Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục vệ sinh cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi tại trường mầm non thiệu thành thiệu hóa thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.71 KB, 21 trang )

STT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3

2.4
3
3.1
3.2
3.3
3.4

NỘI DUNG

Trang

MỞ ĐẦU

2

Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG


Cơ sở lý luận
Thực trạng vấn đề
Một số giải pháp để thực hiện nâng cao chất lượng giáo
dục vệ sinh cho trẻ
Giải pháp 1. Tự học tập để bồi dưỡng kiến thức và kĩ
năng thực hành thao tác chăm sóc vệ sinh cá nhân cho trẻ
Giải pháp 2: Công tác chuẩn bị các điều kiện để tổ chức
các nội dung giáo dục vệ sinh cho trẻ
Giải pháp 3. Biện pháp tổ chức các hoạt động giáo dục vệ
sinh rửa mặt, rửa chân tay cho trẻ
Giải pháp 4. Giáo dục vệ sinh lồng vào các hoạt động có
chủ đích
Giải pháp 5. Giáo dục vệ sinh thông qua các hoạt động
trong ngày
Giải pháp 6: Giáo dục vệ sinh thông qua hoạt động tuyên
dương
Giải pháp 7. Phối hợp với phụ huynh để giáo dục vệ sinh
cho trẻ
Hiệu quả của sáng kiến
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mực các đề tài SKKN mà tác giả đã được Hội đồng
cấp phòng GD&ĐT, cấp Sở GD&ĐT và các cấp cao hơn
đánh giá đạt từ loại C trở lên.

3
3
3

4
4
4
4
6
6
7
9
11
12
14
15
16
18
18
19
20
21

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Chúng ta đã biết trong bối cảnh ngày nay, các nước phát triển và đang
phát triển trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng thì đời sống con người
được nâng lên rất cao, kinh tế xã hội được phát triển mạnh. Công tác giáo dục ở
các bậc học được chú trọng cao. Nhưng cùng với sự phát triển của đời sống con
người, phát triển nền kinh tế xã hội, thì nhiều vấn đề không ai mong muốn cũng
tăng lên rõ rệt. Một vấn đề đặt ra: “Tại sao trước đây đời sống con người nghèo

nàn đói rách, xã hội còn lạc hậu, kinh tế khó khăn, khoa học chưa tiến bộ
nhưng vấn đề sức khỏe con người rất được đảm bảo, tuổi thọ của con người rất
cao, thiên nhiên ổn định, hệ thống môi trường sinh thái thì trong lành mát mẻ.
Còn hiện nay kinh tế xã hội phát triển, đời sống con người đầy đủ, khoa học
tiến bộ, xã hội thì văn minh hiện đại nhưng tại sao tuổi thọ con người thì bị
giảm xuống, bệnh tật thì tràn lan, môi trường thì ô nhiễm, thiên tai thì bất
thường...” điều này là một nổi lo, băn khoăn của cả xã hội loài người. Bên cạnh
đó những vấn đề nóng bỏng về công tác thực hiện vệ sinh hiện nay đang vang
lên rầm rộ các bạn ạ, mỗi chúng ta đã quan tâm đến điều đó như thế nào? có ai
nghĩ rằng mình cần quan tâm tìm ra một nguyên nhân nhỏ nào đó đã tạo nên
những điều mà rất nhiều người đang thắc mắc “tại sao” không?
Bản thân tôi cho rằng vấn đề vệ sinh hiện nay đang rất quan trọng ở tất
cả các cơ quan, các doanh nghiệp, các trường học nhất là bậc học mầm non vấn
đề về vệ sinh là nhiệm vụ quan trọng trong nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ.
Nhưng các bạn ạ: Vấn đề vệ sinh thì mỗi chúng ta ai cũng tham gia và thực
hiện mỗi ngày, nhưng chúng ta đã thực hiện vệ sinh như thế nào? Tất cả mọi
người đã cùng có ý tưởng chung hay chưa? Rồi những em nhỏ đang trong giai
đoạn được chăm sóc và giáo dục, các em đã biết và được giáo dục vệ sinh như
thế nào? Các em làm được gì trong công tác vệ sinh? Đây lại là một suy nghĩ,
một trăn trở lớn, một băn khoăn mà bản thân tôi đang suy nghĩ .
Trong công tác chăm sóc và giáo dục vệ sinh cho trẻ mầm non nói chung
và nhà trẻ nói riêng là một việc rất quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn là
việc rèn luyện những thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ mầm non
nói chung và trẻ nhà trẻ nói riêng là nhiệm vụ rất cần thiết. Giúp cho cơ thể trẻ
phát triển tốt, chống đỡ được các bệnh tật, tránh được những dị tật thích nghi
được với điều kiện sống, hình thành những thói quen cơ bản để giúp trẻ có
nhiều nề nếp tốt. Câu tục ngữ “ Tiên học lễ, hậu học văn” đã thấm sâu vào trí
óc tôi, ngay từ thời còn là học sinh tiểu học cho đến bây giờ, là giáo viên mầm
non tôi cũng hiểu hơn về ý nghĩa sâu sắc của câu tục ngữ đó. Các cháu mầm
non với đôi mắt trong veo đầy thơ mộng, tâm hồn trẻ như tờ giấy trắng, nếu

khéo vẽ thì tròn, còn không khéo thì méo mó. Suy nghĩ nhiều về vấn đề đó, tôi
nghĩ mình cần phải đầu tư nhiều vào việc giáo dục lễ giáo cho các cháu tô điểm
vào tâm hồn các cháu những cái hay cái đẹp, để các cháu trở thành những bông
hoa thơm ngát, là người có hành vi văn minh lịch sự
Các hoạt động trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non rất đa
dạng và phong phú. Quan hệ giữa cô và các cháu là quan hệ mẹ con gần gũi
nhau trong từng biểu hiện, từ lời nói đến hành động. Phát huy đặc trưng trong
2


các hoạt động học chúng ta phải thể hiện hết chức năng và chăm sóc giáo dục,
hai chức năng này song song hòa quyện với nhau, trong giáo dục có lồng ghép
chăm sóc. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy các cháu, chăm lo cho các cháu từng
bữa ăn giấc ngủ đòi hỏi bản thân cần phải nắm bắt những yêu cầu cụ thể để có
kế hoạch hướng dẫn rèn luyện thói quen vệ sinh cho các cháu một cách nhẹ
nhàng và khéo léo. Nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn thói quen cho
trẻ nên nhiều năm nay tôi đã quan sát nghiên cứu để tìm ra những biện pháp
phù hợp nhất đối với trẻ. Là giáo viên dạy bán trú nhiều năm ở trường, có một
thực tế làm tôi luôn trăn trở đó là: Việc rèn thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ là
một việc làm hết sức khó khăn. Xác định nhiệm vụ cũng như trách nhiệm nặng
nề của mình, bản thân tôi lúc nào cũng canh cánh trong lòng phải làm thế nào
để rèn được thói quen rửa tay, rửa mặt một cách tự giác và đúng quy trình. Với
tinh thần trách nhiệm cao, lòng say mê nhiệt tình ham học hỏi. Nên tôi tự hỏi
mình rằng: Phải làm gì? Làm như thế nào? Để đưa ra những biện pháp tối ưu
nhất khi thực hiện chuyên đề.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc vệ sinh cho trẻ khỏe mạnh.
- Giúp cho trẻ có ý thức thói quen giữ gìn vệ sinh cá nhân sạch sẽ hàng
ngày.
- Nhằm giúp các bậc phụ huynh nâng cao ý thức vệ sinh văn minh gia

