Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỷ năng sống cho trẻ 4 5 trường mầm non hoằng cát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.86 KB, 14 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, trẻ em là niềm hạnh phúc và là sự tự hào lớn của
mỗi gia đình, là chủ nhân tương lai của đất nước, là nền tảng vững chắc cho xã
hội Việt Nam mà Việt Nam là một nước đang trên đà phát triển và hội nhập với
các nước tiên tiến, phát triển toàn cầu. Đặc biệt là nền giáo dục, bởi: “Giáo dục
là quốc sách hàng đầu”. Bác Hồ nói: “Không có giáo dục thì không nói gì đến
kinh tế văn hóa”. Trẻ em là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị cuộc
sống để phát triển nhân cách, do đó cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Theo tổ chức Y tế Thế giới WHO định nghĩa kỹ năng sống là “khả năng
thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu
quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hằng ngày”
Nên việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ngay từ khi còn học mầm non là
vô cùng cần thiết và quan trọng nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn
diện cho trẻ sau này.
Hiện nay, trong trường mầm non tuy đã được tổ chức thực hiện nhưng vấn
đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ chưa được thực sự quan tâm, chưa thực sự
đồng bộ, có không ít giáo viên chưa hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ ở lứa
tuổi mầm non những kỹ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế
hoạch, định hướng chung để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Mặt
khác, với yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới hình thức phương
pháp dạy học, giáo viên thường lãng quên các trò chơi dân gian, các hoạt động
mang tính tập thể lành mạnh, thậm chí không có thời gian cho trẻ vui chơi.
Chính vì vậy, là một giáo viên mầm non tôi thiết nghĩ, chúng ta cần thực
hiện nghiêm túc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ngay từ tuổi mầm non. Bởi vì, ở
lứa tuổi này trẻ đã hình thành những hành vi cá nhân, tính cách và nhân cách.
Việc làm quen với các môn học về kỹ năng sống như: Giao tiếp, làm việc theo
nhóm, giải quyết các vấn đề liên quan trong cuộc sống sẽ giúp trẻ tự tin, chủ
động và biết xử lý mọi tình huống trong cuộc sống và điều quan trọng hơn là
khơi gợi những khả năng tư duy sáng tạo biết phát huy thế mạnh của mình. Giáo
dục trẻ tự tin khẳng định bản thân, rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình


huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm, rèn
luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao
thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác. Nếu chúng ta làm tốt việc giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ chính là giúp trẻ trở thành con người mới, năng động,
sáng tạo trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa.
Năm học 2016-2017 tôi được phân công dạy lớp mẫu giáo 4- 5 tuổi A và
kết hợp với nhận thức của bản thân về tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ có ý nghĩa hết sức quan trọng như vậy nên tôi đã mạnh dạn chọn đề
tài: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 45 tuổi trường mầm non Hoằng Cát, huyện Hoằng Hóa” làm sáng kiến kinh
nghiệm.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1


Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
để đề xuất áp dụng một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ 4- 5 tuổi ở trường Mầm non Hoằng cát, huyện Hoằng Hóa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 45 tuổi.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp điều tra thực trạng.
- Phương pháp quan sát, thống kê.
- Phương pháp dùng tình cảm, trò chuyện, đánh giá.
- Phương pháp tuyên truyền với phụ huynh.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Đề xuất biện pháp cải tiến nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ gồm:
- Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua chế độ sinh hoạt hằng ngày.

- Giáo dục kỹ năng sống thông qua việc phối kết hợp với cha mẹ học sinh,
nhà trường.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
Giáo dục kỹ năng sống là một phần quan trọng trong chương trình chăm
sóc, giáo dục trẻ mầm non mà kỹ năng sống chính là phương tiện không thể
thiếu để giúp trẻ tăng năng lực hội nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, mạnh dạn,
tự tin, vững vàng trong mọi mọi hoạt động.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 4- 5 tuổi nói riêng “Kỹ năng sống”
là “Điểm khởi đầu” của quá trình hình thành nhân cách con người thì việc giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ là quan trọng và rất cần thiết. Bởi trẻ đang chập chững
bước những bước đi đầu tiên vào đời, đang từng bước “Học làm người”. Nếu
các kỹ năng sớm được hình thành thì trẻ sẽ có nhân cách phát triển toàn diện và
bền vững. Có nhiều công trình khoa học đã chứng minh rằng: Giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ từ lúc đầu đời là chìa khoá thành công cho tương lai của mỗi đứa
trẻ.
Tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiều giáo viên, phụ huynh chưa nhận thức rõ
ràng về việc dạy kỹ năng sống cho trẻ. Trên thực tế có rất nhiều trẻ thiếu kỹ
năng sống: Trẻ sống thụ động, không biết ứng phó trong những hoàn cảnh nguy
cấp, không biết cách tự chăm sóc, tự bảo vệ bản thân trước nguy hiểm, luôn tìm
kiếm sự giúp đỡ của người lớn….
Trí nhớ của trẻ mầm non là trực quan hình tượng. Sở dĩ trẻ nhớ được là
do trẻ đã được trải nghiệm, được nhìn thấy. Chính vì vậy, giáo viên nói riêng và
người lớn nói chung luôn phải gương mẫu, dạy cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi nhằm
hình thành cho trẻ những kỹ năng sống ban đầu, đó là: Trẻ biết cách chăm sóc
bảo vệ bản thân; Tạo sự tự tin cho trẻ; Tạo cho trẻ môi trường giao tiếp; Luôn
2


