Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

skkn một số biện pháp chỉ đạo giáo viên lớp ghép thôn nè trường mầm non cẩm quý dạy trẻ dân tộc thiểu số nói chuẩn tiếng phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.44 KB, 30 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẨM THUỶ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN LỚP GHÉP THÔN NÈ TRƯỜNG MẦM
NON CẨM QUÝ DẠY TRẺ DÂN TỘC THIỂU SỐ NÓI CHUẨN
TIẾNG PHỔ THÔNG.

Người thực hiện: Cao Thị Thu
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Cẩm Quý
SKKN thuộc lĩnh mực Quản lý

THANH HOÁ NĂM 2017

1


MỤC LỤC
STT

NỘI DUNG

TRANG

I

MỞ ĐẦU



Trang 1

1

Lý do chọn đề tài

Trang 1

2

Mục đích nghiên cứu

Trang 2

3

Đối tượng nghiên cứu

Trang 2

4

Phương pháp nghiên cứu

Trang 2

II

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


Trang 2

1

Cơ sở lý luận

Trang 2

2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.

Trang 4

2.1

Thuận lợi

Trang 4

2.2

Khó khăn

Trang 4

2.3


Kết quả thực trạng

Trang 5

3

Các biện pháp tiến hành giải quyết vấn đề

Trang 6

3.1

Biện pháp 1: Chỉ đạo cách xây dựng kế hoạch dạy tiếng việt Trang 7
cho trẻ

3.2

Biện pháp 2: Tham mưu với địa phương về cơ sở vật chất

Trang 8

3.3

Biện pháp 3: Chỉ đạo điều tra, huy động trẻ ra lớp

Trang 9

3.4

Biện pháp 4: Phân công giáo viên đứng lớp


Trang 11

3.5

Biện pháp 5: Chỉ đaọ hướng dẫn giáo viên lớp ghép Thôn Trang 12
Nè tổ chức các hoạt động dạy trẻ dân tộc thiểu số nói chuẩn
tiếng phổ thông

3.6

Biện pháp 6: Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục

3.7

Biện pháp 7: Chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác tuyên Trang 15
truyền

Trang 13

2


3.8

Biện pháp 8: Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục

Trang 17

4


Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

Trang 17

III

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Trang 19

1

Kết luận

Trang 19

2

Kiến nghị

Trang 20

Đối với đảng chính quyền địa phương

Trang 20

Đối với phòng giáo dục

Trang 21


3


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lúc sinh thời Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta đã dạy: “Tiếng nói
là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải
giữ gìn nó, tôn trọng nó”. Do đó, việc dạy tiếng phổ thông cho trẻ tuổi mầm non
có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp cho
trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát
triển nhân cách cho trẻ.
Trong những năm gần đây Đảng và nhà nước ta rất coi trọng đến Giáo dục
và đào tạo. Điều đó đã được thể hiện trong các văn kiện, các nghị quyết đại hội
của Đảng. Đặc biệt sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
theo tinh thần Nghị quyết số 29 của hội nghị Trung ương 8 (khoá XI) và kế thừa
trong đại hội XII tiếp tục khẳng định đây không chỉ là quốc sách hàng đầu, là
“chìa khóa” mở ra con đường đưa đất nước tiến lên phía trước, mà còn là “mệnh
lệnh” của cuộc sống đang đặt ra những yêu cầu mới. [3]
Và đặc biệt ngày 02/6/2016 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 1008/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm
non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 - 2020, định hướng
đến 2025”. Mục tiêu của đề án nhằm tập trung tăng cường tiếng Việt cho trẻ em
mầm non, học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số, bảo đảm các em có kỹ năng
cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục mầm
non và chương trình giáo dục tiểu học; tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức
của các cấp học tiếp theo.[4]
Tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ Quốc gia, là ngôn ngữ chính thức dùng
trong nhà trường và các cơ sở mầm non đến đại học. Chuẩn bị cho trẻ vào học
lớp 1 là một trong những mục tiêu giáo dục toàn diện của giáo dục mầm non.

Chuẩn bị ngôn ngữ tiếng việt là vấn đề vô cùng quan trọng. Vì ngôn ngữ có
chức năng làm công cụ tư duy, công cụ biểu đạt tư tưởng, tình cảm và là phương
tiện giao tiếp của các thành viên trong xã hội. [1]
Trường mầm non là trường học đầu tiên chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục
trẻ. Chính vì thế việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non, đặc biệt là trẻ dân
tộc thiểu số nói thành thạo tiếng phổ thông sẽ góp phần phát triển toàn diện nhân
cách và là nền tảng cho các cấp học sau này.
Tiếng phổ thông là tiếng chuẩn của quốc gia. Vì thế chuẩn bị thật tốt tiếng
phổ thông cho trẻ vùng dân tộc thiểu số là một vấn đề rất thiết thực trong việc
giảng dạy trẻ vùng dân tộc thiểu số hiện nay nói chung và lớp ghép 2 độ tuổi
Trường Mầm non Cẩm Quý nói riêng. Chính vì vậy muốn nâng cao khả năng
nhận thức cho trẻ cần phải chuẩn bị tốt tiếng Việt cho trẻ ngay từ lứa tuổi Mầm
non. Là một người trực tiếp chỉ đạo chuyên môn tại trường mâm non Cẩm Quý.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giúp trẻ vùng dân tộc thiểu số phát âm
4


chuẩn được tiếng phổ thông một cách thành thạo. Tôi đã lựa chọn đề tài: "Một
số biện pháp chỉ đạo giáo viên lớp ghép Thôn Nè trường Mầm Non Cẩm Quý
dạy trẻ dân tộc thiểu số nói chuẩn tiếng phổ thông".
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm giúp giáo viên có kiến thức và phương pháp dạy học tốt hơn.
Giúp học sinh người dân tộc thiểu số có kỹ năng cơ bản sử dụng tiếng phổ
thông, biết giao tiếp và nói chuẩn tiếng phổ thông.
Nhằm góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ ở
lứa tuổi mầm non ở địa phương.
Góp phần giải quyết mục tiêu Quyết định số 1008/QĐ-TTg ngày 2/6/2016
của chính phủ đề ra.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tổng kết một số biện pháp chỉ đạo giáo viên lớp ghép Thôn

Nè trường Mầm Non Cẩm Quý dạy trẻ dân tộc thiểu số nói chuẩn tiếng phổ
thông.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:
Bản thân đã nghiên cứu các tài liệu tập san, tài liệu chuyên đề hè hàng
năm, bồi dưỡng thường xuyên, nghị quyết của Đảng nhà nước để định hướng
cho sáng kiến của mình.
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
Phương pháp thống kê sử lý số liệu: Qua trao đổi của giáo viên và khảo
sát thực tế tôi đã nắm được số lượng trẻ có khả năng nói chuẩn tiếng phổ thông,
số trẻ nói còn lẫn giữa 2 thứ tiếng, số trẻ không hiểu tiếng phổ thông và không
biết nói tiếng phổ thông của lớp để có biện pháp chỉ đạo giáo viên hướng dẫn trẻ
nói chuẩn tiếng phổ thông và biết nói tiếng phổ thông.
Phương pháp thực nghiệm: Bản thân đã đưa ra nhiều biện pháp khác nhau
để chỉ đạo giáo viên thực hành hướng dẫn trẻ và đã thực hiện ngay tại lớp ghép
Thôn Nè do cô Bùi Thị Minh phụ trách trong năm học 2016 - 2017 của trường
Mầm non Cẩm Quý.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận
Như chúng ta đã biết ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển nhân cách của trẻ. Ngôn ngữ nói, giao tiếp và đọc viết có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với sự phát nhân cách của trẻ Mầm non nói riêng, của con người
và xã hội nói chung. Lứa tuổi Mầm non là thời kỳ phát triển mạnh mẽ về ngôn
ngữ. Đây là giai đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ
5