đình.
- Hình thành cho trẻ những thói quen về vệ sinh và kỹ năng thực hiện vệ
sinh góp phần vào sự phát triển và hoàn thiện nhân cách con người của trẻ.
Nhằm tuyên truyền đến phụ huynh, cộng đồng xã hội cùng chung tay thực hiện
vệ sinh và giáo dục vệ sinh cho trẻ, tạo một xã hội loài người khỏe mạnh, môi
trường sống xanh, sạch, không khí trong lành mát mẻ, đây cũng là việc làm để
tôi thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc giáo dục vệ sinh cho trẻ theo yêu cầu của
giáo dục .
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
“Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục vệ sinh cho trẻ 24 –
36 tháng tuổi tại trường Mầm non Thiệu Thành, Thiệu Hoá, Thanh Hoá”
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc, nghiên cứu và hệ thống hoá một số tài
liệu làm cơ sở lý luận cho đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp theo dõi kiểm tra đánh giá chất lượng của trẻ.
- Phương pháp thống kê.
Tôi tiến hành khảo sát đầu năm học và khảo sát vào tháng 03/2017.

3


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:
Giai đoạn trẻ 24 -36 tháng là giai đoạn khởi điểm của việc hình thành và
phát triển nhân cách trẻ, các mặt phát triển của trẻ hoà quyện vào nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau, không tách bạch rõ nét. Trẻ hoàn toàn còn non nớt, nhạy cảm

với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi
mặt. trẻ rất dễ bị tổn thương về tâm lý. Nung nấu những suy nghĩ trong đầu,
song hành với nghề chăm sóc nuôi dạy trẻ mầm non, năm nay tôi được phân
công dạy trẻ nhóm trẻ 24 - 36 tháng tuổi hàng ngày với công việc chăm sóc
giáo dục trẻ mầm non, nhiệm vụ hàng ngày của tôi là: Nuôi dưỡng và chăm sóc
giáo dục trẻ nhỏ. Vấn đề vệ sinh và giáo dục vệ sinh cho trẻ là một trong những
công tác quan trọng không thể thiếu hàng ngày đây là nhiệm vụ quan trọng
trong chương trình giáo dục mầm non hiện nay. Và cũng vì nhóm trẻ tôi phụ
trách là nhóm trẻ nhỏ nhất trong trường, trẻ chưa qua trường lớp mà chỉ ở nhà
với ông bà bố mẹ trẻ được mọi người trong gia đình chăm sóc, chiều chuộng
nên chưa có một thói quen nào trong việc vệ sinh cá nhân hay các công việc tự
phục vụ bản thân dù là đơn giản nhất nên vào đầu năm học khi được ban giám
hiệu nhà trường phân công phụ trách nhóm trẻ này tôi đã rất băn khoăn, chăn
trở làm sao để dạy trẻ những thói quen những kiến thức cơ bản nhất về nề nếp,
vệ sinh hàng ngày, bởi vì trẻ nhỏ, việc vệ sinh của trẻ phải được người lớn cha
mẹ, cô giáo giúp đỡ, hướng dẫn và rèn luyện hàng ngày. Không những thế trẻ
cần được sống hoạt động trong môi trường gia đình, trường lớp cộng đồng vệ
sinh sạch sẽ thoáng mát, nhằm bảo vệ sức khỏe và sự phát triển toàn diện của
trẻ, những nhận thức này kết hợp với những băn khoăn trên, tôi đã mạnh dạn
đưa ra một biện pháp nhằm nâng cao công tác vệ sinh và giáo dục vệ sinh cho
trẻ với đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục vệ sinh cho
trẻ 24 – 36 tháng tuổi tại trường Mầm non Thiệu Thành, Thiệu Hoá,
Thanh Hoá”
2.2. Thực trạng vấn đề:
Khi lựa chọn cho mình đề tài nghiên cứu này tôi rất lo lắng không biết
các cháu ở độ tuổi này sẽ thực hiện được hay không bởi các trẻ nhà trẻ khả
năng nhận thức tư duy còn thấp làm sao trong một sớm, một chiều mà nhớ hết
được. Tuy nhiên với suy nghĩ là người trực tiếp giảng dạy các cháu, chăm lo
cho các cháu từng bữa ăn giấc ngủ đòi hỏi bản thân không những giáo dục kiến
thức cho trẻ mà còn hướng dẫn rèn luyện thói quen vệ sinh cho các cháu một

cách nhẹ nhàng và khéo léo giúp trẻ hình thành thói quen vệ sinh tốt. Bên cạnh
đó tôi còn được sự giúp đỡ động viên của Ban giám hiệu, bộ phận chuyên môn
và đồng nghiệp đã khiến tôi hạ quyết tâm phải giúp các cháu nhớ và thực hiện
thành thạo các thao tác vệ sinh cá nhân một cách thường xuyên và tự giác.
Trong quá trình giúp trẻ nhớ và thực hành các thao tác vệ sinh cá nhân tôi đã
gặp nhiều thuận lợi và cũng không ít những khó khăn sau:

4


a. Thuận lợi:
Trường Mầm non Thiệu Thành là trường đã được qui hoạch thành một khu
trung tâm thuận tiện cho việc phụ huynh đưa đón trẻ đến trường.
Phòng học có diện tích đủ để trẻ hoạt động theo điều lệ trường mầm non,
nhà trường mua sắm thiết bị đồ dùng phục vụ bán trú tương đối đầy đủ.
Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường có: 24 đồng chí.
Trong đó: CB quản lý 03 đ/c; giáo viên 14 đ/c; nhân viên 07 đ/c.
Đại học: 13 đ/c; Cao đẳng: 03 đ/c; Trung cấp: 8 đ/c.
100% giáo viên có trình độ chuẩn trở lên, nhiệt tình, tâm huyết với nghề
luôn giúp đỡ lẫn nhau tạo điều kiện cho việc học hỏi kinh nghiệm từ các bạn
đồng nghiệp.
Cơ sở vật chất tương đối đầy đủ để thuận lợi cho việc dạy và học. Cảnh
quan nhà trường thoáng mát, có cây che bóng mát.
Một số phụ huynh đã quan tâm đến giáo dục mầm non, luôn phối hợp chặt
chẽ trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ.
Một số trẻ được gia đình giáo dục hướng dẫn nên các cháu đã biết đi vệ
sinh đúng nơi qui định.
Giáo viên trong trường đã đạt chuẩn và trên chuẩn, yêu nghề mến trẻ, luôn
quan tâm đến chất lượng giáo dục của nhà trường
Lớp E1 được giao chỉ tiêu 16 trẻ, đầu năm giáo viên huy động đủ số trẻ

