Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục hòa nhập, đặc biệt là trẻ bị hội chứng tự kỷ tại trường mầm non lam sơn TP thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật hiện đang là xu thế của nhiều quốc gia
trong thế kỷ XXI. Việt Nam là một trong những quốc gia đó. Ngày nay, nhà
nước ta đã tham gia công ước quốc tế về quyền trẻ em và ban hành Luật bảo vệ
chăm sóc trẻ em Việt Nam, đồng thời ngày 17/04/1995 Thủ tướng Chính Phủ đã
ban hành Nghị định 26/CP giao trách nhiệm tổ chức giáo dục trẻ khuyết tật cho
ngành giáo dục. Từ đó, việc tổ chức giáo dục cho trẻ khuyết tật thuộc các độ tuổi
được đặt ra như một nhiệm vụ quan trọng của ngành học.
Tuy nhiên, xuất phát từ tư tưởng nhân văn, đảm bảo sự bình đẳng giữa trẻ
với trẻ, đồng thời nhìn nhận vấn đề từ góc độ mục tiêu giáo dục, kinh tế giáo dục
thì phương thức tổ chức giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật ưu việt hơn nhiều.
Các chuyên gia về lĩnh vực giáo dục phục hồi chức năng trẻ khuyết tật
khuyến cáo: Nếu được can thiệp sớm ngay từ lứa tuổi mầm non, quá trình hoà
nhập của trẻ sẽ đạt kết quả khả quan. Việc phát hiện sớm, chăm sóc, nuôi dưỡng
và giáo dục hòa nhập cho trẻ từ độ tuổi mầm non sẽ tạo nên những “cơ hội
vàng” đối với mỗi trẻ em không may bị khuyết tật. Các kết quả nghiên cứu đã
rất nhiều lần chỉ ra rằng những năm đầu tiên của cuộc đời là rất quan trọng trong
việc học và phát triển. Bằng cách tham gia những lớp học hòa nhập ở trường
bình thường cùng với đội ngũ giáo viên hiểu cách ứng dụng những kĩ thuật và
hoạt động giáo dục, trẻ với những nhu cầu đặc biệt sẽ có một “bắt đầu thuận
lợi" thực sự trong việc hiện thực hóa tiềm năng dồi dào của mình.
Hiện nay ở một số cơ sở mầm non đang tiếp nhận trẻ khuyết t ật hòa nh ập
nhưng chủ yếu là ở hội chứng trẻ tự kỷ, tuy nhiên trong các văn bản qui phạm
pháp luật đối tượng trẻ rối loại tự kỷ chưa được đưa vào danh mục trẻ khuyết tật.
Thực tế tại Việt Nam trong khoảng 15 năm trở lại đây, số lượng trẻ mắc chứng
tự kỷ gia tăng đáng kể và trở thành một vấn đề xã hội rất đáng quan tâm. Trong
khi đó nhận thức của các gia đình, cộng đồng, xã hội về hội chứng này còn thiếu
đầy đủ, thậm chí sai lệch; điều đó gây ra rất nhiều khó khăn cho tr ẻ t ự kỷ trong
việc tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ y tế, giáo d ục và các chính sách an sinh xã
hội. Tại Mỹ, tự kỷ được xếp vào danh mục 13 dạng khuyết tật và vấn đề trẻ tự


kỷ đã được khẳng định là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách y
tế của Tổng thống Barack Obama, và ông cũng đã kêu gọi sự hỗ trợ nhiều hơn
nữa cho trẻ tự kỷ và gia đình các em, quyết định sẽ chi hàng tỉ đô la từ ngân sách
1


liên bang cho các nguyên cứu về nguyên nhân và phương pháp trị liệu cho tr ẻ t ự
kỷ. Trong bối cảnh của xã hội Vi ệt Nam, do ch ưa có nhi ều thông tin v ề h ội
chứng tự kỷ và các dịch vụ dành cho người t ự kỷ, nên có nhiều tr ẻ m ắc ch ứng t ự
kỷ trong một thời gian rất dài, nhưng không được phát hi ện và can thi ệp s ớm.
Trong khi đó, phần lớn cán bộ các ngành y tế, giáo dục hoặc cha m ẹ tr ẻ còn
thiếu những kiến thức chuyên môn để có thể phát hiện sớm và chăm sóc trẻ m ột
cách tốt nhất. Cùng với đó là nhận thức của cộng đồng, xã hội trong công tác
chăm sóc, bảo vệ và đảm bảo quyền cho các em còn gặp rất nhi ều h ạn ch ế, d ẫn
đến nhiều trẻ dù đã lớn nhưng không nói được, không hòa nhập được với môi
trường xã hội xung quanh và phải sống phụ thuộc vào sự chăm sóc của người
thân trong gia đình. Đây là một vấn đề xã hội rất đáng phải lưu tâm, bởi không
chỉ riêng trẻ em mà cả những người tự kỷ tr ưởng thành, cho đến nay v ẫn ch ưa
thể hòa nhập cộng đồng do những rào cản / định kiến xã hội.
Tại trường mầm non Lam Sơn chúng tôi, trong nhiều năm vừa qua nhà
trường liên tục đón nhận và chăm sóc giáo dục một số lượng lớn trẻ khuyết tật
học hòa nhập, nhưng đa số là trẻ ở dạng hội chứng tự kỷ. Song, trên thực tế đội
ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên của nhà trường đón nhận và chăm sóc, giáo dục
trẻ ở hội chứng chủ yếu do tấm lòng yêu trẻ, yêu nghề, với mong muốn góp một
phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp chung của toàn xã hội, hướng tới mục tiêu
xây dựng một nền giáo dục có chất lượng “vì con người” trong đó người khuyết
tật nói chung và trẻ em mắc hội chứng tự kỷ nói riêng được trợ giúp để phát
triển tối đa tiềm năng, tham gia và đóng góp tích cực cho xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chúng tôi còn gặp rất nhiều khó khăn
khác nhau: Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục hòa nhập chưa cụ thể, chưa

phù hợp; chế độ đãi ngộ dành cho giáo viên dạy hòa nhập chưa có; cơ sở vật
chất trang thiết bị, tài liệu dành cho giáo dục hòa nhập thiếu. Đặc biệt là nhận
thức của người dân và cộng đồng về tầm quan trọng của việc can thiệp sớm,
giáo dục hòa nhập cho trẻ em mắc hội chứng tự kỷ ngay từ lứa tuổi mầm non
còn hạn chế.
Để thực hiện tốt công tác giáo dục hòa nhập nhằm tạo cơ hội cho trẻ sớm
hòa nhập cộng đồng ngay từ lứa tuổi mầm non đang trở thành nhu cầu của xã
hội. Vậy làm thế nào để giảm bớt những khó khăn, vượt qua được những trở
ngại để đạt kết quả tốt nhất?

