1. Mở đầu.
1.1. Lý do chọn đề tài.
Tăng cường các biện pháp chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số
đảm bảo tất cả trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số được chuẩn bị tiếng Việt trước khi vào
lớp 1 đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của trường mầm non có học sinh
là người dân tộc thiểu số, Chính phủ đã ra quyết định số 1008/ QĐ-TTg ngày
02/6/2016 của thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án “ Tăng cường tiếng Việt cho trẻ
Mầm non học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020 định hướng
đến năm 2025”, trong những năm học gần đây, chuyên đề giáo dục “Dạy tiếng việt
cho trẻ vùng dân tộc thiểu số” được xác định là chuyên đề trọng tâm trong các trường
Mầm non vùng dân tộc thiểu số, với mong muốn để thực hiện có hiệu quả ngày một
nâng cao chất lượng sử dụng tiếng Việt cho trẻ em là người dân tộc thiểu số.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của
giáo dục mầm non nhất là ngôn ngữ giao tiếp. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp,
học tập và vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ
em. Bên cạnh đó ngơn ngữ cịn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện
bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và chuẩn mực hành vi văn hóa.
Cẩm Châu là một xã vùng 135 đặc biệt khó khăn của chính phủ nằm ở phía
tây nam huyện Cẩm Thủy, cuộc sống của bà con nhân dân trong xã chủ yếu làm
nghề nông nghiệp với trên 90% dân số là người dân tộc thiểu số dân tộc mường và
dân tộc Dao. Khi trẻ mẫu giáo ở nhà với ông bà, bố, mẹ, chủ yếu là giao tiếp bằng
“Tiếng dân tộc Dao, Tiếng dân tộc Mường” vì vậy khi trẻ đến trường trẻ việc nói
được tiếng phở thơng chưa thành thạo, một số ít đã hiểu tiếng phở thơng nhưng sử
dụng trong giao tiếp cịn hạn chế, trẻ thường nói trống khơng nói chưa đủ thành
phần ngữ pháp khơng đủ từ trong câu, hay nói cịn lẫn tiếng dân tộc, nhất là trong
quá trình đặt câu hỏi sắp xếp từ trong câu lộn xộn không đúng nghĩa, nên gặp rất
nhiều khó khăn trong việc giao tiếp và tiếp thu kiến thức của trẻ.
Đối với trẻ em mầm non nói chung và trẻ 4-5 t̉i nói riêng, trẻ rất nhạy cảm
với nghệ thuật ngôn từ. Âm điệu, hình tượng của các bài thơ. Những câu chuyện cở
tích, thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ. chính vì vậy cho trẻ tiếp xúc với văn học là cho
trẻ tiếp xúc với ngôn ngữ chất lượng cao vì ngôn ngữ trong tác phẩm văn học được
chọn lọc các từ ngữ đẹp rất tinh tế sẽ đến gần với trẻ dần trở thành vốn từ cho trẻ
trong quá trình sử dụng và giao tiếp của trẻ hàng ngày.
Muốn nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, trước hết phải giúp trẻ tạo
điều kiện cơ bản để các hoạt động hàng ngày trong trường mầm non được tổ chức
đạt hiệu quả cao nhất là hoạt động giao tiếp thường xuyên giữa cô và trẻ cũng như
hoạt động trẻ khám phá khoa học và trải nghiệm cùng bạn bè, nhất là việc giúp trẻ
sử dụng thành thạo tiếng phổ thông trong giáo tiếp, đặc biệt và việc giúp trẻ nói rõ
ràng mạch lạc nói đủ câu từ bằng tiếng Việt, khắc phục được việc nói trống khơng
1
khi giao tiếp, hay sử dụng tiếng dân tộc của trẻ đây là điều kiện cần thiết giúp trẻ
trong việc giao tiếp với mọi người xung quanh mạnh dạn tự tin chuẩn bị tốt các
điều kiện vào lớp 1 sau này
Vậy làm như thế nào để học sinh khi đến trường có thể giao tiếp với cơ với
bạn và với những người xung quanh các cô trong trường bằng tiếng phổ thông một
cách thành thạo, đủ từ trong câu, khắc phục được việc nói trống, nói tiếng dân tộc
đặc biệt là giúp trẻ biết sử dụng tiếng việt bằng những từ ngữ đẹp mang tính giáo
dục văn hóa cao từ suy nghĩ đó tơi đã chọn đề tài " Mợt số biện pháp dạy trẻ mẫu
giáo 4-5 tuổi là người dân tộc thiểu số phát triển ngôn ngữ giao tiếp thông qua
dạy trẻ kể truyện " để thực hiện trong năm học tìm ra các biện pháp tổ chức hoạt
động có hiệu quả khắc phục các tồn tại trong quá trình tổ chức hoạt động dạy trẻ
mẫu giáo 4-5 tuổi là người dân tộc thiểu số biết sử dụng tiếng việt rõ ràng mạch lạc
trong giao tiếp.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Với đề tài này mục đích nghiên cứu nhằm để tìm ra các biện pháp tổ chức
phát triển ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số lớp mẫu giáo 4-5 tuổi trường
mâm non Cẩm Châu đạt hiệu quả.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu tổng hợp một số biện pháp dạy trẻ Mẫu giáo 4- 5 tuổi người dân
tộc thiểu số phát triển ngôn ngữ giao tiếp thông qua dạy trẻ kể chuyện.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu tài liệu chuyên đề liên quan đến dạy tiếng Việt cho trẻ người
dân tộc thiểu số, nghiên cứu tài liệu cho trẻ mầm non làm quen với tác phẩm văn học
và các tài liệu liên quan đến cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế của lớp.
Vận dụng các phương pháp qua nghiên cứu tài liệu sát với tình hình thực tế
của trẻ trong lớp.
Khảo sát thống kê chất lượng của trẻ trước - trong và sau một thời gian thực
hiện. Để so sánh kết quả.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Ở lứa tuổi mầm non đây là lứa tuổi trẻ học nói, chính vì vậy việc cung cấp
vốn từ tiếng Việt cho trẻ, đặc biệt là các trẻ dân tộc thiểu số hay sử dụng tiếng mẹ
đẻ của trẻ nên việc cho trẻ tiếp nhận tiếng phổ thông là vô cùng quan trọng. Vì vậy
việc cung cấp vốn từ tiếng phổ thông cần được quan tâm, nhằm hình thành phát
triển những kỹ năng cần thiết cho trẻ sau này.
