Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn một số kinh nghiệm chỉ đạo xây dựng vườn rau sạch cung cấp cho trẻ ăn bán trú ở trường mầm non xuân bình năm học 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.22 MB, 20 trang )

MỤC LỤC
TT
1

2

3

NỘI DUNG
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lý luận
Thực trạng
Các giải pháp và biện pháp thực hiện
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận – Đề xuất, kiến nghị

SỐ TRANG
1

2
4
5
12
15

1




MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỈ ĐẠO
XÂY DỰNG VƯỜN RAU SẠCH, CUNG CẤP CHO TRẺ ĂN BÁN TRÚ
TẠI TRƯỜNG MẦM NON XUÂN BÌNH
1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Nhiệm vụ của trường mầm non là chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ ở
độ tuổi từ: 06 -72 tháng tuổi. Trẻ ở độ tuổi mầm non là giai đoạn đặt nền móng
đầu tiên của sự phát triển trí tuệ. Nếu không tạo điều kiện cho trẻ phát triển tốt ở
giai đoạn này là đã bỏ lỡ cơ hội phát triển toàn diện cho trẻ, là thiệt thòi lớn đối
với trẻ, bởi ở lứa tuổi mầm non là lứa tuổi hình thành nhân cách và những hiểu
biết sơ đẳng đầu tiên của con người, cũng là lứa tuổi cơ thể non nớt, đang hoàn
thiện các cơ quan bên trong cơ thể, dễ bị ảnh hưởng đến sức khoẻ từ môi trường
sống, từ thức ăn, nước uống. Nuôi dưỡng là nhiệm vụ quan trọng của quá trình
chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non. Nuôi dưỡng đảm bảo chất
lượng có tác dụng tăng cường và bảo vệ sức khỏe cho trẻ, giúp trẻ phát triển tốt,
tạo điều kiện thực hiện nội dung giáo dục toàn diện.
Vì vậy, xây dựng bếp ăn an toàn ngay từ nguồn cung cấp thực phẩm, nhất
là nguồn rau sạch cho trẻ ăn bán trú tại trường mầm non, là một vấn đề đặc biệt
quan trọng trong việc tổ chức bếp ăn tập thể hiện nay. Rau, quả tươi đóng vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe trẻ, giúp hạn chế sự mất cân đối dinh
dưỡng trong khẩu phần ăn hàng ngày. Trường mầm non, nơi tập trung đông trẻ
bán trú, lượng rau củ đưa vào bữa ăn hàng ngày cho trẻ tương đối lớn. Việc đảm
bảo luôn có rau sạch cho bữa ăn của trẻ luôn là vấn đề đặc biệt quan trọng cần
được quan tâm nhằm phòng tránh ngộ độc thực phẩm cho trẻ, đồng thời là một
giải pháp quan trọng, toàn diện để nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc,
giáo dục trẻ, đặt nền móng cho việc đào tạo nguồn nhân lực có sức khỏe tốt cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
“Theo Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội

Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (Vinastas) nói: Chúng tôi chia
sẻ những lo lắng rất chính đáng của người tiêu dùng trước các vấn đề về an toàn
vệ sinh thực phẩm.Thực trạng hiện nay có đến hơn 90% không thể phân biệt
được rau an toàn và rau không an toàn bằng mắt thường. Hiện nay tình trạng ô
nhiễm thực phẩm rất đáng lo ngại, cùng theo đó thì việc lạm dụng hóa chất bảo
vệ thực vật, chất kích tăng trưởng, thậm chí sử dụng các hóa chất ngoài danh
mục cũng không phải là hiếm. Điều này có thể do không biết hoặc cố tình, bởi
thực tế có những hộ trồng riêng rau sạch cho gia đình họ ăn, còn rau phun thuốc
thì họ bán ra ngoài thị trường, thời gian phân hủy hóa chất là chưa đủ theo quy
định”. (1)
Vì vậy, các trường có bếp ăn tập thể cần chú ý để phòng ngừa tình trạng
ngộ độc về rau.
Vậy phải làm như thế nào để luôn có nguồn rau sạch đưa vào bữa ăn bán
trú của trẻ hàng ngày tại trường, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng
2