2


Xuất phát từ những lý do trên, cùng với sự tâm huyết và kinh nghiệm của
bản thân nên trong năm học 2016-2017, tôi mạnh dạn lựa chọn nội dung “Một
số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục hòa nhập
trẻ khuyết tật, đặc biệt là hội chứng tự kỷ tại trường mầm non Lam Sơn- TP
Thanh Hóa” là đề tài nghiên cứu cho sáng kiến kinh nghiệm của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Giúp cho việc phát hiện sớm, can thiệp sớm cho trẻ mắc hội chứng tự kỷ
ngay từ lứa tuổi mầm non được tốt hơn. Đồng thời giúp cộng đồng nhận thức sâu
hơn về sự cần thiết phải tạo cơ hội cho trẻ tự kỷ sớm hòa nhập với cộng đồng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng là trẻ mắc hội chứng tự kỷ học hòa nhập; Công tác quản lý chỉ
đạo các hoạt động giáo dục hòa nhập tại trường mầm non Lam Sơn – Thành phố
Thanh hóa, năm học 2016-2017.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
1.4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Tham khảo một số văn bản quy định về giáo dục hòa nhập, các tài liệu
về giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật ở Việt Nam.

Đọc phân tích, tổng hợp, khái quát những tài liệu có liên quan đến các hội
chứng tự kỷ của trẻ em.
1.4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
* Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế
- Mục đích: Thu thập các thông tin về trẻ mắc hội chứng tự kỷ ở trường
mầm non Lam Sơn.
- Cách tiến hành: Sử dụng bài tập khảo sát, ghi chép nhật ký.
* Phương pháp trò chuyện
- Mục đích: Nắm được chính xác các thông tin, tình hình, mức độ của trẻ
mắc hội chứng tự kỷ.
- Cách tiến hành: Trò chuyện trực tiếp.
1.4.3. Phương pháp so sánh, thống kê: (Sử lý số liệu của các phương pháp trên)
2. NỘI DUNG SÁNH KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận của hoạt động giáo dục hòa nhập trẻ mắc chứng tự
kỷ tại trường mầm non Lam Sơn.
+ Điều lệ trường Mầm non.
+ Luật giáo dục 2005,
3


+ Luật người khuyết tật 2010, điều 3 chương 1 là một bước tiến quan
trọng hướng tới hoàn thiện luật pháp không còn rào cản đối với người tự kỷ để
nhóm ngườn này nhận được sự quan tâm của hệ thống an sinh xã hội.
- Bộ GD&ĐT đã ban hành những văn bản quy định về việc chăm sóc giáo
dục đối với người khuyết tật, tàn tật:
+ Quyết định số 23/2006/QĐ-BGD&ĐT Quy định về giáo dục hòa nhập
cho người khuyết tật, tàn tật.
- Trẻ mắc chứng tự kỷ là những đứa trẻ bị tổn thương về cơ thể hoặc rối
loạn các chức năng nhất định gây nên những khó khăn đặc thù trong các hoạt
động học tập, vui chơi và lao động.

- Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục, trong đó trẻ Tự kỷ cùng học
với trẻ em bình thường ngay tại nơi trẻ sinh sống. Giáo dục hòa nhập xuất phát
từ quan điểm xã hội về giáo dục, coi nhà trường như một xã hội thu nhỏ và phản
ánh tính chất đa dạng của xã hội. Vì vậy, môi trường giáo dục trong đó được chú
ý cải thiện sao cho phù hợp với nhu cầu học tập đa dạng của học sinh.
- "Khuynh hướng hòa nhập" (Mainstreaming - tiếng Anh) có nghĩa là giúp
đỡ người khuyết tật sống, học tập và làm việc trong những điều kiện đặc thù, nơi
họ có được cơ hội tốt nhất để trở nên độc lập tới mức mà họ có thể. Khuynh
hướng hòa nhập được định nghĩa như việc hòa nhập trẻ khuyết tật và bình
thường trong cùng một lớp học. Điều này mang lại cho trẻ Tự kỷ cơ hội gia nhập
"xu hướng chính của cuộc sống" bằng việc hướng chúng đến việc lĩnh hội những
kinh nghiệm ở tuổi mầm non từ những bạn bè bình thường đồng trang lứa, đồng
thời cũng đem đến cho trẻ bình thường có cơ hội học tập và phát triển thông qua
việc học hỏi kinh nghiệm từ những mặt mạnh và yếu của những bạn bè tự kỷ.
Do đó, ta có thể hiểu là "hòa nhập" không chỉ mang lại lợi ích cho trẻ tự
kỷ mà còn cho trẻ bình thường. Sự hòa nhập mở ra cơ hội học tập cho cả hai đối
tượng trẻ: Trẻ bình thường và trẻ tự kỷ.
Tuy nhiên, hòa nhập không chỉ đơn giản là đưa trẻ tự kỷ vào trong một
chương trình giáo dục chung với trẻ bình thường. Phải xây dựng kế hoạch hoạt
động rõ ràng để đảm bảo cho trẻ Tự kỷ được tham gia một cách đầy đủ và tích
cực những hoạt động trong lớp học.
2.2 Thực trạng của hoạt động giáo dục trẻ hòa nhập, đặc biệt hội
chứng tự kỷ tại trường mầm non Lam Sơn.

4


2.2.1 Thuận lợi, khó khăn
* Thuận lợi
- Trường mầm non Lam Sơn là trường đạt chuẩn quốc gia mức độ II,

trường liên tục đạt tiên tiến xuất sắc cấp thành phố, được chủ tịch UBND tỉnh
tặng là đơn vị dẫn đầu các phong trào thi đua. Các điều kiện về cơ sở vật chất,
trang thiết bị dạy học tương đối đầy đủ theo yêu cầu giáo dục trẻ, vì vậy nhà
trường rất thuận lợi trong việc giúp trẻ học hòa nhập.
- Ban giám hiệu nhà trường mạnh dạn, có năng lực và dám nghĩ dám làm.
- Đội ngũ giáo viên trẻ có trình độ, đào tạo cơ bản, nhiệt tình trong công
việc chăm sóc. Trong chăm sóc, giáo dục trẻ thì nhanh nhẹn, tháo vát, khẩn
trương, khoa học, tận tình và chu đáo, hàng ngày ở trường, các cô giáo luôn chú
ý ăn mặc gọn gàng, lịch sự, phù hợp với nghề nghiệp.
- Phụ huynh học sinh là những người quan tâm, thường xuyên phối hợp
chặt chẽ với nhà trường trong các hoạt động chăm sóc, giáo dục con.
* Khó khăn
- Cơ sở vật chất đầu tư cho giáo dục hòa nhập còn đang là vấn đề cần có
sự quan tâm của các cấp, các ngành: thiếu về số lượng, chủng loại (trang thiết bị,
sách giáo khoa, đồ dùng dạy học đặc thù...),
- Đội ngũ giáo viên chưa có chuyên môn sâu về giáo dục hòa nhập để đáp
ứng nhu cầu học hòa nhập ngày càng tăng của trẻ khuyết tật.
- Nhận thức của cộng đồng về trách nhiệm của xã hội trong việc giáo dục
trẻ em mắc hội chứng tự kỷ chưa đầy đủ. Một số cha mẹ trẻ còn mặc cảm, chưa
tin tưởng vào khả năng của con mình. Một số phụ huynh có con bình thường lại
hơi e dè khi con mình học cùng lớp với bạn mắc chứng tự kỷ, đặc biệt là những
trẻ mắc ở mức độ nặng.
2.2.2 Kết quả khảo sát mức độ trẻ tự kỷ trong nhà trường năm học
2016- 2017
Bảng 1:
Số trẻ khảo sát