gây sự tò mò cho trẻ; Trẻ biết cách hợp tác trong mọi hoạt động. Từ những cơ sở

lý luận trên, tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “ Một số biện pháp nâng cao chất
lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4- 5 tuổi trường mầm non xã Hoằng
Cát, huyện Hoằng Hóa”.
2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Như chúng ta đã biết, giáo dục kỹ năng sống đang là nhu cầu cấp thiết đối
với thế hệ trẻ và đối với trẻ mầm non. Giáo dục kỹ năng sống nhằm cung cấp
vốn kiến thức thiết thực để giúp trẻ ứng phó với những tình huống và hành động
cho trẻ hôm nay và vững bước trong tương lai. Ở mỗi lứa tuổi, mỗi thời kỳ, trẻ
có những đặc điểm tăng trưởng và phát triển khác biệt mang tính chất phức tạp
riêng của nó. Quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở
lớp tôi gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
2. 2. 1. Thuận lợi:
- Trường mầm non Hoằng Cát- nơi tôi công tác đã được công nhận là
trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I.
- Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm của phòng giáo dục huyện
Hoằng Hóa, hàng năm tổ chức chuyên đề, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho
cán bộ và giáo viên.
- Ban giám hiệu nhà trường luôn chỉ đạo sát sao về công tác chuyên môn
và bồi dưỡng chuyên môn cho tất cả giáo viên trong trường, quan tâm và đầu tư
đầy đủ cơ sở vật chất để cho giáo viên hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
- 70% trẻ trong lớp đều học qua lớp mẫu giáo 3 tuổi nên trẻ cũng có nề
nếp.
- Lớp học được bố trí 2 giáo viên đều có trình độ chuyên môn trên chuẩn.
- Các bậc phụ huynh luôn quan tâm đến con và thường xuyên trao đổi
thông tin với cô giáo.
- Bản thân là một giáo viên luôn có lòng nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, tâm
huyết với nghề, ham học hỏi bạn bè đồng nghiệp và nghiên cứu tài liệu... để
nâng cao chuyên môn chăm sóc và giáo dục trẻ.
2. 2. 2. Khó khăn:
- Số trẻ trong lớp tương đối đông: 35 trẻ, trong đó có 17 trẻ nam và 18 trẻ

nữ.
- Một số trẻ quá hiếu động, nghịch ngợm cho nên cũng gây ảnh hưởng tới
các bạn khác trong lớp khi tham gia các hoạt động.
- 60% trẻ trong lớp còn nhút nhát chưa tự tin khi giao tiếp với cô và các
bạn. Kỹ năng chia sẻ hợp tác còn hạn chế...
- 63% trẻ chưa biết cách tự chăm sóc bản thân mình cho tốt.
- Rất nhiều trẻ chưa biết cách phối hợp với các bạn chơi trong nhóm.
- Nhiều gia đình do chiều chuộng con dẫn đến trẻ ngại hoạt động mà luôn
có tính ỷ lại và chờ đợi vào người khác giúp đỡ.
2. 2. 3. Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài
Với thực trạng trên, qua việc khảo sát các kỹ năng sống đầu năm trên trẻ
tại lớp mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi A cho kết quả như sau:
(Thời điểm khảo sát tháng 9/ 2016)
3


STT
1
2
3
4
5

Lĩnh vực khảo sát
Kỹ năng tự phục vụ
và chăm sóc bản thân.
Kỹ năng giao tiếp,
chào hỏi.
Kỹ năng mạnh dạn tự
tin.

Kỹ năng thích tò mò,
ham học hỏi.
Kỹ năng hợp tác
trong các hoạt động.

Tổng
số trẻ
trong
lớp

Kết quả
Đạt
Chưa đạt
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
lượng
%
lượng
%

35

13

37%

22


63%

35

14

40%

21

60%

35

15

43%

20

57%

35

14

40%

21


60%

35

12

34%

23

66%

Qua việc khảo sát thực tế về kỹ năng sống của trẻ như trên, bản thân tôi là
một giáo viên trực tiếp chăm sóc và giáo dục nên tôi luôn đắn đo suy nghĩ làm
thế nào để nâng cao kết quả giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tạo cơ hội để trẻ vận
dụng kiến thức kỹ năng vào thực tiễn cuộc sống, để những kỹ năng đó trở thành
thuộc tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Điều đó đã thôi thúc tôi tìm, đưa ra
giải pháp và tổ chức thực hiện trực tiếp trên trẻ thông qua đề tài: “Một số biện
pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4- 5 tuổi trường
mầm non xã Hoằng Cát, huyện Hoằng Hóa”.
2.3. Những biện pháp thực hiện.
2.3.1. Tạo môi trường giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt hiệu quả tốt thì việc tạo cơ hội cho
trẻ được cảm nhận tiếp xúc với môi trường xung quanh, các hiện tượng sự vật là
rất cần thiết vì vậy xây dựng môi trường dạy kỹ năng sống cho trẻ là rất cần
thiết, là điều tôi luôn chú trọng.
Ngay đầu năm học, tôi đã vận động phụ huynh học sinh và trẻ cùng tham
gia làm đồ dùng, đồ chơi, trang trí lớp nhằm giúp trẻ lĩnh hội, khám phá, tìm tòi
và phục vụ cho quá trình học tập của trẻ. Chẳng hạn tôi vận động phụ huynh
cùng tìm kiếm, sưu tầm sách báo cũ, tranh ảnh các loại để xây dựng góc thư

viện. Bên cạch đó, trong lớp tôi luôn tận dụng diện tích phòng học xây dựng góc
thư viện, góc kể chuyện cùng bé yêu...chú ý bố trí, sắp xếp các học cụ đội hình
để tạo môi trường học tập thoải mái và tạo cho trẻ có kỹ năng sống ngăn nắp gọn
gàng.
Những hình ảnh tôi luôn trang trí ở những nơi thuận tiện cho phụ huynh
dễ đọc như các bức tường, góc tuyên truyền với phụ huynh; bên ngoài nhóm lớp
là các khẩu hiệu nhắc nhở giáo viên, người lớn phải gương mẫu như: “Yêu
thương, tôn trọng trẻ, giữ lời hứa với trẻ”; “Mỗi cô giáo là tấm gương sáng để
trẻ noi theo”. Bằng chính hình ảnh của cô và trẻ, đặc biệt chú ý đưa hình ảnh
đẹp của các trẻ có những hành vi tốt, văn minh để từ đó giúp trẻ tự điều chỉnh
4