2
Qua quá trình nghiên cứu về ngôn ngữ của trẻ dân tộc thiểu số, cho thấy việc
làm quen tiếng Việt và chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số có tác động rất
lớn đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ sau này.
Quá trình học tiếng Việt của trẻ dân tộc thiểu số phụ thuộc rất nhiều vào giáo
viên, vì trong mỗi chủ đề chủ điểm giáo viên sẽ dạy trẻ cái gì và cần dạy như thế
nào để trẻ dễ hiểu, dễ nhớ, hứng thú tham gia vào các hoạt động, phát huy được
tính tích cực chủ động sáng tạo ở trẻ.
Ngôn ngữ cho trẻ giao tiếp là một chủ thể tích cực, là tiền đề để trẻ tích cực
giao tiếp với bạn bè và chủ động giao tiếp. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta sử
dụng lời nói để trị chuyện, đàm thoại, thảo luận, trình bày những hiểu biết, suy
nghĩ, giải thích một vấn đề nào đó trong cuộc sống như: Kể lại được sự việc, câu
chuyện đã được nghe, được chứng kiến, hay tự mình nghĩ ra, sáng tạo ra. Trẻ cần
tập nghe, hiểu lời nói của cơ của những người xung quanh. Sau đó tập trình bày suy
nghĩ và sự hiểu biết của mình theo ngôn ngữ tiếng Việt.
Muốn phát triển ở trẻ kỹ năng, hiểu và nói được ngơn ngữ tiếng Việt, trước hết
phải cuốn hút trẻ tham gia vào hoạt động phát triển ngơn ngữ qua trị chuyện, đàm
thoại, đọc cho trẻ nghe và đặc biệt hơn để phát tiển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu
số cho trẻ học thông qua kể chuyện trong tác phẩm văn học là vô cùng quan trọng
nhưng hình thành như thế nào đây mới thật là điều không phải dễ.
Trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số bắt đầu học tiếng Việt trên cơ sở kinh
nghiệm tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Việt. Môi trường giao tiếp tiếng Việt của
trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số thu hẹp cả về mặt không gian lẫn thời gian (trong
phạm vi trường lớp mầm non).Việc học tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số
chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất và sự giao thoa ngôn ngữ giữa tiếng mẹ đẻ
với tiếng Việt.
Sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc, trong đó có khía cạnh ngơn ngữ cũng
ảnh hưởng tới việc học tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số. Sự khác biệt về
điều kiện sống của các dân tộc thiểu số có tác động nhất định đối với việc học tiếng
Việt của trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số.
Một số dân tộc sống ở khu vực gần nơi có nhiều người Kinh sinh sống, tiếng
Việt trở thành ngôn ngữ giao tiếp chung giữa các dân tộc trong cộng đồng đó nên
việc học tiếng Việt của trẻ có nhiều thuận lợi. Một số dân tộc sống ở vùng sâu, điều
kiện sống tách biệt, hoặc khu vực chỉ có một dân tộc thuần túy, khơng có nhu cầu
giao tiếp giữa các dân tộc với nhau và tiếng Việt không phải là ngôn ngữ giao tiếp
chung trong cộng đồng, chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp nên trẻ em ở mơi
trường này chỉ có duy nhất kinh nghiệm ngôn ngữ trong phạm vi tiếng mẹ đẻ.
Bằng các hình tượng văn học mở ra cho trẻ cuộc sống với xã hội và thiên
nhiên các mối quan hệ xã hội qua lại của con người những hình tượng đó giúp trẻ
nhận thức được tính rõ ràng, chính xác của từ ngữ trong tác phẩm văn học .
3
Với nhiệm vụ khơi dậy ở trẻ tình yêu đối với từ ngữ nghệ thuật thông qua cách
đọc kể chuyện diễn cảm, kể lại các tác phẩm văn học mà cô giáo đã mang đến cho
trẻ cao hơn nữa là cho trẻ đóng kịch trẻ thể hiện tái tạo lại các tác phẩm văn học.
Chính vì vậy để chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông thì ngay từ khi còn ở
trường mầm non phải trang bị cho trẻ một vốn hiểu biết về tiếng phổ thông phải
giúp trẻ hiểu và nói được tiếng phở thơng đặc biệt là ngơn ngữ giao tiếp.
2.2. Thực trạng vấn đề.
2.2.1. Thuận lợi.
Bản thân là giáo viên là người dân tộc thiểu số lại là người dân tộc dao hiểu
được ngôn ngữ của trẻ vì ngơn ngữ của trẻ trong lớp tồn bộ là trẻ dân tộc dao và
dân tộc mường nên cô hiểu rất rõ về trẻ, đó cùng là một thuận tiện rất lớn cho cơ
khi trẻ nói tiếng dân tộc trong những giờ học, giờ chơi thì cơ có thể sữa sai cho trẻ
kịp thời, bản thân cơ cũng có trình độ trên chuẩn về chuyên môn, nhiệt tình yêu
nghề mến trẻ, ở lớp trẻ có cùng một độ t̉i.
Được sự quan tâm tạo điều kiện của ban giám hiệu nhà trường, đầu tư về cơ
sở vật chất tương đối đầy đủ cho lớp .
Được sự quan tâm tín nhiệm và tin cậy sự phối hợp tích cực của phụ huynh.
Được sự quan tâm của phịng giáo dục tở chức lớp tập huấn chuyên đề
“Hướng dẫn chuẩn bị tiếng việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số trong thực
hiện chương trình giáo dục mầm non.” Chính phủ đã ra quyết định số 1008/ QĐTTg ngày 02/6/2016 của thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án “ Tăng cường tiếng
Việt cho trẻ Mầm non học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020
định hướng đến năm 2025”
2.2.2. Khó khăn.
Năm học 2016 - 2017 được sự phân cơng chủ nhiệm lớp 4-5 tuổi với 41% trẻ
là người dân tộc Dao, 59% trẻ là người dân tộc Mường thường xuyên sử dụng tiếng
mẹ đẻ khi ở nhà, khi đến lớp số rất ít biết tiếng phở thơng, khi giao tiếp trẻ thường
nói trống khơng nói thiếu thành phần ngữ pháp, trẻ nói tiếng Việt khơng rõ ràng
cịn lẫn lộn giữa tiếng việt với tiếng dân tộc mình nhất là tiếng Mường, dẫn đến sự
hòa đồng số trẻ trong lớp của hai dân tộc gặp khó khăn.