đến trường, lớp.
Được sự quan tâm của phòng Giáo dục và đào tạo đã cung cấp các tài
liệu cho cán bộ giáo viên vào đầu năm học, tổ chức lớp chuyên đề bồi dưỡng
cho giáo viên về công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ.
Được sự ủng hộ giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, của giáo viên, sự
quan tâm phối hợp của phụ huynh, cộng đồng xã hội.
Bản thân tôi không ngừng học hỏi, đổi mới nội dung phương pháp giáo
dục và được trải qua kinh nghiệm chăm sóc giáo dục trẻ.
Hàng ngày tôi được gần gủi với trẻ, nắm bắt được khả năng tâm lý của
trẻ.
Các cháu đều ở cùng lứa tuổi. Trường lớp rộng rãi, thoáng mát có đủ đồ
dùng, dụng cụ phục vụ cho vệ sinh
b. Khó khăn:
Số giáo viên theo định biên đang còn thiếu nhiều so với qui định.
Nhận thức của trẻ không đồng đều, cháu thì sinh đầu năm cháu thì sinh
cuối năm nên cũng ảnh hưởng đến công tác chăm sóc giáo dục trẻ hàng ngày ở
trường, lớp.
Kiến thức về vệ sinh của trẻ còn nghèo nàn, trẻ còn quá nhỏ chưa đến
trường lớp bao giờ, khả năng tiếp thu kiến thức hạn chế, trẻ đi học không
thường xuyên ảnh hưởng rất nhiều đến việc giáo dục kiến thức vệ sinh cho trẻ.
Khu vệ sinh tách biệt với lớp học nên khi trẻ đi vệ sinh hay đi rửa tay
giáo viên phải theo dõi làm ảnh hưởng đến công tác giáo dục của giáo viên.
Đa số phụ huynh đều làm nghề nông và một số phụ huynh lo kinh tế gia
đình đi làm ăn xa, chưa hiểu biết và quan tâm đến giáo dục trẻ, thiếu sự phối
hợp thường xuyên giữa giáo viên với phụ huynh và trẻ.
5


Một số cháu được cha mẹ cưng chiều quá mức, muốn gì được nấy, một
số trẻ sống trong môi trường không lành mạnh từ gia đình (gia đình vứt rác

không đúng nơi qui định, ăn uống chưa văn minh, ăn bốc... )
Với những thuận lợi và khó khăn trên, tôi đã nghiên cứu tìm những biện
pháp giải quyết như sau:
c. Kết quả khảo sát ban đầu: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng
giáo dục vệ sinh cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi tại trường Mầm non Thiệu
Thành, Thiệu Hoá, Thanh Hoá”. Tôi tiến hành khảo sát tình hình của trẻ như
sau:
BẢNG KHẢO SÁT ĐẦU NĂM HỌC
STT

1
2

3
4

Nội dung khảo sát

Trẻ có thói quen vệ sinh
cá nhân (rửa tay khi tay
bẩn, rửa mặt...)
Trẻ biết có ý thức vệ sinh
trong ăn uống (rửa tay
trước và sau khi ăn, ăn
không làm rơi cơm, biết
nhặt cơm rơi bỏ vào bát
và lau tay...).
Trẻ có thói quen vệ sinh
trước và sau khi đi vệ sinh
Trẻ có thói quen vệ sinh

trong sinh hoạt (Trẻ biết
nhặt rác bỏ vào đúng nơi
qui định, biết cất đồ dùng,
đồ chơi sau khi chơi
xong...)

Tổng
số học
sinh

Tốt

%

Khá

%

TB

%

Yếu

%

16

5


32.7

7

43.8

4

25

0

0

4

25

4

25

Kết quả

6
16

37.5

12.5

2

16

7

43.8

5

31.2

4

25

0

0

16

6

37.5

5

31.2


3

18.8

2

12.5

2.3. Một số giải pháp để thực hiện nâng cao chất lượng giáo dục vệ sinh
cho trẻ:
Trên đây là thực trang chất lượng giáo dục vệ sinh cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi,
từ những thực trạng đó tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp sau:
Giải pháp 1. Tự học tập để bồi dưỡng kiến thức và kĩ năng thực
hành thao tác chăm sóc vệ sinh cá nhân cho trẻ:
Bản thân tôi luôn xác định muốn rèn luyện cho trẻ nhà trẻ 24 - 36
tháng tuổi có thói quen trong việc giữ gìn vệ sinh cá nhân thì việc cần làm
đầu tiên là tổ chức bồi dưỡng kiến thức và các bước thực hiện thao tác vệ sinh
cá nhân trẻ của mình thật thuần thục. Thấy rõ mục đích yêu cầu và tầm quan
trọng của công việc đang làm, nắm vững nội dung giáo dục chăm sóc vệ sinh
cho trẻ và nguyên tắc hướng dẫn thực hành các thao tác như: Rửa tay, rửa mặt,
chăm sóc răng miệng (xúc miệng)…cho trẻ. Tôi đã tự tìm tòi các tài liệu có liên
6


quan đến chuyên đề vệ sinh để nghiên cứu, sau đó cùng trao đổi với ban giám
hiệu và các bạn đồng nghiệp để thực hiện. Công việc này trường tôi thường tiến
hành vào đầu tháng 8 khi không bận bịu lắm về công tác chuyên môn. Tôi học
lí thuyết và xem lại cách thực hành sau khi đón trẻ tựu trường. Hướng dẫn cách
dạy trẻ rửa tay bằng xà phòng, cách rửa mặt đúng theo qui trình, bảo vệ da,
môi trường an toàn… Vào đầu tháng 9 tôi đã mạnh dạn đăng ký một hoạt động

về vệ sinh: Rửa tay, rửa mặt để Ban giám hiệu dự giờ góp ý đánh giá xếp loại
giáo viên. Đó cũng là một cách làm để tạo động lực cho bản thân chú ý đến
công tác chăm sóc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ. Được sự hỗ trợ của Ban
giám hiệu cấp phát một số tài liệu như: Bé giữ vệ sinh, bé sạch, bé khỏe, thực
hành vệ sinh, lô tô vệ sinh trao đổi với phụ huynh thực hành các thao tác vệ
sinh và một số thói quen, hành vi văn minh cho trẻ. Nhà trường cấp phát đầy đủ
đồ dùng, dụng cụ cá nhân cho trẻ, yêu cầu đồ dùng của trẻ đều phải có kí hiệu
riêng để trẻ nhận biết và lấy đúng đồ dùng cá nhân của mình. Vào đầu năm học
việc nhận biết kí hiệu cá nhân đối với các cháu 24 - 36 tháng tuổi là cả một vấn
đề hết sức khó khăn vì trẻ còn nhỏ, mới đến trường lớp. Cho nên tôi phải
thường xuyên quan sát, hướng dẫn trẻ nhận biết và làm quen kí hiệu của mình
bằng cách: Tôi phân loại kí hiệu theo nhóm, nhóm con vật, nhóm các loại quả,
nhóm đồ vật. Đồ dùng của trẻ để đúng nơi qui định theo nhóm vừa giúp cô dễ
nhớ kí hiệu vừa giúp trẻ có thói quen ngay từ đầu. Kí hiệu của trẻ cùng một
chủng loại dễ nhận biết: Vở tạo hình, vở toán, khăn, cốc… đến đồ dùng vệ
sinh. Các kí hiệu dễ nhận biết, đơn giản. VD: Quả cam, quả chuối, con gà, cái
mũ, bông hoa...Tôi tập cho trẻ nhận biết kí hiệu với nhiều hình thức khác nhau:
Khi phát vở cho trẻ tôi hỏi về kí hiệu của vở mình, đồ dùng có kí hiệu gì? Nếu
trẻ nhầm tôi nhắc lại cho trẻ nhớ. Qua quá trình tập cho trẻ nhiều lần, lặp đi lặp
lại thường xuyên, khi uống nước, lấy khăn lau mặt…Trẻ nhớ kí hiệu của mình
và cô cũng nhớ kí hiệu của trẻ. Khi trẻ lấy đúng đồ dùng thì trẻ mới thực hiện
đúng vệ sinh, nếu trẻ không nhận biết được đồ dùng các nhân thì nguy cơ lây
lan các bệnh về mắt, răng miệng rất nguy hiểm.
Việc dạy cho trẻ nhận biết kí hiệu đã khó khăn thì việc dạy trẻ thực hành
vệ sinh không kém phần vất vả. Với hoạt động vệ sinh rửa tay với xà phòng,
đối với trẻ thao tác thật khó khăn không giống như trẻ lớn. Trẻ chỉ “nghịch
nước với xà phòng” không theo hướng dẫn của cô vì trẻ chưa hiểu hết tầm quan
trọng của việc rửa tay với xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Trước
hết tôi trò chuyện với trẻ, cho trẻ đọc các bài thơ, bài hát về giáo dục vệ sinh.
Ví dụ: Cô cho trẻ nghe và xem hình ảnh trong bài hát “Dân vũ rửa tay”