hành vi, giúp trẻ thể hiện bản thân và luôn biết giữ gìn, học tập là điều kiện để
khen ngợi sự cố gắng của trẻ.
Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và các bậc cha mẹ tăng cường đọc
sách cho con trẻ nhà trường có trang bị đặt mua đóng các giá sách và đầu tư các
loại sách thư viện - nhất là các loại truyện tranh - tại khu vực đón trả trẻ nơi dễ
tập trung chú ý, trang trí đẹp với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề : “Thư
viện trừơng mầm non”; “ Tủ sách gia đình của bé”; “ Muốn cho bé khoẻ, bé
ngoan” “Đọc sách cùng Bé” …. Khuyến khích các bậc cha mẹ tăng cường đọc
sách cho trẻ nghe. Đặc biệt khuyến khích trẻ xem tranh truyện có các hành vi
đẹp để trẻ thảo luận về hành vi trong mỗi bức tranh, để duy trì, bổ sung nhu cầu
đọc sách của trẻ, giáo viên các nhóm lớp cũng đã vận động phụ huynh thường
xuyên tặng sách cho lớp để trang bị thêm góc thư viện.
Kết quả: Trang bị cho lớp một tủ sách và 14 cuốn tranh truyện, tài liệu và
lô tô có nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
2.3.2. Giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học.
Như chúng ta đã biết, ở trường mầm non không có giờ giáo dục kỹ năng
sống riêng lẻ, mà thông qua sử dụng hình thức tích hợp, lồng ghép với nội dung

thông qua các giờ hoạt động như: Văn học, KPKH, âm nhạc, tạo hình…Chính vì
vậy, lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động có nhiều ưu thế nhằm
hình thành kỹ năng sống tự tin, hợp tác, giao tiếp, phục vụ bản thân...
- Thông qua hoạt động thể chất: Tôi tổ chức cho trẻ các vận động như :
Bò qua chướng ngại vật, đi trên ghế thể dục, chuyền bóng, bật qua vật cản, Nhảy
từ độ cao 35cm, ném trúng đích thẳng đứng, bật liên tiếp qua 5 vòng…qua đó
rèn cho trẻ các kỹ năng nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin, khéo léo khi tham gia vận
động, biết bảo vệ sức khỏe.
(Trẻ thực hiện vận động: Bật liên tiếp qua 5 vòng)
- Thông qua hoạt động “ làm quen với toán” đề tài “ Sắp xếp theo quy
tắc” tôi sử dụng trò chơi gắn các dụng cụ của nghề sắp xếp theo quy tắc, đội nào
gắn nhanh đội đó sẽ chiến thắng. Như vậy buộc trẻ phải thảo luận với nhau,
hợp tác mới hoàn thành bài tập.
- Thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học: Xuất phát từ đặc
điểm tâm lý của trẻ mầm non là rất thích nghe kể chuyện. Nội dung các câu
chuyện thường để lại cho trẻ ấn tượng khó phai mờ. Chính vì vậy tôi đã sáng tác
một số câu chuyện lồng vào đó các tình huống để giáo dục trẻ.
Có những tình huống bất trắc xảy ra không chỉ với trẻ mà đôi khi còn xảy
ra với cả người lớn đó chính là nội dung câu chuyện: “Chiếc phích cắm điện”
Với câu chuyện này tôi giáo dục trẻ: Không tự ý cắm phích điện của ti vi,
quạt điện... vào ổ cắm điện. Vì nếu cầm phích điện không đúng cách khi cắm
vào ổ điện thì sẽ bị điện giật.
Hay với câu chuyện: “ Gấu con bị đau răng” Thông qua câu chuyện nhằm
giáo dục trẻ phải biết giữ gìn vệ sinh răng miệng không được cho tay bẩn dụi
vào mũi, mắt, kẻo làm mắt đau. Đồng thời giáo dục trẻ biết đánh răng, rửa mặt,
5


rửa tay chân khi đi vệ sinh và khi bẩn... Để giữ gìn sức khỏe tránh lây nhiễm các
bệnh về đường hô hấp, đau mắt, tay chân miệng..

- Thông qua hoạt động tạo hình với đề tài “Vẽ quà tặng chú bộ đội”.
Trong khi trẻ vẽ tôi luôn quan sát, khen ngợi, động viên trẻ đó cũng là động lực
giúp trẻ mạnh dạn tự tin và hoàn thành tốt bức tranh.
- Trong hoạt động âm nhạc: Với bài hát “Trống cơm” Sau khi đã dạy cho
cả lớp hát xong tôi tiến hành dạy hát theo hình thức tổ, nhóm, cá nhân. Ở hình
thức này tôi mời một nhóm trẻ lên hát trong đó có một số trẻ hát to, rõ ràng, một
số trẻ hát còn nhỏ, chưa thuộc lời cùng lên thể hiện bởi tôi làm như vậy là tôi đã
giúp trẻ phát huy hơn nữa kỹ năng tự tin chia sẻ cùng bạn khi tổ chức cho trẻ hát
như thế đã khích lệ động viên các trẻ hát yếu bắt chước các bạn hát to khi thấy
các bạn hát to trẻ sẽ cố gắng để hát to giống như các bạn. Hoặc nếu trẻ chưa thực
hiện được tôi tham gia cùng trẻ để trẻ thấy tự tin hơn và làm theo.
(Trẻ hát theo nhóm rèn luyện kỹ năng tự tin)
Hoạt động này luôn mang lại cho trẻ sự hào hứng thu hút trẻ tham gia sôi
nổi chính vì thế mà các kỹ năng sống: Mạnh dạn tự tin, hợp tác, giao tiếp, chia
sẻ luôn song hành và hoàn thiện hơn nữa của bản thân mỗi trẻ.
- Thông qua hoạt động khám phá xã hội: Qua bài tìm hiểu động vật sống
trong gia đình: “ Lợn, mèo, trâu, gà...” Trẻ biết đặc điểm riêng của từng con vật
từ những câu hỏi cô đưa ra như: Các con có biết con mèo có mấy chân? Con
mèo là con vật được nuôi ở đâu? Con mèo giúp mọi người việc gì? Muốn cho
mèo nhanh lớn, khỏe mạnh nhanh nhẹn thì con phải làm gì? Con có yêu quý
mèo không? ... Trẻ trả lời “ Con thưa cô con rất yêu quý mèo ạ!” cứ như vậy
trong một tiết học với hàng loạt câu hỏi cô đưa ra thì trẻ nào cũng được tham
gia, với trẻ ít nói cô gọi nhiều, thường xuyên hơn và thông qua tiết học trẻ đã có
kỹ năng mạnh dạn tự tin và kỹ năng mạnh dạn khi giao tiếp.
Thông qua việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua các môn học trẻ cũng
được học rất nhiều điều hay, tuy đây chỉ là những việc làm rất đơn giản nhưng
nó cũng đã góp một phần nhỏ vào việc hình thành và phát triển nhân cách cũng
như kỹ năng sống cho trẻ.
2.3.3. Giáo dục kỹ năng sống thông qua chế độ sinh hoạt trong ngày
của trẻ.