tránh ngộ độc và dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng, thuốc bảo
vệ thực vật có trong rau củ, tác hại lâu dài của nó đến cơ thể mà mắt thường
chúng ta không nhìn thấy được. Đồng thời nâng cao ý thức tự giác và kiến thức
của cô nuôi trong việc sơ chế thực phẩm, nhất là rau củ đảm bảo an toàn sạch,
đúng cách tránh thất thoát, chất dinh dưỡng khi sơ chế và nấu nướng thực phẩm
đưa vào bữa ăn hàng ngày của trẻ, từng bước nâng cao chất lượng chăm sóc,
giáo dục trẻ, theo mục tiêu đặt ra là xây dựng nhà trường thật sự là trung tâm
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ trước tuổi đến trường phổ thông một cách tốt
nhất, chất lượng nhất. Đòi hỏi những người cán bộ quản lý các trường mầm non
phải có những giải pháp hữu hiệu, để đảm bảo chất lượng nuôi dưỡng ở trường
mầm non.
Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài: “ kinh nghiệm chỉ đạo xây dựng vườn rau
sạch, cung cấp cho trẻ ăn bán trú tại trường mầm non Xuân Bình”

1.2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra các biện pháp chỉ đạo để tăng cường nguồn rau sạch đưa vào bữa ăn
bán trú cho trẻ tại trường mầm non, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng
tránh ngộ độc qua rau củ tại bếp ăn của các trường mầm non.
Đồng thời, xây dựng vườn rau sạch trong khuôn viên trường, tạo khung
cảnh xanh, sạch, đẹp, có tính giáo dục, giúp giáo viên có điều kiện cho trẻ được
trải nghiệm, được hoạt động tích cực, hòa đồng với thiên nhiên, giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ, giáo dục trẻ giữ gìn môi trường xanh, sạch, đẹp, nâng cao
chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ, huy động cộng đồng cùng chung
tay đóng góp, tạo mọi điều kiện chăm sóc giáo dục trẻ tốt nhất.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Xây dựng vườn rau sạch ở trường mầm non Xuân Bình.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp khảo sát.
- Phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp thực hành
- Phương pháp thống kê.
2. Nội dung:
2.1.Cơ sở lý luận:
Trong ăn uống hàng ngày, rau tươi có vai trò đặc biệt quan trọng. Tuy
lượng protid và lipid trong rau tươi không đáng kể, nhưng chúng cung cấp cho
cơ thể nhiều chất hoạt tính sinh học, đặc biệt là các muối khoáng có tính kiềm,
các vitamin, các chất pectin và axit hữu cơ. Ngoài ra trong rau tươi còn có loại
đường tan trong nước và chất xenluloza.Một đặc tính sinh lý quan trọng của rau
tươi là chúng có khả năng gây thèm ăn và ảnh hưởng tới chức phận tiết của
tuyến tiêu hoá. Tác dụng này đặc biệt rõ rệt ở các loại rau có tính tinh dầu như
rau mùi, rau thơm, hành, tỏi…Ăn rau tươi phối hợp với những thức ăn nhiều
protid, lipid, glucid làm tăng rõ rệt sự tiết dịch của dạ dày. Thí dụ: trong chế độ
ăn có cả rau và protid thì lượng dịch vị tiết ra tăng gấp hai lần so với chế độ ăn

