Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Các giải pháp tài chính thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh bình thuận theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

TRƯƠNG THIỆN THỌ

CÁC GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH THÚC ĐẨY
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TỈNH BÌNH
THUẬN THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP.Hồ Chí Minh, năm 2006


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
Chương 1: Những vấn đề lý luận về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và lý luận về tài chính. ........................................................ 6
1.1. Cơ cấu kinh tế. ..............................................................................................6
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế. ............................................................ 6
1.1.2. Nội dung cơ cấu kinh tế. .............................................................. 7
1.1.3. Tính chất của cơ cấu kinh tế. .....................................................10
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế...................................................................11
1.1.5. Các tiêu chí đánh giá cơ cấu kinh tế hợp lý. .............................14
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế........................................................................14
1.2.1. Những quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế. .....................14
1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa - hiện đại hóa............................................................15
1.2.2.1. Quan niệm về công nghiệp hóa - hiện đại hoá........................15


1.2.2.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa - hiện đại hóa. ...........................................................16
1.3. Tài chính và vai trò của tài chính trong nền kinh tế..................................17
1.3.1. Nguồn, bản chất của tài chính. ..................................................18
1.3.2. Chức năng của tài chính. ...........................................................19
1.3.3. Hệ thống tài chính......................................................................21
1.3.4. Vai trò của tài chính trong nền kinh tế thị trường.....................21
1.4. Bài học rút ra từ kinh nghiệm lựa chọn chính sách tài chính
của các nước trong tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. ..........................................................................23
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và những
tác động của tài chính đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế tỉnh Bình Thuận thời gian qua. ...................................................25
2.1. Khái quát về tỉnh Bình Thuận....................................................................25
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên. .....................................................................25
2.1.2. Cấp hành chính, dân số và lao động. ........................................26
2.1.3. Tình hình xã hội, giá trị văn hoá, nhân văn...............................27
2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Bình Thuận thời gian qua.....................28


2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.............................................28
2.2.1.1. Tương quan và chuyển dịch giữa các ngành. .........................29
2.2.1.2. Nông nghiệp............................................................................31
2.2.1.3. Công nghiệp. ...........................................................................33
2.2.1.4. Dịch vụ....................................................................................34
2.2.1. Cơ cấu thành phần kinh tế. ........................................................37
2.3. Tác động của tài chính đối với nền kinh tế thời gian qua và
những tồn tại đặt ra cho thời gian đến. .............................................................43
2.3.1. Tác động của tài chính đối với nền kinh tế thời gian qua. ........43
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế đặt ra cho thời gian tới. .......................46

Chương 3: Giải pháp tài chính thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
tỉnh Bình Thuận theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. ..............49
3.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế
tỉnh Bình Thuận thời gian đến...........................................................................49
3.1.1. Tác động của bối cảnh quốc tế và những cơ hội mở ra. ...........49
3.1.2. Tác động của chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cả nước và các vùng lân cận.....................................................50
3.1.3. Thách thức về khả năng cạnh tranh trong phát triển kinh tế
và hội nhập của Tỉnh............................................................................51
3.2. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Bình Thuận thời gian đến. .................................................................................51
3.2.1. Mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát.................................................51
3.2.2. Một số chỉ tiêu cụ thể. ................................................................52
3.3. Giải pháp tài chính để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Bình Thuận giai đoạn 2006-2010. ....................................................................53
3.3.1. Chi đầu tư từ ngân sách nhà nước.............................................53
3.3.2. Huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư .............................59
3.3.3. Tài chính doanh nghiệp. ............................................................71
3.3.4. Khai thác thị trường đất đai, bất động sản................................73
3.3.5. Hoàn thiện cơ chế quản lý, giám sát tài chính. .........................74
KẾT LUẬN........................................................................................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................74
PHỤ LỤC...........................................................................................................76

2


LỜI MỞ ĐẦU
Cơ cấu kinh tế được hiểu theo cả hai phương diện chất và lượng. Về
chất, đó là các quan hệ gắn bó giữa các yếu tố kinh tế trong một chỉnh thể
thống nhất và các yếu tố này vừa làm điều kiện cho nhau, vừa tác động thúc

đẩy nhau đảm bảo cho nền kinh tế vận động cân đối, nhịp nhàng, đem lại
hiệu quả cao. Về lượng, đó là quan hệ tỷ lệ giữa các yếu tố cấu thành nền
kinh tế, quan hệ này được xác định trong một thời điểm nhất định theo chỉ
số kỹ thuật hoặc chỉ số giá trị. Thông qua cơ cấu kinh tế người ta thấy được
trình độ phân công lao động xã hội trên cơ sở phát triển của lực lượng sản
xuất và như vậy, cơ cấu kinh tế luôn biến đổi cấu trúc cùng với sự biến đổi
của lực lượng sản xuất xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong ba nội dung cơ bản của tiến
trình công nghiệp hoá – hiện đại hóa: xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động. Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, có nghĩa xem xét cơ cấu kinh tế ở trạng thái động có định
hướng. Nó là quá trình làm thay đổi cấu trúc, tỷ trọng, tốc độ và chất lượng
các mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế
nhằm đạt tới một cơ cấu hợp lý hơn, tạo thế và lực mới cho tăng trưởng và
phát triển kinh tế - xã hội. Sự vận động, biến đổi của cơ cấu kinh tế diễn ra
rất đa dạng giữa các quốc gia có những điều kiện kinh tế - xã hội và trình độ
phát triển khác nhau, song quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn có
những xu hướng chung mang tính quy luật.
Bình Thuận xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, đại đa
số lao động là nông dân và ngư dân với trình độ sản xuất nghèo nàn. Từ
một xuất phát điểm như thế, qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới cùng
cả nước, cơ cấu kinh tế của Tỉnh đã có những chuyển biến rõ rệt. Tuy vậy,
tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ vẫn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trên con
đường thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

3


Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế Bình Thuận, cần phải có

những chính sách và giải pháp tích cực. Trong đó không thể thiếu những
giải pháp về tài chính bởi tài chính không chỉ bắt nguồn từ kinh tế, mà quan
trọng hơn, nó còn là một bộ phận thiết yếu không thể tách rời của kinh tế.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của địa phương đang công tác, sau thời gian
học tập và được trang bị những kiến thức lý luận sau đại học, tôi chọn đề tài
“Các giải pháp tài chính thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Bình
Thuận theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hoá”.
Chính cái tên của đề tài đã thể hiện rõ mục tiêu mà nó muốn hướng
đến, mục tiêu thúc đẩy sự chuyển dịch tích cực của cơ cấu kinh tế tỉnh Bình
Thuận trong thời gian đến. Để đạt được mục tiêu này, đề tài tập trung
nghiên cứu, hệ thống lại những vấn đề cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và lý luận về tài chính; phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của tỉnh Bình Thuận trong thời gian qua, rút ra những mặt tích cực, mặt
còn hạn chế, tìm ra những nguyên nhân tồn tại. Từ đó, đề xuất những giải
pháp tài chính để phục vụ mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Phương pháp nghiên cứu xuyên suốt của đề tài là phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Với cơ sở phương pháp luận trên, cơ cấu
kinh tế được nhìn nhận là một chủ thể luôn vận động, biến đổi, do vậy cần
được thường xuyên nghiên cứu, hoàn thiện và phát triển. Các kết luận, giải
pháp đề xuất được đúc kết từ quá trình thu thập, khảo sát, tổng hợp các
thông tin, tư liệu và đối chiếu với cơ sở lý luận để làm sáng tỏ những nội
dung nghiên cứu. Ngoài ra, để bảo đảm tính khoa học, đề tài cũng tuân thủ
một số nguyên tắc và phương pháp cơ bản như nguyên tắc khách quan,
nguyên tắc toàn diện, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp hệ
thống.
Kết cấu của đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và lý luận về tài chính.
4



Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và những tác động
của tài chính đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Bình Thuận
thời gian qua.
Chương 3: Giải pháp tài chính thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
tỉnh Bình Thuận theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Mặc dù đã rất cố gắng, song với sự hạn chế về tư liệu, kiến thức lý
luận lẫn thực tiễn, chắc chắn những nội dung trình bày không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Nhiều vấn đề trong đề tài đặt ra nhưng chưa được nghiên
cứu, giải quyết thật thấu đáo. Kính mong các Thầy, Cô, các đồng nghiệp
quan tâm, cho ý kiến để đề tài được hoàn thành và mang ý nghĩa thiết thực
hơn.

5


Chương 1
Những vấn đề lý luận về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và lý luận về tài chính.

Đối với mọi quốc gia, yêu cầu phát triển kinh tế luôn đòi hỏi phải có
một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó phải xác định rõ mối quan hệ giữa các
ngành kinh tế, giữa các vùng lãnh thổ và giữa các thành phần kinh tế. Tuy
nhiên, cơ cấu đó không chỉ giới hạn ở quan hệ giữa các ngành, các vùng
hay các thành phần kinh tế và có tính cố định, mà nó luôn thay đổi phù hợp
với yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong từng thời kỳ, từng giai đoạn
phát triển nhất định.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự định hướng của nhà nước, việc

cải tổ, xây dựng lại cơ cấu kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Do vậy,
để có thể đề ra những giải pháp tích cực cho việc hình thành và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, trước hết chúng ta cần tìm hiểu những vấn đề lý luận về cơ
cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.1. Cơ cấu kinh tế.
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế.
Khi phân tích quá trình phân công lao động xã hội, Karl Marx đã chỉ
rõ, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất, những quan
hệ này phải phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng
sản xuất vật chất. K. Marx còn nhấn mạnh, khi phân tích cơ cấu kinh tế phải
chú ý đến cả hai khía cạnh chất lượng và số lượng. Theo ông, cơ cấu là một
sự phân chia về chất và một tỷ lệ về số lượng của quá trình sản xuất xã hội.
Với ý nghĩa đó, chúng ta có thể rút ra khái niệm: Cơ cấu kinh tế là một
tổng thể các bộ phận hợp thành với vị trí, tỷ trọng tương ứng của mỗi bộ
phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội.

6


1.1.2. Nội dung cơ cấu kinh tế.
Nội dung cơ cấu kinh tế cần được phân tích trên hai phương diện:
1.1.2.1. Phương diện thứ nhất: Xét về mặt vật chất, kỹ thuật, cơ cấu
kinh tế bao gồm:
1.1.2.1.1. Cơ cấu theo ngành nghề và lĩnh vực kinh tế: Phản ánh số
lượng, vị trí, tỷ trọng các bộ phận cấu thành nền kinh tế.
Cơ cấu ngành và lĩnh vực kinh tế là bộ phận cấu thành cơ bản của nền
kinh tế quốc dân, là nòng cốt của chiến lược phát triển kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nền kinh tế là tổng thể các ngành, các lĩnh
vực, các thành phần, song các ngành là cấu trúc cơ bản. Trong ngành và

lĩnh vực thì hai lĩnh vực quan trọng nhất là nông nghiệp và công nghiệp.
Hai ngành này muốn phát triển phải thông qua hệ thống dịch vụ. Như vậy,
cơ cấu ngành và lĩnh vực kinh tế bao gồm ba bộ phận cơ bản:
- Nông nghiệp (theo nghĩa rộng bao gồm nông - lâm - ngư nghiệp) là
lĩnh vực sản xuất vật chất chủ yếu, tạo ra sản phẩm thiết yếu cho sự tồn tại
và phát triển của xã hội loài người; là ngành kinh tế xuất hiện sớm nhất
trong lịch sử xã hội loài người và có phạm vi hoạt động rộng lớn nhất trên
các đại lục của hành tinh chúng ta.
Ở hầu hết các quốc gia, một hiện tượng có tính quy luật là nông nghiệp,
nông thôn luôn là khu vực chậm phát triển so với công nghiệp, dịch vụ và
thành thị. Sự chênh lệch về mức độ phát triển của nông nghiệp so với các lĩnh
vực khác trong nền kinh tế có thể được nhận thấy trên nhiều mặt như mức độ
hiện đại hóa, năng suất lao động, mức sống dân cư… Tuy vậy, nông nghiệp
vẫn luôn có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò đó
thể hiện rõ nét trên những khía cạnh: nông nghiệp là ngành cung cấp lương
thực, thực phẩm – nhu cầu tối cơ bản của con người; nông nghiệp, nông thôn
là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của cả nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ; nông nghiệp cung cấp nguyên liệu để phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và tạo việc làm cho xã hội; nông nghiệp cung cấp
một khối lượng hàng hóa lớn để xuất khẩu, tạo ra tích lũy để tái sản xuất và
phát triển kinh tế quốc dân; nông nghiệp là khu vực cung cấp lao động phục vụ
công nghiệp và các hoạt động khác của xã hội – xu hướng có tính quy luật
trong phân công lại lao động xã hội; nông nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.

7


Dù trong quá khứ, hiện tại hay tương lai, sản xuất nông nghiệp vẫn
đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội

loài người. Đối với các nước đang phát triển như nước ta, nông nghiệp là
ngành có liên quan trực tiếp đến việc làm, thu nhập và đời sống của đại đa
số dân cư, vì vậy, nông nghiệp có tầm quan trọng hàng đầu đối với phát
triển kinh tế và ổn định chính trị - xã hội.
- Công nghiệp (bao gồm cả xây dựng) là ngành sản xuất vật chất cơ
bản của nền kinh tế quốc dân. Trình độ phát triển của công nghiệp là một
trong những tiêu chuẩn đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia.
Công nghiệp là ngành sản xuất chủ đạo đối với sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân, bởi lẽ:
+ Công nghiệp đóng góp cao vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc
dân. Sự đóng góp này có được do công nghiệp có năng suất lao động cao,
giá trị gia tăng lớn và sự phát triển của công nghiệp không bị hạn chế như
điều kiện phát triển của nông nghiệp. Nhờ sự tăng trưởng nhanh của công
nghiệp mà cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng gia tăng tỷ trọng công
nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp.
+ Sự phát triển của công nghiệp tạo cơ sở thu hút lao động, giải quyết
việc làm. Với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp trong quá trình
công nghiệp hóa có thể thu hút đáng kể lao động tăng thêm hàng năm vào
các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đến một giai đoạn nhất định sẽ tác động
mạnh mẽ đến phân bổ lại lao động theo hướng chuyển dịch lao động từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ; từ nông thôn sang đô thị. Điều
này không chỉ tạo điều kiện giải quyết việc làm mà còn tác động nâng cao
năng suất lao động, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống người lao động.
+ Công nghiệp là ngành chủ đạo trong đóng góp vào tích lũy của nền
kinh tế. Sự phát triển của công nghiệp với trình độ công nghệ hiện đại làm
tăng đáng kể các giá trị gia tăng, đóng góp vào tích lũy của nền kinh tế.
Công nghiệp sản xuất ra toàn bộ tư liệu lao động và các sản phẩm trung
gian cần thiết không chỉ cho chính công nghiệp mà còn cho tất cả các ngành
kinh tế quốc dân khác. Chính các tư liệu sản xuất này, với trình độ khoa học
- công nghệ hiện đại, trở thành nhân tố then chốt thúc đẩy năng suất lao