- Giáo dục kỹ năng sống thông qua giờ đón trẻ.
Trong giờ đón trả trẻ: Tôi với giáo viên đứng cùng lớp trò chuyện và giáo
dục trẻ kỹ năng tự phục vụ bản thân: Như tự cởi áo chống nắng, khẩu trang, mũ
bỏ vào ba lô và cất ba lô đúng vào ô tủ của mình. ngoài ra tôi còn dạy trẻ biết
chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm ơi, không nói leo khi người khác nói,
không tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của người khác…
(Trẻ tự cất ba lô, tự đổi dép trước khi vào lớp)
- Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động góc.
Đối với trẻ lứa tuổi này trẻ học theo phương châm “Học mà chơi, chơi mà
học”. Trong giờ vui chơi của hoạt động góc trẻ được thực hành, trải nghiệm
nhiều vai chơi khác nhau trong cuộc sống của người lớn, tôi tiến hành lồng giáo
6


dục kỹ năng sống vào hoạt động vui chơi, qua hoạt động này trẻ được giao tiếp,
đối thoại những câu chào hỏi lễ phép, biết chia sẻ đồ chơi cùng bạn..... Đây là
hoạt động mà trẻ được hoạt động tích cực và thể hiện rõ nhất tính cách của từng
trẻ. Vì thế qua việc tham gia chơi ở các góc thì các kỹ năng sống được trẻ tiếp
thu một cách dễ dàng nhất. Chính vì thế, tôi theo dõi quan sát lắng nghe để kịp
thời uốn nắn trẻ khi có biểu hiện chưa chuẩn mực.
Ví dụ: Qua góc chơi phân vai “Người đầu bếp tài ba”, trẻ học được các
kỹ năng như: Kỹ năng giao tiếp (Giao tiếp giữa bếp trưởng và các thành viên
khác: Biết phân chia người đi chợ, người chế biến món ăn); Kỹ năng chế biến
các món ăn (Biết lựa chọn thực phẩm, cách chế biến món ăn cho phù hợp ); Kỹ
năng hợp tác (Trẻ học được cách chơi trong nhóm như biết trò chuyện chia sẻ
với bạn bên cạnh…).
Hay thông qua các góc chơi: “ Bác sỹ tý hon”, “ Bán hàng” “ Tạo
hình”... tôi đều khéo léo việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ kỹ năng
giao tiếp giữa người bán hàng và người mua hàng ( trò chơi bán hàng), kỹ năng
ân cần, khám bệnh chỉ dẫn cho người bênh (Trò chơi Bác sỹ)... Sau khi chơi

xong trẻ biết cất đồ chơi đúng nơi quy định.
(Trẻ tham gia hoạt động góc)
Kích thích sự tò mò ở trẻ cũng là một cách hay để giúp trẻ trở nên tự tin
hơn. Bởi vì đó chính là lúc bé khám phá thế giới xung quanh và kiểm nghiệm
xem mình có thể làm gì. Dĩ nhiên là những lúc trẻ tìm tòi, khám phá như vậy,
giáo viên cần phải luôn theo sát để đảm bảo sự an toàn cho trẻ. Nhưng để có thể
giúp trẻ học được một kĩ năng mới, tôi không trực tiếp tham gia vào hoạt động
của trẻ mà tạo điều kiện để trẻ tự thử nghiệm, phạm lỗi và học hỏi. Để phát triển
lòng tự tin của trẻ, tôi quan sát kỹ lưỡng những đặc tính nổi bật ở mỗi trẻ và
khuyến khích trẻ tham gia vào các hoạt động thích hợp với năng khiếu của bản
thân. Rất nhiều trẻ thích khám phá thế giới xung quanh và tìm hiểu về sự vật
hiện tượng đó như: Tại sao thìa inốc lại chìm trong nước, tại sao thìa nhựa lại
nổi trên mặt nước…có những trẻ lớp tôi chỉ thích chơi trò lắp ghép và sau một
thời gian trẻ đã biết lắp ghép ra các đồ dùng có ý nghĩa.
Ví dụ: Cho trẻ chơi ở góc khám phá khoa học "Quan sát vật chìm và nổi "
(Trẻ làm thí nghiệm: Vật chìm, vật nổi)
Tôi chuẩn bị rất nhiều vật dụng khác nhau cho trẻ thí nghiệm để trẻ phát
hiện ra đồ vật gì nổi trên mặt nước và đồ vật gì chìm dưới mặt nước. Trước khi
thí nghiệm tôi cho trẻ quyền dự đoán các vật đó khi rơi dưới nước nó sẽ như thế
nào. Đây là lúc trẻ thể hiện sự tự tin của chính mình và nó còn kích thích sự tò
mò muốn biết sự việc đó diễn ra như thế nào, có đúng ý mình nghĩ không. Với
sự cố gắng của trẻ lớp tôi thì lòng tự tin của trẻ ngày một lớn dần lên nhờ vào
cảm giác được yêu thương, tôn trọng và sự chỉ bảo ân cần của mọi người xung
quanh. Trẻ đã mạnh dạn trong mọi hoạt động và dám nói lên ý muốn của mình
để người khác nghe, trẻ tự tin khi làm bất cứ việc gì cô giao cho dù việc đó trẻ
phải thử mới biết mình làm được không nhưng trẻ vẫn nhận lời với cô.
7