Tự kỷ mức độ nhẹ

Tự kỷ ở mức độ

trung bình

Tự kỷ ở mức độ
nặng

12 trẻ

3 trẻ /12 = 25 %

6 trẻ /12 = 50 %

3 trẻ/12 = 25 %

5


Bảng 2: Các căn cứ của chỉ số mức độ biểu hiện.
Mức độ
TK
Tự kỷ
mức độ
nhẹ

Biểu
hiện tự
kỷ ở
mức độ
trung
bình


Biểu
hiện tự
kỷ ở
mức độ
nặng

Phản xạ
mắt

Phản xạ
nghe

Trẻ có thể
Trẻ đôi khi
thích nhìn
không phản
vào gương
ứng, hoặc
hoặc ánh đèn quá phản ứng
hơn chúng
đối với một
bạn, có thể
số loại tiếng
chăm chú
động.
nhìn lên bầu
trời, hoặc
tránh nhìn
vào mắt
người lớn.

Trẻ có thể
Trẻ có thể
nhìn chằm
giật mình
chằm vào
hoặc che tai
bầu trời,
khi nghe thấy
tránh không
những âm
nhìn vào mắt thanh thường
người lớn, c
ngày.
giữ đồ vật rất
gần với mắt.

Trẻ luôn
tránh không
nhìn vào mắt
người lớn,

Sợ hãi hoặc
căng thẳng

Giao tiếp
không lời

Giaso tiếp
có lời


Trẻ đôi khi thể
hiện quá nhiều
hoặc quá ít sự
sợ hãi hoặc hồi
hộp khi so sánh
với trẻ bình
thường trong
tình huống
tương tự

Nhìn chung,
Non nớt
nói chậm.
trong việc
Hầu hết lời
dùng các đối
nói có nghĩa, thoại không
tuy nhiên có
bằng lời,
thể xuất hiện hoặc với tay
sự lặp lại máy tới cái mà trẻ
móc hoặc
muốn
phát âm bị
đảo lộn.

Trẻ đặc biệt
thể hiện sự sợ
hãi hoặc hơi
nhiều hoặc hơi

ít ngay cả so
với trẻ ít tháng
hơn trong tình
huống tương
tự.

Có thể không
nói. Khi nói,
giao tiếp bằng
lời có thể lẫn
lộn giữa
những lời nói
có nghĩa và
những lời nói
khác biệt như
là không rõ
nghĩa,

Trẻ quá phản
Luôn sợ hãi
ứng hoặc
ngay cả đã gặp
phản ứng
lại những tình
dưới mức
huống và đồ
bình thường
vật vô hại.
với âm thanh
ở một mức độ

khác thường
cho dù đó là
âm thanh nào

Không có lời
nói có nghĩa.
Trẻ có thể
kêu thét như
trẻ mới sinh,
kêu những
tiếng kêu kỳ
lạ hoặc như
tiếng kêu của
động vật,

Thông thường
trẻ không thể
diễn đạt không
bằng lời cái trẻ
cần hoặc
mong
muốn,và
không thể hiểu
được giao tiếp
không lời của
những người
khác.
Trẻ chỉ có thể
thể hiện
những cử chỉ

kỳ quái hoặc
khác thường
mà không rõ
nghĩa và thể
hiện sự không
nhận thức
được các ý
nghĩa liên
quan tới cử
chỉ hoặc biểu
hiện nét mặt
của những
6


người khác
Bảng 3: Kết quả khảo sát trên trẻ.

STT

Số trẻ
tự kỷ
KS

Mức độ tự
kỷ

1

Tự kỷ mức

độ nhẹ

2

Tự kỷ mức
độ trung
bình

3

12 Trẻ

Tự kỷ mức
độ nặng

Phản
xạ mắt

Phản
xạ
nghe

4/12
trẻ =
33 %
5/ 12
trẻ =
42 %

3/12

trẻ =
25%
5/ 12
trẻ =
42 %

Sợ hãi
hoặc
căng
thẳng
9/12
trẻ =
75 %
1/ 12
trẻ =
08 %

3/ 12
trẻ =
25 %

4/ 12
trẻ =
33 %

2/ 12
trẻ =
17 %

Giao

tiếp
không
lời
6/12
trẻ =
50 %
3/ 12 trẻ
= 25 %
3/ 12 trẻ
= 25 %

Giao
tiếp có
lời
6/12
trẻ =
50 %
4 / 12
trẻ =
33 %
2/ 12
trẻ =
17 %

2.3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc GD hòa nhập trẻ
tự kỷ tại trường:
Xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn trên, trong quá trình thực hiện tôi
đã áp dụng một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng,
giáo dục hòa nhập trẻ tự kỷ tại trường:
* Biện pháp 1. Xây dựng kế hoạch giáo dục hòa nhập và sắp xếp giáo

viên, phân chia trẻ tự kỷ về các lớp hợp lý.
* Xây dựng kế hoạch giáo dục hòa nhập
Việc chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục một trẻ bình thường đã khó, chăm sóc
nuôi dưỡng giáo dục trẻ khuyết tật càng khó hơn nhiều. Đó là một quá trình
không phải một tháng, không phải một năm mà trong nhiều năm tháng liên tục.
Kế hoạch là chương trình hành động tổng quát, là kế hoạch triển khai và
phân bố các nguồn lực cơ bản quan trọng để đạt được các mục tiêu cơ bản, toàn
diện và lâu dài của nhà trường nói chung. Với giáo dục hòa nhập cũng vậy, việc
xây dựng kế hoạch thực hiện trong cả năm học là việc cụ thể hóa các mục tiêu
cần đạt được trong cả năm học và các phương thức để đạt được mục tiêu ấy.
Việc xây dựng kế hoạch dài hạn cho cả năm học sẽ giúp cho người cán bộ quản
lý chủ động trong công tác chỉ đạo. Thông qua đó có thể triển khai các hoạt
động theo đúng lộ trình một cách khoa học, đồng thời có thể bổ sung, điều chỉnh
cho phù hợp với tình hình thực tế. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề
này, với mục tiêu là huy động 76 % trẻ khuyết tật trong độ tuổi đến trường, thực