Khi ở lớp trẻ chưa tự tin khi giao tiếp với cô giáo và các bạn.
Đồ dùng trực quan cịn ít chưa đa dạng phong phú, thẩm mỹ chưa đạt, giá trị
sử dụng chưa cao. Đặc biệt là đồ dùng cho trẻ hoạt động cịn ít .
Phụ huynh phần lớn là làm nơng nghiệp, nên gặp rất nhiều khó khăn về việc
hỗ trợ đóng góp kinh phí để tạo góc hoạt động văn học cho trẻ.
4
Khi dạy trẻ làm quen với các tác phẩm văn học, trẻ chưa hứng thú trả lới câu
hỏi của cô trong đàm thoại chuyện nên việc dạy trẻ kể lại chuyện sử dụng ngơn ngữ
văn học cịn hạn chế
2.2.3. Kết quả khảo sát thực trạng đầu năm.
TT
Tiêu chí
Tstrẻ
Đạt
Strẻ
Chưa đạt
%
Strẻ
%
1
Nói thành thạo rõ ràng tiếng phổ
thông
22
7
31%
15
69%
2
Trẻ hứng thú nghe kể chuyện và
kể lại chuyện
22
8
36%
14
64%
3
Biết thể hiện ngôn ngữ tiếng việt
để kể chuyện thể hiện khi đóng
kịch
22
4
22%
18
78%
4
Thể hiện được sự giao tiếp bằng
tiếng việt thường xuyên rõ ràng
nói đủ câu
22
2
9%
20
91%
Nhìn vào kết quả kháo sát số trẻ biết sử dụng tiếng phổ thơng khi giao tiếp
cịn hạn chế rất nhiều
3. Các biện pháp tổ chức thực hiện.
3.1. Biện pháp 1: Tạo môi trường hoạt động thuận lợi cho trẻ được tiếp
xúc với các tác phẩm văn học.
Tạo môi trường cho trẻ hoạt động là rất cần thiết, đặc biệt là môi trường cho
trẻ được thường xuyên tiếp xúc với các tác phẩm văn học để thông qua tác phẩm
văn học giúp trẻ phát tiển ngơn ngữ tiếng Việt chính xác hơn.
Hiện nay, nếu cô tạo được môi trường hoạt động cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ
kích thích trẻ phát triển ngơn ngữ, tham gia vào các hoạt động và kết quả đạt rất
cao. Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã đi sâu vào tạo môi trường bằng cách đưa
hình ảnh nhân vật của các câu chuyện nổi bật vào góc văn học và một số góc trong
và ngồi lớp học, thể hiện trên các mảng tường vẽ và sưu tầm một số bộ truyện
tranh ngoài chương trình để đưa vào giảng dạy, vận động phụ huynh đóng góp
truyện tranh đưa vào góc văn học cho trẻ hoạt động thường ngày, đây là một việc
rất cần thiết bởi vì khi cho trẻ tiếp xúc với môi trường xung quanh chúng ta đã làm
tăng thêm vốn hiểu biết của trẻ, làm cho kiến thức của trẻ ngày càng phong phú.
5
Đối với Mẫu giáo nhỡ tôi thường sử dụng hình thức khó hơn Mẫu giáo bé. Cụ
thể như khi trẻ đã thuộc chuyện, tơi thường cho trẻ đóng kịch theo nội dung câu
chuyện. Tơi biết phương pháp dạy trẻ đóng kịch là phương pháp khó. Nhưng khi
hướng dẫn trẻ đóng kịch tôi đã rèn cho trẻ kể diễn cảm, rèn cho trẻ tinh thần học
tập, tập thể, trí nhớ tưởng tượng, óc sáng tạo và tính độc lập giúp cho trẻ kết hợp
hài hồ giữa ngơn ngữ với bộc lộ trạng thái tâm lý tình cảm cùng với hành động để
thể hiện tính cách của nhân vật.
Ngồi việc dạy trẻ đóng kịch, tơi thường xun xây dựng kế hoạch cho trẻ “Kể
chuyện sáng tạo” theo từng chủ đề.
Tôi luôn xác định mơi trường cho trẻ hoạt động là nơi có các nguồn thơng tin
phong phú, khuyến khích tính độc lập và hoạt động tích cực của trẻ. Đây là mơi
trường giúp trẻ tìm tòi, khám phá và phát hiện nhiều điều mới lạ, hấp dẫn trong
cuộc sống, các kiến thức, kĩ năng của trẻ được củng cố và bổ sung.
Môi trường phù hợp, đa dạng phong phú sẽ gây hứng thú cho trẻ trong học tập
và xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa giáo viên với trẻ, giữa trẻ với trẻ.
Những câu chuyện được thể hiện trên các mảng tường trong khơng gian của
lớp học trong các góc nhất là góc làm quen với tác phẩm văn học, góc học tập hay
góc âm nhạc, một số bức tranh hình ảnh to đã giúp trẻ tri giác, trẻ được thảo luận,
bàn bạc về câu chuyện đó, khi trẻ trao đởi với nhau, trò chuyện và kể những gì mà
trẻ đang tranh luận về các bức tranh của các câu chuyện
Hình ảnh cơ và trẻ cùng nhau trị trụn trong góc truyện
6
Khi trẻ vào các góc có tranh và đồ dùng cô đều gợi cho trẻ kể lại câu chuyện
trong các bức tranh, trong quá trình trẻ kể cô phải sửa sai cho trẻ ngay. Từ đó trẻ
biết vận dụng những kiến thức đó vào kể chuyện diễn cảm hay giúp trẻ đóng kịch
trong những câu chuyện trẻ được học.