động, tăng giá trị gia tăng và làm tăng tích lũy của các ngành kinh tế khác.
Sự chủ đạo trong đóng góp vào tích lũy cho nền kinh tế của công nghiệp
không chỉ bao gồm tích lũy vốn tài chính, mà còn bao gồm cả vốn vật chất
8


là các tư liệu sản xuất và cũng là quá trình tích lũy về khoa học – công nghệ
gắn với tri thức và kinh nghiệm quản lý, là những điều kiện cơ bản để phát
triển kinh tế nhanh, bền vững trên nền tảng nguồn lực nội sinh.
Trong điều kiện hội nhập hiện nay, sự phát triển công nghiệp theo
hướng hiện đại hóa làm cho nền kinh tế ngày càng mang tính cạnh tranh là
cơ sở quan trọng để phát triển quan hệ hợp tác, liên kết khu vực một cách
bình đẳng và có lợi.
- Dịch vụ là cầu nối giữa sản xuất công nghiệp với nông nghiệp, giữa
sản xuất với tiêu dùng; thực hiện vai trò trao đổi hàng hóa giữa các vùng,
giữa thành thị với nông thôn, giữa trong nước và ngoài nước. Trong quá
trình sản xuất, dịch vụ có vai trò đáp ứng đầy đủ các nhu cầu “đầu vào” và
khả năng tiêu thụ sản phẩm - giải quyết “đầu ra”. Nói cách khác, dịch vụ
thực hiện mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế.
Do vậy, trình độ phát triển kinh tế hàng hóa càng cao thì tỷ trọng của dịch
vụ trong cơ cấu kinh tế càng lớn. Dịch vụ tạo ra nhiều việc làm, thúc đẩy
phân công lao động xã hội, thúc đẩy chuyên môn hóa, tạo điều kiện cho lĩnh
vực sản xuất tăng năng suất lao động; đồng thời đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của xã hội, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cộng đồng. Sự phát
triển của dịch vụ làm biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiệu quả, đảm bảo
sự tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước và tổng sản phẩm quốc dân,
góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững.
Tóm lại, cơ cấu ngành và lĩnh vực kinh tế là nội dung cơ bản của cơ
cấu kinh tế. Chỉ số về tỷ lệ giữa các ngành nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế hàng hóa của một nước. Do đó,

nghiên cứu cơ cấu kinh tế của một nước, trước hết phải nghiên cứu cơ cấu
ngành và lĩnh vực kinh tế.
1.1.2.1.2. Cơ cấu theo vùng lãnh thổ: Phản ánh khả năng kết hợp, khai
thác tài nguyên, tiềm lực kinh tế - xã hội của các vùng phục vụ cho mục tiêu
phát triển kinh tế quốc dân thống nhất.
1.1.2.2. Phương diện thứ hai: Xét về mặt kinh tế - xã hội, cơ cấu kinh
tế bao gồm:
1.1.2.2.1. Cơ cấu theo các thành phần kinh tế: Phản ánh khả năng khai
thác năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh của mọi thành viên trong xã hội.

9


1.1.2.2.2. Cơ cấu theo trình độ phát triển của quan hệ hàng hóa – tiền
tệ: Phản ánh khả năng giải quyết mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa
các bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất.
1.1.3. Tính chất của cơ cấu kinh tế.
Để nhận thức đúng đắn xu hướng biến đổi khách quan của cơ cấu kinh
tế và vận dụng vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng giai đoạn phát
triển nhất định, cần lưu ý các tính chất sau đây của cơ cấu kinh tế.
1.1.3.1. Tính khách quan khoa học.
Nền kinh tế có sự phân công lao động, có các ngành, lĩnh vực kinh tế
và sự phát triển của lực lượng sản xuất nhất định sẽ hình thành một cơ cấu
kinh tế với tỷ lệ cân đối, tương xứng giữa các bộ phận. Tỷ lệ đó được thay
đổi thường xuyên và tự giác theo quá trình diễn biến khách quan của nhu
cầu xã hội và khả năng đáp ứng nhu cầu đó. K. Marx đã khẳng định: Trong
sự phân công lao động xã hội thì con số tỷ lệ là một tất yếu không sao tránh
khỏi, một sự tất yếu “thầm kín yên lặng”.
Cơ cấu kinh tế là biểu hiện tóm tắt, cô đọng nội dung chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của từng giai đoạn phát triển nhất định. Nhưng không

vì thế mà áp đặt chủ quan, tự đặt ra cho các ngành những tỷ lệ và vị trí trái
ngược với yêu cầu và xu thế phát triển của xã hội. Mọi sự áp đặt chủ quan,
nóng vội nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế theo ý muốn thường dẫn tai họa
không nhỏ, bởi vì sai lầm về cơ cấu kinh tế là sai lầm chiến lược, hậu quả
lâu dài và khó khắc phục.
1.1.3.2. Tính lịch sử xã hội.
Sự biến đổi của cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với sự thay đổi không
ngừng của lực lượng sản xuất và nhu cầu chính trị - xã hội. Cơ cấu kinh tế
được hình thành khi quan hệ giữa các bộ phận được xác lập một cách cân
đối và sự phân công lao động diễn ra một cách hợp lý.
Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất là xu hướng tất yếu.
Song, mối quan hệ giữa con người và con người, giữa con người với tự
nhiên trong quá trình tái sản xuất xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử, ở mỗi quốc
gia lại có dự khác nhau. Sự khác nhau đó bị chi phối bởi quan hệ sản xuất,
bởi các đặc trưng văn hóa – xã hội, bởi các yếu tố lịch sử của mỗi dân tộc…
Các nước có hình thái kinh tế - xã hội giống nhau cũng có sự khác nhau
10


trong việc hình thành cơ cấu kinh tế, bởi vì điều kiện kinh tế, xã hội và quan
điểm chiến lược mỗi nước khác nhau.
Như vậy, sự hình thành cơ cấu kinh tế chẳng những mang tính khách
quan khoa học, mà còn mang tính lịch sử xã hội. Tuy nhiên, các tính chất
này được thể hiện đầy đủ khi chủ thể quản lý là nhà nước có khả năng nắm
bắt các quy luật khách quan, đánh giá đúng nguồn lực trong nước và nước
ngoài có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình hình thành cơ
cấu kinh tế. Sự tác động này không mang tính áp đặt, duy ý chí, mà là sự tác
động tích cực, mang tính định hướng phát triển.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.

Cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của nhiều nhân tố, có nhân tố tích cực
thúc đẩy phát triển, song cũng có nhân tố kìm hãm, hạn chế sự phát triển
của cơ cấu kinh tế. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế được
chia thành hai nhóm là nhóm nhân tố trong nội bộ nền kinh tế và nhóm
nhân tố tác động từ bên ngoài.
1.1.4.1. Nhóm nhân tố trong nội bộ nền kinh tế.
1.1.4.1.1. Thị trường và nhu cầu tiêu dùng xã hội.
Thị trường và nhu cầu tiêu dùng xã hội là “người” đặt hàng cho tất cả
các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế. Nếu như xã hội
không có nhu cầu thì tất nhiên không có bất kỳ một quá trình sản xuất nào.
Cũng như vậy, không có thị trường thì không có kinh tế hàng hóa.
Thị trường và nhu cầu tiêu dùng xã hội không chỉ quy định về số
lượng mà cả về chất lượng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, nên nó tác động
trực tiếp đến quy mô, trình độ phát triển của các cơ sở kinh tế. Qua đó, tác
động đến xu hướng phát triển và phân công lao động xã hội, đến vị trí, tỷ
trọng của các ngành, lĩnh vực trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
1.1.4.1.2. Trình độ phát triển lực lượng lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là động lực phát triển của xã hội. Nhu cầu xã hội là
vô tận và mỗi ngày một cao. Muốn đáp ứng đầy đủ nhu cầu xã hội thì trước
hết phải phát triển lực lượng sản xuất.

11


Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu lao động và con người có khả
năng sử dụng tư liệu lao động để tác động vào đối tượng lao động, tạo ra
sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu xã hội.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ làm thay đổi quy mô sản xuất,
thay đổi công nghệ, thiết bị, hình thành các ngành nghề mới, biến đổi lao
động từ giản đơn thành lao động phức tạp, từ ngành này sang ngành khác.

Sự phát triển đó phá vỡ cân đối cũ, hình thành một cơ cấu kinh tế với vị trí,
tỷ trọng các ngành và lĩnh vực phù hợp hơn, thích ứng với yêu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Qúa trình đó diễn
ra một cách khách quan và từng bước tạo ra một sự cân đối hợp lý hơn, có
khả năng khai thác cao hơn nguồn lực trong nước và nước ngoài.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình
thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Lực lượng sản xuất phát triển không
ngừng nên cơ cấu kinh tế cũng luôn luôn thay đổi. Song sự biến đổi của cơ
cơ cấu kinh tế diễn ra chậm chạp, không mang tính đột biến như chính sách,
cơ chế quản lý.
1.1.4.1.3. Quan điểm chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước trong mỗi giai đoạn nhất định.
Cơ cấu kinh tế là biểu hiện tóm tắt nội dung, mục tiêu định hướng của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước tuy không trực tiếp sắp đặt
các ngành nghề, quy định các tỷ lệ của cơ cấu kinh tế, nhưng vẫn có sự tác
động gián tiếp bằng cách định hướng phát triển để thực hiện được mục tiêu
đáp ứng nhu cầu xã hội. Định hướng phát triển của Nhà nước không chỉ
nhằm khuyến khích mọi lực lượng sản xuất xã hội đạt được mục tiêu đề ra,
mà còn đưa ra các dự án thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia, nếu
không đạt được mục tiêu thì nhà nước phải trực tiếp tổ chức sản xuất, bảo
đảm sự cân đối giữa các sản phẩm, các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế.
Mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là định hướng chung
cho mọi thành phần kinh tế, mọi doanh nghiệp trong cả nước phấn đấu thực
hiện dưới sự điều tiết của nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và các quy
định, thể chế, chính sách của nhà nước. Sự điều tiết của nhà nước gián tiếp
dẫn dắt các ngành, lĩnh vực và thành phần kinh tế phát triển, bảo đảm tính
cân đối, đồng bộ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế.

12



1.1.4.1.4. Cơ chế quản lý kinh tế.
Hoạt động của nền kinh tế cần có sự điều tiết của nhà nước. Song,
không phải nhà nước can thiệp trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh
của các đơn vị kinh tế. Nhà nước điều hành thông qua hệ thống pháp luật và
các chính sách kinh tế.
Những sản phẩm, ngành nào cần phát triển thì nhà nước có những
chính sách khuyến khích như giảm thuế hoặc quy định thuế suất thấp để
người sản xuất có lợi nhuận cao. Ngược lại, những ngành hàng cần hạn chế
thì đánh thuế cao, người sản xuất thu được lợi nhuận ít, họ sẽ hạn chế đầu
tư phát triển. Đối với những lĩnh vực ít ai muốn đầu tư nhưng sản phẩm của
nó rất cần cho xã hội thì nhà nước tự đầu tư, tự tổ chức sản xuất.
Nhà nước cũng có thể khuyến khích lao động chuyển đến những nơi
có tài nguyên, có nhu cầu lao động thông qua các chính sách kinh tế - xã hội.
Ngược lại, muốn hạn chế việc di dân ồ ạt vào các đô thị lớn thì phải đầu tư
phát triển các thị trấn, thị tứ, thị xã để người lao động có cơ hội tìm kiếm
việc làm, có điều kiện sinh hoạt vật chất, tinh thần giống như người dân ở
các đô thị lớn.
Sự tác động của cơ chế quản lý góp phần quan trọng trong việc hình
hình cơ cấu sản xuất, cơ cấu dân cư, tạo cân đối lực lượng lao động và thu
nhập giữa các vùng, giảm bớt khoảng cách giữa thành thị với nông thôn.
1.1.4.2. Nhóm nhân tố tác động từ bên ngoài: xu thế chính trị, xã hội
và kinh tế của khu vực và thế giới.
Trong xu thế quốc tế hóa lực lượng sản xuất và thời đại bùng nổ
thông tin, cùng với thành tựu của khoa học kỹ thuật cho phép các nhà sản
xuất kinh doanh có khả năng nhanh chóng nắm bắt thông tin, hiểu được thị
trường và đối tác mà mình muốn hợp tác. Từ đó triển khai sự hợp tác đan
xen nhau, khai thác thế mạnh của nhau, cùng phân chia lợi nhuận và hai bên
cùng có lợi.
Ngày nay, một sản phẩm hàng hóa thường có sự tham gia của nhiều

doanh nghiệp trong cùng một nước hoặc nhiều nước trong khu vực và thế
giới. Đối với các quốc gia, nhất là các nước thực hiện chiến lược hướng về
xuất khẩu, thì yếu tố này trở thành không thể thiếu được trong quá trình
hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