7


hiện việc chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục hòa nhập cho trẻ có hiệu quả, trong kế
hoạch tôi đã đề ra lịch trình cụ thể như sau:
- Tháng 6 + 7: Phân loại trẻ Tự kỷ ở mức độ khác nhau, phát hiện kịp
thời những biểu hiện sớm để có biện pháp phối hợp cùng cha mẹ .
- Tháng 8 + 9: Sắp xếp, ổn định đội ngũ giáo viên, biên chế trẻ Tự kỷ vào các
nhóm, lớp phù hợp. Bồi dưỡng kiến thức về giáo dục hòa nhập cho giáo viên trong
lớp có trẻ Tự kỷ. Chỉ đạo giáo viên điều tra những thông tin cơ bản về trẻ, qua đó
xây dựng kế hoạch nhóm, lớp và kế hoạch giáo dục cá nhân cho trẻ tự kỷ.
- Những tháng tiếp theo: Thực hiện chế độ tặng quà đối với trẻ Tự kỷ học
hòa nhập tại trường.
+ Tiếp tục bồi dưỡng kiến thức về giáo dục hòa nhập cho giáo viên, quan

tâm nhiều hơn đến kĩ năng thực hành thông qua việc dự giờ, thăm lớp, tổ chức
các buổi kiến tập về giáo dục hòa nhập tại trường.
+ Hướng dẫn giáo viên cách ghi chép, đánh giá sự tiến bộ của trẻ qua mỗi
chủ đề.
- Tháng 4 + 5: Đánh giá trẻ cuối năm học, chuẩn bị hoàn thiện hồ sơ cá
nhân trẻ, bàn giao lại cho phụ huynh (đối với những trẻ Tự kỷ chuyển lên học
tiểu học).
+ Đánh giá kết quả giáo dục hòa nhập của nhà trường trong cả năm học, rút
kinh nghiệm cho năm học tiếp theo.
Mặc dù đây là công việc thường làm nhưng so với trước đây trong kế
hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học của nhà trường chúng tôi vẫn đưa giáo dục
hòa nhập vào và coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm học chứ
chưa xây dựng kế hoạch riêng dành cho các hoạt động giáo dục hòa nhập. Với
việc thực hiện kế hoạch như vậy chúng tôi vẫn tiến hành công tác giáo dục hòa
nhập song song với các nhiệm vụ khác. Tuy nhiên với biện pháp mới này sẽ giúp
cho việc triển khai các nhiệm vụ một cách cụ thể, chi tiết hơn, việc đánh giá kết
quả cũng đầy đủ hơn giúp cho hiệu quả giáo dục hòa nhập được tốt hơn. Qua
thực tế một năm học thực hiện biện pháp này giúp tôi quản lý các hoạt động giáo
dục hòa nhập có hiệu quả khoa học hơn, cập nhật thông tin được kịp thời hơn.
Việc điều chỉnh và bổ sung kế hoạch cũng dễ dàng hơn. Đặc biệt, trẻ Tự kỷ được
theo dõi sát sao hơn, đánh giá sự tiến bộ của trẻ được theo dõi có hệ thống đầy
đủ hơn.
* Sắp xếp giáo viên, phân chia trẻ tự kỷ về các lớp hợp lý.

8


Với đặc điểm chung của trường có 15 lớp, đội ngũ giáo viên đa số lại trẻ
tuổi đời, ít tuổi nghề, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều, không ít đồng chí lại
chưa làm mẹ. Trẻ Tự kỷ học hòa nhập trong trường lại có trẻ mới, có trẻ cũ đã

học tại trường. Vậy làm thế nào để vừa đảm bảo chất lượng chăm sóc giáo dục
chung mà vẫn tạo được cơ hội tốt nhất cho trẻ Tự kỷ?
- Ngay từ khi mới nhận trẻ vào trường, tôi đã chỉ đạo ban tuyển sinh biên
chế trẻ khuyết tật vào một lớp theo đúng độ tuổi. Thực hiện theo hướng dẫn của
điều lệ trường mầm non, mỗi một lớp mẫu giáo không quá 2 trẻ cùng một loại
khuyết tật. việc giảm sĩ số học sinh trong lớp có trẻ tự kỷ để tạo điều kiện cho
giáo viên có thêm thời gian và cho trẻ khuyết tật có thêm cơ hội được chăm sóc
chu đáo hơn.
- Không chỉ có vậy, chúng tôi đã sắp xếp giáo viên vào các lớp đó sao cho
ít nhất từ 1-2 giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong chăm sóc trẻ nhỏ, lựa chọn
những giáo viên có tính tình nhẹ nhàng, kiên trì, chu đáo, tỉ mỉ vào những lớp có
trẻ Tự kỷ. Bên cạnh đó không thay đổi 100% số giáo viên trong lớp. Thường là
chúng tôi giữ lại ít nhất một giáo viên theo trẻ chuyển lên lớp trên và nếu có thể
sẽ lựa chọn cô giáo mà trẻ yêu quí và gần gũi nhất.
Qua quá trình thực hiện biện pháp này, tôi nhận thấy trẻ được chăm sóc
rất chu đáo, có tiến bộ, yêu quí cô và bạn, cô giáo cũng hết lòng thương trẻ, dành
cho trẻ nhiều sự quan tâm hơn. Sau một năm học không có giáo viên hay trẻ Tự
kỷ nào cần luân chuyển lớp. Cha mẹ trẻ cũng rất yên tâm và tin tưởng vào cô
giáo, vào sự sắp xếp của nhà trường.
* Biện pháp 2. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng về
tầm quan trọng của giáo dục hòa nhập và vận động trẻ khuyết tật (Tự kỷ) ra
lớp học hòa nhập:
Nhận thức của cộng đồng xã hội, của phụ huynh và giáo viên cũng là một
trở ngại trong công tác giáo dục hòa nhập trẻ Tự kỷ trong trường mầm non. Trên
thực tế hiện nay, không phải trường, lớp nào cũng sẵn sàng đón nhận trẻ Tự kỷ
ra học hòa nhập. Trong khi đó, do còn hạn chế về nhận thức nên không ít phụ
huynh có con bị khuyết tật đã không nghĩ đến việc chạy chữa cho con mình
ngay từ khi còn bé, một số do mặc cảm nên không chịu thừa nhận con mình bị
Tự kỷ và không chịu đón nhận sự chia sẻ, giúp đỡ của cộng đồng. Thậm chí có
gia đình còn giấu kín, suốt ngày nhốt trẻ Tự kỷ trong nhà không cho đến trường.

Do đó việc can thiệp sớm đối với những trẻ Tự kỷ còn gặp nhiều khó khăn.