Ví dụ: Khi trẻ xem tranh chuyện " Tích Chu" trong chủ điểm gia đình trẻ dân
tộc mường hay gọi bà là “ Mú” cô sữa sai ngay cho trẻ đọc từ “mú"thành từ “bà”
nhé, hay cô chỉ vào hình ảnh cháu trai thì các trẻ dân tộc dao hay nói đó là “ Tầm
nau” nghĩa là “Anh trai” cô sữa được các từ trẻ hay dùng ở nhà để trẻ tránh được
trong khi trẻ kể lại chuyện thể hiện các câu đối thoại trong chuyện không bị gián
đoạn, tương tự các chủ điểm khác cơ cũng có các bức tranh về các câu chuyện để
trẻ được tiếp xúc hàng ngày các câu đối thoại trong các câu chuyện cơ cũng trị
truyện gần gũi trẻ hơn để giúp trẻ sử dụng thường xun tiếng phở thơng từ đó sẽ
cung cấp vốn từ mới cho trẻ trẻ sẽ biết vận dụng vào trong giao tiếp mỗi ngày khi ở
lớp hay ở nhà.
Hình ảnh cô giúp trẻ xem tranh, con rối trẻ đang xem để kể lại chuyện
7
Điều đặc biệt hơn nữa tôi đầu tư suy nghĩ và làm ra các loại rối tay cho trẻ
hoạt động. Thực tế tôi nhận thấy đồ dùng làm bằng rối tay hầu như ở các lớp khơng
có trẻ hoạt động, qua nghiên cứu tìm tịi tơi đã vận dụng làm từ các quả bóng, chởi
rơm, đĩa nhựa đồ chơi, vải vụn ...để làm mặt con rối sau đó dùng vải hoặc len móc
làm váy, thân tay để khi trẻ sử dụng khơng bị thơ cứng. Các khn mặt có thể thay
đổi tùy theo nội dung, nhân vật của câu chuyện trẻ kể .
Ví dụ: Trong bài thơ “ Mèo đi câu cá” cô chỉ vào nhân vật rối về con mèo thì
trẻ sẽ liên tưởng đến bài thơ, nhưng nhiều trẻ hay dùng từ hay gọi tên các nhân vật
chưa đúng với tiếng phổ thông như tiếng dao con mèo được gọi là “Mù lầm” mèo
đi câu cá trẻ lại đọc là “Mù lầm mình bặt beo” từ này có nghĩa là “ Mèo đi câu
cá” hay các cháu dân tộc mường thì hay nói “ Cài thau bặt cà’’ nghĩa là “Cái rõ
bắt cá’’ khi trẻ nói như vậy thì tôi sửa lại và cho trẻ đọc lại những từ đó 3 lần để trẻ
khắc sâu từ ngữ tiếng việt
Môi trường lớp học phù hợp với trẻ luôn tạo cho trẻ khả năng và thích thú khi
tham gia vào bài học và đặc biệt là việc tiếp thu và sử dụng tiếng phở thơng của trẻ
có kết quả hơn.
Với các chủ điểm khác tôi cũng làm như vậy và đã phát huy được khả năng sử
dụng tiếng việt của trẻ đạt kết quả cao góp phần làm cho trẻ em dân tộc thiểu số và
đặc biệt là trẻ em người “Dao” ở q tơi khơng cịn lạ lẫm với tiếng phổ thông khi
giao tiếp với mọi người xung quanh như ông bà, bố mẹ và mọi người xung quanh,
mà trẻ tự tin hơn, mạnh dạn hơn, để trả lời bằng tiếng phổ thông (Tiếng việt).
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học để giúp trẻ kể chuyện chú ý sửa sai
cho trẻ khi sử dụng từ tập trung cho trẻ nói, kể chuyện là một việc làm vơ cùng
quan trọng bởi nó là chỗ dựa, là cơ sở vững chắc cho trẻ làm giàu vốn từ giúp trẻ tự
tin trong giao tiếp. Địi hỏi cơ giáo phải biết tạo cảm xúc cho trẻ bằng các con vật
ngỗ nghĩnh, đáng yêu, đồng thời cũng phải biết hướng lái, gợi mở cho trẻ có tình
huống và sử lý kịp thời khi trẻ phát âm ngọng hay phát âm sai từ đó trẻ mới tích
cực khi tham gia hoạt động kể chuyện sáng tạo. Qua nội dung các bức tranh, các
nhân vật, các con rối trẻ được xem và nói lên nhận xét của mình về các nhân vật
đó, như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách phong phú và đa dạng hơn.
3.2. Biện pháp 2: Dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ để
trẻ kể lại chuyện rèn luyện trẻ sử dụng tiếng việt .
Bên cạnh với một môi trường hoạt động với đầy đủ các loai đồ dùng trực quan
đa dạng phong phú, thu hút hứng thú tham gia kể lại chuyện của trẻ thì chúng ta
còn phải dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ để thể hiện lời kể
8
Hình ảnh cơ sử dụng mơ hình kể chụn giúp trẻ hiểu về nhân vật truyện
Khi dạy trẻ kể lại tôi đã chuẩn bị cho trẻ những tập truyện tranh, các bộ mơ
hình sưu tầm bằng cách đọc kể, trị truyện cho trẻ nghe ở các giờ đón trả trẻ và giờ
chơi hàng ngày.
Ví dụ : Cơ có mơ hình nói về các con cơn trùng, có trẻ Dao nói “ con chuồn
chuồn” thì trẻ lại đọc là “Nom kèn búng’’, cô cần sữa ngay bằng cách cho trẻ phát
âm lại là đây là “con chuồn chuồn” và sau đấy cho các trẻ khác phát âm lại để
tránh các trẻ khác lại phát âm sai.
Đây là hình thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học nói đúng tiếng phở
thơng cũng như nói đủ câu đủ từ ngữ tiếng việt, đây là cơ sở cho trẻ có kiến thức
vững chắc khi sử dụng tiếng Việt thực hiện kể lại chuyên. Qua cách làm quen như
vậy trẻ biết thể hiện tính cách của các nhân vật thơng qua ngơn ngữ nói của mình
trẻ sẽ chú ý đến các từ ngữ tiếng Việt cô đã chuyển từ tiếng dân tộc sang tiếng phổ
thông.