Không chỉ ở góc phân vai, góc khám phá khoa học trẻ mới học được các

kỹ năng sống mà ở tất cả các góc chơi khác thì các kỹ năng của trẻ đều có thể
được cũng cố và phát huy.
Ví dụ: Ở góc xây dựng, trẻ có kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm. Mặc
dù ở mẫu giáo nhỡ nhưng trẻ ở lớp tôi đã biết tự phân vai chơi cho nhau và chơi
rất đoàn kết, không tranh giành đồ chơi của nhau và đã biết cùng nhau tạo nên
công trình đẹp.
( Trẻ chơi trò chơi xây dựng nhằm phát triển kỹ năng hợp tác)
- Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động ngoài trời
Thông qua các buổi hoạt động ngoài trời tôi đã lồng ghép dạy trẻ nhiều kỹ
năng khác nhau.
Ví dụ : Qua phần trò chơi vận động “Xách nước đi trên ghế thể dục và đổ
nước vào bình”. Thông qua chơi đã hình thành cho trẻ những kỹ năng mạnh dạn
tự tin, nhanh nhẹn, khéo léo, cẩn thận khi múc nước, khi đi trên ghế thể dục và
khi đổ nước vào bình.
- Giáo dục kỹ năng sống thông qua việc tổ chức bữa ăn.
Thông qua việc tổ chức bữa ăn cho trẻ: Tôi tập cho trẻ làm một số công
việc tự phục vụ qua đó hình thành ở trẻ một số kỹ năng biết rửa tay khi tay bẩn
và trước khi ăn cơm và sử dụng đồ dùng ăn, uống đúng cách và hành vi văn hoá
văn minh như:
+ Cách dùng ca, cốc, bát, thìa.
+ Cách rót nước.
+ Tham gia chuẩn bị bữa ăn (Tự kê ghế, gấp khăn lau, chia đĩa, chia
bát…)
+ Trẻ được tập luyện một số thói quen hành vi văn minh trong ăn uống
(Trẻ biết mời cô, mời bạn, biết vệ sinh cá nhân trước và sau khi ăn, biết giữ vệ
sinh chung và hành vi văn hoá như không nói chuyện khi ăn, ho hoặc ngáp phải
quay ra ngoài đồng thời lấy tay che miệng, biết nhặt cơm rơi bỏ vào đĩa và lau
tay…)
(Trẻ rửa tay trước khi ăn)


(Trẻ mời cô và các bạn trước khi ăn)
- Giáo dục kỹ năng sống thông qua việc tổ chức giấc ngủ.
Khi tổ chức giấc ngủ cho trẻ, tôi dạy trẻ biết tự mình lấy và cất gối đúng nơi
quy định, biết để dép vào giá dép, đi nhẹ, nói khẽ, không làm ồn khi bạn đang
ngủ. Ngoài ra tôi còn lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt
động khác trong ngày như ăn phụ chiều, hoạt động chiều, vệ sinh, trả trẻ....Bằng
việc tạo tình huống có vấn đề để trẻ suy nghĩ và giải quyết qua đó trẻ được cũng
cố các kỹ năng của mình.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua ngày hội, ngày lễ hội thi của
trường, tôi đã khuyến khích trẻ tham gia để trẻ có những kỹ năng mạnh dạn, tự
tin thể hiện mình trên sân khấu.
Ví dụ: Thông qua các ngày hội: 20/11 và hội thi “Bé khỏe mầm non”, kỹ
năng giao tiếp của trẻ được củng cố kỹ năng tự tin, kỹ năng hợp tác của trẻ được
8


củng cố trong phần thi Erobic và phần thi trò chơi vận động, trò chơi dân gian.
Từ đó giúp trẻ mạnh dạn hơn, tự tin hơn khi tham gia tất cả các hoạt động cho
trẻ ở trường mầm non góp phần hình thành nhân cách trẻ.
(Trẻ tham gia các ngày lễ hội)
(Trẻ tham gia hội khỏe mầm non)
Tóm lại: Cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi, đảm bảo
tính liên tục để mỗi kỹ năng, phẩm chất mới được hình thành sẽ trở thành thói
quen, thành thuộc tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Tuy nhiên không nên lạm
dụng tích hợp quá nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động chính
cũng như sẽ gây tâm lý nặng nề cho trẻ khi tham ra vào các hoạt động đó.
2.3.4. Giáo dục kỹ năng cho trẻ thông qua tạo tình huống và xử lý tình
huống.
Trước đây, với những nội dung dạy trẻ nhận biết một số nguy cơ không an
toàn và cách phòng tránh thì giáo viên thường giáo dục với những lời dặn dò

nhắc nhở đơn giản thông qua nội dung các bài thơ, câu chuyện, bài hát có nội
dung giáo dục dạy trẻ. Song trên thực tế, trong chương trình có rất ít bài hát, bài
thơ, câu chuyện có nội dung đó. Vì vậy, trong năm học này, tôi nghiên cứu lựa
chọn những tình huống bất trắc thường xảy ra và đưa ra những tình huống bất
trắc thường xảy ra thành những tình huống cụ thể để dạy trẻ có kỹ năng ứng biến
khi gặp tình huống khó khăn, biết cách suy nghĩ và giải quyết.
Ví dụ: Với chủ đề “Thế giới động vật”. Trước đây, thông qua câu chuyện
“Chú vịt xám” hoặc nội dung bài hát “Đàn vịt con”, tôi chỉ dùng lời giáo dục
trẻ: “Khi đi công viên hoặc đến những nơi công cộng thì phải đi với bố mẹ,
không được chạy lung tung để khỏi bị lạc” chứ chưa dạy trẻ nếu chẳng may bị
lạc con sẽ làm gì?
Với cách giáo dục trên hiệu quả chưa cao, trẻ ghi nhớ một cách thụ động
và thường xuyên quên vì trẻ chưa hiểu cốt lõi của sự việc. Chính vì vậy tôi đưa
tình huống:
+ Khi bị lạc mẹ nơi công cộng con sẽ làm gì?
+ Khi bị lạc mà có người lạ cho con quà thì con sẽ làm gì? Tôi cho trẻ suy
nghĩ, mỗi trẻ đưa ra một cách giải quyết riêng của mình. Lắng nghe ý kiến của
trẻ, cho trẻ trẻ suy nghĩ và trả lời theo ý kiến của mình gợi mở cho trẻ bằng
những câu hỏi mang tính gợi mở.
Ở tình huống này, với trẻ 4-5 tuổi trẻ rất thích được cho quà và sẽ không
biết tại sao không được nhận quà.
Khi trẻ thảo luận tôi đưa ra những giả thiết, những tình huống xấu: Nếu
người cho con quà là người xấu thì có nguy hiểm cho con không? Tôi phân tích,
giải thích cho trẻ và giúp trẻ có phương án giải quyết đó là:
Tuyệt đối không nhận quà, ăn bánh kẹo của người lạ vì người lạ có thể
cho con quà và dụ dỗ con, nói dối là mang con về với bố mẹ nhưng điều đó
không phải như thế mà người lạ sẽ bắt các con đi bán cho nước ngoài. Khi gặp
trường hợp này các con nên nói “ Cháu cảm ơn, nhưng bố mẹ cháu không cho
nhận quà của người lạ” và con phải ngồi tại chỗ để bố mẹ tìm con dễ dàng hơn.
Với chủ đề: “ Gia đình”, ngoài việc giáo dục trẻ nhận biết và tránh những