3


chỉ có protid. Cũng vì vậy, bữa ăn có rau tươi tạo điều kiện thuận lợi cho sự tiêu
hoá và hấp thu các thành phần dinh dưỡng khác.
Ngoài ra men trong rau tươi có ảnh hưởng tốt tới quá trình tiêu hoá, như
các men trong củ hành có tác dụng tương tự men pepsin của dịch vị, các men
của cải bắp và xà lách cũng có tác dụng tương tự trypsin của tuyến tuy.
“Về thành phần và giá trị dinh dưỡng của rau tươi có khác nhau tuỳ theo
từng loại rau. Lượng protid trong rau tươi nói chung thấp (dao động từ 0,51,5%). Tuy vậy có nhiều loại rau người ta thấy một hàm lượng protid đáng kể
như nhóm đậu tươi, đậu đũa (4-6 %), rau muống (2,7%), rau sắng (3,9%), rau
ngót (4,1 %), cần tây (3,1%), su hào, rau giền, rau đay (1,8-2,2%). Trong rau,
xenluloza ở dưới dạng liên kết với các chất pectin tạo thành phức hợp pectinxenluloza có tác dụng kích thích mạnh chức năng nhu động ruột và tiết dịch của
ruột giúp tiêu hoá dễ dàng. Rau tươi là nguồn vitamin và muối khoáng quan
trọng. Nhu cầu về vitamin và muối khoáng của con người được cung cấp qua
bữa ăn hàng ngày qua rau tươi. Hầu hết các loại rau tươi thường dùng của nhân
dân ta đều giàu vitamin nhất là vitamin A và C là những vitamin hầu như không
có hoặc có chỉ có rất ít trong thức ăn động vật. Các chất khoáng trong rau tươi
cũng rất quan trọng. Đặc biệt là các loại rau thơm, rau giền, rau đậu có nhiều
magiê.Rau còn là nguồn chất sắt quan trọng. Sắt trong rau được cơ thể hấp thu
tốt hơn sắt ở các hợp chất vô cơ. Các loại rau đậu, sà lách là nguồn mangan tốt.
Tóm lại rau tươi có vai trò quan trọng trong dinh dưỡng; bữa ăn hàng ngày của
chúng ta không thể thiếu rau. Điều quan trọng là phải đảm bảo rau sạch, không
có vi khuẩn gây bệnh và các hoá chất độc nguy hiểm”.(2)
Tuy nhiên, giá trị kinh tế ngày càng cao của rau, quả đã và đang là nguyên
nhân dẫn tới thực trạng có không ít người vì ham lợi nhuận mà trồng rau, quả
không an toàn và nhiều cá nhân, cửa hàng, đại lý kinh doanh rau, quả tiềm ẩn
nguy cơ gây ngộ độc và nguy hại đối với tính mạng của người tiêu dùng. Một
trong những nguyên nhân chính và phổ biến nhất của tình trạng mất vệ sinh an
toàn của rau, quả là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật với nồng độ quá cao trong

rau, quả. Đây là tác nhân thường gặp ở một số vụ ngộ độc gây rối loạn thần kinh
trung ương, nhức đầu, nôn mửa, mất ngủ, giảm trí nhớ, nặng hơn có thể tổn
thương thần kinh ngoại biên dẫn đến liệt. Các hội chứng về tim mạch, hô hấp,
tiêu hóa, gan, mật và hội chứng về máu cũng có thể xảy ra ở những trường hợp
nặng, tỷ lệ tử vong cao. “Ngoài ra, việc sử dụng phân hóa học, phân bắc hoặc
phân chuồng chưa ủ hoai mục, nguồn nước tưới ô nhiễm do chất thải từ các nhà
máy hóa chất, cơ sở chế biến thực phẩm, lò giết mổ động vật, chất thải bệnh
viện, rác thải sinh hoạt dẫn đến tình trạng rau bị nhiễm trứng giun và các vi
khuẩn E.coli salmonella, Vibrio cholerae… cũng tạo ra nguy cơ ngộ độc đối với
người ăn rau, quả. Nguy hiểm hơn, việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực
vật, chất kích thích sinh trưởng, hóa chất bảo quản… không đúng quy định làm
tồn dư các chất hóa học độc hại trong rau, quả ở liều lượng tuy chưa gây ngộ
độc cấp tính nhưng nếu sử dụng kéo dài cũng có thể dẫn đến nguy cơ tích lũy và

4


gây tổn thương một số bộ phận trong cơ thể, sau một thời gian dài mới phát
bệnh hoặc gây dị tật, dị dạng cho các thế hệ tương lai”.(3)
Những năm gần đây, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm thường xuyên
được nói đến như một thời sự nóng bỏng, được nhiều người quan tâm. Thực
phẩm là nguồn dinh dưỡng nuôi sống con người, nhưng cũng có thể là nguồn
gây nhiều loại bệnh lý nguy hiểm cho con người.
Có hai nhóm thực phẩm là thực phẩm tươi sống và thực phẩm chế biến.
Thực phẩm tươi sống là loại thực phẩm sau khi thu hoạch không qua một công
đoạn chế biến nào như một số loại rau… Rau xanh rất cần trong bữa ăn hàng
ngày, nhưng làm thế nào để có món ăn ngon miệng nhưng vẫn đảm bảo an toàn
vệ sinh thực phẩm.
Theo các chuyên gia dinh dưỡng, để đạt năng xuất cao hơn, hoặc diệt các
loại sâu rầy, đặc biệt là một số loại rau củ dễ bị sâu phá hoại, một số nông dân đã