để trẻ có thể liên hệ mỗi khi cô dạy trẻ rủa tay.
Tôi đặt những câu hỏi gợi mở cho trẻ trả lời:
+ Vì sao trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, tay bẩn phải rửa tay?
+ Vì sao phải rửa tay với xà phòng?
Giải pháp 2: Công tác chuẩn bị các điều kiện để tổ chức các nội
dung giáo dục vệ sinh cho trẻ:
* Vệ sinh cá nhân:
- Trước hết cô làm tốt công tác chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ vệ sinh phục vụ
cho nhu cầu vệ sinh như:
7


+ Khi rửa tay: Chuẩn bị đầy đủ dụng cụ: Vòi nước vừa tầm với trẻ nếu không
có thì xô nước có vòi, gáo dội, xà phòng rửa tay, khăn sạch khô để lau tay.
+ Khi rửa mặt cần: Đủ mỗi trẻ một khăn mặt, chậu đựng khăn, giá khăn.
+ Khi trẻ đi vệ sinh: Giấy lau mềm, nước, xà bông rửa tay, thùng rác...
+ Lau mặt sạch sẽ theo quy trình lau bắt đầu lau từ 2 mắt xuống, và dịch khăn
xuống má, cằm cổ, sao cho phần khăn sạch tiếp súc với da mặt. Cần lau mặt khi
bị bẩn trước và sau khi ăn, khi ngủ dậy. Mùa đông cần pha nước ấm cho trẻ lau
mặt.
+ Vệ sinh bàn tay: Cô hướng dẫn trẻ tự rửa tay theo các bước với nước và xà
bông rồi lau tay vào khăn khô. Giáo dục trẻ rửa tay trước khi ăn, khi tay bẩn,
khi đi vệ sinh xong.

Hình ảnh cô đang hướng dẫn trẻ thực hành rửa tay
+ Vệ sinh miệng: Cô thường xuyên nhắc nhở trẻ uống nước súc miệng sau khi
ăn xong. Giáo dục trẻ biết rửa miệng, lau miệng sau khi ăn, trước khi tối đi ngủ,
khi ngủ dậy.
+ Hướng dẫn trẻ đi vệ sinh: Cô giáo dục trẻ đi đúng nơi quy định, biết giữ vệ
sinh chung sau khi đi xong bằng cách dội nước sau đi, bỏ giấy vào đúng nơi

quy định, rủa tay sau khi đi vệ sinh xong.
+ Vệ sinh thân thể quần áo, đầu tóc giày dép: Cô nhắc nhở giúp trẻ biết giữ
trang phục gọn gàng, mùa hè tắm gội hàng ngày và thay đồ. Mùa đông được
thay đồ và lau người hàng ngày.
- Khi tổ chức giáo dục trẻ vệ sinh cá nhân: Rửa tay, rửa mặt, tắm gội..Tôi cho
trẻ quan sát tranh có hình ảnh về nội dung giáo dục, tôi trò chuyện với trẻ về
8


hình ảnh đó, sau đó tôi hướng giới thiệu trẻ vào mục đích của việc cần phải vệ
sinh và tác hại của việc không vệ sinh cá nhân tốt.
- Cô thực hành làm cho trẻ xem và hướng dẫn trẻ kỷ năng thực hiện. Cô cho trẻ
thực hành luyện tập hàng ngày. Có thể cô khen ngợi nêu gương những bạn có ý
thức thực hiện tốt. Cô giáo dục trẻ thông qua các bài thơ, câu chuyện:
+ VD Như bài thơ: Cô dạy
“Mẹ mẹ ơi cô dạy
Phải giữ sạch đôi tay
Bàn tay mà dây bẩn
Sách áo cũng bẩn ngay” [1]
đôi mắt: Qua đó để giáo dục trẻ kỷ năng rửa tay, rửa mặt và tác dụng của việc
rửa tay, rửa mặt.
+ VD Chuyện: “Gấu con bị đau răng” Để giáo dục trẻ ý thức và tác dụng của
việc vệ sinh răng miệng.
* Vệ sinh ăn uống:
- Trong bữa ăn của trẻ cô nhắc nhở giáo dục trẻ kỷ năng ăn uống gọn gàng sạch
sẽ, không bốc thức ăn bằng tay, không làm đổ, không uống nước chưa đun sôi,
nước có mùi hôi, màu lạ. Không ăn các loại thức ăn bị ôi thiu, những thức ăn
chưa được rửa sạch, trước khi ăn rửa tay...ăn uống song cất cốc, bát thìa vào
nơi quy định, không vứt bừa bãi.
- Hàng ngày cô trò chuyện với trẻ về các loại thức ăn trẻ ăn sáng, ăn ở nhà, ở

lớp. Những thức ăn nào tốt cho sức khỏe, những thức ăn nào không vệ sinh
không tốt cho sức khoẻ. Khi ăn phải làm gì để giữ vệ sinh sạch sẽ, an toàn cho
sức khoẻ? Ăn những thực phẩm những loại thức ăn như thế nào? Cô giới thiệu
và giáo dục trẻ ý thức ăn uống thực phẩm, kỷ năng vệ sinh thực hiện ăn uống
như: Không thò tay bốc, không làm đổ vãi ra, cho trẻ quan sát tranh có nội
dung giáo dục vệ sinh ăn uống để giáo dục trẻ. Cô cho trẻ rèn luyện thực hành
trong các giờ ăn không được vi phạm các yêu cầu vệ sinh giáo dục trẻ thông
qua các bài thơ
+ VD như: Thơ giờ ăn, thỏ bông bị ốm, qua đó giúp trẻ lĩnh hội những bài
học về tác dụng của vệ sinh ăn uống giúp trẻ thực hiện được công tác vệ sinh
bất kỳ khi ở nhà hay trường, ở đâu.
Tất cả các hoạt động vệ sinh của trẻ được tổ chức thực hiện trong suốt
quá trình học tập của trẻ, được cô nhắc đi nhắc lại, rèn trẻ hàng ngày để giúp trẻ
có một ghi nhớ về thói quen vệ sinh, bởi vì trẻ rất mau quên nếu ta không rèn
thường xuyên. Và được lồng ghép rèn trẻ ở tất cả các hình thức hoạt động nào
có liên quan đến trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ.
Giải pháp 3. Biện pháp tổ chức các hoạt động giáo dục vệ sinh rửa mặt,
rửa chân tay cho trẻ:
* Xây dựng thời gian biểu:
Xây dựng thời gian biểu là sự phân bổ hợp lý về thời gian và các hoạt
động trong ngày ở trường mầm non nhằm đáp ứng nhu cầu về tâm sinh lý của
trẻ, qua đó hình thành thái độ sống nề nếp, thói quen, và những kỹ năng sống
tích cực.
9