9


. Tại góc tuyên truyền của trường, lớp chúng tôi cũng có những bài viết
ngắn, những hình ảnh minh họa với những nội dung liên quan đến giáo dục hòa
nhập để tuyên truyền với phụ huynh trong trường, lớp.
Một góc tuyên truyền của lớp Hoa sen - trường mầm non Lam Sơn

Một góc tuyên truyền của lớp Hoa hồng - trường mầm non Lam Sơn

10


Không chỉ có vậy, căn cứ vào kết quả khảo sát đầu năm cho thấy số trẻ ở
dạng tự kỷ chiếm đa số trẻ khuyết tật trên địa bàn. Chúng tôi đã mời phụ huynh
dự hội thảo để nghe các chuyên gia nói chuyện . Qua buổi nói chuyện, bác sĩ đã
chia sẻ những nguyên nhân, biểu hiện và tầm quan trọng của việc phát hiện sớm
và can thiệp sớm đối với trẻ Tự kỷ nói chung và trẻ tự kỉ nói riêng. Ngay sau
buổi nói chuyện rất nhiều phụ huynh đã chủ động đến gặp bác sĩ, gặp ban giám
hiệu nhà trường chia sẻ một số nghi vấn và khó khăn của con mình. Một số phụ
huynh đã liên hệ với bác sĩ và đưa con đến khám để xác định bệnh. Đó là thành
công bước đầu của chúng tôi trong việc giúp cha mẹ trẻ Tự kỷ vượt qua rào cản
tự ti và sẵn sàng dành cho con mình cơ hội để hòa nhập với cộng đồng.
Ngoài ra trong các cuộc họp của các ban ngành đoàn thể trên địa bàn,
chúng tôi đã phối hợp với đội ngũ cộng tác viên dân số kế hoạch hóa gia đình,
các hội viên của các chi hội phụ nữ, đoàn thanh niên trên địa bàn cùng tuyên
truyền về tầm quan trọng của việc đưa trẻ tự kỷ sớm hòa nhập với cộng đồng.
Kết quả sau một năm học nhờ thực hiện tốt công tác tuyên truyền nên số

trẻ khuyết tật ra lớp học hòa nhập tại trường tăng lên, cha mẹ trẻ tự kỷ tin tưởng
hơn vào khả năng của con mình và tin tưởng hơn vào chất lượng chăm sóc nuôi
dưỡng, giáo dục hòa nhập trẻ tại trường .
* Biện pháp 4. Bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên và Quản
lý tốt hồ sơ cá nhân của trẻ tự kỷ:
* Công tác bồi dưỡng chuyên môn.
- Tuyên truyền vận động được trẻ Tự kỷ đến trường đã khó, song đó chưa
phải là mục tiêu duy nhất của giáo dục hòa nhập. Làm thế nào để trẻ tự kỷ có cơ
hội được rèn luyện, được chăm sóc, làm thế nào để khơi dậy tiềm năng cá nhân
ở mỗi một con trẻ không may bị thiệt thòi? Đó là những vấn đề mà mỗi chúng
tôi, những người đã, đang và sẽ làm mẹ đều trăn trở. Tuy nhiên, khó khăn ở
trường mầm non là giáo viên chưa được đào tạo, chưa được trang bị những kiến
thức về chăm sóc giáo dục trẻ Tự kỷ. Hầu hết mỗi người chúng tôi khi tiếp nhận
trẻ đều băn khoăn liệu mình có giúp gì được cho em bé này không? Nhưng rồi
với tấm lòng của những người mẹ hiền thứ 2, bằng tình yêu đối với trẻ thơ và
tình yêu đối với nghề nghiệp đã thôi thúc chúng tôi không ngừng tìm tòi, học hỏi
và tìm hiểu những thông tin liên quan đến vấn đề giáo dục hòa nhập. Biết những
thông tin đó nhưng không biết thế nào là đủ và phải áp dụng thế nào cho hiệu
quả. Với cương vị là người đứng đầu đơn vị tôi thấy việc trang bị những kiến
thức sơ đẳng nhất về giáo dục hòa nhập cho giáo viên là vô cùng cần thiết.

11


Ngay từ đầu năm học, tôi đã sưu tầm một số tài liệu với nội dung về trẻ
Tự kỷ, về vấn đề can thiệp sớm và tạo cơ hội cho trẻ Tự kỷ sớm hòa nhập ngay
từ lứa tuổi mầm non. Tôi đã tham khảo một số tài liệu của Viện chiến lược và
chương trình giáo dục dành cho các lớp tập huấn giáo viên dạy trong môi trường
hòa nhập.


- Do đặc điểm của trường tôi đa số khuyết tật đang học tại trường đều ở
dạng tự kỉ nên việc nghiên cứu tài liệu cũng có phần thuận lợi. Sau khi tìm kiếm
tài liệu, tôi chọn lọc những nội dung liên quan, tùy thuộc vào loại tật của trẻ để
hướng giáo viên nghiên cứu, tự học hỏi để hiểu hơn về chương trình giáo dục
hòa nhập , đặc biệt để tìm hiểu thêm những thông tin, cập nhật những kiến thức
cơ bản nhất giúp cho việc đón nhận, chăm sóc giáo dục trẻ hòa nhập.
- Công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên không chỉ dừng ở những
kiến thức về lý thuyết trên sách vở. Với những trẻ bình thường, trình độ nhận
thức của các trẻ tương đối đồng đều nên giáo viên có thể xây dựng một kế hoạch
dùng chung cho cả lớp. Tuy nhiên, với trẻ Tự kỷ thì khác, mỗi trẻ ở một dạng
khác nhau, lại có những trẻ tuy cùng một hội chứng tự kỷ nhưng mức độ nặng
nhẹ cũng khác nhau nên cần có biện pháp hỗ trợ và can thiệp khác nhau phù hợp
với từng trẻ. Tôi đã hướng dẫn giáo viên tìm hiểu, tập hợp những thông tin về
bản thân trẻ. Qua đó chúng tôi xác định được điểm mạnh, điểm yếu của mỗi trẻ.
Đây là căn cứ giúp cho việc xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân và lập hồ sơ
theo dõi trẻ trên cơ sở xác định đúng khả năng và nhu cầu của mỗi trẻ ở mỗi