sử dụng quá nhiều phân bón hóa học hoặc thuốc trừ sâu đến sát ngày thu hoạch
không tuân thủ thời gian cấm phun thuốc trừ sâu trước khi thu hoạch theo qui
định. Mặt khác, một số loại rau, quả được trồng ở đất bị ô nhiễm, tưới phân tươi
hoặc nước thải đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe của người tiêu dùng.
Vì vậy, nên thận trọng nhất là các loại rau ăn lá, hoặc rau trái không phải
gọt vỏ như rau muống, cải soong, cải bẹ…dưa leo, mướp đắng.
Đặc biệt là trường mầm non hàng ngày vẫn tiêu thụ một lượng tương đối
lớn các loại rau, củ, quả. Vậy thế nào để có rau, quả sạch, rau quả an toàn? Đây
là vấn đề rất đáng được quan tâm.
Trường mầm non tổ chức trồng rau sạch và tuyên truyền phổ biến rộng rãi
cho các bậc phụ huynh cùng trồng rau sạch, để nhập cho trường mầm non. Đây
là nguồn cung cấp rau, củ, quả đáng tin cậy nhất.
2.2 Thực trạng của vấn đề:
a. Đặc điểm tình hình:
Trường mầm non xã Xuân Bình được xây dựng khuôn viên tương đối
rộng rãi, cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, trường đã đạt trường chuẩn quốc gia
mức độ I, đồ dùng phục vụ sinh hoạt và học tập của trẻ đủ theo chuẩn qui định.
Trẻ tham gia ăn bán trú hàng năm ở khu trung tâm khá đông, số lượng trẻ
ăn trên ngày dao động từ 180 - 207 cháu ăn. Lượng rau xanh được đưa vào bữa
ăn hàng ngày từ 4- 6 kg, lượng rau xanh phần nhiều dựa vào nguồn cung cấp từ
người buôn bán ngoài chợ, nên cũng không thể đảm bảo được rằng rau, củ quả
không bị nhiễm hóa chất hoặc các loại vi khuẩn gây hại cho cơ thể.
b.Thuận lợi:
Nhà trường luôn được sự quan tâm của các cấp, các ngành và sự ủng hộ
nhiệt tình của phụ huynh và các doanh nghiệp đóng trên địa bàn
Trường được xây dựng khang trang, đủ các phòng chức năng và đủ diện
tích theo qui định, trường đạt chuẩn.
Tập thể CB,GV,NV: 38 đ/c, trong đó BGH: 02, NV: 06, GV: 30. Trình độ
chuyên môn chuẩn 8/38 đạt 21% và trên chuẩn 30/38 đạt 78,9%, 100% cô nuôi


5


có bằng trung cấp nấu ăn, nội bộ đoàn kết, biết tương trợ trong công việc, nhiệt
tình yêu nghề.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên đa số trẻ, khoẻ, nhiệt tình, biết phối
hợp, hoà đồng, năng động.
Trường mầm non Xuân Bình thuộc xã đa số người dân làm nông nghiệp
lên thuận lợi cho việc tổ chức xây dựng vườn rau sạch.
Diện tích đất của trường tương đối rộng rãi, thuận lợi cho việc triển khai
trồng rau, quả, tạo vườn rau sạch trong khuôn viên trường.
c. Khó khăn:
Xuân Bình là xã đông dân, đời sống kinh tế chủ yếu là dựa vào nông
nghiệp, mức thu nhập thấp, nên việc đầu tư kinh phí cho sự nghiệp mầm non của
các cấp chính quyền xã và nhân dân cũng bị hạn chế.
Đồng thời, việc kêu gọi phụ huynh ủng hộ và đóng góp cho nhà trường
chậm và khó khăn, dẫn đến việc đầu tư trồng các loại rau trong vườn trường.
Số giáo viên trong còn thiếu, giáo viên trong độ tuổi sinh đẻ chiếm 50%,
nên không có thời gian giành cho việc trồng thêm rau củ tại vườn trường.
Do địa hình đất xây dựng trường không bằng phẳng, nên trước khi xây
dựng phải trải qua quá trình đào, múc để lấy mặt bằng, do đó lớp đất màu đã bị
múc đổ đi nơi khác, lớp đất còn lại chủ yếu là đất xấu, nên việc tăng gia thêm
rau xanh phục vụ bữa ăn bán trú của trẻ gặp nhiều khó khăn.
Kinh phí của nhà trường giành cho việc bổ sung cơ sở vật chất phục vụ
trồng rau sạch, trong vườn trường còn hạn hẹp.
Nguồn rau nhập từ ngoài chợ, mặc dù đã có hợp đồng, tìm hiểu rõ nguồn
gốc địa chỉ, song cũng tránh khỏi lợi nhuận và nguồn cung cấp không đều mà
chủ hàng có thể nhập thêm rau từ người khác.
2.3. Các giải pháp:
Trước thực trạng sản phẩm rau xanh hiện nay trên thị trường còn có nhiều

