em ngoài giá thú đã tăng
khoảng 50% trong thập kỷ đầu tiên của hôn
nhân đồng tính.[89]
Nhà nhân chủng học Stanley Kurtz viết:
Chấp nhận hôn nhân đồng tính đã làm suy yếu
thể chế hôn nhân và dẫn đến tình hình hiện
nay tại Bắc Âu: hôn nhân truyền thống hiếm
hoi hơn, sinh con ngoài giá thú phổ biến hơn,
và tan vỡ gia đình tăng vọt. Trong bối cảnh
nước Mỹ, điều này sẽ là một thảm họa. Việc
chấp nhận hôn nhân đồng tính và sự xói mòn
của hôn nhân truyền thống luôn song hành ở
các quốc gia, truyền thống hôn nhân là tàn lụi
nhất ở bất cứ nơi nào hôn nhân đồng tính là
hợp pháp
Hôn nhân đồng tính không thể đem lại cho trẻ
em cả cha lẫn mẹ. Nếu hôn nhân không phải
là vì trẻ em, vậy thứ gì là vì trẻ em? Trái ngược
với những gì các nhà hoạt động đồng tính hô
hào, nhà nước không xác nhận quyền kết hôn
chỉ vì mọi người có tình cảm với nhau. Nhà
nước công nhận hôn nhân chủ yếu là vì lợi ích
của hôn nhân cho trẻ em và xã hội (nếu không,
chúng ta sẽ phải công nhận cả hôn nhân cận
huyết hoặc chế độ đa thê). Xã hội không nhận
được lợi ích gì từ hôn nhân đồng tính. Tương
lai của trẻ em và một xã hội văn minh phụ
thuộc vào hôn nhân bền vững giữa nam và nữ.

Đó là lý do tại sao, bất kể những gì bạn nghĩ
về đồng tính luyến ái, hai loại quan hệ không
bao giờ nên được coi là tương đương về pháp
lý.[90]
Toni Meyer, nhà nghiên cứu cao cấp của Hội đồng
Chính sách gia đình bang New Jersey (Mỹ), nhấn mạnh
rằng sự bất ổn định gia đình là một “dấu hiệu đặc trưng”
của hôn nhân đồng tính. Kết quả là chính phủ cần chi

7
nhiều trợ cấp hơn, chi phí tòa án để xử ly hôn cao hơn,
trẻ em phạm tội phổ biến hơn, và ngày càng nhiều
thanh niên bị kích thích và chấp nhận thử nghiệm hành
vi tình dục đồng tính. Ông cho rằng:
(Hôn nhân đồng tính) sẽ ảnh hưởng lớn nhất
lên vai trẻ em. Đó là những nạn nhân vô tội
của một thử nghiệm xã hội khiến đạo đức và
thậm chí là cả thể chất (của trẻ em) đã bị phá
vỡ trong cái gọi là “Tự do, bình đẳng và tiến
bộ". Từ năm 1994, số người đồng tính nam đã
tăng 18%, và số lượng đồng tính nữ còn tăng tới
157%. Điều này cho thấy những yếu tố văn hóa
có tác động mạnh mẽ trong việc khuyến khích
các hành vi đồng tính, và ít nhất là gián tiếp,
nó làm suy yếu toàn bộ lý thuyết về việc "đồng
tính là bẩm sinh”… Với cùng những cách thức,
hôn nhân đồng tính không khác hơn chế độ đa
thê và không mang lại lợi ích gì cho trẻ em
hoặc xã hội giống như hôn nhân truyền thống
mang lại.”.[91]

Nhà nghiên cứu Dana Mack cho rằng: “Hôn nhân không
nên được mở rộng cho các cặp đồng tính bởi quan hệ đồng
tính không thể giúp sinh sản. Hôn nhân là cách thức của
nhân loại mà mục đích cốt lõi là để đoàn kết các thành
phần sinh học, xã hội và pháp lý của cha mẹ vào cam kết
lâu dài. Hôn nhân nói với một đứa trẻ rằng: một người
đàn ông và một người phụ nữ sẽ ở đó để yêu thương và
dạy dỗ bạn. Trong ý nghĩa này, hôn nhân là một món
quà mà xã hội ban cho đứa trẻ. Cho phép hôn nhân đồng
tính sẽ làm chuyển đổi mục đích của hôn nhân: từ nghĩa
vụ sinh đẻ và nuôi dưỡng trẻ em trở thành ham muốn
ích kỷ của người lớn.” [92]
omas Peters, giám đốc văn hóa tại Cơ quan Hôn
Nhân ốc gia Hoa Kỳ, cho rằng công nhận hôn nhân
đồng tính sẽ làm hôn nhân suy yếu:
“Khi bạn đã cắt lìa định chế hôn nhân khỏi gốc
rễ sinh học của nó, thì chẳng còn gì để chặn
đứng việc tái định nghĩa nó cho phù hợp với
đòi hỏi của các nhóm quyền lợi khác nhau.
Các hậu quả phụ này đã xuất hiện tại nhiều
quốc gia đã hợp pháp hôn nhân đồng tính. Tại
Brazil và Hà Lan, các quan hệ tay ba (một
chồng hai vợ) gần đây đã được hợp thức hóa.
Ở Canada, một người đàn ông đa thê đã phát
động chiến dịch đòi luật pháp thừa nhận chế
độ quần hôn. Ngay ở Mỹ, bang California cũng
đã thông qua một dự luật để hợp pháp hóa các
gia đình gồm tới ba hay bốn cha mẹ. Sinh sản
là lý do chính đòi hôn nhân dân sự phải được
giới hạn giữa hai người. Khi tình yêu tính dục

thay thế cho trẻ em làm mục đích chính của
hôn nhân, thì các giới hạn hôn nhân đâu còn
nghĩa lý gì với thế hệ tương lai của loài người
nữa.[93]


8

1

Nhà đạo đức học Úc, Giáo sư Margaret Somerville quan
sát thấy rằng nhu cầu cho hôn nhân đồng tính “buộc
chúng ta phải lựa chọn giữa ưu tiên cho quyền của trẻ
em hoặc quyền của người lớn đồng tính. Những tuyên bố
của người đồng tính luôn được ưu tiên với các phương
tiện truyền thông, được tung hô là tiến bộ và vì “quyền
bình đẳng” của người lớn. Nhưng sau đó, ai sẽ bảo vệ
quan điểm của trẻ em?" Frank Brennan, Chủ tịch của
Ủy ban Tư vấn Nhân quyền quốc gia Úc, nói về hôn
nhân đồng giới và quyền của trẻ em[94] :
Sự bình đẳng của người lớn không
nên khiến trẻ em trong tương lai bị tước
đi cơ hội để được sinh ra bởi một người
đàn ông và một người phụ nữ. yền của
các cặp đồng tính bình đẳng không thể
lớn hơn quyền của trẻ em trong tương
lai. Đây là trung tâm của sự phản đối
hôn nhân đồng tính: chấp nhận cha mẹ
đồng tính có nghĩa là trẻ em trong tương lai
phải mất đi một người mẹ hay một người cha.

Hôn nhân là một kết hợp chất đúng
theo Điều 16 của Tuyên Ngôn ốc tế Nhân
quyền: “quyền kết hôn và xây dựng gia
đình”. Hôn nhân đồng tính bao gồm cả việc
công nhận quyền thành lập một gia đình
bằng sinh sản nhân tạo - như đẻ thuê - và
bất kỳ đứa trẻ được tạo ra trong đó sẽ không
có khả năng có cả mẹ và cha.
Tất nhiên, có những đứa trẻ bất hạnh
không thể có cả một người mẹ và một người
cha, ví như cái chết hay sự ly dị của cha
mẹ, nhưng đó không phải là điều chúng ta
sẽ mong muốn, và nó không phải là thứ mà
chính phủ gây ra cho đứa trẻ. Nhưng nếu
Chính phủ chấp nhận hôn nhân đồng tính, đó
sẽ là hành vi tước đoạt cha mẹ có chủ ý. Đó là
hành vi phạm tội đối với trẻ em, và pháp luật
trở thành công cụ buộc một đứa trẻ phải sống
mà không có một người mẹ hoặc cha. Tình
mẫu tử của con người sâu sắc nhất, nhưng
mối quan hệ này sẽ bị bãi bỏ bởi “hôn nhân”
của hai người đàn ông. Hôn nhân đồng tính
cũng báo hiệu một sự mất phương hướng đau
đớn khi những đứa trẻ được tạo ra bởi những
người cha hiến tặng tinh trùng vô danh khi
được sinh ra từ bà mẹ độc thân.
Ông Ryan Anderson, chuyên viên nghiên cứu về định
chế và chính sách công của Mỹ tại Heritage Foundation
cho rằng "Định nghĩa lại hôn nhân để trở thành một
định chế vô giới tính như thế sẽ thay đổi cơ bản của

hôn nhân. Nó làm cho mối quan hệ (hôn nhân) dựa vào
những mong muốn của người lớn nhiều hơn là về những
nhu cầu và quyền lợi của trẻ em” [95] Người đứng đầu
Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã đưa ra lời kêu gọi: “Bất

NGHIÊN CỨU

kể những gì một đa số sít sao tại Tòa án Tối cao có thể
tuyên bố tại thời điểm này trong lịch sử, bản chất của
con người và hôn nhân vẫn không thay đổi và không
thể thay đổi. Việc bắt buộc định nghĩa lại hôn nhân trên
khắp đất nước là một lỗi lầm bi thảm, làm tổn hại đến lợi
ích chung và những người dễ bị tổn thương nhất trong
chúng ta, đặc biệt là trẻ em.” [96]
Trong khi đó, tiến sĩ Trayce Hansen cho biết: “Nghiên
cứu từ 4 quốc gia khác nhau cho thấy rằng hành vi đồng
giới không phải là cố định về mặt di truyền. Hành vi
tình dục là dễ biến đổi, và môi trường xã hội (chuẩn mực
văn hóa, pháp luật) có thể tác động vào nó… Khi Hoa Kỳ
và các nước phương Tây khác ngày càng ủng hộ người
đồng tính - cả về xã hội, chính trị, và luật pháp; thì có xu
hướng ngày càng tăng về việc các cá nhân tham gia vào
hành vi đồng tính. Xu hướng này sẽ tiếp tục nếu chúng
ta chính thức hợp thức hóa hôn nhân đồng tính.” Bà cho
rằng:
“Hai người phụ nữ có thể là người mẹ tốt
nhưng không ai có thể là một người cha hoàn
hảo”. Cha và mẹ, mỗi người một giới tính sẽ
giúp cho trẻ em có cái nhìn toàn diện hơn về
giới tính của bản thân, từ đó có suy nghĩ và

hành động lành mạnh và cân bằng trong các
mối quan hệ sau này, đó là điều được nhân
loại đúc rút qua 5.000 năm. Hôn nhân đồng
tính sẽ làm cho trẻ em bối rối về biểu hiện giới
tính và vô tình khuyến khích những hành vi
không đúng về giới tính ở trẻ vị thành niên.
Mặc dù đồng cảm với những người đồng tính
nhưng không nên vì sự đồng cảm đó mà
biến trẻ em thành "chuột bạch" để rồi gây ra
những thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội.[88]
eo Kilian Melloy, trợ lý biên tập viên Nghệ thuật của
EDGE Media Network, thì Trayce Hansen đã tìm cách
bỏ qua những số lượng đảo các bằng chứng cho thấy
rằng cha mẹ đồng tính không có ảnh hưởng xấu đến
trẻ em, Hansen chỉ đơn giản cho rằng các tác giả của
nghiên cứu này đã nói dối. Hansen đã tuyên bố rằng,
“Hầu hết các nhà nghiên cứu tham gia vào các nghiên
cứu về trẻ em của người đồng tính là tự tuyên bố", trong
khi Hansen không đưa ra được bất kỳ một bằng chứng
nào cho tuyên bố của mình. Tiến sĩ omas Marra đã
viết một báo cáo bác bỏ những lập luận của Trayce
Hansen trên “bốn điểm cơ bản”, và kết luận rằng những
lập luận của Hansen không dựa trên khoa học. Tiến sĩ
Marra nói: “Bài viết Hansen đã may mắn khi được dán
nhãn “quan điểm,' vì không một điều gì trong lập luận
của cô ấy dựa trên khoa học tâm lý. Trong thực tế, toàn
bộ bài viết đã dựa trên niềm tin và giá trị, rất ít có sự
tham gia của kiến thức lý thuyết hoặc nghiên cứu. Tiến
sĩ Mara nói thêm ""Không có bằng chứng khoa học rằng
cha mẹ đồng tính là có hại. Hansen có thể không chấp

thuận cha mẹ đồng tính như không có trong hệ thống
niềm tin giá trị của cô ấy, nhưng cô nên đặt ra rõ ràng
rằng điều này là dựa trên sở thích cá nhân của mình và


9
thiên vị chứ không phải trên khoa học tâm lý mà cô đã
nghiên cứu để có được”.[97] .
Nhà nghiên cứu Ryan Normandin của Đại học RMIT
cho rằng[97] :
Nếu ai phản đối việc hợp pháp hóa hôn
nhân đồng tính, ý kiến của họ sẽ tự động bị
phe đối lập coi là dựa trên cơ sở của sự thù
ghét, sợ đồng tính, hoặc động cơ tiêu cực khác.
Trên thực tế, có những lý do chính đáng tại sao
hôn nhân đồng tính không nên được hợp pháp
hóa.
Sự phản đối hôn nhân đồng tính mang một
ý nghĩa tiêu cực vì những người ủng hộ đã
đóng khung thành công vấn đề này thành một
trong những “quyền bình đẳng”. eo logic
này, nếu bạn phản đối hôn nhân đồng tính,
bạn đang phản đối quyền bình đẳng cho tất cả
mọi người. Nhưng có phải tất cả mọi người đều
có quyền kết hôn với bất cứ ai mà họ muốn?
Không; tiểu bang có luật điều chỉnh kết hôn,
cấm anh em họ gần kết hôn, anh chị em ruột
kết hôn, cha mẹ kết hôn với con cái, người kết
hôn với động vật… và nhiều dạng cấm khác.
Tại sao chính phủ khuyến khích một số loại

hôn nhân trong khi cấm loại hôn nhân khác?
Lý do là nam và nữ, khi lập gia đình, có nhiều
khả năng sinh sản, do đó đảm bảo sự duy trì xã
hội. Các loại hôn nhân bị cấm vì lý do tương
tự: con cháu của các gia đình này có nhiều khả
năng bị còi cọc, do đó không thể tiếp tục sự phát
triển của xã hội, hoặc khiến xã hội bị suy thoái.
Rõ ràng là, bởi thời điểm này, hôn nhân
đồng tính rơi vào trường hợp này. Cặp đôi
đồng tính không thể sinh sản, có nghĩa là
không có lợi ích xã hội để công nhận hôn nhân
của họ. Nhiều người sẽ cho rằng hạnh phúc
của cặp đồng tính sẽ được tăng cường bởi hôn
nhân đồng tính, do đó tạo ra một lợi ích xã
hội. Điều này, trên thực tế, không phải là lý
do. Về gia đình mà thiếu vắng người cha, một
nghiên cứu của Đại học Canterbury do giáo sư
Bruce J. Ellis tiến hành đã chỉ ra rằng “việc
thiếu vắng người cha có liên quan chặt chẽ
với nguy cơ quan hệ tình dục sớm và mang
thai vị thành niên”. Điều này có liên quan
đến các cuộc tranh luận xung quanh hôn nhân
đồng tính bởi vì, trong các cặp đồng tính nữ,
trẻ em chắc chắn sẽ lớn lên mà không có người
cha sinh học của trẻ, do đó làm tăng nguy cơ
của các tác dụng không may. Các bằng chứng
cho thấy rằng các trẻ em lớn lên có đầy đủ cả
mẹ và cha là điều kiện thuận lợi nhất.
Hôn nhân đồng tính không phải là một vấn
đề quyền công dân; vấn đề chính là có tồn tại

lợi ích xã hội đủ để Chính phủ khuyến khích
hôn nhân đồng tính hay không? Khi mà các
cặp vợ chồng đồng tính không thể sinh sản

và, trên thực tế, có tiềm năng gây nguy hiểm
cao hơn cho trẻ em, chính phủ cần duy trì lập
trường rằng hôn nhân chỉ diễn ra giữa 2 người
khác giới.