9
Ví dụ : Bà tiên ơng bụt tốt bụng, thì trẻ lại đọc “ Mú tiên” tên địa chủ tham
lam độc ác, gà con xinh đẹp đáng yêu thì trẻ đọc “Con kha’’....những từ ngữ này
khi trẻ nói nhiều lần sẽ thành thói quen. Tơi tở chức cho trẻ xem thêm mô hình
hoặc trang trại nuôi gà của bác nông dân Con gì đây? Trẻ trả lời là “ Con kha” có
nghĩa là “ Con gà”. Khi nghe trẻ trả lời như vậy tơi sẽ cho 1 trẻ khác nói lại bằng
tiếng phổ thông 1-2 lần tôi sẽ củng cố lại sau đó tơi cho cả lớp nhắc lại bằng tiếng
phổ thông “Con gà ạ’’ và trực tiếp cho những trẻ nói sai phát âm lại 3 lần.
Bên cạnh đó tơi cịn định hướng cho trẻ quan sát các tranh chuyện, cho trẻ
xem qua đĩa hình ảnh các câu chuyện. Đồng thời kết hợp tri giác với đàm thoại
giữa cô và trẻ, giúp trẻ nhận xét đánh giá nội dung truyện một cách chính xác và
nói lên ý tưởng của mình qua sự nhận thức của trẻ.
Tôi dạy trẻ kể chuyện theo từng nhóm, theo thời gian thực hiện một hoặc hai
tuần kết hợp lồng ghép các môn học khác các trò chơi để củng cố và khắc sâu kiến
thức mở rộng vốn hiểu biết về thế giới xung quanh cho trẻ.
Sau đây là môt số cách dạy trẻ sử dụng đồ dùng trực quan.
Dạy trẻ sử dụng rối tay dạy trẻ sử dụng từng con vật, kết hợp với lời nói ngơn
ngữ biểu cảm cùng với cách diễn rối qua cử động các con rối đi lại
Hình ảnh cơ hướng dẫn trẻ sử dụng cầm rối kể lại chuyện
10
Ví dụ: Dạy chuyện : “ Món q của cơ giáo” độ tuổi: 4- 5 tuổi, tôi đã sử
dụng làm sa bàn mơ phỏng theo nội dung câu chuyện đó là các con giống rối: cô
giáo Hươu sao, Cún đốm, Gấu xù, Mèo khoang, sáng tạo làm mô hình lớp học có
cây cỏ, hoa, đồ dùng, đồ chơi.. trong lớp, đặc biệt là tôi làm các con giống này đều
di chuyển được. Tơi cịn sưu tầm qua mạng tìm kiếm các nhân vật ngộ nghĩnh lắp
ghép xây dựng qua các băng đĩa hình để dạy trẻ. Qua đó các tiết dạy sẽ đạt hiệu quả
cao.
3.3. Biện pháp 3. Lồng ghép tích hợp nội dung các hoạt động khác vào
dạy trẻ làm quen với văn học.
Với những đồ dùng hấp dẫn và lời kể diễn cảm đã làm rung động người nghe,
nhưng nếu biết tích hợp các mơn học khác một cách khoa học thì hiệu quả tiết dạy
còn cao hơn vì nó làm thay đởi khơng khí, làm thay đởi trạng thái khi kể chuyện.
Bằng những lời ca, lời đối thoại, những câu đố, những bài đồng dao, ca dao hay
một số trò chơi xen lẫn động, tĩnh để gây hứng thú cho trẻ.
Tôi đã sử dụng phương pháp và hình thức lồng ghép các môn học tạo cho trẻ
cảm giác thoải mái, say mê, u thích mơn học. Tơi sử dụng trò chơi để chuyển tiếp
giữa các lần kể hay thay cho phần củng cố câu chuyện mà các tiết dạy thường áp
dụng. Tôi cho trẻ chơi một số trị chơi ở dạng động, tơi đã linh hoạt, lựa chọn nội
dung sao cho phù hợp với nội dung câu chuyện, giúp trẻ tham gia vào hoạt động
một cách tích cực nhất và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ nhất. Ở lứa
tuổi này tâm lý của trẻ thường nhanh nhớ nhanh quên. Vì vậy thường ngày vào giờ
đón, trả trẻ tơi đưa trẻ vào góc văn học để hướng dẫn trẻ kiến thức mới và củng cố
kiến thức cũ. Đây là hình thức cho trẻ trải nghiệm những gì mình có sẵn và nhớ sâu
hơn. Trẻ ln cảm thấy thoải mái, tự tin hơn.
* Thông qua hoạt động góc: Cụ thể khi dạy trẻ chủ đề: Trường mầm non
Góc phân vai : Cho trẻ phân vai cơ giáo, học sinh, đọc các bài thơ trẻ học
trong chủ điểm: “Trường mầm non”
Góc nghệ thuật: Cho trẻ cắt dán tranh sưu tầm về đồ dùng học tập của bé.
Góc thư viện sách : Xem tranh ảnh lễ hội đến trường của bé.
Ví dụ: Ở góc phân vai, trẻ đóng vai cô giáo, học sinh
Bài học hôm nay cô cùng các con sẽ đọc bài thơ :
Nghe lời cô giáo
Bé mới được đi học
Không để vãi, rơi cơm
Khi về hát rất hay
Cô giáo con bảo thế
Rữa tay trước khi ăn
Cô giáo con bảo thế
Cô giáo con bảo thế
Việc tốt “tếu nhặc lới’’
11
Ăn Thì mời cha mẹ
“ Nhướng em pè phấn hơn’’
Thế là bé yêu ơi
Nhớ lời cô giáo đấy
Một số trẻ dân tộc Mường thường đọc sai một số từ trong bài thơ như
“Nhường em bé phần hơn” thì trẻ lại đọc “ Nhướng em pè phấn hơn’’, hay câu
“Đều nhắc lời’’ thì trẻ hay mắc lỗi đọc là “ tếu nhặc lới’’ cô sửa sai luôn cho trẻ
bằng cách cho trẻ đọc lại câu thơ trẻ vừa đọc sai và cô phát âm chuẩn theo tiễng
phổ thông cho trẻ phát âm theo
Còn một số trẻ dân tộc Dao thì hay mắc vào một số từ như : “Đi học, Cha mẹ,
Khi về’’ thì trẻ lại hay đọc là: “Mình tợ lâu, Ơng cỏ ơng mạ, Mình dẫn”
Cơ giáo sữa sai ngay cho trẻ phát âm tiếng phổ thông và cho trẻ đọc lại nhiều lần
cho trẻ nhớ.