nói và các kỹ năng đọc viết ban đầu của trẻ. Ở giai đoạn này trẻ đạt được những
thành tích vĩ đại mà ở các giai đoạn sau không thể có được, trẻ học nghĩa và cấu
trúc của từ, cách sử dụng từ ngữ để chuyển tải suy nghĩ và cảm xúc của bản

thân, hiểu mục đích và cách thức con người sử dụng chữ viết. [2]
Cùng với quá trình lĩnh hội ngôn ngữ, trẻ lĩnh hội và phát triển các năng
lực tư duy như xây dựng và biểu đạt ý tưởng, chia sẻ thông tin với người khác
và tiếp nhận, đáp lại ý tưởng, thông tin của người khác. Phát triển ngôn ngữ và
giao tiếp có ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực phát triển khác của trẻ. Ngôn ngữ
là công cụ của tư duy vì thế ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
nhận thức, giải quyết vấn đề và chức năng tư duy ký hiệu tượng trưng ở trẻ. [2]
Qua quá trình nghiên cứu về ngôn ngữ của trẻ dân tộc thiểu số, cho thấy
việc làm quen tiếng Việt (tiếng phổ thông) và chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ dân tộc
thiểu số có tác động rất lớn đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ sau này.
Phần lớn trẻ em dân tộc thiểu số trước khi tới trường, lớp mầm non đều sống
trong môi trường tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Việt, ít có môi trường giao tiếp
tiếng Việt. Khi đến trường, trẻ em thích trao đổi với nhau bằng tiếng mẹ đẻ và có
thói quen giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ trong hoạt động chơi, trò chuyện hàng ngày
và thậm chí ngay cả trong môi trường học tập. Do đó, trẻ em dân tộc thiểu số sẽ
không có vốn tiếng Việt ban đầu cần thiết để học tập bằng tiếng Việt ở trường
phổ thông nếu không được chuẩn bị tiếng Việt.[1]
Trẻ dân tộc lớp mẫu giáo ghép thường sống ở vùng núi; môi tường giao
lưu hạn chế; hiểu biết của phụ huynh chưa thật tốt, thường sử dụng tiếng mẹ đẻ
trong gia đình và cộng đồng.[5]
Trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số bắt đầu học tiếng phổ thông trên cơ sở
kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ (tiếng dân tộc) không phải là tiếng phổ thông. Môi
trường giao tiếp tiếng phổ thông của trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số thu hẹp cả
về mặt không gian lẫn thời gian (trong phạm vi trường lớp mầm non).Việc học
tiếng phô thông của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ
thứ nhất và sự giao thoa ngôn ngữ giữa tiếng mẹ đẻ với tiếng phổ thông.[1]
Đối với trẻ mầm non đặc biệt là trẻ nhỏ trong mỗi đứa trẻ tâm hồn trẻ như
tờ giấy trắng người lớn viết lên đó những gì thì trẻ sẽ tiếp thu lĩnh hội điều đó và
hình thành cho trẻ kỹ năng. Trẻ vùng dân tộc kỹ năng giao tiếp của trẻ được hình
thành từ thủa ấu thơ là tiếng dân tộc.

Vì vậy dạy tiếng phổ thông cho trẻ dân tộc thiểu số là một việc hết sức
quan trọng hiện nay với học sinh là người dân tộc thiểu số. Việc chuẩn bị tốt
tiếng phổ thông cho trẻ dân tộc thiểu số, giúp trẻ có vốn ngôn ngữ chuẩn mực,
phát triển kỹ năng nhận thức, giao tiếp sáng tạo, cảm xúc xã hội... Đồng thời
giáo viên có cơ hội cho trẻ dân tộc thiểu số được thỏa mãn nhu cầu giao tiếp và
đánh giá mức độ hiểu biết và cách ứng xử giao tiếp của trẻ về lĩnh vực ngôn
ngữ.

6


2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Thuận lợi
Trong những năm vừa qua, giáo dục học sinh dân tộc thiểu số ở vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc thiểu số đã và đang được Đảng, Nhà nước và Đảng chính
quyền địa phương, các ban nghành đoàn thể quan tâm đến tinh thần vật chất cho
ngành học đặc biệt là ngành học mầm non.
Được sự quan tâm của phòng giáo dục Huyện Cẩm Thủy tạo điều kiện
cho tôi được tham gia lớp tập huấn chuyên đề: “Hướng dẫn chuẩn bị tiếng việt
cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số trong thực hiện chương trình giáo dục
mầm non.”
Bên cạnh đó được sự đoàn kết, thống nhất của ban lãnh đạo nhà trường,
các đồng chí cán bộ giáo viên trong trường luôn nhiệt tình, yêu nghề, có trình độ
đạt chuẩn trở lên với tổng số giáo viên toàn trường là: 29 giáo viên (Trong đó
giáo viên có trình độ Đại học là: 23 giáo viên; Cao đảng: 3 giáo viên; Trung cấp:
3 giáo viên)
Giáo viên là người dân tộc thiểu số(dân tộc mường): 19 đồng chí.
2.2. Khó khăn
* Về địa phương
Cẩm Quý là một xã miền núi vùng cao, đời sống kinh tế xã hội còn gặp

không ít khó khăn, địa phương có hai dân tộc cùng sinh sống đó là dân tộc kinh
và dân tộc mường, trong đó 98% người dân là người dân tộc thiểu số. Đặc biệt
lớp ghép tại thôn Nè 100% trẻ là người dân tộc thiểu số. Vì vậy việc giao tiếp
với trẻ bằng tiếng phổ thông là rất khó khăn.
Địa bàn dân cư sống không tập trung, giao thông đi lại khó khăn, số lượng
trẻ ở từng độ tuổi của các thôn xa khu trung tâm như thôn Nè rất ít không đủ để
thành lập các lớp mẫu giáo đơn (lớp 1 độ tuổi).
* Về nhà trường
Trường mầm non Cẩm Quý là một trường vùng cao của huyện Cẩm Thủy,
cơ sở vật chất đang còn thiếu nhiều đặc biệt là các lớp học khu lẻ xa khu trung
tâm, việc huy động trẻ ra lớp khó khăn, các lớp đều phải học nhờ nhà văn hóa
thôn, nhà dân, đồ dùng đồ chơi ít, chủ yếu là do cô và trẻ tạo ra, các lớp học chật
hẹp, không có sân chơi tập rộng thoáng, không có đồ chơi ngoài trời, chưa đảm
bảo chưa tổ chức bán trú được cho trẻ.
Giáo viên dạy lớp ghép chương trình giảng dạy cùng một nội dung, cùng
một bài giảng, các đồ dùng học liệu chuẩn bị như nhau nhưng giáo viên phải xây
dựng mục đích yêu cầu theo từng độ tuổi trong cùng một lớp vì vậy rất khó khăn
vất vả cho giáo viên khi xây dựng kế hoạch xác định mục tiêu cần đạt ở các chủ
đề thực hiện.