13


Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển có điều
kiện tranh thủ kỹ thuật, công nghệ và vốn đầu tư nước ngoài để khai thác,
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước để phát triển kinh tế.
1.1.5. Các tiêu chí đánh giá cơ cấu kinh tế hợp lý.
Cơ cấu kinh tế hợp lý là cơ cấu có khả năng tạo ra quá trình tái sản
xuất mở rộng. Cơ cấu kinh tế được xem là hợp lý khi đáp ứng được các tiêu
chí sau:
- Cơ cấu kinh tế phải phù hợp với các quy luật khách quan.
- Cơ cấu kinh tế phản ánh được khả năng khai thác nguồn lực kinh tế
trong nước và đáp ứng được yêu cầu hội nhập với khu vực và quốc tế nhằm
tạo ra sự cân đối, phát triển bền vững.
- Cơ cấu kinh tế phải phù hợp với xu thế kinh tế, chính trị của khu vực
và thế giới.
Những tiêu chí trên tuy mang tính định tính, nhưng có khả năng phản
ánh đầy đủ tính chất của cơ cấu kinh tế.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.2.1. Những quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tuy cơ cấu kinh tế là thể hiện của nội dung, mục tiêu chiến lược kinh
tế - xã hội, song nó không phải là sản phẩm chủ quan. Cơ cấu kinh tế luôn
vận động theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và nhu cầu xã hội.
Sự vận động của cơ cấu kinh tế diễn ra thường xuyên trong một quá trình từ
thấp lên cao, từ nhỏ đến lớn và rất chậm chạp.

Cơ cấu kinh tế luôn vận động, nhưng là sự vận động trong mối quan hệ
cân đối, ổn định. Các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế luôn biến đổi phá vỡ
cân đối và nó lại điều chỉnh để tạo ra cân đối và sự ổn định mới.
Từ những nhận thức trên, chúng ta có thể nêu lên những quan điểm về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế như sau:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo sự ổn định, tạo ra sự cân
đối trong phát triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của xã hội.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm khai thác tốt hơn tiềm lực kinh tế,
tài nguyên, lao động, kỹ thuật hiện có trong vùng, trong nước, nhanh chóng
thích ứng với nhu cầu hội nhập và mở rộng hợp tác quốc tế.
14


- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải nhằm duy trì có hiệu quả nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, tạo điều kiện huy động tối đa sự đóng góp của
mọi thành viên trong xã hội vào quá trình phát triển nền kinh tế đất nước.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo triển khai thành công quá
trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
1.2.2.1. Quan niệm về công nghiệp hóa - hiện đại hoá.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một khái niệm mới, phản ánh một
quá trình duy nhất và mang tính tổ hợp, được phát triển từ khái niệm công
nghiệp hóa dưới tác động của các điều kiện phát triển hiện đại. Vì vậy, để
hiểu rõ thực chất của khái niệm đó, cần bắt đầu bằng việc tìm hiểu quan
niệm về công nghiệp hóa.
Công nghiệp hóa là quá trình cải biến nền kinh tế nông nghịêp dựa trên
nền tảng kỹ thuật thủ công, mang tính hiện vật, tự cấp - tự túc thành nền
kinh tế công nghiệp - thị trường. Đây cũng là quá trình xây dựng xây dựng
một xã hội văn minh công nghiệp; cải biến kỹ thuật, tạo dựng nền công
nghiệp lớn và phát triển kinh tế thị trường – là hai mặt của một quá trình

công nghiệp hóa duy nhất.
Trong giai đoạn hiện nay, toàn cầu hóa và sự phát triển kinh tế tri thức
là hai xu hướng làm thay đổi mạnh mẽ lôgích của tiến trình công nghiệp
hóa đương đại. Sự kết hợp hai xu hướng này đòi hỏi các nước đi sau phải
đồng thời thực hiện cả hai quá trình: vừa xây dựng nền đại công nghiệp (nội
dung của quá trình công nghiệp hóa “cổ điển”), vừa phát triển nay nền kinh
tế tri thức trong bối cảnh hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đối với các
nước đi trước, đây là hai quá trình tuần tự, tách biệt. Nhưng đối với các
nước đi sau, đây là hai nội dung của một quá trình duy nhất, diễn ra và phải
được thực hiện đồng thời.
Với sự thay đổi như vậy, quan niệm truyền thống về công nghiệp hóa
tuy vẫn đúng, song nội dung đã không còn đầy đủ. Trong thời đại ngày nay,
công nghiệp hóa không chỉ gắn với mục tiêu, giải pháp truyền thống mà
phải có mục đích và giải pháp hiện đại. Theo nghĩa đó, công nghiệp hóa
cũng chính là và phải là quá trình hiện đại hóa (hiện đại hiểu theo nghĩa
trình độ của thời đại hiện nay). Khái niệm công nghiệp hóa - hiện đại hóa,
15


vì vậy, được hiểu là quá trình công nghiệp hóa với các mục tiêu và giải
pháp phù hợp với điều kiện và xu hướng phát triển hiện đại.
Trong thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hóa nền kinh tế, cần đặc
biệt quan tâm đến công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Về nguyên tắc, công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn
không phải là một quá trình độc lập, riêng biệt. Nó là một nội dung, một bộ
phận hữu cơ của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế. Nó
chịu tác động của quá trình tổng thể này, đồng thời tác động ngược trở lại
đối với quá trình tổng thể. Mức độ tác động lẫn nhau giữa hai quá trình này
thay đổi cùng với các bước tiến của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại
hóa, với sự thay đổi vị thế của khu vực nông thôn trong tiến trình công

nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế.
1.2.2.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa - hiện đại hóa.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong ba nội dung cơ bản của tiến
trình công nghiệp hoá – hiện đại hóa (xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động). Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, có nghĩa xem xét cơ cấu kinh tế ở trạng thái động có định
hướng. Nó là quá trình làm thay đổi cấu trúc, tỷ trọng, tốc độ và chất lượng
các mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế
nhằm đạt tới một cơ cấu hợp lý hơn, tạo thế và lực mới cho tăng trưởng và
phát triển kinh tế - xã hội.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa phải tuân theo các quy luật sau:
1.2.2.2.1. Chuyển dịch từ nền kinh tế tự cấp, tự túc sang nền kinh tế
hàng hóa; từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ngày
càng sâu sắc tất yếu sẽ phá bỏ thế tự cấp tự túc, chuyển sang sản xuất hàng
hóa. Quá trình đó cũng làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch từ sản xuất nông
nghiệp là chính với mối liên kết lỏng lẻo, yếu ớt với ngành công nghiệp sang
một nền kinh tế có cơ cấu phát triển đồng đều và gắn bó chặt chẽ các ngành
và lĩnh vực kinh tế trên cơ sở phân công lao động ngày càng sâu sắc.