* Thông qua hoạt động ngoài trời: Qua dạo chơi tạo điều kiện cho trẻ tiếp
xúc với thiên nhiên, cảnh vật có trong nội dung bài thơ và mơi trường xung quanh
trẻ.
Hình ảnh cơ và trẻ quan sát hoa ngồi trời
Ví dụ : Khi dạy trẻ quan sát “Hoa sam’’ cô tiến hành các bước như cho trẻ hát
bài hát : Hoa trường em, cho trẻ đi một vịng quanh vườn hoa sam, cơ đưa ra câu
hỏi, các con xem chúng ta đang đứng trước vườn hoa gì đây? Vườn hoa sam ạ, có
bạn dân tộc Dao thì lại nói từ “ Bơng Hoa” là “Nom Pèng”, cô sữa sai các con phải
đọc đây là Bông Hoa, và cho cả lớp phát âm lại, bạn nào có nhận xét gì về hoa
12
sam nào? Hoa sam có hoa có lá, một số trẻ dân tộc Mường hiếu động hay nói
truyện với nhau “úi nhiếu hoa sí” Có nghĩa là “ Ơi nhiều hoa thế” Khi cơ nghe
như vậy thì cơ cần nói lại cho trẻ học theo, trong vườn có nhiều bơng hoa hay ít
bơng thì trẻ thấy cả vườn hoa nên trẻ sẽ trả lời nhiều hoa, từ đó cơ u cầu các trẻ
phát âm lại “ Ơi có rất nhiều bông hoa” cô vừa nghe một số bạn sử dụng tiếng
mường để nói trong vườn nhiều hoa đấy các con phải sử dụng đúng từ ngữ tiếng
việt khi đến lớp nhé
Biện pháp dạy tiếng việt bằng việc lồng ghép các hoạt động khác và ở mọi lúc
mọi nơi cũng là trong những biện pháp mang lại hiệu quả cao cho tiết dạy
Trong q trình trị truyện với trẻ cơ chú ý sửa ngay cho trẻ để trẻ sử dụng
ngôn ngữ đúng
Ví dụ: Trẻ dùng tiếng địa phương cơ phải sửa sai kịp thời " con gà mế" yêu
cầu trẻ nói lại là " con gà mái "
Qua cách làm này, bước đầu tôi đã thành công trong việc thực hiện dạy trẻ kể
truyện sáng tạo, giúp trẻ linh hoạt sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với ngơn ngữ
nói rõ ràng mạch lạc, miệng nói tai nghe, tay sử dụng.
Với lời kể diễn cảm, hấp dẫn đã làm rung động người nghe, nhưng biết tích
hợp các hoạt động khác cịn hay hơn vì nó làm thay đởi khơng khí, làm thay đổi
trạng thái khi kể chuyện. Bằng những lời ca, lời đối thoại, những câu đố, những bài
đồng dao, ca dao hay một số trị chơi xen lẫn.
Hình ảnh cơ cùng trẻ chơi các trị chơi dân gian
13
Ví dụ : Thơng qua trị chơi dân gian : Lộn cầu vồng
“Lợn cầu vồng”
“ Nước” trong nước chảy
Có cơ mười bảy
Có chị mười ba
Ta đi tập lái đa
Ta đi lộn cầu vồng
Thơng qua trị chơi dân gian trẻ được chơi vui tinh thần thoải mái, bên cạnh
đó thì các trẻ dân tộc thường hay mắc lỗi phát âm khi đọc ca dao có trong trị chơi
như trẻ dân tộc Mường hay phát âm sai một số từ như: “ Lợn cấu vớng”, có nghĩa
là “lợn cầu vồng”, hay từ “nước” thì trẻ lại gọi là “ Đạc” cô cho cả lớp phát âm lại
đúng từ và trẻ phát âm sai phát âm theo.
Việc tích hợp các hoạt động khác, các trị chơi cho trẻ kể chuyện hay đóng
kịch việc cung cấp thêm môt số kiến thức bổ trợ cho câu chuyện sinh động hơn. Ở
lứa tuổi này tâm lý của trẻ thường nhanh nhớ nhưng cũng rất nhanh quên.
Vì vậy việc tích hợp các hoạt động khác cơ giáo phải linh hoạt, lựa chọn nội
dung sao cho phù hợp với nội dung câu chuyện, giúp trẻ tham gia vào hoạt động
một cách tích cực hơn nhất là ngơn ngữ của trẻ được phát triển một cách rõ ràng
mạch lạc
3.4. Biện pháp 4. Ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình cho trẻ
làm quen với tác phẩm văn học.
Từ đặc điểm tâm lý của trẻ là nhận thức trực quan, với những sự vật hiện
tượng, một hình ảnh đẹp nếu trẻ được trực tiếp hoạt động như sờ, nếm, thì hiệu quả
sẽ cao hơn tơi đã tích cực sáng tạo sưu tầm và làm các đồ dùng, đồ chơi, chuẩn bị
các điều kiện cho tiết học và sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học. Tơi đã sử
dụng các tiết dạy bằng băng đĩa hình qua ti vi và máy vi tính các hình ảnh sống
động có nội dung gần gũi phù hợp với các tác phẩm văn học để dạy trẻ, tích hợp
khoa học để phát huy tối đa tính tích cực của trẻ tập trung chú ý vào đối tượng. Tôi
luôn đặt câu hỏi mở, sử dụng tri thức đã biết, kinh nghiệm đã có để đưa ra sáng
kiến, phương thức hoạt động mới trong các hoạt động độc lập. Tôi đã đổi mới
không dạy theo phương pháp truyền thống đó là dạy học chủ yếu là hoạt động của
cơ theo kiểu thơng báo, giải thích, trẻ chỉ chú ý lắng nghe mà tôi đã đổi mới
phương pháp đó là trong khi dạy trẻ tơi ln phát huy tính tích cực, khả năng sáng
tạo của trẻ, lấy trẻ làm trung tâm cho các hoạt động. Phương pháp dạy học lấy trẻ
làm trung tâm là phương pháp phát huy được tối đa tính tích cực, khả năng tiếp thu
và trí tưởng tượng của trẻ. Vì vậy khi sử dụng phương pháp này trong quá trình dạy
trẻ tôi đã chú ý vào việc gợi mở, hướng dẫn trẻ để trẻ được chủ động tư duy từng
nhân vật qua các câu chuyện, từ đó trong quá trình hoạt động tôi luôn tạo ra các câu
hỏi mở để trẻ suy nghĩ trả lời, để trẻ được mở rộng phạm vi hiểu biết của mình hơn.