7


* Về phía phụ huynh
Do đặc điểm phụ huynh của các thôn xa khu trung tâm như thôn Nè 100%
là người dân tộc, qua điều tra phổ cập tỉ lệ mù chữ của người dân cao, nhiều phụ
huynh không biết nói tiếng phổ thông đặc biệt là ông bà của các cháu, có phụ
huynh nói được tiếng phổ thông nhưng nói chưa thành thạo, chưa đúng, nói nửa
tiếng mường nửa tiếng phổ thông. Nhiều phụ luôn quan niệm cháu lên 3 mới
cho cháu đi mẫu giáo nên trẻ được 3 tuổi mới đi học mẫu giáo, có gia đình khi

trẻ 5 tuổi mới cho trẻ đi học
* Về phía trẻ
Các cháu học sinh của lớp ghép Thôn Nè 100% là người dân tộc, môi
trường giao tiếp của cháu là tiếng dân tộc không phải là tiếng phổ thông, ít có
môi trường giao tiếp tiếng phổ thông. Khi đến lớp trẻ chỉ giao tiếp bằng tiếng
dân tộc trong tất cả các hoạt động hàng ngày, trẻ chưa có ý thức tập thể, chưa có
nề nếp thói quen học tập, trẻ rụt rè, sợ khi có người lạ đến lớp vì trẻ không được
đi học đúng độ tuổi.
Do những nguyên nhân trên. Nên hiệu quả các hoạt động của trẻ chưa
được tốt, hiệu quả giáo dục chưa cao, chất lượng trẻ nói chuẩn tiếng phổ thông
còn thấp.
2.3. Kết quả của thực trạng:
Từ những nguyên nhân hạn chế trên nên hiệu quả các hoat động của trẻ
chưa tốt, hiệu quả giáo dục chưa cao, khả năng sử dụng tiếng phổ thông của trẻ
nhiều hạn chế. Điều đó đã thể hiện rất rõ khi ta tiếp xúc với trẻ, nhận thấy ở trẻ
sự thiếu tự tin, lúng túng, ấp úng. Nói chưa rõ câu chưa rõ lời, nói lẫn tiếng phổ
thông và tiếng mường. Trong quá trình giao tiếp, trẻ không tích cực tham gia các
hoạt động, ngại giao tiếp với mọi người xung quanh, trẻ chỉ sử dụng tiếng dân
tộc.
Ví dụ: Trẻ chỉ biết sử dụng tiếng mường để giao tiếp trong các hoạt động
hàng ngày khi được cô giáo trò chuyện hỏi thăm trẻ bằng tiếng phổ thông "cô
giáo chào con" Con tên là gì? Trẻ chỉ nhìn cô hoặc quay đi, lúc này bắt buộc tôi
và cô giáo chu nhiệm phải sử dụng tiếng mường để làm quen và trò chuyện với
cháu. “Cô giạo cháo con, con cháo mế mụ đi, bao ni ống cô” có nghĩa là “cô
giáo chào con, con chào bà nội đi vào đây với cô”, hay “con sên chi?, con ở
láng nó?” có nghĩa là: “con tên gì?, con ở làng nào? Hay cô hỏi trẻ “Con đang
làm gì đó?” cháu trả lời“Con đang vẻ hoa cô giao ời” có nghĩa là “Con đang vẽ
hoa cô giáo ạ” cô hỏi: Con vẽ hoa mầu gì đấy? Trẻ trả lời “ Con vẻ hoa mấu
xìa”, có nghĩa là: “Con vẽ hoa mầu tím”; Khi trò chuyện với trẻ về người thân
trong gia đình, nhà con có những ai: “Nhá con cò: Ông, Mú, Bồ, Mế, chụ... có

nghĩa là: Ông, Bà, Bố, Mẹ, chú...Sau những lần trò chuyện bằng tiếng mường để
trẻ hiểu thì giáo viên dần dần dạy trẻ nói lại theo cô bằng tiếng phổ thông, chú ý
khen ngợi, động viên giúp trẻ tự tin hơn
8


Đấy chỉ là một số ví dụ nhỏ mà tôi đưa ra. Cụ thể hơn tôi đã tiến hành cho
giáo viên khảo sát thực trạng hiểu và nói tiếng phổ thông của các cháu lớp ghép
Thôn Nè như sau:
Kết quả khảo sát đầu năm học
S
T
T

Tiêu chí

Tổn
g số
trẻ

Kết quả khảo sát
Đạt

Chưa đạt

Tốt

Khá

TB


1

Trẻ hiểu tiếng phổ 26
thông khi cô hỏi.

2=7.6%

3=11.6%

4=15.4
%

17=65.4%

2

Trẻ phát âm và trả lời 26
được bằng tiếng Phổ
Thông khi cô hỏi

2=7.6%

4=15.4%

4=15.4
%

16=61.6%


3

Thường xuyên giao 26
tiếp bằng tiếng Phổ
Thông hàng ngày

0=0%

2=8%

3=11%

21=81%

Nhìn vào kết quả khảo sát trên ta thấy vốn tiếng phổ thông của trẻ
chưa có. Là một người trực tiếp chỉ đạo lớp ghép làng Nè tôi nhận thấy việc
hướng dẫn dạy trẻ nói tiếng phổ thông ở trường trong giai đoạn này là rất
quan trọng, nhìn vào thực tế địa phương và ở trường tôi rất băn khoăn,
muốn tìm giải pháp làm sao để giúp cho giáo viên hướng dẫn một cách hiệu
quả nhất cho trẻ hiểu và nói chuẩn tiếng phổ thông.
Từ những thực tế trên tôi đã mạnh dạn tiến hành những biện pháp và giải
pháp kinh nghiệm để áp dụng vào quá trình "Chỉ đạo giáo viên lớp ghép làng Nè
trường Mầm non Cẩm Quý dạy trẻ dân tộc thiểu số nói chuẩn tiếng phổ thông".
như sau:
3. Các biện pháp tiến hành giải quyết vấn đề
Trẻ mầm non “học bằng chơi - chơi mà học”. Quá trình học của trẻ dân
tộc thiểu số phụ thuộc rất nhiều vào giáo viên, vì vậy ở mỗi chủ đề chủ điểm
giáo viên sẽ dạy trẻ cái gì và cần dạy như thế nào để trẻ phát âm được dễ hiểu,
dễ nhớ, hứng thú tham gia vào các hoạt động, phát huy được tính tích cực chủ
động sáng tạo ở trẻ.

Từ những nhận thức đúng đắn về vị trí, ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng
của việc dạy trẻ dân tộc thiểu số nói chuẩn tiếng phổ thông sẽ giúp trẻ hình
thành và phát triền nhân cách một cách toàn diện. Cùng với thực trạng của địa
phương và nhà trường. Tôi đã tìm ra các biện pháp sau:
9


3.1. Biện pháp 1: Tham mưu với địa phương để mở lớp học tại Thôn

Năm học 2016 - 2017 do điều kiện chưa có phòng học để đảm bảo trẻ
được tham gia học tập đầy đủ. Họp ban lãnh đạo nhà trường lên kế hoạch có
phương án tốt nhất giúp trẻ có điều kiện học tập, vui chơi. Ban giám hiệu nhà
trường đã tham mưu với Đảng, chính quyền địa phương mượn nhà dân không
còn xử dụng để cải tạo tu sửa thành một lớp học cho học sinh.
Trong đợt hè đã kêu gọi thanh niên tình nguyện trong xã dọn dẹp quét vôi,
đan tre luồng đóng thành hàng rào bao quanh lớp học tạo khuân viên sân chơi
cho trẻ hoạt động.
Mặc dù cơ sở vật chất còn thiếu rất khó khăn như vậy nhưng lớp học vẫn
thực hiện đầy đủ đúng nội dung chương trình giáo dục mầm non trong các lớp
mẫu giáo ghép do bộ giáo dục đề ra. Trẻ được tham gia học tập vui chơi, được
thực hành các hoạt động trải nghiệm bằng ngôn ngữ tiếng phổ thông. Qua đó
khả năng nói tiếng phổ thông của trẻ ngày càng tốt hơn, trẻ mạnh dạn tham gia
các hoạt động, các hội thi của nhà trường tổ chức.
Trong năm học 2016 - 2017 học sinh lớp ghép thôn Nè đã tham gia hội thi
"Bé khỏe bé thông minh" cấp trường và đạt giải nhì toàn đội, trong đợt thi cấp
Huyện có 2 cháu đạt giải nhì cá nhân và giải 3 tập thể. Đây chính là niềm khích
lệ để giáo viên thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình, phụ huynh tin tưởng, trẻ
thích được đến lớp, địa phương quan tâm chăm lo nhiều hơn đến giáo dục mầm
non.