12


dạng tật khác nhau. Bên cạnh đó trong môi trường hòa nhập cơ sở vật chất, trang
thiết bị, phương tiện, đồ dùng dạy học đặc thù chưa có nên việc xác định đúng
khả năng và nhu cầu của trẻ quyết định chất lượng của việc xây dựng kế hoạch
giáo dục cá nhân cho trẻ.
VD: Với cháu Trần Quang Đăng Anh là học sinh cũ của trường. Khi mới
vào trường cháu không hợp tác, chỉ phá đồ chơi, la hét, mọi hoạt động sinh hoạt
thường ngày như có sự mặc định: chỉ ngồi đúng 1 góc lớp, chỉ cho 1 cô giáo
chăm sóc và lại gần, không nói, không để ý đến ai. Sau một số năm học ở trường
cháu đã có sự tiến bộ, đã bắt đầu biết vào nhà vệ sinh khi cô hướng dẫn, bắt đầu
đi lại trong lớp. Năm học này qua khảo sát chúng tôi nhận thấy điểm mạnh của

cháu là thích nghe nhạc, thích chơi với các loại lô tô nhiều màu sắc nhưng lại
không có khả năng hợp tác, chỉ nói được một số từ đơn giản có 1 tiếng như: cô,
mẹ, ăn,… Chúng tôi đã dựa vào điểm mạnh này sử dụng âm nhạc để hướng cháu
vào một số hoạt động chung, chỉ đạo giáo viên lựa chọn, sưu tầm, tự làm một số
lô tô với những hình ảnh minh họa khác nhau. Lúc đầu chỉ là những hành động
như: rửa tay, rửa mặt, ăn cơm, đi ngủ, sau đó là ngồi học, xếp hàng, tập thể dục,
… Dùng những lô tô đó cho cháu chơi và hướng cháu nói theo cô để được nhận
lô tô, hình vẽ,…

Với cháu Nguyễn Đông Vũ ở lớp Sóc Nâu thì lại khác, là một trẻ tự kỷ
mới vào trường được xác định ở mức độ tương đối nặng. Suốt ngày cháu chỉ la
hét, đập phá đồ chơi, lăn ra khóc, không chơi với bất kì ai, không nói được chỉ ê
a như đứa trẻ 10 tháng tuổi, nói chung qua khảo sát ban đầu chưa thấy cháu có

13


điểm mạnh nào đặc biệt. Với trẻ này chúng tôi làm theo phương pháp thử và sai:
dùng nhiều cách thức khác nhau để thu hút cháu: cho cháu nghe nhạc, cho đồ
chơi mới, cho xem các đoạn phim ngắn, đưa cháu ra chơi với đồ chơi ngoài trời,
cho xem tranh ảnh,… Sau đó xác định được cháu thích nghe những loại nhạc sôi
động, có lời. Chúng tôi đã chỉ đạo giáo viên sưu tầm, lựa chọn các bài hát thiếu
nhi ngắn, rõ lời ca, giai điệu sôi nổi phù hợp với những động tác vận động đơn
giản như: Tập lái ô tô, làm chú bộ đội, trời nắng trời mưa,...
Sau khi đã xây dựng được kế hoạch cá nhân, một điều không thể thiếu là
áp dụng và đánh giá hiệu quả của kế hoạch trên thực tế. Tôi đã trực tiếp xuống
dự giờ, góp ý cho giáo viên. Tổ chức những buổi kiến tập thực hành tại những
lớp có trẻ khuyết tật.Việc dự giờ không chỉ tập trung vào các hoạt động học mà
chúng tôi quan tâm đến mọi hoạt động: có thể là giờ đón trẻ, giờ thể dục sáng,
hoạt động ngoài trời, hướng dẫn kĩ năng vệ sinh, hướng dẫn kĩ năng sống đơn

giản. Qua việc dự giờ, kiến tập đó đã giúp chúng tôi trau dồi hơn về kinh nghiệm
thực tế, rút kinh nghiệm cho những hoạt động khác.
Mặc khác tôi đã chỉ đạo giáo viên xây dựng nên những nhóm bạn bè,
đây là những thành viên được lựa chọn từ những trẻ bình thường trong lớp. Trẻ
đó phải nhanh nhẹn, hoạt bát nhưng lại phải được trẻ khuyết tật tin tưởng và sẵn
sàng giúp bạn khi có khó khăn và khi không có cô bên cạnh. Một việc tưởng
chừng như đơn giản lại không hề đơn giản. Nhưng với sự quan tâm, lòng kiên trì
nên ở mỗi lớp giáo viên của chúng tôi đã gắn kết được một số trẻ bình thường
với trẻ khuyết tật. Trong nhóm bạn đó trẻ được quan tâm trong mọi hoạt động:
được giúp đỡ trong giờ chơi, giờ học, giờ ăn và giúp đỡ bất cứ khi nào trẻ có
nhu cầu. Nếu nhu cầu đó đơn giản, trong khả năng thì nhóm bạn sẽ trợ giúp
(VD: nhắc nhở, dắt tay xếp hàng tập thể dục, đưa về bàn ăn, lấy giúp đồ dùng,
…), nếu đó là việc khó làm thì các bạn sẽ nhờ cô giúp đỡ. Nhờ đó giáo viên có
thể kiểm soát và kịp thời can thiệp khi trẻ gặp khó khăn.

14


Kết quả công tác bồi dưỡng chuyên môn cho thấy: Giáo viên đã tự tin hơn
khi tổ chức các hoạt động cho trẻ, chủ động đề xuất những thay đổi, điều chỉnh
kế hoạch giáo dục cá nhân cho phù hợp với sự tiến bộ của trẻ. Đặc biệt, giáo
viên không còn ngại vất vả hay lo sợ khi nhận trẻ khuyết tật vào lớp mình nữa.
Dù sự tiến bộ của trẻ chưa nhiều nhưng chúng tôi hiểu rằng việc chăm sóc giáo
dục trẻ khuyết tật cần có nhiều thời gian, cần nhiều sự cố gắng, kiên trì của
người giáo viên cũng như cần có sự quan tâm của cả gia đình và xã hội.
* Quản lý tốt hồ sơ cá nhân của trẻ Tự kỷ:
- Xây dựng kế hoạch, tập hợp những thông tin cơ bản về trẻ Tự kỷ là việc
làm vô cùng cần thiết. Nhưng mỗi năm, cùng với sự thay đổi của thời gian, trẻ
Tự kỷ cũng lớn dần lên và ít nhiều gì trẻ cũng có sự chuyển biến, thay đổi về
tâm lý, tính cách, hành vi cá nhân. Nhưng có một điều rất khó thay đổi ngay, đó

là khả năng thích nghi của trẻ với môi trường mới, với những người mới. Làm
thế nào để sau mỗi năm khi có sự luân chuyển trẻ, luân chuyển giáo viên thì việc
chăm sóc, giáo dục trẻ không bị gián đoạn?
- Để giải quyết khó khăn, vướng mắc trên chúng tôi đã lập cho mỗi trẻ
một bộ hồ sơ riêng, chỉ đạo giáo viên lưu giữ đầy đủ những thông tin về trẻ,
những kế hoạch đã thực hiện, những kết quả ghi chép sự tiến bộ của trẻ, cả
những sản phẩm do trẻ làm ra chúng tôi cũng lưu giữ lại (nếu có thể). Sau mỗi
tháng và cuối năm học chúng tôi phô tô một bản gửi về cho cha mẹ, bản gốc sẽ
được lưu giữ trong hồ sơ của trẻ để chuyển giao cho giáo viên sau. Hồ sơ này sẽ
được chuyển giao lại cho phụ huynh vào năm cuối khi trẻ rời trường mầm non
chuyển cấp hoặc vì một lý do nào đó trẻ đến một ngôi trường khác trong quá
trình học tập.
- Với cách làm như vậy, tôi nghĩ sau mỗi năm cơ hội dành cho mỗi trẻ Tự
kỷ sẽ nhiều lên, giáo viên cũng đỡ vất vả hơn khi đón nhận trẻ vào lớp, phụ
huynh sẽ yên tâm hơn vào khả năng của con, tin tưởng hơn vào người giáo viên
khi gửi con đến trường. Đồng thời đối với nhà trường nó giúp cho công tác quản
lý đầy đủ, khoa học, toàn diện hơn trong công tác giáo dục hòa nhập.