2 Sự phân công vai trò, sự gắn
kết các thành viên trong gia đình
đồng tính
Cục thống kê Austrarlia đã tiến hành một cuộc điều tra,
kết quả thống kê cho thấy gia đình đồng tính có nhiều
ưu điểm vượt trội hơn:[98] :
• 59% các cặp đồng tính nữ và 57% đôi đồng tính
nam biết chia sẻ các công việc chung của gia đình
trong khi chỉ có 38% các cặp vợ chồng dị tính làm
được điều này.
• Hơn 50% các cặp đồng tính có bằng cử nhân và
đang làm việc với những chức vụ khá cao như
quản lý hoặc chuyên gia trong một số lĩnh vực.
Con số này ở những cặp đôi dị tính là 40%.
• Về thu nhập, có khoảng 50% các cặp đồng tính
ở Australia kiếm được hơn 1.000 USD trong một
tuần.
• Có khoảng 33.700 các cặp vợ chồng đồng tính và
6.300 đứa trẻ đang được nuôi dưỡng trong những
gia đình này.
Các nhà nghiên cứu thuộc trường đại học Melbourne Australia đã tiến hành khảo sát 500 trẻ em của 315 cặp

đôi phụ huynh đồng tính và phát hiện số điểm của họ
cao hơn 6% so với gia đình dị tính, trẻ em được nuôi
nấng bởi các đôi đồng tính được đánh giá cao hơn về
mặt sức khỏe nói chung lẫn sự gắn kết gia đình. Tiến
sĩ Simon Crouch - trưởng nhóm nghiên cứu đã lý giải:
“Có vẻ như mối quan hệ giữa phụ huynh và con cái trong
các gia đình đồng tính thường rất tốt cho nên đã tạo ra
những tác động tích cực đối với sức khỏe trẻ em. Cuộc
nghiên cứu trước đây cũng cho thấy: Nếu so với các gia
đình dị tính thì vai trò của phụ huynh trong những gia
đình đồng tính thường bình đẳng hơn. Mỗi người sẽ đảm
nhận vai trò phù hợp với kỹ năng của mình chứ không
phải rơi vào những định kiến về giới. Ví dụ như mẹ là
phải ở nhà và chăm sóc trẻ em trong khi cha đi ra ngoài
kiếm tiền. Điều này dẫn đến một đơn vị gia đình hài hòa
và kéo theo sức khỏe tốt và hạnh phúc hơn”.[99]
Một nghiên cứu gần đây của Đại học Massachuses
Amherst (Hoa Kỳ) đã so sánh 104 gia đình, trong đó
gồm 50 gia đình khác giới, 29 gia đình đồng tính nam
và 25 gia đình đồng tính nữ. Các nhà nghiên cứu đã
phát hiện ra rằng trong các gia đình đồng tính, các hoạt
động chăm sóc trẻ em đã được chia đồng đều hơn giữa
hai người so với gia đình dị tính, sự phân công nhiệm


10

3

VẤN ĐỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH


vụ đã được chia sẻ nhiều hơn so với vai trò giới truyền Các cuộc khảo sát quốc gia về bạo lực gia đình tại Mỹ
thống [100]
cho thấy: 21,5% đàn ông và 35,4% phụ nữ chung sống
Nghiên cứu tiến hành trong ba năm ở bang Vermont - đồng tính đã từng trải qua bạo lực thể chất bởi bạn tình
nam giới
Hoa Kỳ về chất lượng cuộc sống lứa đôi của các cặp đôi đồng tính mà họ cùng chung sống, so với 7,1%
[108]

20,4%
phụ
nữ
chỉ
chung
sống
khác
giới
đồng tính có đăng ký và các cặp đôi dị tính cho kết quả:
các cặp đồng tính sống chung có đăng ký có mối quan
hệ hài hòa hơn, gần gũi nhau và ít xảy ra xung đột hơn
so với các cặp kết hôn giữa nam và nữ. ực tế ở các
nước Bắc Âu cho thấy, sau khi luật hôn nhân đồng giới
được thông qua thì sự gắn bó của các cá nhân có tính
lâu dài và giảm lây truyền các bệnh qua đường tình dục.
Sau 5 năm từ khi Canada thông qua luật hôn nhân đồng
giới, nghiên cứu trên một nhóm quần thể đăng ký kết
hôn đầu tiên cho thấy các cặp đôi này có chỉ số thỏa
mãn với cuộc sống chung tăng lên, lòng tự tin tăng lên
và sự kỳ thị giảm đáng kể. Sự thay đổi này không chỉ
diễn ra ở các cặp đăng ký sống chung mà còn cho cả

cộng đồng những người đồng giới nói chung.[101]

Một báo cáo tổng quan đã được công bố ngày 4/9/2014
trên tờ Journal of Sex & Family erapy. Tác giả đầu
tiên là tiến sĩ tâm lý học Colleen Stiles-Shields. Bạo lực
gia đình xảy ra ít nhất là thường xuyên, và thậm chí
là có khả năng còn nhiều hơn như vậy, giữa các cặp vợ
chồng đồng tính so với các cặp vợ chồng khác giới, theo
đánh giá của các nhà khoa Northwestern Medicine. Các
nghiên cứu trước, khi phân tích với nhau, chỉ ra rằng
bạo lực gia đình ảnh hưởng đến 25-75% người đồng tính
nữ, đồng tính nam và lưỡng tính. Tuy nhiên, việc thiếu
dữ liệu và báo cáo của việc bạo hành khiến việc vẽ ra
một bức tranh đầy đủ là khó khăn, nó cho thấy tỷ lệ
bạo hành còn cao hơn[109] .

eo báo cáo tại Úc, Bạo lực gia đình đã trở thành một
"đại dịch thầm lặng” trong cộng đồng đồng tính nam
3 Vấn đề bạo lực gia đình
và đồng tính nữ dù đã được tăng cường giám sát, theo
Hội đồng AIDS của NSW. Khoảng 1/3 số cặp vợ chồng
eo điều tra của chính phủ Mỹ, Bạo lực gia đình xuất đồng tính nữ, đồng tính nam lưỡng tính, chuyển giới
hiện thường xuyên hơn ở những gia đình đồng tính hơn và lưỡng tính đã trải qua bạo lực gia đình[110]
so với những gia đình thông thường. Điều tra nạn nhân
Một nghiên cứu khác chỉ ra rằng 83% người đồng tính
ốc gia Mỹ giai đoạn 1993-1999 báo cáo rằng 0,24%
cho biết họ đã bị lạm dụng tam lý bởi bạn tình đồng
phụ nữ và 0,035% đàn ông đã lập gia đình là nạn nhân
giới[111] Một nghiên cứu trên Tạp chí Interpersonal đã
của bạo lực gia đình hàng năm gây ra bởi vợ/chồng họ,

kiểm tra xung đột và bạo lực trong quan hệ đồng tính.
so với tỷ lệ 4,6% đàn ông và 5,8% phụ nữ đồng tính bị
Các nhà nghiên cứu tìm thấy rằng 90% số cặp đồng tính
bạo hành bởi người đồng tính chung sống với họ[102]
nữ được khảo sát đã bị lăng mạ bằng lời nói từ các bạn
Trong năm 2013, CDC công bố kết quả của một nghiên tình của họ trong năm trước đó, trong khi 31% phải trải
cứu năm 2010 và thừa nhận rằng "ít người được biết qua bạo hành thân thể[112]
về sự phổ biến về bạo lực tâm lý, bạo lực tình dục giữa
Tạp chí Nghiên cứu Dịch vụ Xã hội báo cáo rằng: cuộc
đồng tính nữ, đồng tính, những người đàn ông và phụ
khảo sát của 1.099 phụ nữ đồng tính cho thấy khoảng
nữ lưỡng tính”. Báo cáo cho thấy tỷ lệ phải chịu bạo lực
hơn 50% số đồng tính nữ cho biết rằng họ đã bị lạm
gia đình trong cuộc sống của các nhóm như sau: 46%
dụng bởi bạn tình chung sống với họ, các hình thức
đối với đồng tính nữ và 43% đối với phụ nữ dị tính, 40%
thường xuyên nhất của sự lạm dụng là bằng lời nói/cảm
[103]
ở nam giới đồng tính và 21% so với nam giới dị tính.
xúc/lạm dụng tâm lý và lạm dụng thân xác-tâm lý kết
[104]
CDC nêu số liệu cụ thể như sau
:
hợp”[113] Một nghiên cứu về các cặp vợ chồng đồng tính
nữ trong Sổ tay Phát triển gia đình và Can thiệp chỉ ra
• 44% phụ nữ đồng tính, so với 35% phụ nữ dị tính
rằng 54 % người đồng tính đã chịu bạo hành gia đình
trải qua hiếp dâm, bạo hành thể xác và/hoặc rình
khoảng 10 lần hoặc hơn, 74% đã trải qua 6 lần hoặc
rập bởi một bạn tình trong cuộc đời của họ.

nhiều sự cố, và 71% nói rằng tình trạng bạo hành đang
• 26% đàn ông đồng tính so với 29% đàn ông dị tính tồi tệ hơn theo thời gian[114]
đã trải qua hiếp dâm, bạo hành thể xác và/hoặc
Về nguyên nhân, người đồng tính thực hiện bạo hành
rình rập bởi một đối tác bởi một bạn tình trong
đối với bạn tình của mình để đạt được và duy trì sự
cuộc đời của họ.
kiểm soát[115] . Một động cơ khác là để để khỏa lấp cảm
giác mất mát và bị bỏ rơi. Vì vậy, nhiều vụ bạo hành
Waldner-Haugrud và Vaden Gratch báo cáo rằng 50%
xảy ra trong quá trình rạn nứt quan hệ. Một số người
đồng tính nữ từng bị lạm dụng tình dục bởi bạn tình
đồng tính khác thì thực hiện bạo hành do bị ảnh hưởng
[105]
Lạm dụng tâm
đồng tính mà họ cùng chung sống
bởi việc lớn lên trong các gia đình thường xuyên xảy ra
lý được báo cáo đã xảy ra với khoảng 24% đến 90%
bạo hành thể chất, tâm lý hoặc tình dục[116]
[106]
của đồng tính nữ
Trong cuốn sách về Bạo lực gia
đình trong gia đình đồng tính, Các tiến sĩ Island và
Letellier thông báo rằng “tỷ lệ bạo lực gia đình trong
những người đàn ông đồng tính cao gần gấp đôi so với
người dị tính.”[107]


4.1


Cặp đồng giới nuôi dạy con

4

Tính bền vững so với hôn nhân
thông thường

Trong một nghiên cứu năm 2014, Đại học Mở của Anh
đã khảo sát 5.000 người để tìm hiểu về tình hình sống
chung của các cặp đôi hiện đại và phương thức giữ gìn
mối quan hệ. eo đó, các cặp đôi đồng tính hầu hết
đều có mối quan hệ tình cảm hạnh phúc hơn các cặp
đôi dị tính. Tuy nhiên, họ lại ít khi bày tỏ những cử chỉ
thân mật ở nơi công cộng và ngại công khai mối quan
hệ. Tiến sĩ Jacqui Gibb cho biết: “Các cặp đôi đồng tính
tham gia luôn có suy nghĩ tích cực và hạnh phúc với
mối quan hệ của họ".[117][118][119][120]

11
kết hợp dân sự) đã từng thảo luận và chấp nhận điều
đó trong vài hoàn cảnh, so với chỉ 3,5% ở nam giới đã
kết hôn với nữ; số nam đồng tính phản đối là 50,4% so
với 78,6% ở nam giới kết hôn với nữ. Có 58,3% các cặp
nam đồng tính (đã đăng ký kết hợp dân sự) có quan hệ
tình dục ngoài bạn tình, so với 15,2% ở nam kết hôn với
nữ[125] . eo Báo cáo Mendola, chỉ 26% người đồng tính
tin rằng chung thủy là yếu tố quan trọng nhất trong
một cuộc hôn nhân[121] .
Các tổ chức ủng hộ đồng tính vẫn tuyên truyền rằng
tình yêu đồng tính không có gì khác biệt so với tình yêu

nam-nữ, tuy nhiên thực tế lại rất khác. Chính bản thân
“văn hóa đồng tính” luôn thôi thúc người đồng tính liên
tục tìm kiếm các bạn tình mới, thay vì tôn trọng chế
độ một vợ một chồng như các cặp dị tính.[126] Andrew
Sullivan, một tác giả nổi tiếng về đồng tính, cho biết
các cặp đồng tính có các tiêu chuẩn đạo đức rất “khác
biệt” so với xã hội. Một trong số đó là “sự tồn tại các
bạn tình ngoài hôn nhân", họ luôn muốn tìm nhiều bạn
tình riêng dù vẫn đang chung sống với nhau. Các cặp
đôi đồng tính không xem đó là hành vi ngoại tình mà
lại coi đó là điều cần thiết trong lối sống của họ. Một
khảo sát của Tạp chí Nghiên cứu Giới tính cho thấy:
chỉ có 2,7% số người đồng tính lớn tuổi là chung thủy
với duy nhất 1 bạn tình trong suốt cuộc đời của họ, so
với tỷ lệ trên 80% ở những người bình thường.[127]

Tuy nhiên, về bạo lực gia đình, khảo sát được tiến hành
bởi Bộ Tư pháp Mỹ xác nhận rằng người đồng tính và
các mối quan hệ đồng tính nữ có một tỷ lệ lớn hơn của
bạo lực gia đình so với các mối quan hệ khác giới. Trong
cuốn sách vềbạo lực gia đình trong những cặp đồng
tính nam, Island và Letellier khẳng định rằng “bạo lực
gia đình trong số những người đàn ông đồng tính cao gần
gấp đôi so với nam giới dị tính.” Khảo sát của Trung tâm
quốc gia chống bạo lưc phụ nữ, được tài trợ bởi Viện Tư
pháp, cho thấy rằng “chung sống đồng tính có mức bạo
lực với bạn tình cao hơn đáng kể so với chung sống khác
giới. 39% số cuộc chung sống đồng tính nữ đã xảy ra hãm
Nhà nghiên cứu Brad Hayton cung cấp cái nhìn sâu sắc
hiếp, hành hung thể chất, so với 21,7% chung sống khác

thái độ của nhiều người đồng tính đối với cam kết trong
giới. Đối với đàn ông, các con số tương đương là 23,1%
hôn nhân:
và 7,4%"[121]
Về tính bền vững, Khảo sát năm 2004 ở Na Uy và ụy
Điển đối với các cặp đồng tính đã đăng ký kết hợp dân
sự cho thấy: các cặp đồng tính nam có tỷ lệ ly hôn cao
hơn 50%, với đồng tính nữ cao hơn 167% so với các cặp
vợ chồng nam-nữ thông thường.[122] Đại học Chicago
và nhà xã hội học Edward Laumann lập luận rằng “cư
dân đồng tính điển hình trong thành phố dành hầu hết
cuộc sống trong các mối quan hệ tình cảm mang tính
“giao dịch”, hoặc chỉ duy trì được quan hệ ngắn hơn sáu
tháng”.[123]
4.1
Một nghiên cứu về đồng tính nam ở Hà Lan được công
bố trong tạp chí AIDS phát hiện ra rằng “thời gian có
quan hệ ổn định” với mỗi bạn tình chỉ là 1 năm rưỡi,
và mỗi đồng tính nam có trung bình 8 đối tác tình dục
mỗi năm[124] Điều tra năm 2004 ở Mỹ về lối sống của
7862 người đồng tính cho thấy: chỉ có 15% đã gắn bó
với bạn tình đồng giới được 12 năm hoặc lâu hơn, chỉ
có 5% kéo dài hơn 20 năm. Trong khi đó, Trung tâm
Sức khỏe ốc gia năm 2001 thống kê rằng 66% các
cuộc hôn nhân nam-nữ đã kéo dài được 10 năm hoặc
lâu hơn, 50% kéo dài được 20 năm hoặc lâu hơn. Điều
này cho thấy rằng chỉ một số ít mối quan hệ đồng tính
đạt được tuổi thọ lâu dài về hôn nhân[121] .