14
Ví dụ: Qua chuyện “Một bó hoa tươi thắm” ối tượng trẻ 4 - 5 tuổi, tôi tổ
chức bằng “Hội thi ” kết hợp với chủ đề đang thực hiện, các đội tham gia chơi là
các bé trong lớp. Các đội được giao lưu, khám phá. Qua đó tơi thấy trẻ hứng thú
học bài, tiết học nhẹ nhàng, thoải mái, đạt kết quả cao, chú ý lồng ghép tích hợp các
mơn học và các chun đề các trị chơi theo chủ đề phù hợp để trẻ tiếp thu bài tốt.
Từ việc áp dụng các nội dung trên vào thực tế tôi đã ứng dụng công nhệ thông tin
vào bài dạy cho thấy hiệu quả tiết kể chuyện và các môn học khác đạt kết quả cao.
Tôi luôn chú ý khi ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy học, tôi đã sử
dụng các biện pháp cụ thể là, theo từng chủ đề tôi đã chụp các hình ảnh trên mạng,
trên tập san, trên báo, chụp hình ảnh từ môi trường để đưa vào bài dạy, phù hợp với
nội dung bài thơ, câu chuyện sau đó tơi ghép các hình ảnh chụp được theo trình tự
nội dung bài thơ, từ những hình ảnh từng nhân vật trong chuyện, tôi đã sử dụng
các bài hát, bài thơ mới ngoài chương trình học, phù hợp với chủ đề để đan xen các
hoạt động động, tĩnh để trẻ được cảm thụ văn học bằng nhiều biện pháp.
Hình ảnh cơ kể chụn qua máy tính
15
3.5. Biện pháp 5: Tuyên truyền phối kết hợp cùng với phụ huynh để dạy
trẻ kể chuyện sáng tạo.
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà
trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biên pháp
không thể thiếu để cô giáo dạy trẻ thể hiện tình cảm bằng cử chỉ, điệu bộ nét mặt,
hay thể hiện thái độ phù hợp với từng nhân vật trong chuyện khi về nhà được bố
mẹ khích lệ và hướng dẫn trẻ sẽ thể hiện tốt hơn nữa về tình cảm cấu trúc tác phẩm
văn học. Từ thực tế cho thấy; tôi khẳng định rằng, môi truờng tiếp xúc của trẻ chủ
yếu là gia đình và nhà trường. Chính vì vậy, việc kết hợp giữa gia đình và nhà
trường là một biện pháp không thể thiếu được trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ
ở Trường mầm non. Khi trẻ ở nhà bố mẹ ơng bà khuyến khích kể chuyện cho bố
mẹ nghe thì bố mẹ có thể giúp trẻ kể chuyện sử dụng thường xuyên các từ ngôn
ngữ trong văn học cung cấp thêm nhiều từ ngữ mới giúp trẻ vận dụng trong giao
tiếp
Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi nên quan tâm về lĩnh vực phát triển
ngôn ngữ cho trẻ, trong những lúc giúp trẻ kể lại chuyện, đóng kịch hay là kể
chuyện sáng tạo những sự kiện trẻ thường gặp hàng ngày, nhờ phụ huynh giúp trẻ
kể lại. Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh thông qua các biểu bảng nêu trên
lên nội dung về chủ điểm, về các câu chuyện của cô và trẻ. Qua đó phụ huynh thấy
được ngơn ngữ của trẻ phát triển như thế nào và có biện pháp kích thích sự phát
truyển ngôn ngữ cho trẻ tại gia đình .
Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về các chủ điểm đang học, các câu
chuyện để phụ huynh cùng kể chuyện cho trẻ nghe cùng đóng kịch với trẻ để trẻ có
khả năng sử dụng trường xun các ngơn ngữ trong tác phẩm văn học thành ngơn
ngữ giao tiếp của trẻ
Ví dụ : Cô trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện trẻ đã kể, yêu cầu
phụ huynh về nhà cho trẻ kể lại câu chuyện đó và khi giao tiếp với trẻ phải giao
tiếp bằng tiếng phổ thông hoặc kích thích trẻ kể các câu chuyện khác. Những hình
ảnh trẻ, gặp hàng ngày phụ huynh gợi ý cho trẻ kể lại những gì trẻ được học ở lớp
những câu chuyện trẻ được nghe được đóng kịch với bạn
Tơi ln xác định, công tác phối hợp giữa phụ huynh của trẻ và giáo viên là
một nhiệm vụ thiết thực, tạo được sự liên kết và thống nhất về nội dung, phương
pháp, cách thức chăm sóc giáo dục trẻ ở lớp học cũng như ở gia đình, để trẻ được
rèn luyện trở thành thói quen góp phần thực hiện tốt mục tiêu chăm sóc giáo dục
trẻ. Chẳng hạn: Như cơ giáo dạy trẻ thể hiện tình cảm bài thơ bằng cử chỉ, điệu bộ
nét mặt, hay thể hiện thái độ phù hợp với từng nhân vật trong chuyện khi về nhà
được bố mẹ khích lệ và hướng dẫn trẻ sẽ thể hiện tốt hơn nữa về tình cảm câu cấu
trúc tác phẩm văn học.
16
Hình ảnh cơ đang trị chụn trao đổi với phụ huynh dạy trẻ kể lại chuyện
Như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách phong phú đa dang.