vấn đề về vệ sinh, an toàn cần quan tâm khi sử dụng.Trẻ mầm non sức đề kháng
yếu, dễ bị ngộ độc qua đường ăn uống, mà nguyên nhân dễ gây mất an toàn, ngộ
độc qua đường ăn, uống của trẻ tại trường có nhiều, nhưng chủ yếu và dễ xảy ra
nhất là qua con đường ăn rau xanh, quả chín còn tồn dư lượng thuốc trừ sâu,
thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kích thích tăng trưởng, thuốc làm chín nhanh sản
phẩm… quá mức cho phép và lạm dụng khi dùng của người sản xuất. Dẫn đến
có thể ngộ độc hàng loạt trẻ ăn bán trú tại bếp ăn tập thể trường hoặc không xảy
ra ngộ độc ngay thì cũng làm cho trẻ mắc một số bệnh nguy hiểm mà chúng ta
không thấy ngay được nếu thường xuyên sử dụng sản phẩm rau, quả mất an
toàn. Vì vậy, việc xây dựng mô hình các vườn rau sạch là rất cần thiết, do đó tôi
đã đưa ra các giải pháp để xây dựng vườn rau sạch ở trường mầm non Xuân
Bình như sau:
* Biện pháp 1 : Xây dựng kế hoạch
Từ thu thập các thông tin về tình hình trồng rau của những hộ gia đình
trên địa bàn, nhiều hộ trồng rau không đảm bảo độ an toàn, quan sát thực tế địa
hình khuôn viên của nhà trường, phía đằng sau dãy phòng học có hàng phượng
6


về mùa thu thường có rất nhiều sâu đo, bò bám vào tường lớp học vừa mất mỹ
quan, vừa có hại cho trẻ nên tôi đã nãy sinh ý nghỉ cưa cắt hàng phượng mở
rộng diện tích trồng rau. để cung cấp thêm nguồn rau sạch cho bếp ăn của nhà
trường. Với ý tưởng ấy tôi đã xây dựng kế hoạch trồng rau và tham mưu với
hiệu trưởng và được đồng chí hiệu trưởng ủng hộ. Tôi lên kế hoạch phân công
công việc tổ chức cho cô nuôi, giáo viên trồng các loại rau giống ngắn ngày theo
mùa tại vườn trường, tận dụng tường rào làm giàn trồng các loại rau bầu, bí,
mướp, su su…Vừa tạo được cảnh quan môi trường, vừa tạo nguồn rau sạch cung
cấp vào bếp ăn cho trẻ bán trú tại trường
Do tình hình tài chính của trường còn hạn hẹp, không có tiền để mua sắm
đồng loạt vật tư, làm giàn cho các loại cây leo họ bí, bầu,... Để trồng được các

loại rau sạch trong vườn trường theo kiểu mùa nào thức ấy, tăng cường rau sạch
vào ăn bán trú của trẻ tại trường hàng ngày, đồng thời tạo cảnh quan cho trẻ trải
nghiệm, tôi đã thực hiện các công việc sau:
Nội dung cụ thể :
Thời gian
Nội dung
Biện pháp
8/2016
– Thực hiện cải tạo vườn trường:
- Gọi người mua củi đến để
- Cưa cắt phượng
bán hàng phượng, đề nghị họ
cưa cắt và dọn sạch sẽ.
- Đào lỗ để trồng chuối, trồng bầu,
cuốc đất, đánh luống trồng rau, đảo
đất với phân trộn vôi bột để xử lý
phân, cải tạo tăng thêm độ màu cho
đất.

9/2016

- Phối hợp với tổ chức công
đoàn tổ chức cho đoàn viên
lao động 01 ngày.
– Chỉ đạo giáo viên vận động
phụ huynh ủng hộ phân đợt 1:
vận động phụ huynh của 2 lớp
mẫu giáo lớn và 3 lớp mẫu
giáo nhỡ ở khu trung tâm, huy
động phụ huynh ủng hộ phân

chuồng ủ đã oai mục.