Người đồng tính có niềm tin rằng mối quan

hệ hôn nhân chỉ là tạm thời và chủ yếu là vì
bản năng tình dục. an hệ tình dục giữa họ
chủ yếu vì niềm vui chứ không phải vì sự sinh
sản. Họ tin rằng nguyên tắc một vợ một chồng
trong hôn nhân không phải là tiêu chuẩn và
cũng không cần được khuyến khích.[128]

Cặp đồng giới nuôi dạy con

Các nghiên cứu khoa học luôn cho thấy rằng cha mẹ
đồng tính nam và đồng tính nữ là phù hợp và có khả
năng như các bậc cha mẹ khác giới, và con cái của họ có
tâm lý khỏe mạnh và cũng được điều chỉnh như những
người nuôi bởi cha mẹ khác giới.[129][130][131] Kết quả
nghiên cứu từ những hiệp hội chủ yếu về sức khỏe tâm
thần của các chuyên gia ở Mỹ, Canada, Úc và chưa xác
định được nghiên cứu thực nghiệm đáng tin cậy cho
kết quả khác.[25][54][131][132][133]

Về mức độ chung thủy, nghiên cứu của Sondra E. 4.1.1 Sự đồng thuận
Solomon và Esther D. Rothblum cho biết: khi được hỏi
về thái độ đối với việc quan hệ tình dục với người khác Các nghiên cứu khoa học đã so sánh trực tiếp kết quả
ngoài bạn tình, 40,3% các nam đồng tính (đã đăng ký đối với trẻ em của cha mẹ đồng tính với cha mẹ dị


12

4

TÍNH BỀN VỮNG SO VỚI HÔN NHÂN THÔNG THƯỜNG


tính và đã thống nhất trong việc khẳng định cha mẹ
đồng tính nữ và đồng tính nam là phù hợp và có khả
năng như các bậc cha mẹ khác giới, đồng thời con cái
của họ phát triển tâm lý lành mạnh và tốt như con
cái nuôi bởi cha mẹ dị tính[130][131][134] . Các nghiên cứu
xã hội học chỉ ra rằng các yếu tố tài chính, tâm lý
và thể chất hạnh phúc của cha mẹ được tăng cường
bởi hôn nhân và rằng trẻ em được hưởng lợi từ việc
nuôi dưỡng bởi cha mẹ khi hôn nhân được công nhận
về mặt pháp lý.[25][131][134][135] , mặc dù trên thực tế sự
phân biệt pháp lý và bất bình đẳng vẫn là thách thức
đáng kể đối với các gia đình đồng tính.[130] Các hiệp
hội chủ yếu của các chuyên gia sức khỏe tâm thần ở
Mỹ, Canada, và Australia cho biết chưa xác định được
nghiên cứu thực nghiệm nào đáng tin cậy cho kết quả
khác.[25][54][131][132][133] Kết quả các thống kê cho thấy
việc chăm sóc trẻ em và những công việc khác trong
các gia đình đồng tính được phân chia đồng đều hơn
giữa hai người hơn[136] , và rằng không có sự khác biệt
về lợi ích và sở thích của trẻ em có cha mẹ đồng tính
so với trẻ em có cha mẹ dị tính.[137]

những người tranh luận rằng con cái của cha mẹ tình
dục thiểu số là tồi tệ hơn so với những con cái của cha
mẹ khác giới.[139]
Các nghiên cứu và phân tích bao gồm các phân tích
Bridget Fitzgerald năm 1999 về đồng tính và cha mẹ
đồng tính nữ được công bố trong Tạp chí Hôn nhân và
Gia đình đã chỉ ra rằng “Các nghiên cứu hiện có nói

chung kết luận rằng: khuynh hướng tình dục của cha
mẹ không phải là một yếu tố dự báo hiệu quả và quan
trọng nhất tới sự phát triển thành công ở trẻ em” [140] .
Trong tháng 6 năm 2010, kết quả của 25 năm nghiên
cứu đang diễn ra theo chiều dọc của tiến sĩ, bác sĩ, nhà
nghiên cứu Nanee Gartrell thuộc Đại học California
và Phó giáo sư, tiến sĩ Henny Bos thuộc Đại học
Amsterdam đã được phát hành. Gartrell và Bos đã
nghiên cứu 78 trẻ em được sinh ra nhờ hỗ trợ thụ tinh
nhân tạo và nuôi dưỡng bởi các bà mẹ đồng tính nữ.
Các bà mẹ được phỏng vấn và đưa ra câu hỏi lâm sàng
trong thời kỳ mang thai và khi con cái của họ được 2,
5, 10, và 17 tuổi. Trong bản tóm tắt của báo cáo, các
tác giả cho biết: “eo báo cáo, các cô con gái và người
con trai của bà mẹ đồng tính nữ được đánh giá cao hơn
đáng kể trong thành tích học tập ở trường học và trong
xã hội cũng như tổng các năng lực nói chung, và thấp
hơn đáng kể trong các vấn đề xã hội, sự phá bỏ các quy
tắc, sự hung hăng, và biểu lộ các hành vi tiêu cực so với
con cái các bà mẹ dị tính tương đương về tuổi.” [141]

Từ những năm 1970, các kết quả đã ngày càng rõ ràng
rằng phương pháp và quá trình phát triển của gia đình
(chẳng hạn như “chất lượng” của cha mẹ, trạng thái tâm
lý xã hội hạnh phúc của cha mẹ, chất lượng và sự hài
lòng với các mối quan hệ trong gia đình, mức độ hợp
tác và hòa hợp giữa cha mẹ) góp phần vào việc tạo nên
hạnh phúc của trẻ em chứ không phải là cấu trúc gia
đình (chẳng hạn như tình trạng số lượng, giới tính hay Tóm tắt nghị quyết chung của các hiệp hội khoa học
chuyên nghiệp lớn: Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ, Hiệp

khuynh hướng tình dục của cha mẹ).[130][135] .
hội tâm thần học Hoa Kỳ, Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa
Giáo sư Judith Stacey thuộc Đại học New York cho biết: Kỳ, Hiệp hội hôn nhân và gia đình trị liệu Hoa Kỳ,
“Hiếm khi có càng nhiều sự đồng thuận trong bất kỳ Hiệp hội bác sĩ gia đình Hoa Kỳ, Hiệp hội y khoa hoa
lĩnh vực khoa học xã hội như trong trường hợp của cha kỳ, Hiệp hội quốc gia người lao động xã hội Hoa Kỳ,
mẹ đồng tính, đó là lý do Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Hiệp hội tâm lý các bang Kentucky và Ohio, Hiệp hội
Kỳ và tất cả các tổ chức nghề nghiệp lớn có chuyên môn hôn nhân và gia đình trị liệu bang Michigan, Hiệp hội
liên quan tới phúc lợi xã hội về trẻ em đã ban hành quốc gia người lao động xã hội các bang Tennessee,
báo cáo và nghị quyết ủng hộ quyền làm cha mẹ của Michigan, Kentucky và Ohio đã nêu:[142]
người đồng tính nam và đồng tính nữ ".[138] Các tổ chức
này bao gồm Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ, Học viện
“Nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh
nghiên cứu tâm lý trẻ em và vị thành niên, Hiệp hội tâm
rằng
các chiều tâm lý và xã hội của mối quan
thần học Hoa Kỳ, các hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ, các
hệ

cam kết giữa các đối tác đồng tính
hiệp hội vì hôn nhân và gGia đình trị liệu Hoa Kỳ, các

giống
với các đối tác dị tính. Các cặp vợ
hiệp hội phân tâm học Hoa Kỳ, các hiệp hội quốc gia
chồng
đồng
tính hình thành tình cảm sâu sắc
người lao động xã hội, các liên đoàn phúc lợi trẻ em Hoa

kèm

theo
là các mối quan hệ gắn kết, với
Kỳ, các Hội đồng về nhận nuôi trẻ em Bắc Mỹ và Hiệp
mức
độ
hài
lòng
của mối quan hệ là tương
hội tâm lý học Canada. Năm 2006, giáo sư Gregory M.
đương
hoặc
cao
hơn
so với các cặp vợ chồng
Herek viết trong tạp chí Tâm lý học Mỹ (của hiệp hội
dị
tính.
Họ
cũng
trải
qua
các quá trình tương
Tâm lý học Hoa Kỳ): “Nếu đồng tính nam, đồng tính nữ
tự
như
sự
thân
mật,
tình
yêu, sự công bằng,

có ít hơn khả năng nếu so sánh với các bậc cha mẹ khác

các
vấn
đề
khác
của
mối
quan hệ[142] .
giới thì chúng tôi sẽ phát hiện và chứng minh được vấn
Các nghiên cứu về đồng tính, đồng tính
đề khi phân biệt các loại mẫu, tuy nhiên mô hình này
nữ,
lưỡng tính làm cha mẹ bao gồm hàng
rõ ràng đã không quan sát được. Các nghiên cứu thực
chục
nghiên cứu thực nghiệm, các nghiên
nghiệm cho đến nay dù thực hiện trên các xác suất mẫu
cứu
trước
kia sử dụng các mẫu đại diện nhỏ
cần thiết đã liên tục thất bại trong việc tìm mối liên
không
xác
định được, nhưng những nghiên
hệ giữa sự phát triển của trẻ em và định hướng tình
cứu
gần
đây
đã sử dụng các mẫu xác suất

dục của cha mẹ. Với sự thất bại nhất quán trong các
quốc
gia.
Phát
hiện của họ được tóm tắt trong
kết quả nghiên cứu này đã bác bỏ các giả thuyết của
ý kiến của nghiên cứu thực nghiệm được


4.1

Cặp đồng giới nuôi dạy con
công bố trong sự tôn trọng, được các tạp chí
đồng đẳng xem xét và đăng tải tại các sách,
ấn phẩm khoa học. Phần lớn nghiên cứu khoa
học đã trực tiếp so sánh giữa các nhóm và
đã phát hiện ra rằng các cặp cha mẹ đồng
tính nam và đồng tính nữ cha mẹ là phù
hợp và có khả năng giống như các bậc cha
mẹ khác giới, và con cái của họ thể hiện sự
phát triển tâm lý lành mạnh và cũng được
nuôi dạy tương tự. Các công trình nghiên cứu
gần đây bao gồm “Cha mẹ đồng tính nam nữ
và con cái của họ" (Paerson, AE Goldberg
năm 2010), “Cuộc sống gia đình của người
đồng tính nam và nữ" của CJ Paerson, “Sổ
tay hôn nhân và Gia đình” (GW Peterson
& KR Bush eds, 2013), “Trẻ em của cha mẹ
Lesbian và Gay” của CJ Paerson (tạp chí
Nhà tâm lý học, 2009), “Báo cáo kỹ thuật:

Nhận con nuôi của cha mẹ đồng tính” (CJ
Paerson), “Mối quan hệ gia đình của người
đồng tính nữ và đồng tính nam” (J. Hôn nhân
& Fam năm 2000, N. Anderssen), “Kết quả
cho trẻ em của các bậc cha mẹ đồng tính”
(Scand. J. Psychol), “Viễn cảnh đương đại về
Lesbian, Gay”, Hội nghị chuyên đề về Động
lực phát triển(Nebraska, 2009), “Trẻ vị thành
niên của cha mẹ đồng tính nam và nữ" (CJ
Telingator & CJ Paerson), “Trẻ em vị thành
niên và tâm thần học” (J. Am. Acad, 2008),
"Điều chỉnh tâm lý của xã hội, trường học,
mối quan hệ của thanh thiếu niên với cha
mẹ đồng tính(JL Wainright), “iên hướng
tình dục ở trẻ em trong gia đình đồng tính
và đồng tính nữ"(H. Bos & TGM Sandfort,
2010), “Lesbian & Tình dục khác giới” (H.
Bos), “Nuôi dạy và phát triển trẻ em trong
các gia đình nhận con nuôi” (J. Child. & Fam.
Stud, 2014), “Trẻ em với cha mẹ đồng tính
nữ" (S. Golombok, tạp chí Tâm lý học quá
trình phá triển 2003), “Chức năng tâm lý xã
hội Trong số trẻ em của các cặp vợ chồng
đồng tính và dị tính ở Vương quốc Anh (JL
Wainright & CJ Paerson, Tạp chí tâm lý học
phát triển, 2008), “Tình trạng phạm tội và sử
dụng chất cấm trong thanh thiếu niên liên
hệ với gia đình đồng tính” (J. Fam. Psychol,
2006)… đã đều kết luận rằng con cái của các
bậc cha mẹ đồng tính nam và nữ được điều

chỉnh tốt và mặt phát triển tương tự như con
cái của các bậc cha mẹ khác giới[142] .

an điểm rằng các cặp cha mẹ dị tính là
tốt hơn hơn những cặp đồng tính, hoặc là con
của cha mẹ đồng tính nữ hay đồng tính nam
tồi tệ hơn so với trẻ em của cha mẹ khác giới,
không được hỗ trợ bởi các bằng chứng khoa
học thực nghiệm được tích lũy”[142] .

13
4.1.2 Ý kiến khác
Người LGBT làm cha mẹ nói chung và nhận con nuôi
nói riêng là vấn đề gây tranh cãi ở nhiều nước phương
Tây, ngay cả ở những nước công nhận hôn nhân đồng
tính, bởi việc công nhận hôn nhân đồng tính đồng
nghĩa với việc công nhận việc nhận con nuôi của các
cặp đồng tính. Những lo ngại chủ yếu là về tác động của
nó đối với tâm lý trẻ em (nhất là những trẻ lớn lên trong
gia đình đồng tính) khi thiếu vắng một người cha/mẹ
theo đúng nghĩa, đồng thời với đó là sự sụp đổ các quan
niệm về giá trị của hôn nhân trong cách nghĩ của các
thế hệ sau.[143]
Tài liệu nghiên cứu chỉ ra rằng hôn nhân sẽ cải thiện
tình hình tài chính, tâm lý và thể chất của người cha/mẹ
đồng tính và rằng trẻ em được hưởng lợi từ việc được
nuôi dạy bởi song thân có kết hôn được pháp luật công
nhận (đối với cả song thân là cùng giới hoặc khác giới).
Do đó, nhiều hiệp hội khoa học chuyên môn đã tranh
luận để yêu cầu hôn nhân đồng giới được công nhận

hợp pháp bởi vì nó có lợi cho con cái của người đồng
tính.[23][24][25][135][144][145] Nhìn chung có những nghiên
cứu khoa học chỉ ra kết quả rằng người đồng tính làm
cha/mẹ thì cũng phù hợp và có khả năng như người
cha/mẹ dị tính và con cái của họ cũng khỏe mạnh về
tâm lý và thể chất như con cái của người cha/mẹ dị
tính.[24][130][131][144] eo một số tài liệu nghiên cứu,
không có bằng chứng cho thấy những lập luận ngược
lại là đúng.[53][54][133][146]
Trong một nghiên cứu, giáo sư Susan Golombok, Đại
học Cambridge, đưa ra những kết quả có sự tương đồng
lớn với những nghiến cứu trước đó về gia đình của cặp
đồng tính nữ. Những nghiên cứu thấy rằng mối quan
hệ giữa mẹ và con là tích cực và con cái được điều chỉnh
tốt. Không có sự khác nhau đáng kể giữa người mẹ đồng
tính và người mẹ dị tính trong hầu hết các khía cạnh
nuôi dạy mặc dù có báo cáo rằng người mẹ đồng tính
đánh con ít hơn và tham gia nhiều hơn vào những hoạt
động vui chơi mang mang tính tưởng tượng và trong
gia đình với con cái nhiều hơn người mẹ dị tính.[147]
Một nghiên cứu mới vào năm 2012 của Mark Regnerus,
giáo sư tại Đại học Texas được đăng trên Tạp chí nghiên
cứu xã hội Hoa Kỳ đã cung cấp thêm nhiều thông tin
về vấn đề này. Nghiên cứu khảo sát 15.000 thanh niên,
khảo sát kỹ 3.000 thanh niên trong đó 175 được nuôi
lớn bởi cặp đồng tính nữ và 73 bởi cặp đồng tính nam.
Kết quả cho thấy: trong ngắn hạn, các cặp đồng tính có
thể nuôi con tốt như vợ chồng thông thường; nhưng về
dài hạn, sự khiếm khuyết về giới tính (thiếu vắng cha
hoặc mẹ để nuôi dạy đứa trẻ) là không thể khắc phục