10


(Hình ảnh đội thanh niên tình nguyện xã lao động tu sửa nhà dân làm lớp học)

Ban lãnh đạo nhà trường tham mưu với Đảng chính quyền địa phương
trong xã để có thêm cơ sở vật chất phòng học cho học sinh được đến lớp. Hiện
nay nhà trường đang được địa phương xây dựng sắp hoàn thiện 3 phòng học tại
khu 2 để thu hút học sinh ở các làng khu Quý Tiến có 7 thôn xa khu trung tâm
trong đó có Thôn Nè.
3.2. Biện pháp 2. Chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác tuyên truyền
Tuyên truyền vận động là một trong những biện pháp được sử dụng
thường xuyên, liên tục của các nhà trường đến các bậc phụ huynh, các ban
ngành, các tổ chức xã hội để phụ huynh nắm bắt được các vấn đề. Nhưng không
phải cứ tuyên tuyền là mọi người hiểu và nắm được vấn đề ngay, nhất là bà con
người dân tộc. Muốn thuyết phụ để họ hiểu được vấn đề thì người tuyên truyền
vận động phải khéo léo, hiểu rõ về người dân, phải có minh chứng...
Với người dân tộc ở các thôn xa khu trung tâm xã cũng vậy để tuyên
truyền vận động phụ huynh đưa học sinh ra lớp đúng độ tuổi. Ban lãnh đạo nhà
trường đã họp bàn cùng cán bộ giáo viên phụ trách họp bàn rút kinh nghiệm qua
các năm để vận động phụ huynh hiểu đưa trẻ đi học và cùng cô dạy tiếng phổ
thông cho trẻ hàng ngày.
Vì vậy ngay từ đầu năm học tôi đã chỉ đạo giáo viên tiến hành cho mời
phụ huynh đến họp, để giải thích cho phụ huynh thấy được sự cần thiết của việc
dạy trẻ học tiếng phổ thông trong học tập cũng như trong giao tiếp của trẻ hàng
ngày. khi trẻ ở nhà được tiếp xúc thường xuyên với mọi người trong gia đình
bằng tiếng phổ thông giúp trẻ phát huy tích cực vốn từ cho trẻ giúp trẻ hiểu và
phát âm chuẩn hơn.

11



(Hình ảnh BGH và giáo viên chủ nhiệm lớp họp phụ huynh)

Nhà trường đã tuyên truyền cho cha mẹ trẻ hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý
của lứa tuổi mầm non, phổ biến các kiến thức về chăm sóc giáo dục trẻ, tuyên
truyền đến phụ huynh không ngồi học cùng cháu. Đặc biệt là tuyên truyền các
hoạt động của trẻ làm quen với tiếng việt cho trẻ dân tộc đối với việc hình thành
và phát triển nhân cách trẻ. Để phụ huynh nắm bắt.
Trong các cuộc họp Hội đồng, sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề... bản
thân tôi luôn nhắc nhở giáo viên phải thường xuyên đến thăm gia đình các cháu
để phối hợp với phụ huynh quan tâm đến việc sử dụng tiếng phổ thông. Đến nay,
nhiều gia đình dân tộc thiểu số trên thôn Nè đã có thói quen dùng tiếng phổ
thông trong sinh hoạt hàng ngày của gia đình khi ở nhà. Vì vậy các cháu được
tiếp xúc với tiếng phổ thông ngay tại gia đình và ở cộng đồng, vốn tiếng phổ
thông của các cháu cũng được nâng lên rất nhiều góp phần thuận lợi cho việc
tiếp thu kiến thức ở trường.
3.3. Biện pháp 3: Chỉ đạo cách xây dựng kế hoạch dạy tiếng việt cho trẻ
Để chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch làm quen tiếng việt (Tiếng Phổ
thông) theo từng độ tuổi, theo đặc điểm của trẻ. Trước hết phải quán triệt đến
các cán bộ giáo viên nắm được chủ trương định hướng của Đảng và nhà nước về
tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số và triển khai sâu sắc tới toàn bộ
giáo viên trong nhà trường về nhiệm vụ năm học, các nội quy, quy chế chuyên
môn, cùng với các chuyên đề. Đặc biệt là nhắc lại chuyên đề “ Hướng dẫn giáo
viên chuẩn bị tiếng việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số", "Hướng dẫn
thực hiện chương trình giáo dục mầm non trong các lớp mẫu giáo ghép". Tổ
chức chia giáo viên theo từng nhóm thực hành bài tập xây dựng kế hoạch theo
nhóm lớp từng lứa tuổi (Lớp ghép, Lớp 1 độ tuổi) sau đó các nhóm trình bày kế
hoạch của mình để nhóm khác bổ sung kế hoạch hoàn chỉnh để chỉ đạo thực
hiện. Ngoài ra tôi đã chỉ đạo tổ chuyên môn tổ chức tiết thực hành các hoạt động

làm quen tiếng việt thông qua hoạt động vui chơi học tập của trẻ để giáo viên
thảo luận, học tập rút kinh nghiệm.
Chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch năm học bán sát vào chương trình
giáo dục mầm non (Theo thông tư 17/TT/2009/BGDĐT-GDMN ngày
25/7/2009). Đối với lớp ghép 4-5 Trong quá trình tô chức các hoạt động giáo
dục, giáo viên cần lưu ý đến mức độ trẻ đạt được những mục tiêu ở lứa tuổi
trước đó để có kế hoạch luyện tập bổ sung kịp thời, nhằm làm tiền đề cho trẻ đạt
những mục tiêu của lứa tuổi hiện tại.
Chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch và tổ chức hoạt động làm quen tiếng
việt hiệu quả phù hợp với đặc điểm từng lứa tuổi, phù hợp với tình hình thực tế
của nhóm, lớp và tại Thôn Nè.
Chỉ đạo giáo viên rèn kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp cho trẻ qua việc tổ
chức các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Qua các hoạt động còn được lồng

12


ghép các trò chơi dân gian, và làm đồ chơi dân gian từ những vật liệu sẵn có phù
hợp với truyền thống điều kiện thực tế của địa phương.
Ví dụ: Chỉ đạo giáo viên lên kế hoạch ở từng chủ điểm dạy trẻ nói tiếng
phổ thông trong làm và sử dụng đồ dùng đồ chơi cùng cô. Qua sử dụng các
nguyên vật liệu, các đồ dùng đồ chơi cô và trẻ sáng tạo ra hàng ngày để dạy
tiếng phổ thông cho trẻ. Như chủ điểm gia đình cô dạy trẻ sử dụng lá cây để dán
thành ngôi nhà sàn làm đồ dùng đồ chơi. Cô hỏi trẻ: "con đang làm gì đó"? trẻ
trả lời "con rạn nhá gạc cô giạo ời". Lúc đó cô dạy nói bằng tiếng phổ thông để
trẻ biết, "Con đang dán nhà sàn cô giáo ơi" và cho trẻ nhắc lại theo cô. Hay cô
hỏi: Con đang dùng lá gì để dán nhà đấy? trẻ trả lời "là pheo ạ" có nghĩa là "lá
tre", cô cho trẻ nhắc đúng theo cô luôn. Như ở chủ đề động vật cô cùng trẻ làm
con rùa bằng quả dừa. Cô hỏi trẻ con lấy vỏ dừa làm thành con gì đấy? trẻ trả lời
"con đải ạ" có nghĩa là "con rùa"....