Do đó việc xây dựng thời gian biểu hợp lý, khoa học, phù hợp trong
việc giáo dục vệ sinh rửa mặt rửa chân tay cho trẻ là một việc làm có ý nghĩa
vô cùng quan trọng không chỉ tăng hiệu quả giáo dục vệ sinh mà còn tăng thêm
hiệu quả về ý thức, thói quen vệ sinh văn minh cho trẻ

Ví dụ: Xây dựng thời gian biểu rửa tay cho trẻ trước khi cho trẻ ăn và
sau khi trẻ đi vệ sinh. Hàng ngày cô giáo và phụ huynh cho trẻ thực hiện
nghiêm túc thời gian biểu, đúng giờ nào việc đó. Cứ như vậy ngày nào trẻ cũng
thực hiện đúng thời gian trẻ sẽ thành thói quen, dần dần trẻ sẽ tự làm mà không
cần cô nhắc. Vì những việc làm tốt được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ thành
thói quen tốt.

Ảnh nội dung một ngày hoạt động của bé
* Hướng dẫn trẻ làm:
- Ngay từ đầu năm học, giáo viên phải hướng dẫn thật tỉ mỉ cho trẻ cách vệ
sinh cá nhân như thế nào là đúng:
+ Cần rửa tay thường xuyên đúng cách bằng nước sạch với xà phòng.
+ Cần rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.
+ Rửa tay sau khi ho, hắt hơi mà phải dùng tay che miệng, sau khi tiếp xúc
với đồ vật công cộng có nguy cơ nhiễm vi rút cúm, bắt tay với người nghi
nhiễm cúm.
10


+ Thường xuyên rửa mặt sạch sẽ, rửa chân sạch sẽ, móng tay và móng chân
phải được cắt ngắn…
- Các cháu tuy còn nhỏ nhưng cũng có khả năng tiếp thu được những kiến
thức thông thường vì vậy cô cần phải hướng dẫn cho các cháu biết những điều
cần thiết của từng yêu cầu vệ sinh và những tác hại của việc không thực hiện
đúng yêu cầu đó, lời hướng dẫn của cô phải đơn giản, rõ ràng, chính xác, dể
hiểu.
* Rèn kỹ năng hình thành thói quen vệ sinh cho trẻ.
Nhắc nhở các cháu thực hiện thường xuyên. Muốn hình thành một thói
quen vệ sinh ngoài việc làm cho trẻ hiểu được ý nghĩa có kỹ năng cần phải làm
cho trẻ được thực hành thường xuyên, có như vậy mới ăn sâu vào nếp sống của

trẻ. Hành động sẽ trở thành thói quen khi đứa trẻ có nhu cầu từ bên trong.
Muốn trẻ hình thành được các thói quen vệ sinh thì cô giáo và gia đình
phải thống nhất yêu cầu giáo dục vệ sinh đối với trẻ. Giáo viên thông báo yêu
cầu biện pháp giáo dục vệ sinh cho phụ huynh biết, yêu cầu phụ huynh cần theo
dõi giúp đỡ và cho biết tình hình thực hiện ở nhà để cùng phối hợp giáo dục rèn
luyện cho trẻ.
Tạo điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết để trẻ được thường xuyên thực
hiện được những quy định về vệ sinh. Vì muốn thực hiện được những quy định
về vệ sinh thì phải có phương tiện thực hiện.
Ví dụ: Cô dạy các cháu rửa tay thì tối thiểu ở lớp, xô đựng nước phải có
vòi, có xà phòng, có nước sạch… Có phương tiện, lại được thực hiện thường
xuyên ở lớp cũng như ở nhà, cháu sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen
vệ sinh đó. Cô cùng gia đình kết hợp rèn luyện những kỹ năng thực hành vệ
sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
Giải pháp 4. Giáo dục vệ sinh lồng vào các hoạt động có chủ đích:
Tôi lồng công tác giáo dục vệ sinh vào các hoạt động có chủ đích trong
từng hoạt động tùy theo từng chủ đề, chú trọng vào các chủ đề bản thân, gia
đình, trường mầm non....
Với chủ đề Gia đình trong hoạt động giáo dục âm nhạc, tôi kết hợp vừa
dạy hát vừa giáo dục vệ sinh cho trẻ một cách nhẹ nhàng, trẻ trả lời các gợi
ý tôi đưa ra một cách hứng thú.
Ví dụ: Qua bài hát: “Chiếc khăn tay” nhạc và lời: Văn Tấn. Tôi giáo dục
vệ sinh cá nhân cho trẻ một cách nhẹ nhàng. “Chiếc khăn mẹ may cho em, trên
cành hoa mẹ thêu con chim, em sướng vui có chiếc khăn xinh đẹp, lau bàn tay
em rửa sạch hàng ngày” [2] bạn rất yêu quí chiếc khăn của mẹ tặng cho mình.
Bạn dùng khăn để mỗi khi rửa tay xong bạn lau cho sạch sẽ, để đôi tay không
bị bẩn thì áo quần, sách vở cũng được sạch sẽ đấy các cháu ạ. Các con phải học
tập bạn giữ vệ sinh cơ thể sạch sẽ nhé.
Qua giờ hoạt động tạo hình: “Nặn 1-2 loại quả” trong chủ đề các loại quả
bé thích. Ngoài việc chuẩn bị đầy đủ cho trẻ về khăn lau tay ướt trong khi nặn

để trẻ lau tay không bôi bẩn, tôi còn giáo dục trẻ yêu quí sản phẩm của bác
nông dân làm ra. Khi mẹ mua các loại quả về ăn, các con nhớ để mẹ rửa sạch,
gọt vỏ ( tùy theo loại quả ).
11


+ Nhớ trước khi ăn các con phải làm gì? Các con nhớ rửa tay bằng xà
phòng để diệt các con vi trùng bám trên tay nhớ chưa nào! Qua hoạt động có
chủ đích: Làm quen với toán: “Nhận biết to hơn - nhỏ hơn”. Tôi cho trẻ nhận
biết, to hơn - nhỏ hơn bằng đồ dùng vệ sinh cá nhân của trẻ và bố mẹ (Khăn
mặt to hơn, khăn mặt nhỏ hơn. Bàn chải to hơn, bàn chải nhỏ hơn…) Từ đó trẻ
còn hiểu thêm: Người lớn sử dụng đồ dùng to hơn, trẻ con sử dụng đồ dùng
nhỏ hơn.
Qua các hoạt động tôi không những giáo dục trẻ vệ sinh bằng lời nói mà
tôi còn sưu tầm các bài thơ cho trẻ đọc từ đó trẻ hứng thú và nhớ lâu hơn.
Ví dụ: Bài thơ: Đôi mắt của em
“Đôi mắt xinh xinh
Đôi mắt tròn tròn
Giúp em nhìn thấy
Mọi vật xung quanh” [3]
Tôi lồng giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ theo cách khác tránh sự lặp lại
và nhàm chán cho trẻ. Tôi cho trẻ trò chuyện về đôi mắt.
+ Đôi mắt giúp chúng ta những gì?
+ Nếu mắt bị bệnh, đau không nhìn thấy thì điều gì sẽ xảy ra?
+ Muốn cho đôi mắt sáng trong veo, không bị đau, các con phải làm gì?
Từ đó không những giúp trẻ tiếp thu bài nhanh mà còn hiểu được và biết
cách bảo vệ mắt: Không dụi tay bẩn lên mắt, rửa mặt thường xuyên bằng nước
sạch, đi ra đường phải có kính bảo vệ mắt…
Giải pháp 5. Giáo dục vệ sinh thông qua các hoạt động trong ngày:
Tôi thường xuyên giáo dục trẻ vệ sinh ở mọi lúc mọi nơi trong giờ học, giờ