được, và con nuôi của họ khi bước vào tuổi thành niên
sẽ gặp phải nhiều vấn đề hơn hẳn so với con cái của
những gia đình thông thường, cụ thể[148] :
Nghiên cứu trên của Mark Regnerus nhận được sự ủng
hộ của Trường Cao đẳng nhi khoa Hoa Kỳ, một tổ chức
quốc gia của các bác sĩ nhi khoa và các chuyên gia chăm


14

4

TÍNH BỀN VỮNG SO VỚI HÔN NHÂN THÔNG THƯỜNG

sóc sức khỏe và giáo dục dành cho trẻ em. Hội đồng
Nghiên cứu gia đình Hoa Kỳ đã có bài phân tích ủng
hộ nghiên cứu và cho biết: nhờ mẫu thống kê lớn nên
nghiên cứu này có ý nghĩa rất quan trọng cho biết về
tình trạng của trẻ em trong gia đình đồng tính về dài
hạn, cũng như bản chất “bất ổn định” của cặp đồng tính.
Nghiên cứu này đã xóa tan những ngộ nhận về việc
“cha mẹ đồng tính không khác cha mẹ thường”. Kết quả
của nó tương đồng với nghiên cứu của các chuyên gia
nghiên cứu chính sách gia đình, và không có gì đáng
ngạc nhiên khi nghiên cứu này bị tấn công quyết liệt
các nhà hoạt động ủng hộ đồng tính[149]
Mark Regnerus tin rằng còn quá sớm đưa ra các kết
luận sâu rộng về ảnh hưởng đối với con cái của các cặp
đồng tính, và hiện không có bằng chứng thuyết phục
rằng con cái của cặp đồng tính sẽ không khác biệt so với

những đứa trẻ có đủ cha mẹ. Trước khi có nhiều bằng
chứng hơn, Nhà nước nên thận trọng giữ lại hôn nhân
trong phạm vi truyền thống (1 nam và 1 nữ), Regnerus
tin rằng đó là điều tốt nhất dành cho trẻ em[150]
Sau khi Mark Regnerus công bố nghiên cứu của mình
trên một tạp chí, hơn 200 nhà khoa học đã cùng ký tên
và gửi một bức thư cho tạp chí này bày tỏ “những mối
lo ngại đáng kể về giá trị của bài báo này”. Các nhà
nghiên cứu đã cùng chỉ ra nhiều bất ổn, không phù
hợp thực tế, không chính xác trong phương pháp luận
của Regnerus, cũng như đặt nghi vấn về quá trình mà
tạp chí này đã tiếp nhận, xem xét, chấp nhận nghiên
cứu của Regnerus và cho phép xuất bản không đảm
bảo thời gian yêu cầu[151] . Đại học Texas (nơi Mark
Regnerus làm việc) đã đưa ra tuyên bố: “Nghiên cứu
này của Mark Regnerus là của riêng ông, không phản
ánh quan điểm của Đại học Texas hay Hiệp hội Xã hội
học Mỹ", "những kết luận rút ra từ nghiên cứu của ông
về người đồng tính làm cha mẹ là cơ bản không hoàn
thiện trên cơ sở khái niệm và phương pháp luận", đồng
thời các kết quả nghên cứu của Regnerus "đã được trích
dẫn trong các nỗ lực không phù hợp nhằm hạn chế các
quyền dân sự và chính đáng của các đối tác LBGTQ và
gia đình của họ"[152] . Đồng thời, Hiệp hội xã hội học
Hoa Kỳ (ASA) đã nêu ra 5 sai sót cơ bản không trong
phương pháp luận nghiên cứu của Mark Regnerus và
kết luận: “Tóm lại, do sự đánh đồng con cái của cha mẹ
đồng tính với các cá nhân tự nhận rằng họ có cha hoặc
mẹ tham gia vào mối quan hệ yêu đương đồng tính,
đánh đồng các cá nhân đó như con cái của người mẹ

hay người cha đồng tính, nghiên cứu của Regnerus đã
che lấp thực tế là nó đã không kiểm tra và xác thực con
cái của hai bố mẹ đồng tính. eo đó, nó không thể bàn
luận về các tác động của kết quả việc nuôi dạy của cha
mẹ đồng tính lên con cái”.[153][154] .

các mẫu nhỏ, không đại diện cho trẻ em trong
các gia đình đồng tính. Ngược lại, Regnerus dựa
trên một mẫu lớn, ngẫu nhiên, và đại diện của hơn
200 trẻ em nuôi dưỡng bởi cha mẹ có mối quan
hệ đồng tính, so sánh chúng với một mẫu ngẫu
nhiên của hơn 2.000 trẻ em lớn lên trong gia đình
dị tính, để đạt được kết luận của mình. Giáo sư xã
hội học Paul Amato, chủ tịch phân viện gia đình
của Hiệp hội Xã hội học Mỹ đã viết rằng nghiên
cứu Regnerus là "(nghiên cứu) tốt hơn hầu hết các
nghiên cứu trước đó trong việc phát hiện sự khác
biệt giữa các nhóm đó (nhóm gia đình khác biệt)
trong dân số"
• Những người đã lên tiếng phê bình Regnerus đã
không công khai thừa nhận những hạn chế về
phương pháp nghiên cứu trước đây về cha mẹ
đồng tính.
• Ngay cả Judith Stacey, một người nổi bật trong
việc phê bình nghiên cứu của Regnerus, trong các
bài viết khác cũng thừa nhận rằng các nghiên cứu
cho thấy “Các mối quan hệ (đồng tính) có thể được
chứng minh là kém bền vững” hơn hôn nhân dị
tính
• Những phát hiện liên quan đến sự bất ổn (trong

các gia đình đồng tính) của Regnerus phù hợp với
các nghiên cứu gần đây của các quốc gia như Anh,
Hà Lan, và ụy Điển dựa trên các mẫu đại diện
lớn, ngẫu nhiên, tiêu biểu cho các cặp đồng tính,
các nghiên cứu ấy cũng phát hiện ra sự tương đồng
lớn về những kiểu bất ổn xuất hiện trong số các
cặp đôi đồng giới.
• Sự bất ổn này cũng có thể coi là một “kết quả của
sự kỳ thị xã hội và tách biệt” mà các cặp vợ chồng
đồng tính nam và đồng tính nữ phải đối mặt trong
suốt thời gian dài từ khi trẻ đến tuổi trưởng thành.
Cũng có thể giải thích những phát hiện Regnerus
như là bằng chứng cho sự cần thiết phải hợp pháp
hóa hôn nhân đồng tính, để hỗ trợ cho sự ổn định
xã hội của các mối quan hệ như vậy. Nghiên cứu
của Mark có thể mở ra nhiều nghiên cứu khác lớn
và kỹ lưỡng hơn về chủ đề gây nhiều tranh cãi này.

Một đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi 1 cặp đồng tính chắc
chắn sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề hơn. Ví dụ: nếu
1 cặp đồng tính nam nhận con gái nuôi hoặc cặp đồng
tính nữ nhận con trai nuôi, đứa trẻ sẽ phải lớn lên mà
thiếu vắng sự hướng dẫn giới tính từ người có cùng giới
tính với nó, nhất là trong gia đoạn dậy thì, từ đó làm
tăng nguy cơ về sự lệch lạc hành vi giới tính. Sự dễ chia
tay hoặc quan hệ ngoài luồng, vốn phổ biến của các cặp
Tuy nhiên, 18 nhà khoa học đã ký tên chung vào bài đồng tính, cũng làm tăng nguy cơ chấn thương tâm lý
viết ủng hộ nghiên cứu của Mark Regnerus. Những ở đứa trẻ. Tệ hơn, đứa trẻ có thể phải đối mặt với sự kỳ
người này cho rằng nghiên cứu này có giá trị dựa trên thị, trêu chọc hoặc cô lập từ bạn bè cùng trang lứa, từ
những điều sau[155] :

đó hình thành tâm lý bất mãn hoặc nổi loạn. Nhà tâm
lý Enrique Rojas cho biết: eo các nghiên cứu từ Hoa
• Phần lớn các nghiên cứu trước đó đều dựa vào Kỳ, Canada, và New Zealand, 70-80% số đứa trẻ được


4.1

Cặp đồng giới nuôi dạy con

15

nuôi bởi người đồng tính sẽ phát triển những khuynh Trong tóm tắt nghị quyết chung của các hiệp hội Hiệp
hướng đồng tính tương tự.[156]
hội Tâm lý học Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm thần học Hoa Kỳ,
Mặt khác, trong cuốn sách “Lớn lên trong một gia đình Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ, Hiệp hội hôn nhân và
đồng tính nữ: Tác động với sự phát triển trẻ em”, 2 tiến sĩ gia đình trị liệu Hoa Kỳ, Hiệp hội bác sĩ gia đình Hoa
Fiona Tasker và Susan Golombok, quan sát thấy rằng Kỳ, Hiệp hội y khoa hoa kỳ, Hiệp hội quốc gia người lao
25% những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ đồng động xã hội Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm lý các bang Kentucky
tính cũng đã tham gia vào một mối quan hệ đồng tính, và Ohio, Hiệp hội hôn nhân và gia đình trị liệu bang
so với xấp xỉ 0% ở những thanh niên được nuôi bởi các Michigan, Hiệp hội quốc gia người lao động xã hội
các bang Tennessee, Michigan, Kentucky và Ohio đã
bà mẹ bình thường[157]
nêu:[142]
Tiến sĩ xã hội học Trayce Hansen cho biết: “Nghiên cứu
của các nhà khoa học xã hội, mặc dù không dứt khoát,
Có một số ít các nguồn gợi ý rằng cha mẹ
cho thấy rằng trẻ em nuôi bởi các cặp đồng tính có nhiều
đồng tính có thể có tác động tiêu cực đối với
khả năng tham gia vào các hành vi đồng tính hơn so với
trẻ em thì các nguồn này đã bị ảnh hưởng

các trẻ em khác. Các nghiên cứu cho đến nay cho thấy
nghiêm trọng từ những sai sót về phương
khoảng 8% đến 21% con nuôi của các cặp đồng tính cuối
pháp luận và không phản ánh tình trạng của
cùng cũng sẽ trở thành đồng tính. Để so sánh, tạm cho
kiến thức khoa học hiện tại. Cụ thể, kết luận
khoảng 2% dân số nói chung là đồng tính. Do đó, nếu các
tiêu cực của ba nhà nghiên cứu thường được
tỷ lệ này được xác minh kĩ, con nuôi của các cặp đồng
trích dẫn bởi các đối thủ của hôn nhân đồng
tính có khả năng phát triển thành đồng tính cao hơn 4
giới là Sarantakos, Regnerus và Allen - đã tạo
đến 10 lần so với những đứa trẻ khác.” [158]
ra một chấn động lớn khi bị bác bỏ, từ chối bởi
Phân tích tổng hợp của Stacy và Biblarz (năm 2001) cho
thấy rằng: các bà mẹ nuôi là đồng tính nữ có ảnh hưởng
lớn, khiến con trai nuôi của họ trở nên nữ tính trong
khi con gái nuôi thì lại trở nên nam tính. Họ báo cáo:
"…các cô gái vị thành niên được nuôi bởi các bà mẹ đồng
tính sẽ có tỷ lệ cao hơn về tình dục bừa bãi… nói cách
khác, trẻ em (đặc biệt là trẻ em gái) được nuôi bởi nữ
đồng tính có xu hướng đả phá các quan niệm giới tính
truyền thống, trong khi trẻ em được nuôi bởi các bà mẹ
thông thường sẽ có biểu hiện phù hợp với giới tính của
mình”. Một nghiên cứu năm 1996 bởi một nhà xã hội
học Úc cho thấy: những đứa trẻ của các cặp vợ chồng
bình thường là giỏi nhất, trong khi con nuôi của các
cặp vợ chồng đồng tính lại học hành kém nhất, điều
này đúng tại 9 trên 13 trường học được khảo sát.[159]


các cộng đồng khoa học chính thống. Những
sai sót trong phương pháp luận nghiên cứu
của Sarantakos, Regnerus và Allen đã làm
cho công việc của họ “Không liên quan đến
các cuộc thảo luận thực nghiệm về nuôi dạy
con và khuynh hướng tình dục. Kiểm toán
viên độc lập được bổ nhiệm bởi các tạp chí đó
được đăng bài Regnerus của mô tả nó như là
“một nghiên cứu không khoa học” và kết luận
nó không nên đã được công bố. Những sai sót
trong nghiên cứu của Regnerus đã được chỉ ra
trong bản kiến nghị của 200 nhà nghiên cứu.
MJ Rosenfeld trả lời Allen trong Dân số học
năm 2012 rằng phát hiện tồi tệ của Allen về
kết quả học tập là do sai sót về phương pháp
luận, bao gồm không kiểm soát đối với tác
động của ly hôn và các yếu tố khác. Các tài
liệu công bố gần đây của Donald Paul Sullins
cho thấy tất cả các báo cáo phân tích thứ cấp
của dữ liệu từ các cuộc phỏng vấn y tế quốc
gia Khảo sát (NHIS) của Sullins - có sai sót về
phương pháp luận tương tự…

Một nghiên cứu lớn tiến hành trên 3.826 cặp sinh đôi
cùng giới (7.652 cá nhân) ở uỵ Điển đã cho thấy,
những yếu tố thuộc về bẩm sinh như yếu tố di truyền
và môi trường xung quanh sự hình thành và phát triển
của bào thai (môi trường tử cung sớm) trước khi đứa trẻ
ra đời (trong đó bao gồm quá trình sinh học như tiếp
xúc hormone khác nhau trong bụng mẹ) chiếm chủ yếu

trong việc hình thành thiên hướng tình dục đồng giới.
Trong khi đó, các tác nhân như môi trường gia đình, xã Trong nghị quyết về "Định hướng tình dục, cha mẹ và
năm 2004, Hiệp hội tâm lý học Hoa
hội, giáo dục con cái không ảnh hưởng hoặc hoặc ảnh trẻ em” thông qua
[162]
:
hưởng không đáng kể tới sự hình thành thiên hướng Kỳ đã phân tích
tình dục đồng tính. Nghiên cứu này đưa ra các số liệu:
“Nhiều người đồng tính nữ và đồng tính
yếu tố gen di truyền có ảnh hưởng khoảng 35% ở nam
nam làm cha mẹ. Có ba mối quan tâm lớn về
và 18% ở nữ, yếu tố môi trường phát triển thai nhi trong
người đồng tính làm cha mẹ thường được nêu
bụng mẹ (môi trường không chia sẻ) chiếm tỷ lệ chủ
ra. Chúng bao gồm các mối quan ngại rằng
yếu tới 64% ở cả nam và nữ. Trong khi đó, yếu tố môi
đồng tính luyến ái là bị bệnh tâm thần, rằng
trường gia đình, xã hội, giáo dục (môi trường chia sẻ)
đồng tính nữ có ít thiên chức làm mẹ hơn so
chỉ giải thích 16% trong sự hình thành xu hướng tình
với phụ nữ dị tính, và rằng các cha mẹ đồng
dục đồng tính nữ và không có ảnh hưởng (phương sai
tính nữ và đồng tính nam có rất ít thời gian
ảnh hưởng 0%) tới sự hình thành xu hướng tình dục
cho các mối quan hệ của họ với con cái của
đồng tính nam.[160][161] .
họ. Nói chung, các nghiên cứu đã không cung