(Hình ảnh cô hướng dẫn trẻ lớp ghép làm đồ chơi)

13


Qua những lần như vậy trẻ trẻ biết được những đồ đùng đó trẻ biết được
tiếng phổ thông và nói được chuẩn tiếng phổ thông.
Tổ chức giám sát giáo viên cách hướng dẫn vận dụng tốt các phương pháp
tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen tiếng việt hàng ngày. Các hoạt động có lồng
ghép dạy trẻ trong các hoạt động hàng ngày, phân bố thời gian thực hiện, hoạt
động được tổ chức đã phù hợp với khả năng nhận thức hứng thú của trẻ tại nhóm
lớp chưa? Các câu hỏi giáo viên đưa ra cho trẻ mang tính chất gợi mở hay là
những câu hỏi đóng? khi tổ chức hoạt động giúp trẻ làm quen tiếng việt có thay
đổi các phương pháp hình thức để trẻ được tiếp cận hay chỉ là rập khuôn cứng
nhắc khiến trẻ nhàm chán, kết quả đạt được chưa cao. Trong quá trình thực hiện
giảng dạy giáo viên đã ứng dụng công nghệ thông tin để minh hoạ hỗ trợ dạy
học phù hợp chưa?
Tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo định kỳ, hoặc sau khi đóng chủ đề để
bàn về cách dạy trẻ dân tộc làm quen tiếng việt có hiệu quả cao nhất.
Kiểm tra đánh giá thường xuyên các hoạt động trải nghiệm của giáo viên,
của trẻ ở mỗi nhóm lớp; hiệu quả của việc xây dựng kế hoạch làm quen tiếng
việt. Và có kế hoạch điều chỉnh ở chủ đề sau cho phù hợp.
Với cách thực hiện trên trong năm học này tôi đã chỉ đạo thực hiện điểm
tại lớp ghép Thôn Nè do cô Bùi Thị Minh phụ trách đã đem lại kết quả cao trong
quá trình thực hiện để từ đó nhân rộng ra tại các lớp lẻ trong xã ở năm học tới và
những năm học tiếp theo.
3.4.Biện pháp 4. Chỉ đạo giáo viên huy động trẻ ra lớp
Là người trực tiếp phụ trách mảng điều tra phổ cập, qua điều tra hàng năm
người dân tại thôn Nè 100% là người dân tộc, phụ huynh giao tiếp với trẻ bằng

tiếng phổ thông ít thậm chí còn không nói tiếng phổ thông với trẻ. Số trẻ ở các
độ tuổi ít, chỉ tiêu phấn đấu học sinh ra lớp của giáo viên tại thôn vẫn còn thấp.
Năm học này nhà trường mở thêm 1 lớp ghép đặt tại thôn Nè để thu hút
học sinh ra lớp, do điều kiện nhà trường chưa tổ chức bán trú tại các khu lẻ được
nên phụ huynh một ngày phải đưa đi đón con về 4 lần (2 lần đưa đi, 2 lần đón
về) rất khó khăn vất vả có những gia đình phải đi 5-6 km. Để phụ huynh đưa
cháu ra lớp nhà trường đã phối hợp cùng các ban thôn để vận động. Nhờ những
người uy tín trong thôn tuyên truyền vận động vận động, giáo viên chủ nhiệm
đến gia đình để trao đổi vận động đưa trẻ đến lớp.
Thời gian đầu năm học nhiều gia đình không muốn cho các cháu đi học và
có trao đổi khi nào đến 5 tuổi mới cho các cháu đi học chữ. Tôi đã chỉ đạo giáo
viên đến nhà vận động phụ huynh. Cô giáo đã phân tích để các gia đình cháu
nắm được tầm quan trọng của việc đưa trẻ đến trường đến lớp đúng độ tuổi,
những ưu điểm, những kết quả đạt được khi cháu được đi học, được chơi, được
giao tiếp với bạn giúp các cháu phát triển toàn diện nhân cách và có nền tảng

14


giúp các cháu học tốt hơn ở các cấp học tiếp theo để phụ huynh hiểu và nắm bắt.
Hơn cả trong thôn có nhiều gia đình hoàn cảnh thực sự khó khăn.

(Hình ảnh giáo viên đến gia đình vận động phụ huynh đưa cháu đến lớp)

Sau khi trao đổi động viên đưa ra những chế độ chính sách được Đảng
nhà nước ưu tiên hỗ trợ cho học sinh dân tộc, học sinh nghèo. Phụ huynh đã đưa
các cháu đến lớp để tham gia học tập.
3.5. Biện pháp 5. Phân công giáo viên đứng lớp
Hằng năm việc lựa chọn sắp xếp phân công giáo viên đứng lớp là một
nhiệm vụ được nhà trường bàn bạc thảo luận qua các cuộc họp. Đối với các

trường Mầm non ở vùng dân tộc thiểu số có các lớp học nhỏ lẻ đóng tại các thôn
bản thì việc lựa chọn giáo viên trực tiếp giảng dạy cũng cần có nhiều yếu tố.
Ngoài năng lực sư phạm tốt, lòng yêu nghề... có khả năng nói chuẩn tiếng phổ
thông và đặc biệt phải thành thạo tiếng dân tộc, hiểu rõ được tâm lý, tâm tư
nguyện vọng của nhân dân.
Trường Mầm non xã Cẩm Quý cũng vậy. Nhà trường có nhiều điểm lẻ,
các lớp nằm rải trên các thôn xa khu trung tâm giao thông đi lại khó khăn, đến
dạy tại các lớp ghép khu lẻ ở các thôn là một điều khó khăn cho giáo viên chủ
15


nhiệm. Ngoài nhận nhiệm vụ theo sự phân công của nhà trường hằng năm có
nhiều đồng chí giáo viên tình nguyện xin dạy tại các lớp ghép, cô Bùi Thị Minh
dạy lớp ghép Thôn Nè cũng là một trong những giáo viên đi đầu trong phong
trào tình nguyện của nhà trường. Năm học 2016 - 2017 nhà trường đã giao
nhiệm vụ để cô Minh chủ nhiệm lớp ghép Thôn Nè, trong quá trình giảng dạy
đến nay cô được học sinh rất yêu mếm, phụ huynh quan tâm ủng hộ.