16


Xu hướng chuyển dịch từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở là xu
hướng tất yếu, xu thế chung của thời đại. Ngày nay, không một quốc gia nào
có đầy đủ các nguồn lực để tự mình có thể tự mình xây dựng một nền kinh tế
hoàn chỉnh, phát triển bền vững. Do đó, mỗi nước đều phải mở rộng quan hệ
đối ngoại trong sự tác động của xu thế quốc tế hóa lực lượng sản xuất.
1.2.2.2.2. Chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ

trọng công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế.
Cùng với phát triển kinh tế hàng hóa, tiến bộ của khoa học - công nghệ,
nhu cầu tiêu dùng xã hội tăng lên và xu thế quốc tế hóa lực lượng sản xuất
đã thúc đẩy nền kinh tế các nước phát triển và nhiều ngành công nghiệp
mới ra đời, nhiều trung tâm công nghiệp và đô thị được hình thành.
Vì vậy, cơ cấu kinh tế có xu hướng chuyển dịch từ nền kinh tế nông
nghiệp là chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn sang phát triển công nghiệp và dịch
vụ. Trong đó:
- Tỷ trong ngành nông nghiệp giảm dần trong tổng giá trị sản lượng
trong nước (GDP). Còn tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng dần,
trong đó tỷ trọng dịch vụ tăng nhanh hơn công nghiệp.
- GDP của cả ba ngành đều tăng lên qua các năm.
- Nội bộ các ngành, các lĩnh vực kinh tế cũng có sự biến đổi về cơ cấu,
quy mô, trình độ công nghệ với chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế
ngày càng cao. Cơ cấu dân cư có xu hướng chuyển từ đại bộ phận sống ở
nông thôn sang thành thị.
1.2.2.2.3. Nói chung, xã hội ngày càng hướng đến những ngành sản
xuất sử dụng công nghệ cao với hàm lượng lao động trí tuệ chiếm ưu thế.
Điều đó có nghĩa nền kinh tế chuyển dịch đi từ nền kinh tế nông nghiệp lên
nền kinh tế công nghiệp và sau nữa là nền kinh tế tri thức.
1.3. Tài chính và vai trò của tài chính trong nền kinh tế.
Tài chính ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử
nhất định, khi mà ở đó có sự xuất hiện của nền kinh tế hàng hóa và nhà nước.
Cùng với sự phát triển của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ và sự phát triển của
nhà nước, tài chính cũng đã phát triển từ thấp đến cao, các quan hệ tài chính
ngày càng phát triển đa dạng, biểu hiện dưới nhiều hình thức và bắt rễ sâu
rộng trong đời sống kinh tế, xã hội. Nhà nước bằng chính sách, cơ chế, luật
pháp luôn luôn tác động, thúc đẩy kinh tế hàng hóa - tiền tệ phát triển, tác
17



động tới sự vận động độc lập của tiền tệ và tạo môi trường thuận lợi cho sự
hình thành và sử dụng các qũy tiền tệ của các chủ thể trong xã hội. Trong
những điều kiện đó, các quan hệ tài chính nảy sinh, tồn tại, phát triển và cũng
chính vì vậy, người ta cho rằng sự tồn tại của nền sản xuất hàng hóa - tiền tệ
và nhà nước là những tiền đề phát sinh và phát triển của tài chính.
1.3.1. Nguồn, bản chất của tài chính.
Trong quá trình tuần hoàn của nền kinh tế luôn diễn ra sự chuyển dịch
các luồng giá trị đại diện cho các nguồn tài chính, do đó tạo ra mối quan hệ
kinh tế dưới hình thái giá trị ở lĩnh vực phân phối của cải xã hội. Nhìn trên
bề mặt của các hiện tượng xã hội, tài chính được coi như là sự vận động của
các nguồn lực tài chính, là sự vận động của vốn tiền tệ và là những qũy tiền
tệ của những chủ thể trong xã hội. Sự biểu hiện bề ngoài của tài chính liên
quan đến ba khu vực cơ bản: nhà nước, doanh nghiệp và dân cư. Nguồn tài
chính còn được luân chuyển theo nhiều kênh trong nền kinh tế, bao gồm giá
trị của cải xã hội, tài sản quốc gia, tổng sản phẩm quốc dân ở cả dưới dạng
vật chất tiềm năng có khả năng tiền tệ hóa. Các nguồn tài chính hình thành,
vận động xoay quanh thị trường tài chính để tạo lập các qũy tiền tệ và sử
dụng chúng theo mục đích của các chủ thể. Như vậy, có thể thấy gắn liền
với các hiện tượng bề mặt của tài chính là sự xuất hiện, vận động của tiền tệ,
sự xuất hiện và vận động của các nguồn lực tài chính.
Nguồn tài chính là một yếu tố cơ bản trong khái niệm tài chính. Sự vận
động của các nguồn tài chính phản ánh sự vận động của những lượng giá trị
nhất định, phản ánh những bộ phận khác nhau của của cải xã hội. Nguồn tài
chính quốc gia tồn tại dưới hai hình thức:
- Thứ nhất, là dạng tiền tệ thực tế đang vận động trong các luồng giá
trị của chu trình tuần hoàn kinh tế thị trường. Đây chính là các khoản thu
nhập bằng tiền của các pháp nhân và thể nhân trong các ngành sản xuất
kinh doanh, dịch vụ và là bộ phận chủ yếu của các nguồn tài chính.
- Thứ hai, là dạng hiện vật nhưng có khả năng tiền tệ hóa. Khi có tác

động của ngoại lực thì nó có thể trở thành nguồn tiền tệ chảy vào các kênh
tài chính trong chu trình tuần hoàn kinh tế thị trường, làm bành trướng thêm
các tụ điểm tài chính.
Nguồn tài chính không những được tạo ra trong nội bộ nền kinh tế
quốc dân mà còn được huy động cả từ nước ngoài vào. Quan niệm về
18


nguồn tài chính rộng như vậy giúp chúng ta tìm kiếm các biện pháp để khai
thác các nguồn tài chính tiềm năng trong nước tham gia vào chu trình tuần
hoàn của nền kinh tế.
Trong điều kiện tồn tại và phát triển của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ,
nguồn tài chính tạo lập ra trước hết được phân phối dưới hình thái giá trị và
biểu hiện ở quá trình tạo lập, sử dụng các qũy tiền tệ. Sự tạo lập và sử dụng
các qũy tiền tệ cho mục đích tích lũy và tiêu dùng phản ánh kết quả của các
quá trình phân phối. Trong quá trình đó phát sinh hàng loạt các quan hệ
kinh tế dưới hình thái giá trị dựa vào sự vận động độc lập tương đối của
đồng tiền trong phân phối các nguồn tài chính. Tổng thể các quan hệ kinh tế
đó trong xã hội đã tạo nên bản chất kinh tế của tài chính.
Như vậy, về bản chất, tài chính phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế
phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính bằng việc hình
thành và sử dụng các qũy tiền tệ nhằm đáp ứng nhu cầu tích lũy hoặc tiều
dùng của các chủ thể trong xã hội.
1.3.2. Chức năng của tài chính.
Nói đến tài chính là nói đến khả năng khách quan phát huy tác dụng xã
hội của nó. Trong đời sống xã hội, tài chính vốn có hai chức năng: phân
phối và giám đốc.
1.3.2.1. Chức năng phân phối.
Phân phối của tài chính là sự phân chia các nguồn tài chính mà chủ
yếu là tổng sản phẩm quốc dân theo những tỷ lệ và xu hướng nhất định cho