16


4
cấp một cơ sở nào cho bất kỳ các mối quan tâm
trên. Đầu tiên, đồng tính luyến ái không phải
là một bệnh hay rối loạn tâm lý, không có
bằng chứng đáng tin cậy rằng khuynh hướng
đồng tính luyến ái làm suy yếu chức các năng
tâm lý. ứ hai, niềm tin mà người đồng tính
nữ và đồng tính nam không phải phù hợp làm
cha mẹ phù hợp không có nền tảng nghiên
cứu thực nghiệm. Các thành viên trong cặp
vợ chồng đồng tính đã được phát hiện sự
phân chia các công việc gia đình và chăm sóc
con cái một cách đồng đều hơn, và sự hài lòng
với mối quan hệ với đối tác của họ. Không
có cơ sở khoa học để kết luận rằng các bà
mẹ đồng tính nữ hay những người cha đồng
tính làm cha mẹ là không thích hợp trên cơ
sở định hướng tình dục của họ. Ngược lại, các
kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng cha mẹ
đồng tính nữ và đồng tính nam có đầy đủ khả
năng làm cha mẹ như các cặp dôi khác giới để
cung cấp môi trường hỗ trợ nuôi dưỡng lành
mạnh cho con cái của họ.
Có ba mối quan tâm lớn về sự ảnh hưởng
của cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính trên trẻ
em đã được thường được nêu ra. Một là, con
cái của cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính sẽ
được trải nghiệm nhiều khó khăn trong lĩnh
vực nhận dạng giới tính hơn so với trẻ em của

cha mẹ khác giới. Ví dụ, trẻ em được của các
cặp đồng tính sẽ hiển thị rối loạn nhận dạng
giới tính và/hoặc hành vi-vai trò giới tính.
Loại thứ hai của mối quan tâm liên quan đến
các khía cạnh của phát triển của trẻ em với
bản sắc tính dục bản thân. Ví dụ, một số nhà
quan sát đã bày tỏ lo ngại rằng trẻ em dưới sự
giám sát của cha mẹ đồng tính dễ bị suy sụp
tinh thần, sẽ hiển thị nhiều khó khăn trong
việc điều chỉnh các vấn đề hành vi, hoặc sẽ
không khỏe mạnh về tâm lý như những đứa
trẻ khác. Một loại thứ ba của mối quan tâm
là con cái của cha mẹ đồng tính nữ và đồng
tính sẽ gặp khó khăn trong các mối quan hệ
xã hội. Ví dụ, một số nhà quan sát đã bày tỏ
lo ngại rằng trẻ em sống với bà mẹ đồng tính
nữ hay những người cha đồng tính sẽ bị kỳ
thị, trêu chọc, hay nói cách khác là nạn nhân
của các đồng nghiệp. Một nỗi sợ hãi phổ biến
là trẻ em sống chung với cha mẹ đồng tính
nam hoặc đồng tính nữ sẽ có nhiều khả năng
bị lạm dụng tình dục bởi cha mẹ hoặc bạn
bè của cha mẹ hoặc người quen. Kết quả của
nghiên cứu khoa học xã hội đã không xác nhận
bất kỳ mối quan tâm về con cái của cha mẹ
đồng tính nào nêu trên.
Các nghiên cứu đều cho thấy rằng bản
sắc tình dục (bao gồm cả bản sắc giới tính,
hành vi giới tính, vai trò của xu hướng tình
dục) phát triển giống nhau ở con cái các bậc


TÍNH BỀN VỮNG SO VỚI HÔN NHÂN THÔNG THƯỜNG
cha mẹ đồng tính và con cái của các bậc cha
mẹ khác giới. Các bằng chứng cũng cho thấy
rằng trẻ em của cha mẹ đồng tính nữ và đồng
tính nam có mối quan hệ xã hội bình thường
với các bạn bè và người lớn. Những lo ngại
về con cái của cha mẹ đồng tính nữ hay đồng
tính bị lạm dụng tình dục bởi người lớn, bị
tẩy chay bởi các đồng nghiệp, hoặc bị cô lập
trong cộng đồng… đã không nhận được sự
hỗ trợ nào từ khoa học. Nhìn chung, kết quả
các nghiên cứu cho thấy sự phát triển, điều
chỉnh, và hạnh phúc của con cái của các bậc
cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính nam không
có sự khác biệt so với những trẻ em của cha
mẹ khác giới.”

Lễ kết hôn của một cặp đôi đồng tính nữ tại Cộng hòa Nam Phi
năm 2007

Hiệp hội xã hội học Hoa Kỳ - tổ chức nghiên cứu
chuyên nghiệp gồm hơn 13.000 thành viên, với một lịch
sử lâu dài trong việc trình bày các kết quả nghiên cứu
được sự đồng thuận của các nhà xã hội học để các tòa
án ở Hoa Kỳ sử dụng trong việc đánh giá chứng cứ và
các vấn đề pháp lý, trong Bản tóm tắt gửi Tòa án tối
cao đã nói:[163] :
“Hiện nay, có hơn 200.000 trẻ em ở Mỹ
sống với cha mẹ đồng tính, và gần 72% dân

số Mỹ sống ở một nơi mà luật pháp đã bình
đẳng hôn nhân. Kết quả các nghiên cứu khoa
học xã hội trong nhiều thập kỷ, trong đó có
nhiều nghiên cứu quy mô quốc gia và những
bằng chứng chuyên gia giới thiệu tại các tòa
án trên khắp đất nước, đã khẳng định rằng
phúc lợi tích cực của trẻ em là sản phẩm của
sự ổn định trong mối quan hệ giữa hai bố mẹ
và mối quan hệ giữa cha mẹ với đứa trẻ, và các
nguồn lực kinh tế xã hội của cha mẹ. Và các
phúc lợi của trẻ em không phụ thuộc vào giới
tính hoặc khuynh hướng tình dục của cha mẹ.
Các nhóm phản đối của hôn nhân đồng
tính ở Mỹ và trên khắp thế giới thường xuyên
hiểu sai hoặc xuyên tạc các nghiên cứu khoa


4.1

Cặp đồng giới nuôi dạy con
học xã hội, nói rằng trẻ em có cha mẹ đồng
tính có kết cục tồi tệ hơn so với trẻ có cha
mẹ khác nhau tính. Đặc biệt, đối thủ của
hôn nhân đồng tính thường xuyên trích dẫn
nghiên cứu sai trái của Mark Regnerus, và
gần đây đã bắt đầu hiểu sai công việc của Paul
Sullins để thúc đẩy những lập luận chống lại
hôn nhân đồng tính…
Chúng tôi đã rất tích cực trong vấn đề này
bởi vì lương tâm của chúng ta không thể đứng

nhìn và cho phép các đối thủ hôn nhân đồng
giới tiến hành những chiến dịch nào đó nhằm
bóp méo các kết quả nghiên cứu khoa học xã
hội trong một nỗ lực để từ chối quyền kết hôn
của người đồng tính. Các bằng chứng khoa
học rõ ràng cho thấy rằng cha mẹ đồng tính
là bình đẳng cũng như có khả năng nuôi dạy
con cái tốt như cha mẹ khác giới, và tòa án
cũng như công chúng, nên được hiểu rõ ràng
về thực tế này trước khi đưa ra phán quyết
hay nhận định về hôn nhân đồng tính.
Những nỗ lực của ASA để làm nổi bật sự
đồng thuận của giới khoa học liên quan đến
con cái của cha mẹ đồng tính ở các tòa án
đã bắt đầu từ tháng 2 năm 2013. Kể từ thời
điểm đó, chúng tôi đã nộp tóm tắt của mình ở
nhiều Toà án khác nhau của một số tiểu bang
còn cấm đoán ở Mỹ để xem xét vấn đề luật
pháp liên quan về hôn nhân đồng tính. Với
những bằng chứng nghiên cứu khoa học xã
hội đã được ASA thực hiện và kiểm tra triệt
để, sự thật chứng minh rằng trẻ em chỉ nhận
được kết quả tốt khi được nuôi bởi cha mẹ
đồng tính giống như khi được nuôi bởi cha
mẹ khác giới. Nỗi sợ hãi vô căn cứ về con cái
của cha mẹ đồng tính không vượt qua được
những kết quả nghiên cứu.”

Học viện trẻ vị thành niên và tâm thần học Hoa Kỳ
(AACAP), đại diện cho hơn 8.500 bác sĩ tâm thần về trẻ

em và thanh thiếu niên đã khẳng định năm 2013[164] :
"Đôi khi mọi người đang lo ngại rằng trẻ
em được nuôi dưỡng bởi cha mẹ đồng tính
sẽ cần hỗ trợ tinh thần thêm hoặc phải đối
mặt với những căng thẳng xã hội. Các nghiên
cứu hiện tại cho thấy trẻ em của các cha mẹ
đồng tính không khác với trẻ em của cha mẹ
khác giới trong việc phát triển tâm lý, tình
cảm của họ hoặc các mối quan hệ của họ với
những bạn bè đồng lứa và người lớn xung
quanh. Nó là quan trọng cho các cha mẹ hiểu
rằng, đó là các yếu tố như chất lượng cặp cha
mẹ và các mối quan hệ của cha mẹ với con
cái chứ không phải thiên hướng tình dục của
cha mẹ có ảnh hưởng đến sự phát triển của
đứa trẻ. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trái
ngược với niềm tin phổ biến thì con cái của

17
các cha mẹ đồng tính nam, đồng tính nữ và
người chuyển giới:
•Không có khả năng trở thành đồng
tính hơn trẻ em của cha mẹ khác
giới.
•Không có nhiều khả năng bị lạm
dụng tình dục.
•Không thấy sự khác biệt trong việc
họ tự cho rằng mình là nam hay nữ
(đồng giới).
•Không thấy sự khác biệt ở các

hành vi, vai trò đặc trưng của các
giới tính nam và nữ.”
eo Hiệp hội tâm lý học Canada (CPA)[133] :
“Vào mùa thu năm 2003, CPA đã ban
hành một thông cáo báo chí bác bỏ các tuyên
bố về năng lực làm cha mẹ thấp của người
đồng tính và những tác động của hôn nhân
đồng giới trên trẻ em đã được thực hiện bởi
các cá nhân và các nhóm chống đối hôn nhân
đồng tính. Các bằng chứng khoa học có sẵn
đã chỉ ra rằng trẻ em của cha mẹ đồng tính
nam và nữ không có sự khác biệt đáng kể so
với con của cha mẹ khác giới đối với sự phát
triển tâm lý xã hội cũng như hình thành bản
sắc giới tính. Các nghiên cứu đã cho thấy:
•Người đồng tính nam và đồng tính
nữ coi trọng mối quan hệ gắn kết.
•Các cặp vợ chồng đồng tính tương
đương các cặp khác giới về chất
lượng mối quan hệ.
•Cha mẹ đồng tinh nam và nữ có
khả năng như cha mẹ khác giới để
cung cấp môi trường nuôi dưỡng
tốt, hỗ trợ lành mạnh cho con cái
của họ.
•Khuynh hướng tình dục, tính cách
và các mối quan hệ xã hội ở trẻ em
ở các vợ chồng đồng tính phát triển
tương tự như trẻ em của các cha mẹ
khác giới.

Niềm tin rằng người đồng tính nam và đồng
tính nữ người lớn không phù hợp với các bậc
cha mẹ, hoặc sự phát triển tâm lý xã hội của
trẻ em của các bậc cha mẹ đồng tính bị tổn
thương là không có căn cứ khoa học. Tuyên
bố của chúng tôi dựa trên việc xem xét đại
diện cho khoảng 50 nghiên cứu thực nghiệm
và ít nhất thêm 50 bài báo và chương sách và
đã thực hiện không ngừng nghỉ trên các kết
quả của bất kỳ một nghiên cứu. Những bài
viết này xuất hiện trên các tạp chí như: Tạp


18

4

TÍNH BỀN VỮNG SO VỚI HÔN NHÂN THÔNG THƯỜNG

chí Tâm lý học phát triển, Tạp chí Tâm lý trẻ
em và tâm thần học, Tạp chí tâm lý học Mỹ,
Tạp chí Hôn nhân và Gia đình, Tạp chí tâm
thần học hành vi và các tạp chí về quan hệ
gia đình, vai trò giới tính - tình dục và công
tác xã hội đã khẳng định:
•Không có bằng chứng trong các tài
liệu tâm lý học hỗ trợ rằng người
đồng tính nam và đồng tính nữ là
ít phù hợp làm cha mẹ hơn các cặp
khác giới.

•Không có bằng chứng trong các tài
liệu tâm lý học hỗ trợ quan điểm
sự phát triển tâm lý xã hội, bản
sắc giới của trẻ em bị tổn hại bởi
khuynh hướng tình dục của cha
mẹ."
Trong một tuyên bố năm 2006, Hiệp hội Tâm lý học
Canada phát hành một báo cáo cập nhật về kết luận
năm 2003 và 2005 và nói rằng: “Các CPA công nhận và
đánh giá cao việc các cá nhân và tổ chức được quyền
ý kiến và nêu quan điểm về vấn đề này. Tuy nhiên,
CPA lo ngại rằng một số người và các tổ chức là chống
đối tiêu cực, đã giải thích sai lệch những phát hiện của
nghiên cứu tâm lý để hỗ trợ cho địa vị - vị trí của họ,
khi vị trí của họ chính xác hơn là dựa trên hệ thống
khác của niềm tin - tín ngưỡng và các giá trị[165] . Các
tổ chức khoa học chuyên nghiệp đã lưu ý rằng những
nghiên cứu mà các tổ chức chống đối đã sử dụng như
bằng chứng rằng các cặp vợ chồng đồng tính làm cha
mẹ không thích hợp đã không tiếp cận chính xác vào
các cặp cha mẹ đồng tính, và do đó không cho phép
bất kỳ kết luận nào được rút ra về những ảnh hưởng
của giới tính hoặc khuynh hướng tình dục của cha mẹ
lên con cái. ay vào đó, những nghiên cứu này chỉ
lấy mẫu cha mẹ khác giới, thấy rằng nó là tốt hơn cho
trẻ em được nuôi dưỡng bởi hai cha mẹ thay vì một,
và/hoặc ảnh hưởng của ly hôn hoặc cái chết của cha
mẹ có ảnh hưởng tiêu cực đến trẻ em.[166][167]
Hội đồng nghiên cứu gia đình cho rằng[168] :
Lập luận rằng “trẻ em cần một người mẹ

và một người cha” là trung tâm bảo vệ hôn
nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một
người nữ.
Các tổ chức ủng hộ giá trị gia đình (như
Hội đồng Nghiên cứu Gia đình) khẳng định
“nghiên cứu khoa học xã hội cho thấy rằng
trẻ em làm tốt nhất khi được nuôi bởi người
mẹ sinh học của riêng mình và cha của những
người cam kết với nhau trong một cuộc hôn
nhân lâu dài” Tuyên bố này là đúng sự thật, và
dựa trên một bộ sưu tập lớn và mạnh mẽ của
các nghiên cứu. Những người ủng hộ người
đồng tính phản bác “Các nghiên cứu về trẻ
em nuôi dưỡng bởi cha mẹ đồng tính cho thấy

rằng không có sự khác biệt (hoặc có sự khác
biệt nhưng không bất lợi) so với con cái nuôi
dưỡng bởi cha mẹ dị tính”. Tuy vậy, các nghiên
cứu như vậy thường dựa trên những mẫu đại
diện quá nhỏ, và thường xuyên được tiến hành
bởi các nhà nghiên cứu công khai ủng hộ đồng
tính và có một tư tưởng sai lệch về vấn đề đang
được nghiên cứu…
Trong thực tế, một bài báo xuất bản bởi
tiến sĩ Loren Marks, (Đại học bang Louisiana)
đã phân tích 59 nghiên cứu trước đây về cha
mẹ đồng tính của Hiệp hội Tâm lý Mỹ (APA).
Marks đã bóc trần kết quả sai lệch của APA
rằng “con nuôi của cha mẹ đồng tính không bị
thiệt thòi hơn so với con cái của các bậc cha

mẹ khác giới.” Marks cũng chỉ ra rằng chỉ có
bốn trong số 59 nghiên cứu được trích dẫn bởi
APA thậm chí không đạt tiêu chuẩn của APA
về bằng chứng thống kê.
Bế tắc này đã bị phá vỡ bởi những công
việc mà Mark Regnerus đã thực hiện. Không
giống như các nghiên cứu trước đây thực hiện
trên duy nhất trên một cấu trúc gia đình,
Regnerus đã so sánh cụ thể với trẻ em lớn
lên bởi cha mẹ đồng tính. Ông dựa trên mẫu
dân số đại diện là đủ lớn để lập luận một
cách khoa học và thống kê các kết luận hợp
lệ. Đối với những lý do này, “cấu trúc mới
về gia đình học” của ông (NFSS) xứng đáng
được coi là “tiêu chuẩn vàng” trong lĩnh vực
này… Regnerus, mặt khác, đã khảo sát những
người trẻ từ 18 đến 39 về kinh nghiệm sống của
họ trong gia đình. Trong khi các báo cáo này
không phải là hoàn toàn khách quan, chúng
vẫn đáng tin cậy hơn là cha mẹ tự báo cáo, và
cho phép đánh giá các tác động lâu dài.
Tất cả những phát hiện trong nghiên cứu
này rất quan trọng, đó là điều cái mạnh nhất hầu như không thể chối cãi. So với trẻ em nuôi
dưỡng bởi cha mẹ khác giới, con của cha mẹ
đồng tính (LM và GF):
• Có trình độ học vấn thấp hơn.
• Có nhiều khả năng bị trầm cảm hơn.
• Bị bắt giam thường xuyên hơn
Đối với con cái của các bà mẹ đồng tính
nữ:

• Phải nhận trợ cấp xã hội nhiều gấp 4 lần
• Tỷ lệ thất nghiệp cao gấp 3 lần
• Tỷ lệ có hành vi đồng tính cao gấp 4 lần
• Bị buộc quan hệ tình dục trái với ý
muốn cao gấp 4 lần
• Sử dụng cần sa, hút thuốc lá thường
xuyên hơn
• Tỷ lệ phạm tội cao hơn


4.1

Cặp đồng giới nuôi dạy con

19

Tiến sĩ Glenn T. Stanton, giám đốc Tổ chức Family 4.1.3 Tranh cãi giữa các tổ chức, cá nhân
Formation Studies, lập luận[169] :

Trẻ em lớn lên trong gia đình đồng tính
có chịu bất lợi hơn so với trẻ em trong gia
đình khác giới? Câu trả lời đơn giản là “có",
nhưng câu hỏi chính xác hơn là “thiệt thòi về
với những điều gì?"
Có rất nhiều nghiên cứu xã hội, y tế và
tâm lý vững chắc cho thấy những đứa trẻ
lớn lên mà không có cha/mẹ sẽ phải đối mặt
với những bất lợi đáng kể trong tất cả các
mặt: sức khỏe thể chất và tinh thần, trình độ
giáo dục, hạnh phúc, sự tự tin và phát triển

sự đồng cảm, cũng như nghèo đói, lạm dụng
chất gây nghiện, bạo lực gia đình và lạm dụng
tình dục và tránh không kết hôn.
“Chúng ta nên chối bỏ quan điểm cho rằng
“người mẹ cũng có thể làm người cha tốt, cũng
như chối bỏ quan niệm phổ biến của các nhà
nữ quyền cực đoan rằng “các ông bố cũng có
thể làm người mẹ tốt”… Hai giới là khác nhau
về bản chất, và đều là cần thiết - cả về văn hóa
và sinh học - cho sự phát triển tối ưu của một
con người” [170]
Các nhóm ủng hộ đồng tính là nhanh
chóng giải thích rằng nhiều tổ chức y tế
chuyên nghiệp tuyên bố rằng trẻ em trong
gia đình đồng tính cũng phát triển tốt như trẻ
em trong gia đình khác giới. e American
Academy of Pediatrics (AAP), tổ chức y tế
hàng đầu đã có một tuyên bố như vậy, và đó
hầu hết các tổ chức khác theo sau, chỉ đơn
giản là lặp lại. Báo cáo của họ bỏ bê một điểm
quan trọng của so sánh. Tuyên bố của AAP
hoàn toàn vô nghĩa trong việc cung cấp bất
kỳ loại thông tin quyết định nào về cách các
gia đình đồng tính là có ích hay có hại với trẻ
em.

Đó là hành vi phi đạo đức khi đem trẻ
em phục vụ cho một thử nghiệm xã hội chưa
được kiểm tra. Không có nền văn hóa nào ở
bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, đã từng sản sinh

ra một thế hệ trẻ em lớn lên trong gia đình
đồng tính. Đây là việc biến trẻ em thành vật
thử nghiệm để hoàn thành ham muốn của
người lớn. Một xã hội khôn ngoan và nhân
đạo luôn luôn đi kèm với sự trợ giúp trẻ em
mồ côi, và không bao giờ cố ý muốn trẻ phải
chịu đựng hoàn cảnh như vậy. Nhưng công
nhận gia đình đồng tính sẽ gây ra chính xác
điều đó, chỉ vì một số nhỏ người lớn mong
muốn như vậy

eo Trung tâm nghiên cứu Luật người nghèo Miền
Nam Hoa Kỳ (e Southern Poverty Law Center, viết
tắt: SPLC) (Cùng với Liên đoàn chống phỉ báng Hoa Kỳ
ADL - là 2 tổ chức thực hiện phân loại và giám sát các
nhóm thù hận ở Mỹ), những tổ chức, cá nhân chống
người đồng tính điển hình như Hội đồng nghiên cứu
gia đình (FRC), Hiệp hội gia đình Hoa Kỳ (AFA), Viện
nghiên cứu gia đình Hoa Kỳ (FRI), Tổ chức quốc gia về
hôn nhân Hoa Kỳ, Trường Cao đẳng nhi khoa Hoa Kỳ…
đều là tổ chức của các nhóm Kitô giáo thuộc trường
phái bảo thủ xã hội, SPLC xếp họ vào danh sách các
"Nhóm thù hận tiêu biểu chống đối người đồng tính
và cộng đồng LGBT, là các nhóm có tổ chức thực hiện
và thúc đẩy lòng căm ghét, thù hận hoặc bạo lực đối
với các thành viên của một chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo,
giới tính, thiên hướng tình dục…trong xã hội[171] , hoạt
động chủ yếu để truyền bá các giáo lý “hôn nhân là
sự kết hợp giữa một nam một nữ" của Kito giáo. eo
SPLC, những nhóm thù hận này "Hầu hết số họ là động

cơ tôn giáo. Những lời tuyên truyền dối trá ở mức độ cao
về người đồng tính, song tính và chuyển giới được lặp đi
lặp lại một cách vô căn cứ nhằm triệt hạ uy tín của các
tổ chức khoa học''". Những nhóm thù hận LGBT với lập
trường hệ tư tưởng tôn giáo, tên gọi và bên ngoài tự
cho mình “là tiếng nói cho các gia đình”, “thúc đẩy các
giá trị đạo đức truyền thống” nhưng thực chất, hoạt
động chính là sử dụng những tuyên bố sai trái nhằm
chống người đồng tính và phỉ báng cộng đồng LGBT.
Những tổ chức này đã có nhiều hoạt động tuyên truyền,
vận động hành lang để ngăn cản các chính phủ thực
hiện pháp luật bình đẳng hôn nhân và quyền LGBT.
SPLC cho biết, việc xếp loại các nhóm thù hận cộng
đồng LGBT dựa trên lịch sử lâu dài những tuyên bố,
hành động chống người LGBT của các nhóm tôn giáo
này..[172][173][174]
SPLC cho rằng 10 luận điệu sai trái quen thuộc mà các
nhóm này thường dùng để truyền bá như: người đàn
ông đồng tính lạm dụng trẻ em nhiều hơn đàn ông dị
tính, cha mẹ đồng tính gây hại cho trẻ em, có một sự
thiếu hụt trong mô hình gia đình ở cha mẹ đồng tính,
đồng tính luyến ái có tâm thần và thể chất kém cỏi so
với người dị tính và vì vậy họ không được phép nhận
con nuôi, không ai sinh ra là đồng tính và người đồng
tính có thể thay đổi bằng liệu pháp dùng ý chí để loại
bỏ các “ham muốn tội lỗi” trái ý Chúa…, là những ý
kiến phản khoa học đã bị phủ nhận và bác bỏ bởi tất
cả các tổ chức khoa học y tế chính thống lớn nhất gồm
đông đảo các nhà khoa học như Hiệp hội tâm thần học
Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ, Tổ chức y tế thế

giới…[172] .
SPLC cũng cho biết, phương pháp mà các nhóm này
thường dùng để phục vụ cho những tuyên truyền của
mình là “dựa vào những nghiên cứu kém uy tín và
những kiến thức rác đáng vứt bỏ"; thường xuyên hiểu
sai, làm sai lệch hoặc bóp méo các nghiên cứu của các tổ


20

4

TÍNH BỀN VỮNG SO VỚI HÔN NHÂN THÔNG THƯỜNG

chức và nhà khoa học chính thống (nhiều tác giả, đơn
vị nghiên cứu từng lên tiếng yêu cầu các tổ chức này
chấm dứt việc xuyên tạc, bóp mép số liệu các tác phẩm
của họ)[175][176] . Tuyên truyền, hành động của các nhóm
hận thù này nhằm mục đích “bôi nhọ người LGBT” và
“biến cộng đồng LGBT trở thành mối đe dọa cho xã
hội”…[172][173]
Nhiều lãnh đạo, phát ngôn viên đứng đầu của các tổ
chức này như Bryan Fischer, Paul Cameron, Robert
Knight, Tony Perkins, Peter Sprigg… trong suốt quá
trình hoạt động đã có nhiều những tuyên bố, phát
ngôn, ấn phẩm đăng trên tạp chí các tổ chức này và
thực hiện các cuộc tuyên truyền chứa những tuyên
bố sai sự thật và phản khoa học như: Người đồng tính
là “trung tâm của chủ nghĩa phát xít", "Đội quân của
Hitler gồm toàn người đồng tính vì người dị tính không

có đủ sự tàn bạo và dã man như người đồng tính”, ví
“cha mẹ đồng tính nuôi con” như “chế độ nô lệ", những
người đồng tính có quan hệ yêu đương tự nguyện là
ấu dâm, loạn luân, thú tính, được ví như các hành
động giết người, cướp của, kết tội đồng tính luyến ái
với “tội phạm lạm dụng tình dục trẻ em”, người đồng
tính có tuổi thọ kém hơn khoảng 20 năm so với người
dị
tính…[177][178][179][180][181][182][183][184][185][186][187] .
Những tuyên bố này nhận được sự bác bỏ, phản đối,
chỉ trích, mạnh mẽ từ các nhà sử học, y học, xã hội
học chính thống. Cựu lãnh đạo AFA California Sco
Lively[188] là một đồng tác giả của e Pink Swastika
(xuất bản năm 1995),[189] trong đó tuyên bố rằng tất cả
các nhà lãnh đạo lớn ở chế độ Đức quốc xã là người
đồng tính, dù tuyên bố mà không được chấp thuận
rộng rãi bởi hầu hết các nhà sử học.[190] Trong năm
2007, Bryan Fischer khi còn là Giám đốc các vấn đề
phân tích và là phát ngôn viên cho Hiệp hội gia đình
Hoa Kỳ[191] , đã tổ chức một sự kiện quảng bá thông
điệp rằng "đồng tính luyến ái là trung tâm của chủ
nghĩa phát xít"[177] Ngoài ra, Fischer còn phát biểu:
“Hitler phát hiện ra rằng ông không thể có được đội
quân người dị tính là dã man, tàn bạo và đủ xấu xa để
thực hiện các âm mưu của mình, nhưng những người
lính đồng tính về cơ bản không có giới hạn của sự sự
mọi rợ và tàn bạo và họ luôn sẵn sàng để gây ra cho
bất cứ ai mà Hitler sẽ chỉ đạo về sau. Vì vậy, Hitler
đã tự giấu mình, và hầu như tất cả các binh lính Đế
chế Galactic, binh lính của SA, đều là người đồng tính

nam”. Trong tháng 10 năm 2012, Bryan Fischer trong
một cuộc phỏng vấn với Carol Costello CNN tiếp tục
lặp lại niềm tin của ông rằng “Hitler tuyển dụng người
đồng tính xung quanh mình để tạo nên đội quân của
mình” [182] … Paul Cameron, lãnh đạo của Viện Nghiên
cứu gia đình Hoa Kỳ (một tổ chức Kitô cánh hữu), đã
bị Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ, Hiệp hội xã hội học
Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm lý học Canada và Hiệp hội tâm
lý học Nebraska trục xuất khỏi ngành vì liên tục xuyên
tạc các nghiên cứu khoa học xã hội. Cameron thường
xuyên sử dụng các kỹ thuật lấy mẫu thống kê kỳ lạ,
các trò ảo thuật và thủ đoạn tinh vi và gian lận sử
dụng các tài liệu tham khảo bài báo nghiên cứu khác

bị tẩy chay của mình trong những năm 1990. Khi danh
tiếng trong nước của mình đã xuống cấp, Cameron đã
tiếp tục quảng bá một lượng khán giả toàn cầu, và số
liệu thống kê không có thật của Cameron đã được sử
dụng bởi các nhà hoạt động chống LGBTQ ở Đông Âu,
Nga, châu Phi, và các nơi khác.[192]
Cũng theo SPLC, phương pháp luận mà các nhóm này
hay sử dụng để ngụy biện cho những phát ngôn của
mình là “dựa vào những nghiên cứu không được tín
nhiệm và những kiến thức rác đáng vứt bỏ", làm sai
lệch, bóp méo các nghiên cứu của các nhà khoa học
chính thống (nhiều tác giả, đơn vị nghiên cứu từng lên
tiếng yêu cầu các tổ chức này chấm dứt việc xuyên tạc
các tác phẩm của họ)[175][176] , nhằm “mục đích bôi nhọ
người LGBT” và để “biến cộng đồng LGBT trở thành
mối đe dọa cho xã hội”…[172][173] .