Huy động phụ huynh cùng xây dựng góc văn học như thu nhập các câu truyện
tranh nguyên vật liệu có sẵn, dễ tìm như báo họa mi, vải vụn, len vụn, các vỏ hộp
mứt sốp …kết hợp trong và ngoài giờ đón trẻ trả trẻ để trao đởi với phụ huynh.
Xây dựng mơt góc tun truyền về các câu chuyện sáng tạo của cô của trẻ đa
dạng, phong phú.
Sưu tâm rất nhiều tranh ảnh theo từng chủ điểm cho trẻ kể truyện.
Có một bảng gài và một bảng dính cho trẻ ghép tranh kể chuyện sang tạo.
Một sân khấu rối, sa bàn cho cô và trẻ kể chuyện sáng tạo.
Nhận thức rõ được tâm quan trọng của việc dạy làm quen với các tác phẩm
văn học trẻ kể lại chuyện, trẻ đóng kịch là để phát triển ngơn ngữ cho trẻ.
Phụ huynh có trách nhiệm trong việc dạy trẻ kể lại chuyện khi trẻ ở nhà, mua
thêm chuyện tranh cho trẻ cho trẻ, tham gia cùng nhà trường vào các ngày hội ngày
lễ để đóng kịch.
Nhà trường tạo được sự gắn kết với phụ huynh trong công tác phối hợp
CSGD trẻ.
4.Kết luận, kiến nghị.
17
4.1. Kết luận:
Phát truyển ngôn ngữ cho trẻ qua các hoạt động dạy trẻ kể chuyện là một
viêc rất thiêt thực nhất trong chương trình đởi mới hiện nay, địi hỏi cơ giáo phải có
sự sáng tạo linh hoạt khi dạy trẻ, phải có sự kiên trì rèn luyện giữa cô và trẻ thì sẽ
đem lại kết quả cao.
Kết quả cho thấy cuối năm học trẻ đã sử dụng thành thạo tiếng phở thơng khi
giao tiếp, thích kể lại các sự kiện và hiện tượng mà trẻ được gặp theo sự tưởng
tượng của trẻ khả năng sử dụng câu để thành phần khi giao tiếp với mọi người được
thực hiện thường xun, ngơn ngữ hồn cảnh và ngơn ngữ trong văn học trẻ đã sử
dụng nhiều để kể chuyện khi trẻ xem tranh hay kể lại những việc trẻ thấy trẻ làm
một cách lưu loát hơn.
* Kết quả khảo sát thực hiện đến cuối năm đạt được kết quả như sau:
Stt
Tiêu chí
Tổng
số
Đạt
Strẻ
Chưa đạt
%
Strẻ
%
1
Nói thành thạo rõ ràng tiếng phở
thơng
22
22
100%
0
0
2
Trẻ hứng thú nghe kể chuyện và
kể lại chuyện
22
21
95.5%
1
4.5%
3
Biết thể hiện ngôn ngữ tiếng việt
để kể chuyện thể hiện khi đóng
kịch
22
20
91%
2
9%
4
Thể hiện được sự giao tiếp bằng
tiếng việt thường xuyên rõ ràng
nói đủ câu
22
22
100%
0
0
* Bài học kinh nghiệm
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiên các biện pháp trên dạy lớp mẫu giáo
4-5 tuổi phát triển ngôn ngữ giao tiếp qua làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ
tôi rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
Cô giáo phải đi sâu nghiên cứu để tạo ra được môi trường sống tốt cho trẻ
hoạt động một cách tích cực nhất, biết tạo cảm xúc cho trẻ khi kể lại chuyện đọc
thơ đóng kịch.
18
Thường xuyên trò chuyện với trẻ, khơi gợi cho trẻ đặt tên cho nội dung vừa
trị chuện hoặc tóm tăt ngắn gọn những điều vừa trò chuyện, chú ý cho trẻ sử dụng
tiếng phổ thông khi trẻ dùng tiếng địa phương cơ phải giúp trẻ sửa kịp thời.
Khuyến khích trẻ nói những ý nghĩ của trẻ qua nội dung hay chủ điểm nào
đó nhằm giúp trẻ luyện cách trình bày, diễn đạt theo nội dung cốt chuyện.
Cho trẻ tham quan, hướng dẫn từ quan sát sự vật, hiện tượng nhằm mở rộng
vốn hiểu biết cho trẻ, kết hợp đàm thoại để trẻ hiểu sau bản chất của sự vật hiện
tượng và nói lên nhận xét của mình.
Mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ và khuyến khích cho trẻ sử dụng vốn từ cho
trẻ học được trong các hoạt động khác nhau, đặc biệt qua các trị chơi ngơn ngữ, trị
chuyện, đàm thoại giữa cô và trẻ, trẻ với trẻ.
4.2. Kiến nghị.
* Đối với nhà trường:
Cần làm tốt hơn nữa về cơng tác xã hội hóa giáo dục để tạo điều kiện hỗ trợ
thêm về cơ sở vật chất, trang thiết bị như ti vi, đầu đĩa lắp thiết bị Intenet… Để
phục vụ cho các hoạt động của trẻ ở trường.
* Đối với phịng giáo dục:
Cung cấp thêm tài liệu có liên quan đến việc tổ chức các hoạt động của
chương trình Mầm non để giáo viên nghiên cứu tìm hiểu thêm trong quá trình tự
học, tự bồi dưỡng.
Tiếp tục mở các lớp chuyên đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ đân tộc thiểu số
để tất cả giáo viên nghiên cứu tìm hiểu thêm trong quá trình tự học.
Trên đây là môt số kinh nghiệm "Dạy lớp mẫu giáo 4-5 tuổi là người dân
tộc thiểu số phát triển ngôn ngữ giao tiếp thông qua dạy trẻ kể chuyện" Tôi đã áp
dụng đạt hiệu quả cao tại lớp mẫu giáo 4-5 tuổi trường mầm non Cẩm Châu - Cẩm
Thủy.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Cẩm châu, ngày 25 tháng 03 năm
2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết sáng kiến
Bàn Thị Hường
19
Tài liệu tham khảo
- Chương trình giáo dục mầm non ( Nhà xuất bản giáo dục)
- Chuyên đề “ Dạy tiếng việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số”
- Những vấn đề chung về phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non
- Nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong
trường mầm non
- Hướng dẫn tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học
20