đồ dùng nguy hiểm như bàn là, phích nước, bếp đang nấu. Tôi còn đưa ra tình
9


huống để trẻ biết và tránh được những mối nguy hiểm khác như: “ Nếu con
đang ở nhà một mình, có người đến gọi mở cửa con sẽ làm gì?” Tôi cho trẻ nói
suy nghĩ, cách giải quyết của mình. Trong khi thảo luận với trẻ tôi gợi mở: Cũng
có trường hợp kẻ xấu có thể gây hại cho con hoặc lấy trộm đồ của gia đình
mình, cũng chính là người quen biết với bố mẹ bé để giúp trẻ suy đoán tìm cách
giải quyết, sau đó cô giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất trong trường hợp này:
Tuyệt đối không mở cửa, kể cả đó có thể là người quen của bố mẹ, nếu có người
lớn ở trong nhà mà chưa biết thì gọi ra, còn nếu không có ai ở nhà thì hẹn họ
nhắn lại hoặc lúc khác đến gặp bố mẹ.
Với cách dạy kỹ năng sống cho trẻ thông qua việc tạo các tình huống để
lồng ghép giáo dục kỹ năng sống đã giúp trẻ biết diễn đạt suy nghĩ của mình và
giúp trẻ có thêm kinh nghiệm sống như: Giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, phát triển
ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ và còn giúp trẻ vận dụng vốn hiểu biết, kiến thức
của mình để giải quyết vấn đề.
Thông qua các hoạt động đó 85% trẻ lớp tôi có sự tư duy logich, biết cách
diễn đạt suy nghĩ của mình, biết cách xử lý tình huống một cách hợp lý, giúp trẻ
có thêm kinh nghiệm trong cuộc sống.
2.3.5. Đánh giá các kỹ năng sống của trẻ thông qua chế độ sinh hoạt.
Việc nhìn nhận, xem xét lại các công việc đã làm trong một thời gian nhất
định sẽ rút ra được những bài học bổ ích, có những điều chỉnh hoặc cải tiến các
hoạt động tiếp theo đạt hiệu quả hơn. Việc đánh giá các kỹ năng sống của trẻ
thường xuyên lại có vai trò đặc biệt hơn.
Sau mỗi hoạt động trong ngày, tôi luôn dành thời gian để nhận xét đánh
giá hoạt động của trẻ bằng hình thức tặng hoa bé ngoan, nhằm cũng cố các kỹ
năng cho trẻ và tìm ra biện pháp để hoạt động sau đó cô cùng trẻ thực hiện tốt
hơn.

Ví dụ: Qua hoạt động góc, tôi nhận xét đánh giá góc bán hàng: Hôm nay
bác Hà bán hàng thật là khéo, biết chào mời khách lịch sự, biết nhận tiền của
khách và đưa bằng 2 tay, biết cảm ơn khách, nhưng tôi thấy tiền của bác cất
chưa cẩn thận. Tôi khuyên bác lần sau nếu có nhiều tiền như vậy nên cất vào túi,
đừng để lên bàn như vậy nhé! Khi nghe những lời nhận xét đơn giản như vậy, trẻ
có thêm tự tin vào bản thân, nắm được kỹ năng giao tiếp lịch sự, hình thành tính
cẩn thận cho trẻ. Hoặc qua việc nhận xét giờ ăn trưa: Hôm nay cô cảm ơn bạn
Hường, bạn Ngọc đã giúp cô chuẩn bị bữa ăn cho các bạn, 2 bạn đã biết chia
thìa vào bát, bê cơm cho các bạn bằng 2 tay và khi đưa cho các bạn thì đặt nhẹ
nhàng. Như vậy bản thân cháu Quỳnh, cháu Huy sẽ tự tin vào hoạt động của
mình và các bạn khác trong lớp hôm sau cũng cố gắng làm tốt như vậy để được
cô khen và tôi tặng hoa cho trẻ và cho trẻ cắm vào bình cờ của mình.
Cuối ngày tôi cho trẻ đổi hoa để lấy cờ (3 hoa được đổi một cờ) và cuối
tuần tôi cho trẻ đổi cờ lấy bé ngoan (4 cờ được tặng một bé ngoan). Mỗi ngày,
mỗi tuần tôi thường xuyên làm như vậy để đánh giá những biểu hiện tâm lý của
trẻ trong các hoạt động. Tôi đặc biệt chú ý đến việc đánh giá các kỹ năng, trạng
thái cảm xúc và hành vi của trẻ. Tôi xác định những trẻ cần lưu ý để có biện
10