(Hình ảnh họp hội đồng trường phân công giáo viên)

3.6.Biện pháp 6. Chỉ đaọ hướng dẫn giáo viên lớp ghép Thôn Nè tổ
chức các hoạt động dạy trẻ dân tộc thiểu số nói chuẩn tiếng phổ thông
Để giáo viên Bùi Thị Minh lớp ghép Thôn Nè dạy trẻ dân tộc hiểu và nói
được chuẩn tiếng phổ thông. Cần chỉ đạo quán triệt để Giáo viên lưu ý:
Giáo viên là người xác định các chủ đề, lên kế hoạch từng chủ đề, mỗi
một chủ đề chú ý lựa chọn những từ khi từ tiếng dân tộc chuyển sang tiếng phổ
thông trẻ khó nói, nói không chuẩn để hướng dẫn dạy trẻ.
Ví dụ: Chủ đề gia đình tìm hiểu một số đồ dùng trong gia đình từ "cái bát"
trẻ gọi là "cại tói"; Hay người thân từ "bà nội" trẻ nói là "mế mú".... cũng có những
từ trẻ biết nói nhưng nói chưa chuẩn như chủ đề giao thông có từ "ngã tư" đường

phố trẻ thường nói sai là: "ngả tư" đường phố...
Hướng dẫn giáo viên tổ chức lồng ghép hợp lý các hoạt động của trẻ,
khuyến khích trẻ tích cực chủ động, sáng tạo, khai thác vốn từ của trẻ. Quan tâm
đến những trẻ chưa biết nói tiếng phổ thông nhiều hơn. Đưa ra các yêu cầu đối
16


với trẻ phù hợp với khả năng của trẻ theo trình tự từ dễ đến khó để trẻ dễ dàng
lĩnh hội và thực hiện tốt.
Ví dụ: Trong các hoạt động hàng ngày cô lồng ghép đan cài giữa hoạt
động học vào hoạt động chơi một cách mềm dẻo để dạy tiếng phổ thông như:
Trong giờ bé làm quen với tiếng Việt 15p hàng ngày chỉ đạo giáo viên vận dụng
phương pháp con số 3 để dạy cho trẻ và thường tổ chức thành các trò chơi để
hướng đẫn trẻ tham gia. Trẻ được học được chơi, được giao lưu trao đổi cùng cô
và bạn, giáo viên sẽ cung cấp cho trẻ nhiều từ hơn, trẻ phát âm chuẩn xác hơn,
qua đó vốn tiếng vệt của trẻ được phong phú hơn, giúp cho khả năng giao tiếp
của trẻ được rõ ràng mạch lạc.
Như chủ điểm: "Giao thông". Cho trẻ làm quen với 3 từ: “Ô tô; Lái xe;
Chạy nhanh” (những từ này trẻ dân tộc phát âm là: Ô tô, lại xe, chắn lanh). Tổ
chức cho trẻ thành hoạt động vui chơi, đi chơi, cho trẻ hát bài: Em tập lái ô tô.
Từ “ô tô”: Hỏi trẻ vừa hát bài hát nòi về xe gì? cho trẻ quan sát chiếc xe ô
tô và hỏi trẻ: Đây là xe gì? cô cho trẻ phát âm : ‘ô tô” (cả lớp, tổ nhóm cá nhân
thực hiện theo phương pháp con số 3: cô làm mẫu 3 lần, trẻ nhắc lại 3 lần)
Từ “Lái xe”: Cô hỏi trẻ để chiếc xe ô tô chạy được trên đường thì ai là
người điều khiển chiếc xe? Trẻ trả lời là “chụ lại xe” có ngĩa là “chú lái xe” ngay
lúc đó cô sửa xai cho trẻ hoặc cho trẻ khác nhắc lại. Cô cho trẻ quan sát chú lái
xe dang lái xe bằng băng hình. Cô cho trẻ phát âm từ: “lái xe” ( cho cả lớp, tổ,
nhóm, cá nhân. Thực hiện theo phương pháp con số 3).
Từ “Chạy nhanh”: Cô hỏi trẻ xe các con nhìn xem tốc độ của ô tô chạy
như thế nào? Trẻ trả lời “chắn lanh ạ” có nghĩa là “chạy nhanh ạ”, Cô sửa sai và

cho trẻ phát âm từ “chạy nhanh” cả lớp, tổ , nhóm, cá nhân ( Theo phương pháp
con số 3)
Cô cho trẻ giả làm chú tài xế lái xe đi chơi. Cô khuyến khích trẻ nói: xe ô
tô chạy trên đường bộ, bác tài xế điều khiển chiếc xe; tốc độ của xe chạy nhanh.
Do điều kiện lớp ghép sân chơi chật hẹp, đồ dùng đồ chơi ít vì vậy tôi đã
chỉ đạo giáo viên tổ chức để trẻ tích cực, chủ động tham gia hoạt động làm việc
theo cặp, theo nhóm trải nghiệm, trao đổi, chia sẻ trình bày ý kiến để giúp trẻ có
cơ hội nói tiếng phổ thông nhiều hơn.
Ví dụ: Trong các hoạt động học tập vui chơi hàng ngày tôi hướng dẫn
giáo viên chú ý sắp xếp những cháu nói tiếng phổ thông không tốt với những trẻ
có khả năng nói thành thạo, nói chuẩn tiếng phổ thông cùng một cặp, cùng nhóm
để kèm bạn và dạy bạn cùng nói. Như khi trẻ chơi ở phân vai trẻ chơi phòng
khám cô chơi cùng với trẻ. Cô hỏi trẻ e bé bị làm sao? Trẻ trả lời: “Ụn bí đâu

17


trống bac sỷ ời”. Có nghĩa “Em bị đau bụng bác sỹ ạ”. Ngay lúc đó cô giáo nhác
trẻ nói tiếng phổ thông tốt để cho trẻ sửa sai và dạy cho trẻ nói chính xác luôn.

(Hình ảnh trẻ chơi ở góc phân vai)

Chỉ đạo giáo viên chú ý tập trung vào các hoạt động của trẻ theo hướng
giáo dục lấy trẻ làm trung tâm để tăng cường tiếng phổ thông cho trẻ: Cô kích
thích hoạt động giao tiếp giữa trẻ với trẻ ngày nhiều hơn. Tăng cường thông tin
từ trẻ đến cô, khuyến khích trẻ đóng góp ý kiến cá nhân về vấn đề đang tìm hiểu,
khuyến khích trẻ nêu thắc mắc về vấn đề quan sát, tìm hiểu, tạo cơ hội để trẻ
tham gia nhận xét bổ sung các câu trả lời của bạn... Để từ đó giúp trẻ mạnh dạn,
tự tin diễn đạt câu từ rõ ràng mạch lạc.
3.7.Biện pháp 7: Chỉ đạo giáo viên xây dựng môi trường làm quen

tiếng việt cho trẻ
Môi trường giao tiếp tiếng Việt và môi trường chữ viết tiếng Việt trong
lớp và ngoài lớp học sẽ giúp trẻ học tiếng Việt một cách tự nhiên và có hiệu quả.
Trẻ đến trường mầm non được tham gia rất nhiều hoạt động được cô tổ
chức với nhiều hình thức như hoạt động trong lớp và hoạt động ngào lớp. Việc
cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ ở ngoài lớp học là rất quan trọng. Chính vì thế ở
môi trường ngoài lớp học tôi hướng dẫn giáo viên luôn tạo môi trường chữ viết
cho trẻ được làm quen tiếng Việt phù hợp với đặc điểm của lớp.
Ví dụ: Góc thiên nhiên ngoài trời : Đây là nơi trẻ được tiếp xúc mọi lúc mọi
nơi tạo môi trường chữ có kèm hình ảnh cho trẻ hiểu về thế giới các loài cây, loài
18