– Phân khu vực gieo trồng
-Trồng chuối, trồng rau ngót, trồng
các loại cây, rau.
rau khoai, lên luống gieo các loại
rau mùa đông.
– khoan giếng lấy nước nấu ăn, sinh Kinh phí từ nguồn xã hội hoá.
hoạt và nước tưới cho rau, hoa cây
cảnh.
- Gieo trồng các loại rau: Cải củ, cải - Chỉ đạo cho nhân viên gieo
sen, cải mồng gà
trồng và chăm sóc vào các
buổi chiều.
- Ngắt tỉa các loại rau để nấu
7


10/2016

11,
12/2016

- Thu hoạch rau ngót, rau khoai

canh cho trẻ.

- Thu hoạch các loại rau: Rau ngót,
cải củ, cải sen, cải mồng gà


- Chỉ đạo nhân viên thu hoạch
rau đưa vào cácbữa ăn của trẻ
– Chỉ đạo các nhân viên gieo
trồng, chăm sóc rau vào các
buổi chiều.

– Gieo trồng tiếp các loại rau mùa
đông ngắn ngày: rau cải cúc, thì là,
cải ngọt, đậu co ve, xà lách, rau
diếp, rau mùi, trồng các loại bí.
– Thu hoạch các loại rau

- Chỉ đạo nhân viên thu hoạch
rau đưa vào cácbữa ăn của trẻ.
- Chỉ đạo cho giáo viên vận
- Tiếp tục cải tạo vườn và gieo trồng động phụ huynh ủng hộ phân
rau mùa hè.
đợt 1: vận động phụ huynh của
03 nhóm trẻ và 02 lớp MG bé ở
khu trung tâm, huy động phụ
huynh ủng hộ phân chuồng ủ đã
oai mục, cây cọc, tre, nứa để
- Làm dàn trồng mướp
làm dàn mướp.

1/2017

– Làm đất gieo, trồng rau mùa hè:
Trồng dưa chuột, rau mồng tơi, rau
đay, rau dền, mướp


- Tiếp tục chỉ đạo cho nhân
viên nhà bếp trồng rau, chăm
sóc vào các buổi chiều

2/2017 …

- Thu hoạch và tiếp tục trồng thêm
các loại rau mùa hè…

- Tiếp tục chỉ đạo thu hoạch
đưa vào bữa ăn hàng ngày của
trẻ, tiếp tục trồng, chăm sóc
rau…

Xây dựng kế hoạch trồng rau sạch và phân công nhân lực thực hiện kế
hoạch đạt hiệu quả cần có sự giám sát kiểm tra thường xuyên, liên tục hàng ngày
của ban giám hiệu và chế độ thưởng, phạt hợp lý, tạo nguồn thu nhập thêm hàng
tháng cho cô nuôi trong trường, thì kế hoạch mới thành công.
* Biện pháp 2: Thực hiện kế hoạch.
Sau khi xây dựng kế hoạch tôi đã đưa ra hội đồng nhà trường để thông
qua và bàn bạc lấy ý kiến tập thể và được sự nhất trí và ủng hộ cao từ phía cán
bộ, giáo viên và nhân viên. Tạo thêm động lực thúc đẩy tôi thực hiện nhiệm vụ
Lợi thế của nhà trường cán bộ, giáo viên, nhân viên là người địa phương,
thường xuyên trồng các loại rau nên có kinh nghiệm trồng rau.
Lực lượng lao động: Giáo viên khu trung tâm 2 cô /lớp, với số trẻ bình
quân 25cháu/lớp, số trẻ đông bán trú cả ngày tại trường, cho nên công việc của
giáo viên rất bận rộn không có thời gian để làm vườn. Công việc của nhân viên
nhà bếp hiện nay: 03 cô nấu ăn phục vụ cho 223 trẻ tham gia ăn bán trú. Tỷ lệ
8