pháp chăm sóc riêng phù hợp và lấy đó làm căn cứ thước đo để đánh giá cuối
mỗi chủ đề.
Ví dụ: Trong chủ đề: “Gia đình”: Tôi đánh giá sự tích cực của trẻ khi
cùng cô, cùng bạn tham ra các hoạt động trong chủ đề, đánh giá việc trẻ có thực
hiện một số quy tắc đơn giản trong gia đình như biết nghe lời bố mẹ, cất dọn đồ
dùng của mình ngăn nắp, có được một số kỹ năng chào hỏi, xin phép, biết được
vị trí của mình trong gia đình.
Bằng việc nhận xét đánh giá thường xuyên như vậy, tôi đã rút ra được
nhiều kinh nghiệm về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và cũng đã có nhiều kỹ
năng sống được hình thành và củng cố trên trẻ. Trẻ giao tiếp tốt hơn, tự tin vào

bản thân hơn, nhận thức đúng vị trí của mình, biết nhận xét bạn, khéo léo hơn
trong các hoạt động lần sau. Thông qua việc nhận xét đánh giá khéo léo của cô,
trẻ đã biết tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho tốt, sao cho được cô khen.
2.3.6. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua việc phối kết hợp với
phụ huynh học sinh.
Song song với việc thực hiện biện pháp giáo dục trên, là giáo viên chủ
nhiệm lớp, tôi luôn ý thức được tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữa gia
đình và nhà trường. Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ không phải là chuyện một
sớm một chiều mà là cả một quá trình. Các kỹ năng sống phải được giáo dục,
rèn luyện đồng nhất thì mới bền vững và thành kỹ xảo. Nếu chỉ dạy kỹ năng
sống cho trẻ ở trường thôi thì chưa đủ. Bên cạnh đó, môi trường gia đình rất
thích hợp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ được tiếp thu các kỹ năng thông
qua gia đình một cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà lại hiệu quả cao. Mặt khác, nuôi
dạy con luôn là mối quan tâm hàng đầu của các bậc phụ huynh nhất là trong thời
buổi hiện nay, ai cũng muốn con mình đạt thành tích cao trong học tập cũng như
trưởng thành hơn về mặt nhân cách. Tuy nhiên việc làm thế nào để có thể giúp
trẻ phát huy được khả năng tiềm ẩn? Làm thế nào để trẻ có những kỹ năng sống
tốt nhất thì nhiều phụ huynh còn lúng túng trong vấn đề này. Trên thực tế nhiều
phụ huynh chưa có kiến thức về kỹ năng sống, không biết kỹ năng sống bao
gồm những kỹ năng nào? Cần giáo dục trẻ từ đâu, dạy trẻ những gì? Chính vì
vậy mà tôi phải tuyên truyền đến các bậc phụ huynh để họ hiểu tầm quan trọng
của kỹ năng sống, những kiến thức cần dạy trẻ, phương pháp dạy trẻ như thế nào
để trẻ tiếp thu một cách thoải mái, tự nhiên.
Việc tuyên truyền đến các bậc phụ huynh học sinh được tiến hành trong
giờ đón, trả trẻ, thông qua bảng tuyên truyền, thông qua việc mời phụ huynh
tham quan hoặc tham ra trực tiếp vào các hoạt động của lớp hay thông qua buổi
họp phụ huynh. Cụ thể:
Thông qua giờ đón trẻ, tôi đã trao đổi với phụ huynh học sinh về tình hình
sức khoẻ, vệ sinh cá nhân, những phản ứng kém linh hoạt cũng như những kỹ
năng của trẻ để cùng phụ huynh giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt

động.
Ví dụ: Ở lớp tôi có cháu Mai Lan, thời gian đầu đi học cháu không thể tự
xúc cơm ăn, muốn ăn nữa nhưng không biết xin cô để ăn thêm cơm, không biết
cởi bớt một chiếc áo khi nóng. Thông qua trao đổi với mẹ của cháu, tôi biết cháu
11


là con một trong gia đình có điều kiện. Ở nhà bà và mẹ vì quá yêu thương mà
bao bọc cháu, làm thay hết mọi việc cho cháu nhưng không biết rằng điều đó vô
tình dẫn đến việc cháu không biết cách phục vụ bản thân, làm cháu thiếu hụt kỹ
năng sống. Tôi có trao đổi với mẹ cháu rằng để cháu tập làm mọi thứ bắt đầu từ
chỗ chọn việc dễ nhất để con làm. Thông qua việc trao đổi với phụ huynh thì
một thời gian ngắn, tôi thấy trẻ thay đổi một cách rõ rệt.
Thông qua các buổi họp phụ huynh học sinh, tôi cũng đã chủ động lồng
ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đến các bậc phụ huynh. Các phụ
huynh đã nhất trí cao và đồng tình cùng cô để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt
hiệu quả tốt nhất.
(Tuyên truyền với phụ huynh thông qua hội nghị phụ huynh học sinh))
Thông qua bảng tuyên truyền với phụ huynh học sinh, đây là nơi trao đổi
thông tin với phụ huynh rất hiệu quả. Theo từng chủ đề tôi có đánh máy nội
dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mà cô đang dạy trẻ ở trên lớp.
Ví dụ: Ở chủ đề: “Trường mầm non” tôi ghi nội dung lồng ghép giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ như sau:
- Kỹ năng giao tiếp: Giao tiếp đúng mực, lịch sự với bạn bè, với cô, với
người lớn.
- Kỹ năng tự phục vụ chăm sóc bản thân: Trước khi vào lớp học tự mình
cởi áo chống năng, mũ, khẩu trang cho vào ba lô và bỏ vào tủ đồ dùng cá nhân,
đổi dép...rồi chào cô vào lớp.
- Kỹ năng hợp tác: Trẻ biết chơi cùng bạn, chia sẻ đồ chơi với bạn, giúp
đỡ bạn khi cần thiết, cùng bạn hoàn thành việc đơn giản, tìm sự giúp đỡ của bạn