hoa, thử nghiệm khoa học.... mà còn có thể ghi chép hiện tượng mà trẻ theo dõi. Vì
vậy ở góc thiên nhiên của lớp và các gốc cây, vườn rau quanh lớp học giáo viên
gắng tên cây, tên hoa, tên rau .... Để khi trẻ ra chăm sóc quan sát cây trẻ có thể
học chữ cái qua tên cây, hoa... Hơn nữa có một số loại cây, hoa, rau tiếng Phổ
Thông phát âm hoàn toàn khác với tiếng dân tộc của trẻ như: “Cây nhãn” tiếng
dân tộc là “Cân dan”; cây tre trẻ dân tộc gọi là "can pheo"; “Rau dền” tiếng dân
tộc là “Sâu chênh,” hay “Rau mùng tơi” tiếng dân tộc là “Sâu khân”...; “Hoa
mào gà” tiếng dân tộc gọi là “Hoa kén kha,” “Quả dứa gai” tiếng dân tộc là :
“Trạy chuội oong” ... Chính vì sự khác nhau của cách phát âm giữa 2 thứ tiếng
này nên việc viết tên các loại cây bằng tiếng Việt này sẽ giúp cho trẻ vừa biết tên
cây vừa phát âm cây bằng tiếng Phổ Thông.
Trẻ ở lứa tuổi mầm non lớp học chính là ngôi nhà là gia đình thứ hai của
trẻ. Trẻ luôn tò mò tìm tòi, quan sát sung quanh, Lần đầu tiên khi bước vào cửa
lớp, phản xạ tự nhiên của trẻ là nhìn xung quanh xem có gì và có đẹp không đặc
biệt những gì mới lạ. Vì vậy Khi trang trí và đặt tên gọi cho các góc, cần lựa
chọn cỡ chữ phù hợp với góc, dán chữ ở độ cao vừa tầm nhìn của trẻ, kiểu chữ
in thường để những cháu 5 tuổi được đọc chữ cái tìm chữ cái đã học, và có thể

hướng dẫn cho các em bé hơn tập đọc theo.
Bằng cách tạo môi trường chữ viết cho trẻ được biết tên, được phát âm
chuẩn tiếng Việt, vốn tiếng việt của trẻ đa dạng phong phú hơn. Từ những việc
đơn giản như vậy đã giúp trẻ lớp ghép Thôn Nè phát âm chuẩn hơn và mạnh dạn
hơn trong giao tiếp với cô, với bạn, những bạn biết chỉ cho bạn chưa biết, hoặc
mạnh dạn đến hỏi cô,trẻ không còn rụt rè như trước nữa, khả năng giao tiếp của
trẻ bằng tiếng Việt rất tốt.

19


(Hình ảnh tạo môi trường chữ viết ở các góc cho trẻ được làm quen)

3.8. Biện pháp 8: Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục
Với điều kiện thực tế của nhà trường hiện nay còn rất nhiều khó khăn về
cơ sở vật chất nhất là các ghép khu lẻ đang học nhờ nhà văn hóa thôn, nhà dân,
học sinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo chiếm tỉ lệ cao và còn rất nhiều phụ
huynh, các tổ chức chưa nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục mầm non
đặc biệt là giáo dục dạy trẻ dân tộc thiêu số nói chuẩn tiếng phổ thông nên việc
đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục là rất cần thiết.
Để thực hiện kế hoạch năm học mở thêm một lớp ghép Thôn Nè để thu hút
học sinh ở các thôn xa khu trung tâm, tạo điều kiện cho tất cả trẻ em được đến
trường tham gia học tập đúng độ tuổi. Nhà trường đã được sự quan tâm ủng hộ của
các tổ chức, các lực lượng giáo dục trong xã ủng hộ nhiệt tình, sự hỗ trợ vào cuộc
của các tổ chức trong xã hội; Các tổ chức từ thiện, về nhà trường động viên học
sinh dân tộc có hoàn cảnh khó khăn.

20



(Hình ảnh hội chữ thập đỏ tỉnh tặng áo ấm cho học sinh người dân tộc học sinh nghèo)

Với các biện pháp đã thực hiện qua các đợt kiểm tra thăm lớp, báo cáo
của giáo viên hiện nay các cháu lớp ghép Thôn Nè đã nói chuẩn, nói lưu loát
ngôn ngữ tiếng phổ thông, biết dùng từ, dùng câu để diễn đạt điều cháu muốn
nói, không còn nói ấp úng, nói nửa tiếng mường nửa tiếng phổ thông, nói câu
không rõ nghĩa, câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ, các cháu đã mạnh dạn giao lưu cùng
cô, cùng bạn.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
4.1.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với lớp ghép làng Nè.
* Đối với trẻ
Qua một thời gian nghiên cứu, tìm tòi ra các phương pháp khác nhau để
chỉ đạo giáo viên lớp ghép Thôn Nè có thêm kiến thức để dạy trẻ dân tộc thiểu
số nói chuẩn tiếng phổ thông, các cháu đã tiến bộ rõ rệt so với kết quả đầu năm
học, cụ thể như sau:
Kết quả khảo sát trẻ cuối năm học
S
T
T

Tiêu chí

Tổ
ng
số
trẻ

Kết quả khảo sát
Đạt
Tốt


Khá

TB

Chưa
đạt

21


1

Trẻ hiểu tiếng
thông khi cô hỏi.

phổ 26

15=57.7%

6=23.1%

4 =15.4%

1= 3.8%

2

Trẻ phát âm và trả lời 26
được bằng tiếng Phổ

Thông khi cô hỏi

16=61.6%

7=26.9%

3=11.5%

0%

3

Thường xuyên giao tiếp 26
bằng tiếng Phổ Thông
hàng ngày

14=53.9%

5 =19.2%

6 =23.1%

1= 3.8%

Nhìn vào thực tế ta thấy được khả năng nghe hiểu, nói tiếng phổ
thông, thường xuyên trao đổi bằng tiếng phổ thông ở lớp ghép 2 độ tuổi
Thôn Nè đến nay đã thay đổi rõ rệt, trẻ đã mạnh dạn, tự tin giao tiếp với
mọi người bằng tiếng phổ thông dù ở nhà hay ở trường.
* Đối với cô:
Giáo viên chủ động tạo nhiều cơ hội cho trẻ được thể hiện, trao đổi, chủ

động độc lập, sự sáng tạo, phát triển khả năng tự khám phá, tìm tòi, trải nghiệm
trong họat động.
Giúp giáo viên có thể lồng ghép, đan cài các hoạt động nhằm cung cấp
những kinh nghiệm mang tính tích hợp cần cho cuộc sống của trẻ.
Giúp trẻ không gò bó trong các hoạt động học tập ,vui chơi nhưng lại đạt
được kết quả trong việc truyền thụ kiên thức và các kĩ năng hoạt động của trẻ.
Kết quả đạt được của lớp ghép Thôn nè sẽ là mô hình điểm để giáo viên
các lớp ghép học tập thực hiện cho năm học tiếp theo.
4.2. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
của nhà trường và của dịa phương.
Bằng sự đoàn kết phấn đấu của ban giám hiệu nhà trường, sự nỗ lực của
tập thể giáo viên, Sự nhiệt tình của cô giáo phụ trách lớp ghép 2 độ tuổi làng Nè.
Cùng với sự quan tâm giúp đỡ của cấp uỷ Đảng, Chính quyền địa phương các tổ
chức xã hội, đặc biệt là sự quan tâm đóng góp nhiệt tình của hội cha mẹ trẻ.
Trường mầm non Cẩm Quý đã áp dụng một số biện pháp phù hợp, công
tác tổ chức hoạt động dạy trẻ dân tộc thiểu số nói chuẩn tiếng phổ thông ở các
lớp về từng chủ đề chủ điểm đã thu được những kết quả tốt. Điều đó được thể
hiện trong việc chăm sóc giáo dục trẻ mầm non nói chung và kết quả của cô và
trẻ của lớp ghép 2 độ tuổi Thôn Nè đã hướng dẫn dạy trẻ dân tộc từ chưa biết
nói tiếng phổ thông. Đến nay trẻ hiểu tiếng phổ thông khi cô hỏi; trẻ phát âm và
trả lời được bằng tiếng Phổ Thông khi cô hỏi; thường xuyên giao tiếp bằng tiếng
Phổ Thông hàng ngày.