chuyên cần của trường từ đến 95-98%. Công việc của nhà bếp từ 07h - 15h là
hoàn thành công việc trong bếp, cho nên lực lượng làm vườn chủ yếu nhân viên
Ch nên tôi đã phân công cho lực lượng nhân viên nhà bếp, cùng với nhân viên y
tế, kế toán tranh thủ thời gian buổi chiều từ 15h30- 17h ra vườn để thực hiện
công việc trồng, chăm sóc rau và theo dõi lượng rau thu hoạch đưa vào bếp ăn
bán trú. Các lực lượng được phân công trồng rau vô cùng hồ hởi, phấn khới.
Đầu năm học tôi xây dựng kế hoạch cải tạo vườn trường, mở rộng thêm
diện tích trồng rau bằng cách cưa cắt hàng phượng phía sau trường vì mùa thu
sâu từ các cây phượng bò bám vào tường và vào trong phòng học rất nhiều. Nên
cưa cắt phương không làm ảnh hưởng môi trường mỹ quan của nhà trường mà
đảm bảo an toàn cho trẻ, đồng thời mở rộng được diện tích trồng rau.
Việc trồng rau không chỉ để thu hoạch mà còn phải đảm bảo mỹ quan, do
đó từ việc phân bố vị trí vùng đất cho các loại cây trồng, cách trồng, đánh luống
cũng phải thẳng hàng sao cho đẹp mắt, đồng thời lựa chọn các loại giống rau
trồng cần phải tính thời gian trồng, để thường xuyên có rau ăn kế tiếp.
Việc cũng không kém phần quan trọng chỉ đạo, động viên giáo viên vận
động phụ huynh ủng hộ phân chuồng và tranh thủ thời điểm có mưa tổ chức
trồng chuối, trồng rau ngót vì đây là công việc nặng nhọc cần nhiều người làm
trong một ngày, nên tôi đã xin ý kiến Hiệu trưởng và phối hợp với Ban chấp
hành công đoàn kêu gọi đoàn viên lao động 01 ngày để trồng chuối, rau ngót và
đánh luống để trồng các loại rau ngắn ngày.
Trước khi trồng cần xử lý phân và đất bằng cách trộn phân với vôi bột sau
đó đảo đều với đất, rồi mới trồng để đảm bảo không bị sâu bệnh từ phân và loại
bỏ kiến, mối.

Sau đó hàng tuần từ 15h 30 – 17h tôi chỉ đạo cho lực lượng nhân viên tiến
hành trồng và chăm sóc các loại rau.
Trong quá trình trồng các loại rau, chỉ bón phân chuồng ủ đã oai và tưới

bằng nước sạch tuyệt đối không sử dụng phân và thuốc hóa học… Đợt đầu tiên
9


trồng rau cải vì thời tiết cuối mùa thu nên vẫn có những cơn mưa to nặng hạt
nên lứa đầu tiên rau bị dập lá, và bị sương mù nên rau bị héo lá thối lũn, không
thu hoạch được nhân viên cùng tỏ ra chán nản, nhưng với kiên trì với ý tưởng
của mình vừa động viên khích lệ, vừa cương quyết chỉ đạo nhân viên trồng lứa
thứ 2, những ngày có sương mù ban đêm phải che bằng tấm ni lông, buổi sáng
tan sương thì mở ra, kết quả đã được như mong muốn chúng tôi đã có vườn rau
xanh để thu hoạch, trong những ngày mong mõi trông chờ, trên khuôn mặt mọi
người đã rạng rỡ niềm vui phấn khởi, tạo nguồn hứng thú cho công việc trồng
rau cho những vụ rau tiếp theo, mùa nào thức ấy, hàng tháng đều có rau xanh bổ
sung vào bửa ăn cho trẻ.

(Hình ảnh nhân viên đang làm cỏ, vun xới, chăm sóc cho rau)

* Biện pháp 2 : Tăng cường kiến thức cho cô nuôi khi sơ chế và chế
biến thực phẩm tại bếp ăn hàng ngày
Cô nuôi là người trực tiếp nhận và sơ chế thực phẩm, để có món ăn an
toàn hạn chế thất thoát chất dinh dưỡng có trong thực phẩm rau củ ngay từ khi
10


nhận sơ chế, cô nuôi cần nắm được các kỹ năng cơ bản trong sơ chế và chế biến
thực phẩm nhất là rau củ. Khi thực hiện sơ chế và chế biến thực phẩm, nhất là
các thực phẩm từ rau, quả nếu không đúng cách sẽ làm giảm chất lượng của rau
củ, nếu phối hợp thực phẩm không phù hợp có thể gây bệnh cho người sử dụng.
Vì vậy, việc nâng cao kiến thức, kỹ năng cho cô nuôi là cần thiết trong chế biến
ăn tập thể.