chơi, các hoạt động vui chơi hay các hoạt động khác.
* Trong giờ đón trẻ: Mỗi buổi sáng, trong giờ đón trẻ tôi trò chuyện,
trao đổi với phụ huynh có trẻ chưa sạch sẽ, gọn gàng khi đến lớp nhắc phụ
huynh đem theo khăn lau đối với các cháu bị đau hay chảy nước mũi
. Hoặc trò chuyện với trẻ lần sau đi học phải sạch sẽ gọn gàng; trò chuyện
với trẻ về công việc khi trẻ thức dậy làm những việc gì phục vụ cho bản thân,
trẻ tự làm vệ sinh (Vệ sinh, rửa mặt..) hay phải có sự giúp đỡ của mẹ.
+ Ngủ dậy các con làm gì?
+ Ở nhà các con có khăn mặt riêng để rửa mặt không?
+ Con tự rửa mặt hay mẹ lau mặt cho con?
+ Khi lau mặt xong con thấy thế nào? Có thoải mái, sảng khoái không?
Sau đó tôi trò chuyện với trẻ về tầm quan trọng của việc rửa mặt, vệ sinh cá
nhân cho cơ thể sạch sẽ.
* Hoạt động học:
Hôm nay tôi dạy cho trẻ hát bài: “Rửa mặt như mèo” Tg: Hàn Ngọc
Bích. Tôi thường đặt ra các câu hỏi để hỏi trẻ như:
+ Vì sao Mèo không rửa mặt bằng khăn mà dùng bằng tay?
+ Dùng bằng tay có sạch không?
+ Các con khi rửa mặt lau bằng gì?
Qua bài hát trẻ hiểu phải sử dụng khăn sạch để rửa mặt, không được rửa
bằng tay vừa bẩn lại không hợp vệ sinh. Trong giờ hoạt động ngoài trời như:
12


Dạo chơi sân trường, tôi cho trẻ quan sát các tranh tuyên truyền về giáo dục vệ
sinh (Giữ cho đôi mắt sáng, khỏe, thao tác rửa tay đúng…)
* Hoạt động góc: Tôi thường cho trẻ chơi các trò chơi như: Rửa mặt cho
búp bê, rửa tay cho búp bê, luôn nhắc nhở trẻ khi chơi xong phải cất xếp đồ
chơi gọn gàng, rửa tay sạch sẽ.
* Hoạt động ngoài trời: Dạo chơi sân trường tôi cho trẻ cho trẻ nhặt lá

rụng ở sân trường bỏ vào đúng nơi qui định, giáo dục trẻ sau khi ăn xong biết
bỏ rác vào nơi qui định để giữ cho môi trường luôn xanh - sạch - đẹp.
* Giờ ăn: Trước giờ ăn, tôi thường xuyên nhắc nhở và cho trẻ rửa tay có
sự giám sát của cô trẻ ăn xong xúc miệng, vệ sinh cá nhân mới vào ngủ.
Khi trẻ ngủ dậy tôi không cho trẻ ra ăn ngay mà cho trẻ đi vệ sinh, sau
đó cho trẻ rửa tay, rửa mặt sạch sẽ cho tỉnh táo rồi sau đó mới ăn quà chiều.
* Giờ ngủ: Trước khi trẻ ngủ tôi nhắc trẻ đi vệ sinh, kiểm tra tay chân
nếu bẩn cho trẻ rửa tay chân, cho trẻ lên giường ngủ.
* Hoạt động chiều: Khi trẻ ngủ dậy tôi không cho trẻ ra ăn ngay mà cho
trẻ đi vệ sinh, sau đó cho trẻ rửa tay, rửa mặt sạch sẽ, ngậm nước muối cho tỉnh
táo rồi sau đó mới ăn quà chều. Ngoài việc ôn luyện kiến thức tôi thường ôn
luyện các thao tác vệ sinh như tập cho trẻ rửa tay, rửa mặt đúng cách …Đây là
thời điểm tôi hướng dẫn lại cho trẻ kĩ năng thực hành vệ sinh một cách cụ thể
theo quy trình. Từ đó giúp trẻ ghi nhớ các kĩ năng hướng dẫn trong ngày của cô
giáo. Cho trẻ vệ sinh sạch sẽ để nêu gương
* Nêu gương cuối ngày: Mỗi buổi chiều nêu gương cuối ngày, tôi thường
xuyên chú trọng và đưa tiêu chí thi đua: “Học giỏi, chăm ngoan, vâng lời cô,
yêu thương bạn và giữ gìn vệ sinh cá nhân sạch sẽ …”. Được cô và các bạn
trong lớp bầu chọn và nhất trí thì sẽ được cắm cờ. Tôi đã tạo môi trường vệ
sinh trong lớp như: Vẽ những hình ảnh về chăm sóc- giáo dục vệ sinh, quy
trình rửa tay, rửa mặt vui ngộ nghĩnh ở khu vực trẻ làm vệ sinh cá nhân. Làm
bảng tin tuyên truyền với nội dung phong phú, hình ảnh đẹp để tuyên truyền
* Giờ trả trẻ: Trao đổi với phụ huynh giáo dục trẻ vệ sinh tay trước khi ăn và
sau khi đi vệ sinh

13


Một số hình ảnh trẻ hoạt động trong ngày
Giải pháp 6: Giáo dục vệ sinh thông qua hoạt động tuyên dương:

Trong việc giáo dục vệ sinh cá nhân cô giáo và phụ huynh cần biết khen
ngợi, động viên trẻ kịp thời. Khi trẻ làm đúng và có ý thức vệ sinh sạch sẽ, cần
khen ngay những lời biểu dương ngọt ngào, những phần thưởng mang ý nghĩa
về tinh thần hơn là vật chất để khuyến khích, động viên trẻ. Khi trẻ làm một
việc chưa tốt, người lớn cần tỏ thái độ không đồng tình, làm cho trẻ biết được
như vậy là chưa đúng để trẻ không lặp lại những hành vi đó nữa.