22


Để phục vụ tốt công tác xây dựng kể hoạch tổ chức hoạt động dạy trẻ dân
tộc thiểu số nói chuẩn tiếng phổ thông, giáo viên tổ chức hội đóng góp để mua
sắm các đồ dùng đồ chơi, ủng hộ của phụ huynh cùng giáo viên xây dựng môi
trường làm quen tiếng việt cho trẻ để phục vụ cho nhóm lớp. Ban giám hiệu

cùng tổ chuyên môn đã tổ chức chấm xếp loại giờ tổ chức các hoạt động có lồng
ghép dạy trẻ làm quen tiếng việt của giáo viên.
Cách tổ chức hoạt động dạy trẻ dân tộc làm quen với tiếng phổ thông của
từng lớp có nhiều phương pháp sáng tạo khác nhau, phong phú mang ý nghĩa
giáo dục cao, phù hợp với chủ đề chủ điểm, đặc biệt là công tác sử dụng các đồ
dùng trực quan minh họa hình ảnh có kèm từ để trẻ nói theo và việc sử dụng
giáo án điện tử vào giảng dạy của giáo viên. Đã khai thác khả năng ghi nhớ và
chú ý có chủ định của trẻ càng được chú trọng hơn.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận
Trên thực tế việc chỉ đạo hướng dẫn giáo viên dạy trẻ dân tộc thiểu số nói
chuẩn tiếng phô thông và thực nghiệm tại lớp ghép 2 độ tuổi Thôn Nè trường
Mầm Non Cẩm Quý, đã đem lại kết quả như trên. Nên bản thân tôi đã rút ra
những kinh nghiệm như sau:
Quán triệt sâu sắc đến toàn bộ giáo viên trong nhà trường; về việc chăm
sóc giáo dục trẻ dân tộc thiểu số và quán triệt các chủ trương của đảng nhà nước
đối với trẻ dân tộc thiểu số.
Chỉ đạo giáo viên bám sát chuyên đề hè 2011 - 2012 về: “Hướng dẫn giáo
viên chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số” và chuyên đề
hè 2012 “Hướng dẫn chuẩn bị tiếng việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số
trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non.” Quyết định số 1008/QĐ-TTg
về phê duyệt Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu
học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến 2025”. Mục
tiêu của đề án nhằm tập trung tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học
sinh tiểu học người dân tộc thiểu số, bảo đảm các em có kỹ năng cơ bản trong
việc sử dụng tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục mầm non và
chương trình giáo dục tiểu học; tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức của các
cấp học tiếp theo.
Chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình lớp ghép
bám sát vào chương trình giáo dục mầm non theo thông tư 17/TT/BGDĐTGDMN.

Nhà trường mầm non cần giáo dục toàn diện trong đó lấy việc "giáo dục
trẻ dân tộc nói chuẩn tiếng phổ thông trong trường làm trọng tâm cho năm học
2016-2017" làm trọng tâm cho việc thực hiện phong trào “Xây dựng trường học
thân thiện học sinh tích cực” trong năm học. Qua đó nắm vững được kinh

23


nghiệm của trẻ về mỗi chủ đề, chủ điểm để xây dựng mục tiêu kế hoạch và thiết
kế việc tổ chức hoạt động làm quen tiếng việt cho phù hợp.
Thường xuyên cung cấp mở rộng vốn kinh nghiệm cho giáo viên qua việc
đi thăm quan học tập kinh nghiệm và rút kinh nghiệm qua thực hiện mỗi chủ đề.
Mở rộng vốn kinh nghiệm cho trẻ qua các buổi trò chuyện, thảo luận các buổi
tham quan…Từ đó cung cấp thêm cho giáo viên thực hiện một cách tốt hơn.
Vận động sự tham gia vào cuộc ủng hộ của các tổ chức xã hội, các ban
nghành đoàn thể quan tâm đến trẻ dân tộc thiểu số, trẻ có hoàn cảnh khó khăn.
Để các cháu có được điều kiện học tập và nâng cao khả năng sử dụng tiếng
phổ thông ở trường, ở gia đình và cộng đồng thì trước hết Ban giám hiệu, các tổ
chức đoàn thể, tổ chuyên môn, giáo viên chủ nhiệm lớp phải có kế hoạch hoạt
động cụ thể; đội ngũ giáo viên phải thực sự nhiệt tình, tâm huyết, có tinh thần tự
học, thiết kế những tiết học sôi nổi, hấp dẫn, thường xuyên tổ chức các hoạt
động giúp trẻ phát triển tốt ngôn ngữ nói tiếng phổ thông kết hợp chặt chẽ với
phụ huynh để nắm bắt tâm lý của từng trẻ trong lớp, tìm kiếm nguồn thông tin từ
trẻ qua phụ huynh bổ xung mở rộng thêm vốn từ cho trẻ nhằm giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi cho các cháu học ở nhà và thường xuyên sử dụng tiếng phổ thông
trong việc giao tiếp ở nhà và ở cộng đồng.
Có được kết quả như trên là do Ban giám hiệu trường mầm non và đội
ngũ giáo viên trong nhà trường đặc biệt là cô giáo chủ nhiệm lớp ghép thôn Nè
đã đưa ra và áp dụng chuyên đề và một số giải pháp đúng đắn phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh của địa phương, và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ở từng lứa tuổi,

đã nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của việc dạy trẻ dân tộc thiểu số nói
chuẩn tiếng phổ thông.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với chính quyền địa phương:
Quan tâm dầu tư xây dựng cơ sơ vật chất dồn các phòng học các lớp khu
lẻ để các cháu được học phân chia đúng độ tuổi.
2.2. Đối với phòng giáo dục:
Đề nghị sở giáo dục; Phòng giáo dục tăng cường tham mưu cấp trên thêm
cơ sở vật chất kỹ thuật trang thiết bị đồ dùng đồ chơi... cho các cháu trường
mầm non nông thôn, vùng cao để trường có đủ điều kiện chăm sóc giáo dục trẻ.
Hằng năm mở các lớp tập huấn có nhiều tiết thực hành kỹ năng sư phạm
để giáo viên được củng cố thêm kiến thức. Cung cấp thêm tài liệu cho giáo viên
được tham khảo nghiên cứu. Tham khảo những trường điển hình trong tỉnh,
hoặc tỉnh bạn để cho cán bộ giáo viên đi học tập kinh nghiệm trang bị thêm cho
công tác tổ chức hoạt động của giáo viên được tốt hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Cẩm quý, ngày 20 tháng 03 năm 2017

24


.......................................................
........................................................
........................................................
......................................................

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của

người khác.
Người viết sáng kiến kinh nghiệm

......................................................

Cao Thị Thu

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu bồi dưỡng hè cho cán bộ quản lý và giáo viên mầm non năm học
2011 – 2012. Bài “Hưỡng dẫn giáo viên chuẩn bị tiếng việt cho trẻ mẫu giáo
vùng dân tộc thiểu số”
2. Dự án tăng cường khả năng sẵn sàng đi học cho trẻ mầm non chương 2:
MN1-A giáo dục phát triển ngôn ngữ.
3. Nghị quyết số 29 của hội nghị Trung ương 8 (khoá XI)
4. Quyết định số 1008/QĐ-TTg ngày 2/6/2016 của chính phủ
5. Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non trong các lớp mẫu giáo
ghép.
25


×