Ngược lại, quan điểm của SPLC chịu sự phản đối của
các tổ chức mà họ công kích, cũng như nhiều chính
khách thuộc Đảng Cộng hòa (Hoa Kỳ). Năm 2010, 22
nhà lập pháp đảng Cộng hòa, trong đó có phát ngôn
viên Boehner và người đại diện Bachmann, ba thống
đốc bang, và một số tổ chức khác đã ký bản tuyên bố
phản đối việc SPLC liệt kê các tổ chức như Hội đồng
Nghiên cứu Gia đình là một “nhóm thù hận”.[193][194]
Các nhà phê bình bao gồm nhà báo Ken Silverstein
và nhà nghiên cứu Laird Wilcox đã cáo buộc SPLC đã
không suy nghĩ khi xếp các tổ chức vào danh sách
này[195][196][197] Nhà bình luận J.M Berger của Foreign
Policy tin rằng “danh sách nhóm thù hận” của SPLC
mang một động cơ chính trị nhằm phóng đại “sự thù
hận trong xã hội Mỹ"[198] Giáo sư luật William Jacobson
cho rằng SPLC "đã sử dụng “nhóm thù ghét” để dập tắt
các phát biểu mà họ không ưa” [199] . Tờ Human Events
bình luận: danh sách “nhóm thù hận” của SPLC có sai
sót khủng khiếp, rằng nếu bất cứ ai nói “trẻ em lớn lên
tốt nhất khi được nuôi bởi một người mẹ và người cha”,
hoặc nếu đồng ý với nhiều nhà trị liệu tâm lý học rằng
sự giáo dục và kinh nghiệm đầu đời (bao gồm cả bị lạm
dụng tình dục) đóng vai trò quan trọng trong sự phát
triển của xu hướng tình dục của trẻ em, thì người đó sẽ
bị SPLC coi là “tuyên truyền dối trá", “tạo ra thù hận”,
và rằng chính SPLC mới xứng đáng được gọi là “nhóm
thù hận”[200] .
Hiệp hội gia đình Hoa Kỳ (AFA) tuyên bố rằng SPLC đã
áp dụng cái nhãn “nhóm thù hận” để tấn công bất cứ ai
mà họ muốn, SPLC muốn công chúng nghĩ rằng họ là

những nhóm chuyên gây bạo lực và quấy rối, và rằng
Morris Dees (giám đốc SPLC) thù hận AFA vì ông ta đã
chịu nhiều cáo buộc bê bối tình dục từ người vợ cũ liên
quan đến ngoại tình, tham gia thác loạn tập thể, loạn
luân, ấu dâm và đồng tính luyến ái[201][202] , trong khi
những giá trị đạo đức mà AFA bảo vệ là sự “châm biếm
sâu cay” đối với điều này.[203] Hiệp hội nghiên cứu gia
đình Hoa Kỳ (FRC) thì tuyên bố rằng: SPLC đã cố tình
đánh đồng các nhóm phân biệt chủng tộc, bạo lực với
các tổ chức hợp pháp trong đời sống chính trị, và Mark
Potok của SPLC đã thú nhận rằng “có những yếu tố đạo


4.3

Hà Lan

đức giả" trong việc SPLC chuyên tấn công các nhóm
mà họ xem là bảo thủ[204] Năm 2012, SPLC đã xếp giáo
sư Ben Carson vào “nhóm thù hận” chỉ vì ông đã phát
biểu “Hôn nhân giữa một người nam và một phụ nữ là
trụ cột vững chắc của xã hội”, sau đó SPLC đã phải xin
lỗi và kể từ đó, FBI đã ngừng sử dụng “danh sách nhóm
thù hận” của SPLC như một tài liệu tham khảo[205][206] .
Trái với phản biện của Nhóm hận thù khi bị xếp loại,
FBI vẫn duy trì quan hệ với SPLC trong việc nắm bắt
danh sách các nhóm hận thù để ngăn chặn hành vi
của tội ác thù hận. Trên website chính thức hiện tại,
FBI cho biết: “FBI đã không ngừng cộng tác trên toàn
quốc và tại địa phương với nhiều tổ chức dân quyền

để thiết lập mối quan hệ, chia sẻ thông tin, mối quan
tâm địa chỉ, và hợp tác trong việc giải quyết vấn đề. Các
nhóm này bao gồm các tổ chức như NAACP, Trung tâm
Nghiên cứu Luật người nghèo Nam Hoa Kỳ, Liên đoàn
chống phỉ báng quốc gia, tổ chức Luật quốc gia châu
Á - ái Bình Dương, Tổ chức ốc gia về Phụ nữ, Tổ
chức về yền con người và tổ chức mạng lưới quốc
gia về người khuyết tật”.[207] . Tuy nhiên, theo tác giả
Dustin Siggins, nhiều khả năng là FBI sẽ giữ mối quan
hệ với SPLC nhưng không công khai trên Internet, ẩn
khỏi sự quan sát của công chúng. Vì vậy, thay vì một sự
chấm dứt hợp tác, quan hệ giữa 2 bên đã từ công khai
trở nên bí mật. Đây không phải là điều tốt cho sự minh
bạch.[208]

4.2

Biên niên sự kiện trên thế giới

21
của người đồng tính. Nhiều quốc gia tuy chưa cho phép
kết hôn đồng tính nhưng đã thông qua luật về quyền
của người đồng tính như: Đức (năm 2001), Phần Lan
(năm 2002), Cộng hòa Czech (năm 2006), ụy Sĩ (năm
2007), Colombia và Ireland (năm 2011).[213] Một điều
luật đã được Vương quốc Anh thông qua, có hiệu lực ở
Anh và xứ Wales, sẽ có hiệu lực vào năm 2014.[215] Hoa
Kỳ là quốc gia gần nhất công nhận hôn nhân đồng tính
trên toàn lãnh thổ. Vào ngày 19/06/2014, Luxembourg
đã chính thức thông qua đạo luật thừa nhận hôn nhân

đồng giới và đạo luật này sẽ bắt đầu có hiệu lực vào
năm 2015.[214] Ngày 26/10/2014, Chính phủ Hoa Kỳ
tuyên bố bổ sung thêm 6 bang hợp pháp hóa hôn nhân
đồng tính[216] và ngày 19/11/2014 thêm một bang nữa
(Montana),[217] nâng tổng số bang công nhận hôn nhân
đồng tính ở Hoa Kỳ lên thành 34/50 bang (bao gồm thủ
đô Washinton D.C. và 33 bang khác). Đến 26/06/2015,
hôn nhân đồng tính đã được công nhận trên toàn bộ
50/50 bang ở Hoa Kỳ. ăm dò ở nhiều quốc gia khác
nhau cho thấy sự ủng hộ hợp pháp hóa hôn nhân đồng
giới ở các chủng tộc, dân tộc, độ tuổi, tôn giáo, tổ chức
chính trị và điều kiện kinh tế ngày càng tăng lên.[218]
Tuy nhiên, nhiều nước theo đạo Hồi vẫn phản đối người
đồng tính và hôn nhân đồng tính.[219][220][221] Việc hợp
pháp hóa hôn nhân đồng giới ở những nền luật pháp
khác nhau trải qua các quá trình khác nhau, một tòa án
quyết định dựa trên những đảm bảo hiến pháp hoặc tổ
chức bỏ phiếu trực tiếp hoặc trưng cầu dân ý.
Các quốc gia công nhận được liệt kê dưới đây theo thứ
tự thời gian.

ời điểm các quốc gia hay các bang công nhận hôn
nhân đồng giới.
4.3

Hà Lan

Hà Lan là nước đầu tiên mở rộng luật hôn nhân cho các
cặp đồng tính, theo sự đề nghị của một ủy ban đặc biệt
được ốc hội chỉ định để xem xét vấn đề này từ năm

1995. Dự luật Hôn nhân đồng giới năm 2000 trình qua
ốc hội Hà Lan thảo luận, đã được Hạ viện thông qua
• Những tên được tô đậm là quốc gia, những tên
với 103 phiếu thuận/33 phiếu chống.[222][223][224] . Sau
không được tô đậm là các tiểu bang/tỉnh của một
đó Dự luật được ượng viện phê chuẩn với 49 phiếu
quốc gia nào đó.
thuận/26 phiếu chống. Toàn bộ 26 phiếu chống lại dự
luật ở thượng viện là của các nghị sĩ Kito giáo, chiếm
Những điều luật đầu tiên trong thời kỳ hiện đại cho 26/75 chỗ ngồi tại thời điểm đó.[225][226]
phép hôn nhân đồng giới được thông qua vào thập niên
Luật hôn nhân đồng giới tại Hà Lan chính thức có hiệu
đầu tiên của thế kỷ 21. Kể từ khi Hà Lan là nước đầu
lực từ ngày 04 tháng 01 năm 2001.[227][228]
tiên hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới vào tháng 01
năm 2001, cho tới nay đã có 21 quốc gia công nhận hôn
nhân đồng giới. ốc gia gần đây nhất công nhận hôn
4.4 Bỉ
nhân đồng giới trên toàn lãnh thổ là Hoa Kỳ, vào tháng
6 năm 2015.[212]
Bỉ là nước thứ 2 trên thế giới chính thức công nhận
Danh sách này không đầy đủ; bạn có thể giúp
đỡ bằng cách mở rộng nó.

Cho đến thời điểm hiện tại, trên thế giới có các nước
gồm:[213] Luxembourg,[214] Pháp, Đan Mạch,[nb 1] Hà
Lan, Bỉ, Iceland, Vương ốc Anh, Na Uy, ụy Điển,
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, New Zealand,[nb 2] Nam Phi,
Argentina, Uruguay, Brazil, Colombia, Canada, Ireland,
Mexico, toàn bộ 50/50 bang trên lãnh thổ Hoa Kỳ đã

hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới và luật hóa các quyền

hôn nhân đồng giới, có hiệu lực từ 1 tháng 6 năm 2003.
Ban đầu, Bỉ chỉ cho phép đám cưới của các cặp đồng
tính ngoại quốc, nếu quốc gia họ cũng chấp nhận hôn
thú này. Tuy nhiên luật pháp có hiệu lực vào tháng 10
năm 2004, cho phép bất cứ cặp nào làm đám cưới, nếu
một trong 2 người đã sống ở đó ít nhất 3 tháng. Năm
2006, các cặp vợ chồng đồng giới được phép nhận con


22

4

TÍNH BỀN VỮNG SO VỚI HÔN NHÂN THÔNG THƯỜNG
bất công.[236][237] Luật mới đã được quốc hội thông qua
vào ngày 14 tháng 12 năm 2006, với số phiếu thuận là
230 so với 41. Nó bắt đầu có hiệu luật vào ngày 30 tháng
11 năm 2006.[238] Nam Phi là nước thứ 5, cũng là nước
đầu tiên ở Phi Châu, hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới.

4.8 Na Uy

Thị trưởng thành phố Liège, Willy Demeyer, cử hành lễ hôn
nhân của một cặp đồng tính.

Na Uy trở thành quốc gia thứ 6 công nhận hôn nhân
đồng giới. Luật hôn nhân đồng giới hợp pháp có hiệu
lực tại Na Uy kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, khi một

Dự luật về “hôn nhân trung tính” được ban hành sau
khi được thông qua bởi cơ quan lập pháp Na Uy vào
tháng 6 năm 2008[239][240] .

Luật mới về hôn nhân thay thế cho hình thức quan hệ
đối tác đăng ký áp dụng cho các cặp vợ chồng đồng
tính đã tồn tại từ năm 1993. Luật mới trao cho các cặp
vợ chồng đồng tính có đầy đủ các quyền như người dị
4.5 Tây Ban Nha
tính, bao gồm cả quyền tổ chức tiệc cưới tại nhà thờ,
quyền nhận con nuôi và hỗ trợ mang thai. Ngoài ra,
Tây Ban Nha là nước thứ 3 trên thế giới đã hợp pháp luật mới cũng sửa đổi lại định nghĩa của hôn nhân dân
hóa hôn nhân đồng giới, luật có hiệu lực kể từ ngày sự để nó mang tính “trung lập”.[241][242][243] Các cặp vợ
3 tháng 7 năm 2005, được ủng hộ bởi đa số người chồng trong quan hệ đối tác đăng ký có thể giữ lại tình
dân.[231][232] . Vào năm 2004, khi chính quyền của Đảng trạng đó hoặc chuyển đổi sang hình thức hôn nhân[240] .
công nhân Xã hội chủ nghĩa mới được bầu, đã bắt đầu
chiến dịch hợp pháp hóa hôn nhân cùng với quyền
được nhận con nuôi của các cặp đồng tính.[233] Sau 4.9 Argentina
nhiều cuộc tranh luận, luật cho phép hôn nhân đồng
tính đã được quốc hội Tây Ban Nha thông qua ngày 30 Ngày 15 tháng 7 năm 2010, thượng viện Argentina đã
tháng 6 năm 2005. Nhà vua Tây Ban Nha Juan Carlos, chấp thuận dự luật mở rộng quyền hôn nhân cho các
mặc dù có 30 ngày để quyết định sự chấp thuận của cặp đồng tính, mà được ủng hộ bởi chính quyền của nữ
hoàng gia, đã gián tiếp cho thấy sự tán thành bằng cách tổng thống Cristina Fernández de Kirchner, tuy nhiên
[244]
Luật mới có hiệu
ký tên vào ngày 1 tháng 7 năm 2005. Luật đã được công bị chống đối bởi nhà thờ công giáo.
[234]
lực
từ
ngày

22.7.2010.
Các
cuộc
trưng
cầu dân ý cho
bố một ngày sau đó.
thấy 70% người Argentina ủng hộ cho các cặp đồng tính
cùng quyền hôn nhân như các cặp khác giới tính.[245]
4.6 Canada
Argentina là nước đầu tiên ở Châu Mỹ Latin, nước thứ
hai ở Châu Mỹ sau Canada, và nước thứ 10 trên thế giới
Ngày 20 tháng 7 năm 2005, Canada trở thành nước thứ chấp nhận hôn nhân đồng giới.[246] ,[247]
4 trên thế giới, và là nước đầu tiên ngoài Âu Châu,
hợp thức hóa toàn quốc. Các quyết định của tòa án,
bắt đầu từ năm 2003, đã hợp thức hóa Hôn nhân đồng 4.10 Ireland
giới trong 8 của 10 vùng, mà số dân tổng cộng là 90%
dân số Canada. Trước khi đạo luật được ra đời, đã có Vào tháng 1 năm 2015, chính phủ Ireland đã đưa một dự
hơn 3.000 cặp đồng tính đã làm hôn thú trong những luật để cải tổ hiến pháp ra quốc hội để biểu quyết. eo
khu vực này.[235] Những quyền lợi về pháp lý mà có liên dự luật, câu sau sẽ được thêm vào hiến pháp: “Một cuộc
quan tới hôn nhân đã được mở rộng ra cho những cặp hôn nhân giữa hai người, không phân biệt giới tính, có
thể được thực hiện theo quy định của luật pháp.”[248]
đồng tính sống chung với nhau từ năm 1999.
Sau khi hạ viện đã đồng ý vào ngày 11 tháng 3 năm
2015, thượng viện đã thông qua vào ngày 27 tháng 3
năm 2015 với tỉ lệ ủng hộ áp đảo là 29/3.[249] Những cải
4.7 Nam Phi
tổ hiến pháp ngoài sự chấp thuận của quốc hội còn phải
Cônng nhận chính thức Hôn nhân đồng giới ở Nam được sự đồng ý của người dân. Cuộc trưng cầu dân ý đã
Phi là do kết quả của quyết định tòa án hiến pháp vào được tổ chức tại Ireland vào ngày 22 tháng 5 năm 2015,
ngày 1 tháng 12 năm 2005, theo đó luật hôn nhân hiện với 62,1% số phiếu đồng ý việc tổ hiến pháp công nhận

tại đã vi phạm chương 9 về quyền bình đẳng trong hiến hôn nhân đồng giới.[250] Bằng việc sửa đổi hiến pháp,
pháp, bởi vì nó phân biệt căn bản về định hướng tình Ireland trở thành nước đầu tiên chấp thuận hôn nhân
dục. Tòa án đã cho quốc hội một năm để chỉnh sửa sự đồng giới qua một cuộc trưng cầu dân ý.[251]
nuôi.[229][230]


5.2

Châu Âu

Ngày 29 tháng 10 năm 2015, Luật hôn nhân đồng giới
chính thức có hiệu lực ở Ireland. Ireland cũng là nước có
truyền thống Công giáo đầu tiên (với tỷ lệ gần 90% dân
số theo đạo iên Chúa)thông qua luật về hôn nhân
đồng giới bằng hình thức trưng cầu dân ý.[252][253]

23
của thế kỷ 21. Nhiều khảo sát thực hiện ở những nước
phát triển trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 cho thấy
việc ủng hộ hôn nhân đồng giới có xu hướng tăng ở mọi
lứa tuổi, quan điểm chính trị, tôn giáo, giới tính, chủng
tộc và tôn giáo.[255][256][257][258][259]

ăm dò dư luận tháng 6/2013 tại 16 nước ở châu Âu,
châu Mỹ và châu Á-ái Bình Dương cho thấy tỉ lệ ủng
4.11 Hoa Kỳ
hộ việc công nhận mối quan hệ của các cặp đồng tính
Ngày 26 tháng 6 năm 2015, Hoa Kỳ trở thành quốc gia khá cao (73%). Cả 16 nước đều có đa phần người dân
thứ 21 trên thế giới hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới ủng hộ việc công nhận này. 72% người được hỏi nói
sau phán quyết của Tối cao Pháp viện tuyên bố hôn rằng hôn nhân đồng giới không có hại gì cho xã hội,

nhân đồng tính được công nhận ở tất cả 50 bang trên 59% ủng hộ các cặp vợ chồng đồng tính nhận con nuôi
và 64% cho rằng những cặp vợ chồng đồng tính cũng có
toàn lãnh thổ Hoa Kỳ.[254]
khả năng nuôi dạy con tốt như các cặp vợ chồng khác.
Chỉ 14% phản đối việc công nhận mối quan hệ của các
4.12 Châu Âu
cặp đồng giới.[260][261]
Châu Âu là lục địa có nhiều nước công nhận hôn nhân
đồng giới sớm nhất (2001) và nhiều nhất (13 nước). Các
nước công nhân hôn nhân đồng giới là các nước Tây
và Bắc Âu như Hà Lan (2001), Bỉ(2003), Tây Ban Nha
(2005), Na Uy (2009), ụy Điển (2009), Bồ Đào Nha
(2010), Iceland(2010), Đan Mạch (2012), Pháp (2013),
Vương ốc Anh (2014), Luxemburg (2015). 2 nước
Phần Lan (công nhận 2014) và Ireland (công nhận 2015)
chưa có luật chính thức.