tiết kiệm và tiêu dùng nhằm tích tụ, tập trung vốn để đầu tư phát triển kinh
tế và thỏa mãn các nhu cầu chung của nhà nước, xã hội và dân cư. Nhờ vào
chức năng phân phối mà các nguồn tài chính đại diện cho những bộ phận
của cải xã hội được bố trí thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.
Đối tượng phân phối của tài chính là các nguồn tài chính, chủ yếu là
tổng sản phẩm quốc dân. Quá trình phân phối của tài chính chỉ diễn ra dưới
hình thức giá trị và liền với việc hình thành, sử dụng các qũy tiền tệ trong
nền kinh tế.
Phân phối của tài chính bao gồm phân phối lần đầu và phân phối lại.
Phân phối lần đầu là sự phân phối tiến hành trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, dịch vụ cho những chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra của cải
vật chất hay thực hiện các dịch vụ, hình thành những phần thu nhập cơ bản
19


của các chủ thể và hình thành các khoản thu cho các qũy tiền tệ. Phân phối
lại là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản hình thành trong phân
phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội để đáp ứng nhu cầu tích lũy và tiêu
dùng của các chủ thể trong xã hội.
Khi vận dụng chức năng phân phối của tài chính vào thực tiễn để phân
phối các nguồn tài chính đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:
- Trước hết, phân phối của tài chính phải xác định quy mô, tỷ trọng
của đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân phù hợp với khả năng và sự tăng
trưởng kinh tế ở mỗi thời kỳ nhất định.
- Phân phối phải đảm bảo giải quyết mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư
và tiêu dùng.
- Phân phối phải giải quyết thỏa đáng các quan hệ về lợi ích kinh tế
của những chủ thể tham gia.
1.3.2.2. Chức năng giám đốc.
Chức năng giám đốc của tài chính bắt nguồn từ sự cần thiết khách

quan phải theo dõi, kiểm soát tiến trình thực hiện các quan hệ tài chính
trong phân phối các nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng các qũy tiền tệ
trong nền kinh tế quốc dân.
Chức năng giám đốc của tài chính được thực hiện dựa vào sự vận động
của tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân để kiểm tra việc phân phối các nguồn
tài chính và tạo lập, sử dụng các qũy tiền tệ. Giám đốc của tài chính là loại
giám đốc bằng đồng tiền thông qua các chỉ tiêu tài chính, các chỉ tiêu về tạo
lập, phân phối, sử dụng các qũy tiền tệ và giám đốc các qũy hiện vật, lao
động - các yếu tố hình thành nên kết quả kinh tế.
Ở đâu có sự vận động của tiền tệ thuộc phạm trù tài chính thì ở đó có
giám đốc tài chính. Giám đốc tài chính nhằm mục đích thúc đẩy phân phối các
nguồn tài chính trong xã hội cân đối và hợp lý, phù hợp với các quy luật kinh
tế và đòi hỏi của xã hội; thúc đẩy việc tạo lập và sử dụng các qũy tiền tệ theo
mục tiêu đã định với hiệu quả cao; thúc đẩy chấp hành tốt pháp luật tài chính.
Chức năng giám đốc của tài chính có hai khía cạnh. Thứ nhất là thực hiện
kiểm tra các mặt hoạt động tài chính - mặt kiểm tra, kiểm soát tài chính thuần
túy, thông qua đó để nắm được một cách tổng quát kết quả thực tế của hoạt
động tài chính cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả trong một thời
gian nhất định. Thứ hai là trên cơ sở kết quả kiểm tra cho phép đề ra những
20


biện pháp cải tiến các hoạt động tài chính trong thời gian tiếp theo và như vậy
sẽ tạo tiền đề cho quá trình phân phối sau diễn ra tốt hơn.
Chức năng giám đốc của tài chính không phải là một sắc luật hay một
pháp lệnh được ấn định từ trên xuống và phải thực hiện, tức không xuất phát
từ ý thức chủ quan của con người. Đây là chức năng vốn có, tồn tại trong
phạm trù tài chính và phát huy tác dụng khi con người vận dụng vào thực tiễn.
1.3.3. Hệ thống tài chính.
Nói đến hệ thống tài chính là nói đến các bộ phận hợp thành của nhiều

lĩnh vực hoạt động tài chính dưới những hình thức nhất định, có cùng chức
năng và tác động lẫn nhau trong toàn bộ hoạt động của nền tài chính. Với ý
nghĩa đó, hệ thống tài chính được hiểu là tổng thể các hình thức thể hiện các
bộ phận hợp thành tài chính gắn liền với các qũy tiền tệ đặc trưng.
Là một bộ phận của hệ thống tài chính, mỗi khâu tài chính phải thỏa
mãn các điều kiện: gắn với sự vận động của các luồng tiền tệ để hình thành
các tụ điểm tài chính và luôn gắn với sự hình thành, sử dụng các qũy tiền tệ
tương ứng; thể hiện tính đồng nhất về hình thức các quan hệ tài chính và
tính mục đích của qũy tiền tệ trong những lĩnh vực hoạt động; gắn với sự
hoạt động của các chủ thể phân phối, điều hành, tổ chức quản lý nhất định.
Cấu thành hệ thống tài chính trong cơ chế thị trường ở Việt Nam bao
gồm các khâu: tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính hộ gia
đình và các tổ chức xã hội.
1.3.4. Vai trò của tài chính trong nền kinh tế thị trường.
Vai trò của tài chính trong nền kinh tế thị trường thể hiện trên các mặt:
1.3.4.1. Tài chính - công cụ phân phối tổng sản phẩm quốc dân.
Vai trò này bắt nguồn từ bản chất, chức năng của tài chính và được con
người vận dụng vào thực hiện các quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân.
Là công cụ phân phối, tài chính thực hiện phân bổ vốn đầu tư vào các
lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích, vào các ngành kinh tế trọng điểm, vào
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nhằm tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, kích
thích và thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế.
Đối với khu vực doanh nghiệp, thông qua cơ chế phân phối nguồn tài
chính do doanh nghiệp tạo ra, tài chính là công cụ kích thích tiết kiệm, kích

21


thích đầu tư và tái đầu tư nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp.