khi cần…
(Tuyên truyền với phụ huynh học sinh thông qua góc tuyên truyền)
Những biện pháp trên đã làm thay đổi cơ bản từ phía phụ huynh: Cha mẹ
luôn coi trọng trẻ và tích cực phối hợp với giáo viên để dạy kỹ năng sống cho
trẻ. Không còn hình ảnh bố bế con vào lớp rồi làm thay trẻ những việc mà trẻ
phải tự phục vụ bản thân trẻ.... Ngược lại đã có nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô
đến cửa lớp vòng tay chào cô và tự cất đồ dùng đúng nơi quy định không cần bố
mẹ phải nhắc.
Qua đó, chúng ta thấy rằng: Muốn việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt
kết quả tốt thì tôi kết hợp hài hòa tất cả các biện pháp trên và thực hiện thường
xuyên liên tục. Bên cạnh việc giáo dục này còn là ý thức trách nhiệm, sự gương
mẫu, tình yêu thương của bố mẹ, cô giáo và mọi người xung quanh cùng chung
tay góp kiến thức khiêm tốn để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, đừng bao giờ
buông xuôi và thờ ơ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Như vậy, qua một năm nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự
giúp đỡ nhiệt tình của nhà trường, các đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của các
bậc cha mẹ đã giúp tôi tiến hành và hoàn thành đề tài: “Một số biện pháp nâng
cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi trường mầm non xã
12


Hoằng Cát, huyện Hoằng Hóa”, tôi đã tìm ra những biện pháp tích cực phù hợp
để nâng việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và điều đó đã cho được những kết
quả khảo sát thực tiễn trên trẻ cuối năm học 2016- 2017 như sau: (Tháng 5 năm
2017)
Kết quả đầu năm
Kết quả cuối năm
ST
Nội dung trẻ cần đạt

Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng Tỷ lệ
T
%
%
1 Kỹ năng tự phục vụ chăm
13/35
37%
32/35
91%
sóc bản thân.
2 Kỹ năng giao tiếp, chào
14/35
40%
33/35
94%
hỏi.
3 Kỹ năng mạnh dạn tự tin.
15/35
43%
31/35
89%
4 Kỹ năng thích tò mò, ham
14/35
40%
31/35
89%
học hỏi.
5 Kỹ năng hợp tác trong các

12/35
34%
32
91%
hoạt động.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:

Để hình thành và phát triển ở trẻ những thói quen không chỉ có sự tập
luyện mà còn cần sự thống nhất những cách thức và phương thức giữa gia đình
và trường, lớp mầm non. Để làm được điều đó đòi hỏi giáo viên phải kiên trì,
nhẫn nại, sự đồng cảm, sự quan tâm, chú ý và sự giúp đỡ của người lớn mới
giúp trẻ vượt qua những khó khăn, trở ngại, mới tạo cho trẻ mầm non có kỹ
năng tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu, kỹ năng hợp tác, cùng học tập, vui
chơi với bạn và kỹ năng sống biết ứng xử, tự tin, giao tiếp tình cảm.
Đồng thời, cô phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mẫu giáo 4- 5
tuổi, quan tâm đến từng cá nhân trẻ và hiểu được một số tâm tư nguyện vọng
riêng biệt của từng trẻ, luôn tôn trọng trẻ từ đó cuốn hút trẻ vào các hoạt động
một cách tự nguyện. Biết cách lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ.
Phải năng động linh hoạt sáng tạo trong giảng dạy. Tìm hiểu tài liệu tự
học tự nâng cao trình độ bằng nhiều hình thức. Bởi kiến thức của một giáo viên
mầm non cần phải đa dạng, phong phú để chúng ta có thể đáp ứng được phần
nào trong muôn vàn thắc mắc của trẻ thơ.
Biết khai thác tiềm năng tiềm ẩn trong trẻ và khơi gợi những tiềm năng đã
phát triển. Không chỉ làm đồ dùng đồ chơi trực quan sinh động mà giáo viên
phải tạo được những bài giảng tốt, thiết thực, phù hợp với trẻ và kích thích được
sự tò mò trí tưởng tượng, khả năng hợp tác và lối sống mạnh dạn tự tin của trẻ.
Bên cạnh những bài giảng thông thường thì cũng rất cần tạo được những bài
giảng điện tử để tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với công nghệ thông tin.

Cần hiểu về đặc điểm tính chất công việc, hoàn cảnh gia đình cũng như
việc quan tâm của phụ huynh đến việc rèn kỹ năng sống cho trẻ từ đó tìm được
13


cách tiếp cận phụ huynh để củng cố thống nhất, trao đổi một số phương pháp,
nội dung dạy trẻ. Phối kết hợp chặt chẽ với gia đình, nhà trường và xã hội trong
việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ đặc biệt là giáo dục kỹ năng sống.
Phải thường xuyên thực hiện giờ nêu gương và kể chuyện hàng tuần hoặc
tổ chức văn nghệ để động viên tinh thần trẻ. Cô giáo phải thật sự là tấm gương
sáng để trẻ noi theo, luôn giàu tình yêu thương, luôn thận trọng trong mọi hành
vi của mình, thân thiện yêu thương để tạo tâm lý thoải mái cho trẻ thực hiện tốt
mọi hành vi cũng như hoạt động giao tiếp, nhằm giúp trẻ từng bước hình thành
nhân cách cho trẻ
Bên cạnh đó môi trường và cảnh quan sư phạm cũng góp phần hình thành
cho trẻ những hành vi văn minh để dần dần hoàn thiện nhân cách tốt đẹp của
truyền thống con người Việt Nam phù hợp với mọi chuẩn mực đạo đức xã hội
một cách tự nguyện. Từ đó giúp trẻ khoẻ mạnh, thông minh, ngoan ngoãn và là
những chủ nhân tương lai của đất nước.
3.2. Kiến nghị
Đề nghị Bộ giáo dục và đào tạo nghiên cứu xuất bản thêm nhiều tài liệu
cho giáo viên tham khảo để thực hiện tốt việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mầm non nói chung và trẻ 4- 5 tuổi nói riêng. In ấn nhiều truyện, tranh truyện,
lô tô có nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Trên đây là một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4- 5 tuổi năm
học 2016 – 2017 của bản thân. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp
lãnh đạo, chị em đồng nghiệp để đề tài này ngày càng hoàn thiện hơn, thực hiện
tốt hơn trong những năm học tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ

TRƯỞNG ĐƠN VỊ
HIỆU TRƯỞNG

Hoằng Cát, ngày 5 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Tuyết

Đoàn Thị Tuyết

14



×