14


Trẻ nhỏ rất thích được khen và không muốn bị chê, nên chúng ta cần
biết khêu gợi lòng tự hào đúng lúc đúng chỗ để hình thành những phẩm chất tốt
đẹp, những hành vi đúng cho trẻ.
- Cô giáo dành thời gian, chú ý nhiều hơn đến những cháu cá biệt để có
biện pháp giáo dục phù hợp, phải động viên khen thưởng sửa lại kịp thời cho
trẻ nhằm kích thích những việc làm tốt và hạn chế những hành vi xấu của trẻ.
Giải pháp 7. Phối hợp với phụ huynh để giáo dục vệ sinh cho trẻ:
Để làm tốt công tác này tôi phải làm rõ cho phụ huynh hiểu đúng về yêu
cầu, nội dung của Bộ giáo dục đào tạo bằng cách lập các nội dung vệ sinh và
yêu cầu của việc vệ sinh trong công tác nuôi dạy trẻ tuyên truyền thông báo đến
phụ huynh thông qua, họp phụ huynh, góc tuyên truyền, gặp trực tiếp trao
đổi.... Đây là một việc làm hết sức cần thiết, vì cuộc sống sinh hoạt của trẻ, một
phần gắn với nhà trường còn phần lớn gắn với gia đình.
+Ví dụ: Vệ sinh cá nhân: Tắm gội, quần áo của trẻ có sạch hay không
đều phụ thuộc vào phụ huynh, vệ sinh cho trẻ trước lúc đến lớp.
+ Ví dụ: Vệ sinh ăn uống của trẻ cũng một nửa trẻ sinh hoạt ở gia đình,
nên trẻ cần được phụ huynh biết và quan tâm....
Vì vậy, nhằm trang bị cho các bậc phụ huynh những kiến thức về vệ sinh
và giáo dục vệ sinh cho trẻ tôi đã hướng dẫn tiến hành như sau:
* Tổ chức họp phụ huynh:


ảnh họp phụ huynh tuyên truyền công tác vệ sinh cho trẻ
- Qua cuộc họp tôi nêu lên tầm quan trọng và nội dung của công tác giáo
dục vệ sinh, đặc biệt nhấn mạnh khâu “giáo dục vệ sinh cá nhân”. Trong buổi
họp này tôi còn hướng dẫn trẻ thực hành các thao tác vệ sinh giúp cha mẹ trẻ
nắm được các thao tác đó để khi về nhà các bậc phụ huynh giúp trẻ duy trì thói
quen. Vì đối với trẻ nhà trẻ công tác giáo dục vệ sinh lấy việc giáo dục thói
quen làm mục tiêu chủ yếu. Đồng thời trong quá trình hình thành thói quen
15


phải từng bước nâng cao nhận thức và giúp trẻ thực hành đúng yêu cầu vệ sinh,
từ đó hoàn thiện kỹ năng sống cho trẻ .
+ Báo cáo với phụ huynh về tình hình của từng trẻ để phụ huynh kết hợp
cùng cô giáo giúp trẻ tiến bộ.
+ Thông báo rõ về tình hình thực tế trên toàn quốc hiện nay tỷ lệ mắc các
bệnh ở trẻ em rất cao như: Sâu răng, run, sán, đi ngoài, ..những bệnh thường
gặp ở trẻ nhỏ mà nguyên nhân là do các bậc phụ huynh chưa dạy cho trẻ thói
quen ăn uống, vệ sinh đánh răng sau khi ăn xong và khi ngủ dậy. Khi ăn xong
thức ăn trong kẽ răng nếu không được chải sạch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
vi khuẩn sâu răng tấn công. Hoặc các bậc cha mẹ chưa hiểu được việc khi trẻ
chơi đồ chơi hoặc khi đi vệ sinh xong chưa rửa tay đã cầm bát đũa ăn cơm, ăn
quà bánh, khi đó trứng giun theo thức ăn vào bụng sẽ là nguyên nhân gây bệnh
giun sán ở trẻ. Từ đó để phụ huynh nắm được cách phòng bệnh.
* Sử dụng góc tuyên truyền của lớp.:
- Ở góc tuyên truyền của lớp, thường xuyên treo lịch sinh hoạt, lịch vệ
sinh bảng theo dõi sức khỏe của trẻ, các bảng này được trang trí đẹp, nội dung
rõ ràng. Cùng với các bảng đó tôi treo tranh chủ đề từng thời điểm, từng mùa
để tuyên truyền phòng bệnh, tranh ảnh sinh hoạt, học tập, vệ sinh ăn ngủ của
các cháu để phụ huynh theo dõi.

* Thông báo trực tiếp:
- Thông báo về tình hình thói quen của từng trẻ và bàn biện pháp để chăm sóc
giáo dục thích hợp vào giờ đón và trả trẻ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến:
Qua quá trình nghiên cứu và đưa ra các giải pháp trong việc nâng cao chất
lượng giáo dục vệ sinh cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi tại trường Mầm non Thiệu
Thành-Thiệu Hoá-Thanh Hoá.
* Đối với trẻ:
Nhờ làm tốt công tác tự học tập bồi dưỡng, tuyên truyền đã tác động đến
nhận thức của các bậc phụ huynh mà các cháu đã dần dần hình thành có kĩ
năng, kĩ xảo thực hiện thao tác và cách chăm sóc vệ sinh cá nhân trẻ. Đến thời
điểm này tôi thực sự vui mừng khi thấy sự tiến bộ rất rõ rệt trong các cháu, các
cháu đã thật sự có thói quen giữ gìn vệ sinh cá nhân.
Trẻ về nhà đã biết tự mình làm một số việc tự phục vụ: Tự xúc ăn, tự
uống nước, biết gọi người lớn khi có nhu cầu đi vệ sinh, khi chơi xong tự cất đồ
chơi… biết đọc thơ, hát bi bô cho ông bà, bố mẹ nghe. Vì vậy các bậc phụ
huynh rất vui, càng yên tâm hơn khi gửi con đến lớp. Từ đó phụ huynh quan
tâm đến việc học tập của các cháu nhiều hơn.
Trẻ nề nếp thói quen tự phục vụ nên tôi thực hiện nhiệm vụ chăm sóc
giáo dục một cách dễ dàng.
Trẻ biết rửa tay với xà phòng lúc tay bẩn và sau khi đi vệ sinh. Rửa
mặt đúng quy trình…đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho việc chăm sóc
sức khỏe trẻ, phòng chống ngăn ngừa được nhiều bệnh tật. Kết quả trên trẻ:
Sau một thời gian thực hiện theo sự giúp đỡ của cô mọi mặt của trẻ phát
triển rõ rệt. So với kết quả đầu năm tỷ lệ đạt được rất tốt. Kỷ năng vệ sinh và
thói quen trong thực hiện vệ sinh thành thạo, sức khỏe của trẻ được tăng lên, trẻ
16


suy dinh dưỡng thấp còi hạ xuống thấp. Kết quả khảo sát đến cuối năm học cho

thấy như sau:
BẢNG KHẢO SÁT CUỐI NĂM HỌC
STT

Nội dung khảo sát

Tổng
số
Tốt
học
sinh

Kết quả
%

Khá

%

TB

%

Yếu

%

Trẻ có thói quen vệ sinh
9
56.3

5
31.2
2
12.5
0
0
cá nhân (rửa tay khi tay 16
bẩn, rửa mặt...)
Trẻ biết có ý thức vệ
sinh trong ăn uống (Rửa
tay trước và sau khi ăn,
10 62.5
0
4
25
2
12.5
2
16
0
ăn không làm rơi cơm,
biết nhặt cơm rơi bỏ
vào bát và lau tay...).
Trẻ có thói quen vệ sinh
9
56.3
5
31.2
2
12.5