Phân phối tổng sản phẩm quốc dân, đòi hỏi công cụ tài chính phải góp
phần xác lập, hình thành và giải quyết thỏa đáng các mối quan hệ cân đối
giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng; các mối quan hệ cân đối trong nền kinh
tế quốc dân cũng như trong từng khâu riêng biệt của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, quá trình phân phối thu nhập diễn ra giữa
các thành phần kinh tế, giữa các tầng lớp dân cư. Vì vậy, thông qua các
quan hệ phân phối, tài chính được sử dụng như một công cụ quan trọng điều
tiết thu nhập của các chủ thể kinh tế và dân cư theo chính sách của nhà
nước, nhằm góp phần thực hiện nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong lĩnh
vực phân phối thu nhập.
1.3.4.1. Tài chính - công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động quản lý kinh tế của nhà
nước thực hiện thông qua luật pháp, chính sách, cơ chế và các công cụ kinh
tế. Đối với lĩnh vực tài chính, nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt
động tài chính của các chủ thể kinh tế mà sử dụng tài chính thông qua hệ
thống luật pháp, chính sách và công cụ tài chính để quản lý nền kinh tế vĩ
mô. Vai trò quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội của tài chính thể hiện
trong việc định hướng, khuyến khích, hướng dẫn và điều tiết các quan hệ
kinh tế phát triển theo đường lối, chính sách, luật pháp của nhà nước, theo
hướng có lợi cho nền kinh tế quốc dân.
Vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của tài chính nhà được nước thể chế
hóa bằng hệ thống luật tài chính và các luật kinh tế có liên quan như luật
ngân sách nhà nước, các sắc luật về thuế, luật công ty, luật doanh nghiệp…
Trong thực tế, để chuyển toàn bộ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi nhà nước phải xây dựng luật tài
chính hoàn chỉnh, có cơ sở khoa học thì mới có tác dụng hiệu quả trong
quản lý vĩ mô và vi mô trong lĩnh vực tài chính.
Chuyển sang cơ chế thị trường, nhà nước phải có chính sách tài chính
quốc gia phù hợp để thực hiện các mục tiêu, chiến lược kinh tế - xã hội của đất
nước, để định hướng, điều chỉnh các hoạt động tài chính. Nội dung quan trọng

của chính sách tài chính nước ta hiện nay là chính sách tạo vốn, chính sách sử
dụng vốn, chính sách tiền tệ, chính sách điều tiết thu nhập. Trong giai đoạn
hiện nay, chính sách tài chính quốc gia bao quát các nội dung chủ yếu sau:
22


- Sử dụng các công cụ tài chính vào việc khai thác các nguồn vốn và
mọi tiềm năng về vốn ở trong nước và từ nước ngoài phục vụ cho đầu tư
phát triển kinh tế.
- Sử dụng các công cụ tài chính nhằm kích thích hoạt động kinh doanh
có hiệu quả của các thành phần kinh tế.
- Điều chỉnh cơ cấu chi ngân sách của chính phủ cho các mục đích
kinh tế và xã hội trong điều kiện kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
- Sử dụng mạnh mẽ các công cụ tài chính trung gian để khơi dạy các
nguồn vốn đáp ứng cho yêu cầu đầu tư, kinh doanh của khu vực kinh tế.
Trong quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tài chính có vai trò đặc biệt
quan trọng, trong đó cần nhấn mạnh đến ngân sách nhà nước và các khâu tài
chính trung gian mà biểu hiện cụ thể thông qua việc vận dụng các công cụ tài
chính như thuế, các khoản chi ngân sách nhà nước, cơ chế tài trợ và hỗ trợ vốn
từ ngân sách nhà nước, lãi suất, tỷ giá hối đoái, công cụ thị trường mở…
Như vậy, sự tác động của tài chính và phát huy vai trò của tài chính
trong quản lý, điều tiết vĩ mô đòi hỏi phải xác lập một cơ chế quản lý tài
chính thích hợp, trong đó vận dụng sự đan xen các yếu tố pháp luật, chính
sách, các công cụ tài chính.
1.4. Bài học rút ra từ kinh nghiệm lựa chọn chính sách tài chính của
các nước trong tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
Trước hết, cần khẳng định, chính sách công nghiệp hóa - hiện đại hóa
của các nước trên thế giới, thậm chí của các nước trong cùng một khu vực
là không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, đó đều là những chính sách

được thực tế kiểm nghiệm và thường xuyên có khả năng bị loại bỏ nhanh
chóng nếu không đem lại kết quả thiết thực.
Kinh nghiệm của các nước đi trước là những bài học vô giá cho những
nước đi sau. Ngày nay, điều kiện quốc tế đã thay đổi, môi trường bên trong
và bên ngoài không cho phép một quốc gia nào lặp lại con đường đi của các
nước khác, nhưng kinh nghiệm vẫn mãi mãi là vô giá.
Qua nghiên cứu chính sách công nghiệp hóa của các quốc gia, đặc biệt
là các quốc gia Châu Á có thể nhận rút ra các kinh nghiệm trong thực hiện
công nghiệp hoá - hiện đại hóa nước ta:

23


1.4.1. Phải lựa chọn được một số ngành cần chú trọng phát triển trong
một thời gian nhất định và thực hiện ưu đãi đối với chúng. Nhìn chung, sự
phát triển công nghiệp thường bắt đầu từ những ngành sử dụng nhiều lao động
tiến tới những ngành sử dụng nhiều vốn hoặc kỹ thuật, từ lĩnh vực có giá trị
gia tăng thấp đến lĩnh vực có giá trị gia tăng cao. Lựa chọn đầu tiên thường là
ngành sản xuất hàng thay thế nhập khẩu để tiết kiệm ngoại tệ, tiếp theo là các
ngành hàng sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động để thu ngoại tệ,
sau đó là các ngành công nghiệp nặng để cung cấp nguyên liệu, thiết bị cho
công nghiệp trong nước, bước tiếp theo là các ngành xuất khẩu sử dụng nhiều
vốn và kỹ thuật, cuối cùng là ngành hàng xuất khẩu kỹ thuật mũi nhọn. Chính
phủ đóng vai trò lựa chọn các ngành cần phát triển và áp dụng các biện pháp
khuyến khích các ngành đó phát triển, nhất là đối với khu vực tư nhân.
1.4.2. Những ưu đãi về tài chính đóng vai trò quan trọng. Trong tiến
trình công nghiệp hóa, Chính phủ dần dần chuyển từ những ưu đãi về thuế
và tín dụng sang tác động vào công nghiệp bằng những nhận định về tương
lai phát triển các ngành công nghiệp và cung cấp thông tin về xu hướng cơ
cấu công nghiệp, thay đổi trong quan hệ quốc tế và triển khai định hướng

cho các doanh nghiệp. Các kế hoạch phát triển kinh tế trung hạn (4-6 năm)
và các định hướng dài hạn có vai trò chiến lược quan trọng. Chính phủ nắm
chắc cơ chế thị trường, điều hành kinh tế vĩ mô bằng những chính sách
mềm dẻo, linh hoạt, tạo ra môi trường ổn định.
1.4.3. Cần có sự hỗ trợ trong R&D. Bước đầu nhằm thu hút kỹ thuật
nước ngoài có thể sử dụng các biện pháp thuế và thuế xuất nhập khẩu, tiếp
theo tự tổ chức R&D - thời gian khoảng 20 năm.
1.4.4. Cần chú trọng đầu tư cho giáo dục nâng cao trình độ học vấn cho
người lao động - yếu tố cơ bản để tăng năng suất lao động. 1/3 thanh niên
Hàn Quốc theo học đại học, 85% trong độ tuổi học trung học (tỷ lệ này ở
Anh là 46%, Pháp là 75%). Số người tốt nghiệp đại học tính trên 10.000
dân ở Hàn Quốc là 35, ở Nhật là 240.
1.4.5. Sự dung hợp giữa khu vực nhà nước và tư nhân rất quan trọng
nhưng cũng rất phức tạp. Chương trình tư nhân hóa không những giúp tiết
kiệm chi ngân sách mà còn tăng thêm nguồn lực tài chính cho Chính phủ
nhờ cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, cổ phần hóa góp
phần tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài vào khu vực kinh tế tư nhân.
24


×