15


* Biện pháp 6. Phối hợp với phụ huynh và cộng đồng trong chăm sóc
giáo dục trẻ Tự kỷ học hòa nhập :
- Cũng giống như bao trẻ em khác, trẻ Tự kỷ ở lứa tuổi mầm non con yếu
ớt, còn non dại và đa số các em thường có biểu hiện kém về mặt thể chất. Hơn
mọi trẻ em khác trẻ Tự kỷ cần nhiều hơn sự yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ, quan
tâm của cha mẹ, người thân và của cả cộng đồng. Để giúp trẻ phát triển bình
thường, vượt lên số phận cần cho trẻ nhiều cơ hội can thiệp sớm: cơ hội được
học tập, được hòa nhập cộng động, được hưởng dịch vụ chăm sóc y tế và các
dịch vụ xã hội khác mà thiếu một trong những cơ hội đó trẻ sẽ không thể vượt

qua được khó khăn của mình để sống bình thường như những trẻ em khác.
Nhận thức rõ điều này nên khi nhận mỗi trẻ đến trường, điều đầu tiên sau khi
quan sát các con, chúng tôi đã gặp ngay cha mẹ trẻ để tìm hiểu thông tin. Qua đó để
nắm bắt những đặc điểm riêng, những thói quen của trẻ để trước khi giúp trẻ hòa
nhập được với môi trường ở trường, lớp mầm non, chúng tôi sẽ cố gắng tạo cho trẻ
một cảm giác an toàn vì được che chở, được yêu thương và đỡ cảm thấy xa lạ khi
mới đến trường. Đồng thời, chúng tôi chia sẻ kinh nghiệm chăm sóc nuôi dưỡng,
giáo dục trẻ với phụ huynh để tạo nên mối liên hệ mật thiết, đồng nhất về quan
điểm, cách thực hiện kế hoạch một cách có hiệu quả nhất.
- Bên cạnh phụ huynh có con bị tự kỷ, chúng tôi còn dùng những tấm
gương của các trẻ em khác cùng lớp trong những việc làm quan tâm chia sẻ,
giúp đỡ các bạn khuyết tật. Chúng tôi cũng động viên để các phụ huynh khác
hiểu và thông cảm, sẵn sàng để con mình chơi, học và giúp đỡ các bạn tự kỷ.
Chúng tôi cũng giải thích để phụ huynh thông cảm rằng: việc học và chơi hòa
nhập không chỉ mang lại cơ hội tốt đối với những trẻ em tự kỷ mà nó còn là cơ
hội để giáo dục đạo đức cho mọi trẻ em, là việc làm hướng tới mục tiêu xây
dựng một nền giáo dục nhân văn trong vòng tay nhân ái.
Hàng ngày, khi nhìn hình ảnh trẻ tự kỷ học và chơi hòa nhập bên cạnh
những trẻ em khác phụ huynh đã mỉm cười trìu mến. Nhiều cha mẹ trẻ Tự kỷ
chủ động đề xuất những biện pháp, những cách làm và xin tài liệu để kết hợp
chăm sóc con tại nhà. Những ngày hội, ngày lễ trẻ khuyết tật cũng nhận được sự
quan tâm nhiều hơn của Hội cha mẹ học sinh trong trường, của các ban ngành
đoàn thể khác. Dù sự quan tâm đó chưa có giá trị lớn về mặt vật chất nhưng đó
là những món quà vô giá về mặt tinh thần và mang đầy giá trị nhân văn.

16


2.4. Hiệu quả của công tác nâng cao chất lượng giáo dục trẻ tự kỷ học
hòa nhập trong nhà trường

* Kết quả khảo sát đầu năm
Bảng 1: Kết quả khảo sát đầu năm học.

STT

Số trẻ
tự kỷ
KS

Phản
xạ mắt

Phản
xạ
nghe

4/ 12
trẻ =
33 %
5/ 12
trẻ =
42 %
3/ 12
trẻ =
25 %

3/12
trẻ =
25%
5/ 12

trẻ =
42 %
4/ 12
trẻ =
33 %

Mức độ tự
kỷ

Phản
xạ mắt

Phản
xạ
nghe

Mức độ
biểu hiện
bình thường
Tự kỷ mức
độ nhẹ

3/12
trẻ =
25 %
5/ 12
trẻ =
42 %
3/ 12
trẻ =

25 %
1/ 12
trẻ =
8%

2/12
trẻ =
17%
7/12
trẻ =
58 %
2/ 12
trẻ =
17 %
1/ 12
trẻ =
8%

Mức độ tự
kỷ

1

Tự kỷ mức
độ nhẹ

2

Tự kỷ mức
độ Trung

bình

12 Trẻ

Tự kỷ mức
độ nặng

3

Sợ hãi
hoặc
căng
thẳng
9/12
trẻ =
75 %
1/ 12
trẻ =
08 %
2/ 12
trẻ =
17 %

Giao
tiếp
không
lời
6 / 12
trẻ =
50 %

3/ 12
trẻ =
25 %
3/ 12
trẻ =
25 %

Sợ hãi
hoặc
căng
thẳng
5 /12
trẻ =
42 %
6 /12
trẻ =
50 %

Giao
tiếp
không
lời
4/12
trẻ =
33%
3 / 12
trẻ =
25 %
5/ 12
trẻ =

50 %

Giao
tiếp có
lời
6/12
trẻ =
50 %
4 / 12
trẻ =
33 %
2/ 12
trẻ =
17 %

* Kết quả khảo sát cuối năm

STT

Số trẻ
tự kỷ
KS

1
2
12 trẻ
3
4

Tự kỷ mức

độ Trung
bình
Tự kỷ mức
độ nặng

0
1/ 12
trẻ =
8%

0

Giao
tiếp có
lời
4/12
trẻ =
33%
4/12
trẻ =
33 %
4 / 12
trẻ =
33 %
0

Sau một năm thực hiện một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng các
hoạt động giáo dục hòa nhập trẻ Tự kỷ tại trường mầm non Lam sơn, tôi đã đạt
được một số kết quả như sau:


17


- Việc xây dựng kế hoạch và đề ra các giải pháp phù hợp với yêu cầu và
tình hình thực tế của trường, lớp. Chính điều đó đã giúp công tác giáo dục hòa
nhập trong nhà trường đi đúng hướng, đúng tiến độ, đến nay đã đạt được mục
tiêu đề ra.
- Nhận thức của cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường, phụ huynh
và cộng đồng được nâng lên. Các hoạt động của giáo dục hòa nhập trong nhà
trường được thực hiện phù hợp, được chính quyền địa phương, gia đình và trẻ
em chấp nhận tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện. Hoạt động chăm sóc giáo dục
trẻ tự kỷ trong nhà trường đã nhận được sự quan tâm của cộng đồng và được coi
là nhu cầu của các gia đình có trẻ kém may mắn.
- Công tác quản lý giáo dục hòa nhập của nhà trường đã đạt được hiểu quả
cao hơn, giúp người quản lý nắm rõ hơn tình hình thực tế, kiểm soát chặt chẽ
các hoạt động giáo dục hòa nhập trong trường.
- Đã hình thành được mối liên hệ chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và
cộng đồng trong hợp tác, chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ khuyết tật.
- Trình độ chuyên môn của giáo viên được nâng lên, kinh nghiệm chăm
sóc giáo dục hòa nhập trẻ được tích lũy nhiều hơn. Người giáo viên đã tự chủ
hơn trong quá trình xây dựng kế hoạch, lựa chọn các nội dung giáo dục và cách
thức tiếp cận phù hợp hơn với trẻ tự kỷ trong lớp mình.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
- Kết luận
Qua chỉ đạo và tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục hoà nhập tại
trường trong năm học vừa qua, tôi đã rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
1. Muốn giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật nói chung và giáo dục hòa nhập
trẻ khuyết tật trong trường mầm non nói riêng thành công trước hết phải kể đến
sự quan tâm, nhận thức đúng, đủ và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp Uỷ
đảng, chính quyền, sự vào cuộc của các cấp, các ngành và toàn xã hội.

2. Cần không ngừng đẩy mạnh, nâng cao chất lượng các hoạt động truyền
thông, tư vấn giúp cộng đồng nhận thức đựơc tầm quan trọng, ý nghĩa và sự cần
thiết để phát hiện sớm và thực hiện can thiệp sớm về mọi mặt trong đó có giáo
dục hoà nhập ngay từ độ tuổi mầm non để tạo “Cơ hội vàng” cho trẻ tự kỷ 3.
Công tác bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên rất quan
trọng, quyết định chất lượng giáo dục hoà nhập. Việc lựa chọn giáo viên nòng

18


cốt trong việc xây dựng và thực hiện các hoạt động chuyên môn là tiền đề quan
trọng cho sự thành công của giáo dục hoà nhập.
4. Một điều không thể thiếu đó là cần trang bị cho cha mẹ trẻ tự kỷ những
kiến thức, kĩ năng chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ khuyết tật ngay tại nhà để
công tác chăm sóc giáo dục trẻ tự kỷ được thống nhất về quan điểm, đồng nhất
trong cách làm và đồng tâm hướng tới mục tiêu chung là đưa trẻ tự kỷ sớm hòa
nhập được với cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng đội ngũ cộng
tác viên trong các tổ dân phố, những người sẽ giúp cho cha mẹ, giúp cho cộng
đồng phát hiện, có biện pháp can thiệp sớm kịp thời với trẻ tự kỷ
- Kiến nghị
Để công tác chăm sóc giáo dục hòa nhập trẻ tự kỷ nói chung và giáo dục
hòa nhập trẻ mầm non nói riêng thực sự đi vào chiều sâu và đạt kết quả cao như
sự mong đợi, tác giả xin có một số kiến nghị như sau:
+ Cung cấp thêm nguồn sách hướng dẫn, tài liệu tham khảo để phục vụ
giáo viên trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ tự kỷ học hòa nhập.
+ Quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm quản lý
và giảng dạy cho đội ngũ cán bộ, giáo viên các trường mầm non có trẻ tự kỷ học
hòa nhập.
Tôi xin chân thành cám ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Thanh Hóa, ngày 10 tháng 04 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.

Người thực hiện

Phạm Thị Hòa

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chơi mà học – Trò chơi dành cho trẻ em khuyết tật học hòa nhập của
Nhà xuất bản giáo dục năm 2007
2. Các tài liệu tập huấn dành cho giáo viên mầm non với những nội dung
giáo dục hòa nhập cho trẻ có khó khăn về học, CPTTT, Ngôn ngữ, khiếm thị,
vận động của Viện khoa học giáo dục – Trung tâm NCGD trẻ khuyết tật năm
2002, 2003, 2004, Quyền trẻ em
3. Luật giáo dục 2005
4. Luật người khuyết tật 2010,...
5. Một số bài viết trên mạng với nội dung về giáo dục hòa nhập.
6. Quyết định số 23/2006/QĐ-BGD&ĐT Quy định về giáo dục hòa nhập
cho người khuyết tật, tàn tật,
7. Sách: “100 hoạt động phát triển kỹ năng cho trẻ khuyết tật tuổi mầm non
học hòa nhập” của nhà xuất bản Hà Nội.
8. Sách chuyên đề: “Tự kỷ trẻ em” do hội dinh dưỡng Việt Nam, xuất bản:
27/5/2009.
9. Tài liệu Tổ chức các hoạt động giáo dục hòa nhập cho trẻ mầm non có
khó khăn về nói vủa Bộ GD&ĐT, ban hành năm 1999.

10. Tài liệu giáo dục hòa nhập cho trẻ có khó khăn về nghe lứa tuổi mầm
non của Bộ GD&ĐT, ban hành năm 1999.
11. Tài liệu tập huấn những vấn đề cơ bản về can thiệp sớm, giáo dục hòa
nhập trẻ khuyết tật dành cho giáo viên mầm non của Trường CĐSP TW-Khoa
GDĐB năm 2006.

20


MỤC LỤC
1.

1.1
1.2
1.3
1.4
2.

2.1
2.2
2.3
2.4
3.

MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Cơ sở lý luận của hoạt động giáo dục hòa nhập trẻ mắc chứng
tự kỷ tại trường mầm non Lam Sơn
Thực trạng của hoạt động giáo dục trẻ hòa nhập, đặc biệt hội
chứng tự kỷ tại trường mầm non Lam Sơn.
Một số biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc GD hòa nhập
trẻ tự kỷ tại trường
Hiệu quả của công tác nâng cao chất lượng giáo dục trẻ Tự kỷ
học hòa nhập trong nhà trường

1
1
3
3
3
3
3
5
7
16

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

18

* Tài liệu tham khảo

20


21


22



×