0
0
3 trước và sau khi đi vệ 16
sinh
Trẻ có thói vệ sinh
trong sinh hoạt (Trẻ biết
nhặt rác bỏ vào đúng
16
10 62.5
4
25
2
12.5
0
0
4
nơi qui định, biết cất đồ
dùng, đồ chơi sau khi
chơi xong)
Còn lại một vài trẻ cá biệt, cô sẽ có biện pháp để tiếp tục rèn cho trẻ trong
thời gian còn lại của cuối năm học. Để cuối năm 100 % trẻ trong lớp biết thực
hiện vệ sinh và có thói quen vệ sinh thành thạo.
* Đối với bản thân:
Sau khi lựa chọn đề tài này để nghiên cứu tôi đã đưa vào thực tiễn thực
hiện tại nhóm trẻ mình phụ trách tôi thấy đã có nhiều kết quả:
Bản thân tôi được trang bị thêm kiến thức trong công tác chăm sóc giáo
dục trẻ.
Trẻ đến trường mạnh dạn tự tin, không còn trẻ ăn mặc quần áo bẩn đến
lớp, mỗi trẻ đi học đều có một ba lô đựng đồ dùng cá nhân gọn gàng, phụ
huynh tin tưởng, hài lòng với việc con mình đến lớp có nề nếp, sạch sẽ hơn, trẻ

có thêm kiến thức, kỹ năng trong việc thực hiện thao tác vệ sinh, khi ăn không
làm rơi cơm, biết rửa tay sau khi đi vệ sinh và trước khi ăn, biết chơi đồ chơi
không tranh giành nhau và chơi xong cất đúng nơi qui định.
Đây là thành công không nhỏ khi bản thân nghiên cứu đề tài này, áp
dụng ở lớp và thấy được kết quả như vậy.
1

17


* Đối với đồng nghiệp và nhà trường:
Chất lượng trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ của lớp tăng lên rõ rệt,
trang thiết bị đồ dùng đồ chơi của lớp tăng được bổ sung được tăng lên phong
phú tương đối đầy đủ.
Vệ sinh môi trường được thực hiện nghiêm túc, luôn đảm bảo Xanh Sạch - Đẹp.
Nhà trường và đồng nghiệp hưởng ứng ủng hộ cao và áp dụng được ở
lớp mình phụ trách và đã mạng lại hiệu quả tốt.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN
Qua thời gian nghiên cứu, áp dụng thực hiện đề tài, qua kết quả giáo dục
trẻ đạt được trên tôi nhận thấy việc giáo dục vệ sinh cho trẻ mầm non là rất cần
thiết và quan trọng. Bản thân tôi là người làm nghề chăm sóc giáo dục trẻ, hàng
ngày tôi được tiếp xúc với trẻ tôi cảm thấy mỗi ngày qua đi trẻ có thêm nhận
thức về công tác vệ sinh để bảo vệ sức khoẻ con người của chính bản thân trẻ,
điều đó làm cho tôi luôn cảm thấy phấn khởi vui mừng vô cùng, có lẽ không
chỉ bản thân tôi mà tất cả những ai quan tâm đến giáo dục trẻ đều thấy phấn
khởi, phụ huynh thấy tin tưởng ở người giáo dục trẻ, thấy vui khi con về nhà
mỗi ngày có thêm một hiểu biết mới, có thêm một kỷ năng để tự phục vụ và
giúp đỡ mọi người .giúp cho sự phát triển toàn diện sau này cho trẻ, trang bị
cho trẻ nền tảng kỷ năng sống để bảo vệ sức khỏe của mình, điều đó góp phần

chung vào xây dựng xã hội con người có sức khỏe tốt giảm bệnh tật, góp phần
làm môi trường sống sạch sẽ, trong lành
Qua thời gian áp dụng sáng kiến này tôi rút ra được một bài học kinh
nghiệm bổ ích cho bản thân trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, nhất là việc
làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục vệ sinh cho trẻ .
+ Để việc tổ chức các biện pháp giáo dục vệ sinh cho trẻ đạt kết quả khá tốt
người giáo viên cần phải biết và nắm vững những nội dung kiến thức, kỷ năng
cần giáo dục trẻ .
+ Nắm vững lựa chọn các phương pháp để sử dụng vào các họat động giáo dục
trẻ cho phù hợp.
+ Thiết kế tổ chức các biện pháp giáo dục phải phù hợp với nội dung giáo dục
trẻ, các nội dung giáo dục trong mỗi hoạt động phải rõ ràng phụ hợp với khả
năng của trẻ theo giai đoạn nhận thức.
+ Khi tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ cô cần phải nắm và xác định rõ
các bước yêu cầu trong hoạt động và nội dung yêu cầu trẻ ở các bước.
+ Cô cần phải nhanh nhẹn linh hoạt và sáng tạo khi tổ chức các hoạt động giáo
dục cho trẻ, để gợi mở khả năng nhận thức cho trẻ, sử lý tình huống của trẻ .
+ Cô phải là người luôn gương mẫu trong công tác vệ sinh để trẻ noi theo
+ Để tổ chức các hoạt động sinh động và phong phú hấp dẫn trẻ cô cần phải
siêng năng siêu tầm, sáng tạo trong các nội dung lồng ghép để giáo dục trẻ.

18


+ Một điều đơn giản nhất là với trẻ nhỏ trẻ nhớ rồi quên, quên rồi nhớ khi có
sự nhắc nhở cho trẻ hàng ngày. Vì vậy cô cần tận dụng các cơ hội, các tình
huống hàng ngày để rèn trẻ.
+ Phối hợp với phụ huynh, nhà trường chặt chẽ trong việc giáo dục trẻ, để
thường xuyên nắm bắt thông tin về trẻ, từ đó cô có cơ sở điều chỉnh các nội
dung giáo dục cho phù hợp với trẻ.

3.2. KIẾN NGHỊ:
Đây là một đề tài rất thiết thực với nội dung chương trình chăm sóc giáo
dục trẻ. những biện pháp thực hiện rất đơn giản. Bởi vậy đề tài này có thể áp
dụng để sử dụng cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ, cách cô truyền đạt và hướng dẫn trẻ
khi thực hiện tùy vào độ tuổi và nhận thức của trẻ .
- Đối với phòng giáo dục và nhà trường: Tham mưu để bổ sung giáo
viên còn thiếu tạo điều kiện để nhiều giáo viên có nhiều thời gian hơn để
nghiên cứu đề tài cũng như thực hiện các công việc khác được thuận lợi hơn.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa,, ngày 18 tháng 03 năm 2017
HĐKH trường Mầm non Thiệu Thành
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
đồng ý xếp loại sáng kiến kinh nghiệm viết, không sao chép nội dung của người
của cô Ngô Thị Quyên: Xếp loại A . khác.
Hiệu trưởng
Người viết

Nguyễn Thị Hồng

Ngô Thị Quyên

19


* Tài liệu tham khảo:
- [1] Tuyển chọn trò chơi, bài hát, câu đố theo chủ đề trẻ 3- 36 tháng tuổi do
TS Lê Thu Hương chủ biên. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
- [2],[3] Tuyển chọn trò chơi, bài hát, câu đố theo chủ đề 3- 4 tuổi do tác giả Lê

Thu Hương chủ biên tập. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.

20


* DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Ngô Thị Quyên
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Mầm non Thiệu Thành

TT

Tên đề tài SKKN

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại


Một số biện pháp nâng cao
1

chất lượng bữa ăn cho trẻ

Phòng
GD&ĐT

B

2007 - 2008

mầm non

21



×