5.2 Châu Âu
Tại Đức, thăm dò dư luận của Ifop tháng 5 năm 2013
cho thấy 74% người Đức ủng hộ các cặp đồng tính được
quyền kết hôn và nhận con nuôi.[262]

Tại Pháp, theo khảo sát năm 2015, 56% người dân Pháp
phản đối hôn nhân đồng tính bất chấp đạo luật này đã
được thông qua vào năm 2013, hầu hết số phản đối là tín
đồ Cơ đốc giáo. eo một cuộc khảo sát vừa được thực
4.13 Châu Mỹ
hiện bởi Viện Pháp về Ý kiến Cộng đồng, 22% người dân
Pháp muốn đạo luật hôn nhân đồng giới bị bãi bỏ và
Hiện tại tổng cộng có 5 nước tại châu Mỹ công nhận 32% thì cho rằng hôn nhân đồng tính nên được chuyển

hôn nhân đồng giới (Canada (2005), Argentina (2010), thành “kết hợp dân sự nhưng không bao gồm việc nhận
Brasil (2013) và Uruguay (2013), từ ngày 26.06.2015 con nuôi”. Tuy nhiên, tạp chí của Times của Ý khẳng
theo phán xử của tòa án tối cao tại toàn nước Hoa Kỳ định đây là một tỷ lệ cải thiện vì năm 2013, tỷ lệ phản
và một số bang tại Mexico.
đối là 37% nên đây là một tin tốt.[263] . Các cuộc khảo sát
khác thì cho kết quả khác biệt, phần lớn người dân Pháp
ủng hộ hôn nhân đồng tính. eo kết quả của kênh
5 Những vấn đề liên quan
khảo sát uy tín của Ủy ban châu Âu (Eurobarometer),
71% người Pháp nghĩ rằng hôn nhân đồng giới nên được
cho phép trên toàn châu Âu, trong khi chỉ có 24% phản
5.1 Thăm dò ý kiến
đối[264] . Một cuộc thăm dò của BVA vào tháng 6 năm
2015 cho kết quả: 56% người Pháp ủng hộ cho quyền
bình đẳng của các cặp vợ chồng đồng tính, 67% ủng hộ
hôn nhân đồng tính (tăng 9% so với năm 2013), gần 6
trong số 10 người dân Pháp ủng hộ các quyền được áp
dụng cho các cặp vợ chồng đồng tính.[265]
ăm dò dư luận Ipsos tháng 5/2013 cho thấy 78% người
Na Uy ủng hộ hôn nhân đồng tính.[266] Tại ụy Điển,
81% người dân ủng hộ hôn nhân đồng tính và thêm 9%
ủng hộ một hình thức công nhận các cặp đôi đồng tính
khác.[266]

Biểu tình chống hôn nhân đồng tính tại San Francisco năm 2008

ăm dò dư luận YouGov tháng 1/2013 cho thấy 79%
người Đan Mạch ủng hộ hôn nhân đồng tính và 16%
phản đối.[267]


ăm dò dư luận Ifop tháng 5/2013 tại ụy Sĩ cho thấy
Nhiều thăm dò và nghiên cứu được thực hiện, bao gồm 63% người ụy Sĩ ủng hộ quyền kết hôn và nhận con
những công trình được hoàn tất trong thập kỷ đầu tiên nuôi chung của người đồng tính.[262]


24

5 NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

Tỷ lệ ủng hộ hôn nhân đồng giới tại Phần Lan tăng lại rất cao.
mạnh trong thập kỷ trước, từ 45% (2006), 54 % (2010),
57% (2013) cho đến 65% vào đầu năm nay.[268][269]
• Tại Litva và Ucraina, chỉ có 28% người dân chấp
nhận sự hiện diện của người đồng tính trong xã
ăm dò dư luận tháng 10/2014 tại Italia cho thấy 55%
hội[284]
[270]
người dân ủng hộ hôn nhân đồng tính.
ăm dò dư luận tháng 4/2013 tại Luxembourg cho
thấy 83% người dân ủng hộ việc công nhận hôn nhân
đồng giới. Luật thừa nhân hôn nhân giữa những người
cùng giới tính cũng như quyền nhận con nuôi của họ
được ốc hội Luxembourg thông qua ngày 19/06/2014
với tỉ lệ ủng hộ áp đảo 56 phiếu thuận và 4 phiếu
chống.[214][271]

• Một cuộc khảo sát tiến hành ở Croatia vào năm
2014 cho thấy: 45,4% người được hỏi phản đối
mạnh mẽ và 15,5% phản đối vừa phải việc hợp
pháp hóa hôn nhân đồng giới ở Croatia. Chỉ 10,1%

là mạnh mẽ ủng hộ, 6,9% ủng hộ vừa phải, và 21,2%
là trung lập[285]

76% người Tây ban Nha ủng hộ việc công nhận hôn 5.3 Châu Mỹ
nhân đồng giới, 18% phản đối.[272]
ăm dò dư luận tháng 11/2013 cho thấy 61% người 5.3.1 Hoa Kỳ

Áo ủng hộ hôn nhân đồng tính.[273] ăm dò dư luận
tháng 5/2014, 73% người Áo ủng hộ hôn nhân đồng Một thăm dò gần đây ở Hoa Kỳ cho thấy có sự gia tăng
trong cộng đồng người Mỹ việc ủng hộ hôn nhân đồng
giới.[274][275]
giới. Khi những người lớn tuổi được hỏi vào năm 2005
85% người Hà Lan ủng hộ quyền kết hôn và nhận con là họ có nghĩ “hôn nhân giữa cho người đồng tính có
nuôi của người đồng tính.[262]
nên hoặc không nên được luật pháp công nhận và có
ăm dò dư luận tháng 2/2015 tại Slovenia cho thấy quyền lợi như hôn nhân truyền thống khác”, 28% đồng
ý trong khi 68% không đồng ý (4% còn lại không chắc
59% người dân ủng hộ hôn nhân đồng giới.[276]
chắn). Khi được hỏi vào tháng 3 năm 2013, 50% ủng hộ
ăm dò dư luận tháng 2/2014, 76% người Ireland ủng trong khi 41% chống đối và 9% không chắc chắn.[288]
hộ bình đẳng hôn nhân.[277] Tại Scotland, thăm dò dư Nhiều thăm dò và nghiên cứu ở nhiều nước cho thấy
luận năm 2010 của e Scoish Social Aitudes Survey người ủng hộ tăng lên khi có sự gia tăng về trình độ
cho thấy 61% người dân ủng hộ hôn nhân đồng tính, học vấn, người trẻ hơn thường ủng hộ hơn người già
19% phản đối.[278] Trong cuộc thăm dò dư luận tháng hơn.[289][290][291][292][293]
6/2012 của Ipsos MORI, 64% người Scotland ủng hộ
hôn nhân đồng tính.[279] ăm dò dư luận vào tháng
12/2014 của e Scoish Social Aitudes Survey cho
thấy 68% người Scotland ủng hộ hôn nhân đồng tính,
chỉ 17% phản đối. Đa phần người theo các tôn giáo lớn
và phần lớn người dân ở các độ tuổi ủng hộ hôn nhân

đồng tính.[280]
Năm 2014, ủ tướng Anh David Cameron gửi lời đến
toàn thể người dân nhân sự kiện các cặp đôi đồng tính
tại nước này đã có thể kết hôn như những cặp đôi dị
tính khác: "Cuối tuần này đánh dấu một thời điểm quan
trọng cho đất nước của chúng ta. Lần đầu tiên, các cặp đôi
được phép kết hôn sẽ không chỉ bao gồm đàn ông và phụ
nữ nữa mà còn là giữa cặp nam-nam và nữ-nữ với nhau.
Sau tất cả các cuộc vận động, cuối cùng chúng ta cũng
đã đi đến cái đích là hôn nhân bình đẳng. Nói đơn giản
hơn, tại Anh, việc bạn là đồng tính hay dị tính sẽ chẳng
còn là vấn đề nữa. Nhà nước công nhận mối quan hệ của
bạn đều bình đẳng như nhau."[281][282] Lesley Carig, Đại
sứ Anh tại Việt Nam, phát biểu tại 1 lễ cưới đồng tính
được tổ chức ở Đại sứ quán Anh: "ật tuyệt vời khi có
thể chứng kiến lễ cưới đồng tính đầu tiên tại Việt Nam.
Ngày hôm nay, chúng ta không chỉ ăn mừng cho cặp đôi
hạnh phúc này mà còn vì sự bình đẳng cho tất cả mọi
người, cho những giá trị mà nước Anh tin tưởng!".[283]

Một cuộc biểu tình ở nhà thờ Unitarian church để ủng hộ bình
đẳng hôn nhân tại bang New Jersey, Hoa Kỳ.

83% người Do ái ở Mỹ ủng hộ hôn nhân đồng tính, tỷ
lệ cao nhất trong số các nhóm sắc tộc ở Mỹ.[294] Khảo
sát những người theo Công giáo ở Mỹ của e Pew
Research Centre vào năm 2014 cho thấy tỷ lệ ủng hộ
quyền kết hôn của người đồng tính rất cao: 85% người
Công giáo từ 18-29 tuổi chấp nhận người đồng tính và
75% ủng hộ hôn nhân đồng tính.[295]


Trong khi đó, tại các quốc gia Đông Âu như Nga,
Ucraina, Belarus… tỷ lệ phản đối hôn nhân đồng tính Một điều tra của tờ USA Today và viện Gallup năm 2009
thì có ủng hộ là 40% trong khi vẫn còn 57% phản đối[296] .


5.4

Châu Á

25

Con số ủng hộ này ngày càng tăng, thăm dò dư luận
tháng 2/2015 cho thấy tỷ lệ người Mỹ ủng hộ việc công
nhận hôn nhân đồng giới cao kỷ lục là 60%, 46% người
Mỹ có quen biết một cặp đồng tính đã kết hôn.[297][298]
ế hệ trẻ của Mỹ có tỷ lệ ủng hộ bình đẳng hôn nhân
rất cao: ăm dò dư luận của ABC News/Washington
Post cho thấy 81% người Mỹ dưới 30 tuổi ủng hộ hôn
nhân đồng tính, 58% người Mỹ nói chung ủng hộ hôn
nhân đồng giới.[299][300] Đây là một sự thay đổi rất lớn
so với cuộc thăm dò dư luận cách đây 1 thập kỷ trong
đó số người Mỹ phản đối hôn nhân đồng tính là 55%,
trong khi số ủng hộ là 37%.[301]
Đại học innipiac đã tiến hành các cuộc điều tra về Đông đảo người ủng hộ thông qua hôn nhân đồng giới ở Buenos
thái độ dân chúng Mỹ với hôn nhân đồng giới vào cuối Aires, thủ đô Argentina
năm 2015 [302] . Tất cả các kết quả đều cho thấy tỷ lệ ủng
hộ hôn nhân đồng tính tăng đều theo thời gian và hiện
ăm dò dư luận tháng 8 năm 2012 tại Chile cho thấy
chiếm tỷ lệ quá bán:

54,9% người Chile ủng hộ hôn nhân đồng tính và 40,7%
không ủng hộ. Tân Tổng thống Chile Michelle Bachelet
• Bạn có nghĩ rằng người đồng tính kết hôn là hợp
từng hứa sẽ công nhận hôn nhân đồng tính trong chiến
pháp hay không hợp pháp? Kết quả: Hợp pháp
dịch tranh cử của mình.[304]
(56%), không hợp pháp (34%), không chắc chắn
ăm dò dư luận tháng 7 năm 2013 tại Mexico cho thấy
(10%).
52% người Mexico ủng hộ hợp pháp hóa hôn nhân đồng
• Bạn có ủng hộ hay phản đối các cặp đồng tính kết tính, trong đó tỷ lệ ủng hộ của người theo đạo Công
hôn? Kết quả: Hỗ trợ (55%), phản đối (38%), không giáo là 52% và người không theo tôn giáo là 62%.[305]
chắc chắn (7%)
• Bạn nghĩ rằng quan chức chính phủ nên hay 5.4 Châu Á
không nên cấp giấy phép kết hôn cho các cặp đồng
tính? Kết quả: Nên (62%), không nên (32%), không Đa số các nước theo đạo Hồi tỉ lệ phản đối hôn
chắc chắn (6%).
nhân đồng tính rất cao. Ở Đông Nam Á, Malaysia và
Indonesia có tỉ lệ phản đối hôn nhân đồng tính lần lượt
• Nếu quan chức chính phủ nói việc cấp giấy phép
là 86% và 93%. Ở Trung Đông, đa số các nước phản đối
hôn thú đồng giới vi phạm niềm tin tôn giáo của
hôn nhân đồng tính với tỉ lệ rất cao từ 78% ở ổ Nhĩ Kỳ
họ, bạn nghĩ họ nên hay không nên cấp phép? Kết
cho đến 97% ở Jordan.[221] Tuy nhiên ở một số nước theo
quả: Nên (55%), không nên (39%), không chắc chắn
đạo Hồi như Albania, Lebanon, và ổ Nhĩ Kỳ cũng đã
(6%).
có những cuộc tranh luận về việc công nhận hôn nhân
[306]

• Khi có một cuộc xung đột giữa tín ngưỡng tôn đồng giới.
giáo với việc đối xử bình đẳng theo pháp luật, bạn
nghĩ điều gì quan trọng hon? Kết quả: Niềm tin
tôn giáo (19%), quyền bình đẳng theo pháp luật
(74%), không chắc chắn (6%).

Đài Loan là nước có tỷ lệ ủng hộ hôn nhân đồng
tính cao nhất châu Á với 68% người dân ủng
hộ.[307][308][309][310]

59% người dân Israel ủng hộ hôn nhân đồng tính. 89%
ủng hộ quyền bình đẳng đầy
• Sau khi Tòa án Tối cao Hoa Kỳ thông qua luật hôn người Do ái thế tục [311]
Tổng thống Israel Shimon
đủ
của
người
đồng
tính.
nhân đồng giới trên toàn liên bang, có một thư ký
Peres
cũng
ủng
hộ
quyền
kết hôn của người đồng
quận Kentucky đã từ chối cấp giấy phép hôn nhân
[312][313][314]
tính.
đồng tính vì niềm tin tôn giáo. Bạn nghĩ rằng cô ấy

nên hay không nên cấp giấy hôn thú cho các cặp
đồng tính? Kết quả: Nên (63%), không nên (33%), 5.4.1 Việt Nam
không chắc chắn (4%)…
5.3.2

Các nước khác

ăm dò dư luận năm 2012 tại Canada cho thấy 66,4%
người dân ủng hộ hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính. Tỷ
lệ ủng hộ cao nhất ở ebec (72%) và British Columbia
(70.2%), thấp nhất ở Alberta (45.6%).[303]

Ngày 21/11/2013, Tổ chức eo dõi Nhân quyền phát
biểu rằng ốc hội Việt Nam cần sửa đổi Luật Hôn
nhân và Gia đình để bảo đảm cho các cặp đồng tính
cũng được hưởng đầy đủ tất cả các quyền như mọi cặp
vợ chồng khác, trong đó có quyền kết hôn, thủ tục


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×