Ví dụ : Với các loại rau lá xanh, nên xào nhanh với lửa lớn, đỗ nước vừa
đun sôi vào và thời gian nấu không quá 5 phút để tránh mất vitamin và các
thành phần dinh dưỡng tan được. Khi xào không nên cho quá nhiều dầu ăn để
tránh việc hấp thu nhiều chất béo. Xào nhanh là cách chế biến giữ lại dinh
dưỡng nhiều hơn so với cách chế biến rau bằng cách luộc, nấu, hầm làm mất khá
nhiều vitamin C.
Với các loại củ thì cách chế biến phần lớn là nấu và hầm. Để giữ được
chất dinh dưỡng, trước khi hầm hoặc nấu thì nên chiên sơ bằng dầu ăn. Bề mặt
rau củ được một lớp dầu ăn bảo vệ, giảm tổn thất dinh dưỡng do oxy hóa, vv…
* Biện pháp 3: Thực hiện tốt công tác kiểm tra, đánh giá.
Công tác kiểm tra đánh giá được thực hiện tốt thì công việc sẽ trôi chảy dễ
dàng, đúng hướng.
Bằng nhiều biện pháp để chỉ đạo đưa rau sạch vào bữa ăn cho trẻ được
thực hiện ở trường đã đem lại kết quả tốt, tuy nhiên nếu duy trì thường xuyên thì
cần phải có kiểm tra thường xuyên và có đánh giá khen thưởng kịp thời thì mới
tạo được nền nếp theo chỉ đạo, đồng thời khắp phục nhược điểm để công việc.
Do đó tôi đã đề nghị với hội đồng nhà trường đưa tiêu chí xây dựng rau,
xây dựng vườn hoa, tạo ảnh quan môi trường vào để đánh giá thi đua khen
thưởng cuối năm học, tạo động lực thúc đẩy cho cán bộ, giáo viên, nhân viên
cung thi đua và có trách nhiệm hơn trong công tác tạo cảnh quan môt trường.
Trách nhiệm kiểm tra, đánh giá, ngoài ban giám hiệu thường xuyên giám
sát, đôn đốc kiểm tra tại bếp ăn, các bộ phận khác như công đoàn, đoàn thanh
niên, tổ khối cũng được phân công kiểm tra việc trồng, chăm sóc và đưa rau
sạch vào bữa ăn của trẻ, với hình thức kiểm tra đột xuất, báo trước, kiểm tra nội
bộ, tổ chức hội giảng nuôi, đã tạo cho cô nuôi ý thức tự giác học hỏi tích lũy
thêm kinh nghiệm trồng rau, tích cực tham gia lao động thực hiện tốt nhiệm vụ
đã được phân công, để tăng thêm số lượng rau sạch đưa vào bữa ăn hàng ngày
của trẻ.
* Biện pháp 4 : Tuyên truyền vận động phụ huynh
Tổ chức các buổi tuyên truyền lồng ghép vào buổi họp phụ huynh đầu

năm, vào các hội thi … Tuyên truyền cho phụ huynh biết rau củ có vai trò rất
quan trọng đối với sức khỏe của mỗi người, đặc biệt là đối với sự phát triển của
trẻ:
“Rau xanh giúp cho hệ tiêu hóa khỏe mạnh, hấp thu tốt: Trong rau củ
quả có chứa hàm lượng chất xơ cao có giúp kích thích khả năng hoạt động của
đường ruột, ngừa táo bón, tăng khả năng loại các chất độc hại đối với cơ thể.
Chất xơ prebiotic giúp đường ruột khỏe mạnh, tăng hấp thu các dưỡng chất.
11


Giúp hỗ trợ hệ miễn dịch: Hàm lượng vitamin, chất khoáng, chất xơ và
các chất hóa thực vật có trong hoa quả có tác dụng hỗ trợ hệ miễn dịch, giúp
bảo vệ cơ thể, giảm nguy cơ nhiễm trùng, tăng cường hoạt động của hệ miễn
dịch. Vitamin và chất khoáng có vai trò quan trọng trong việc duy trì cho cơ thể
hoạt động khỏe mạnh. Thiếu vitamin và khất khoáng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng
đến các chức năng của cơ thể, trẻ xanh xao thiếu máu, hệ miễn dịch suy yếu dễ
nhiễm trùng.
Giúp hệ xương chắc khỏe, phát triển tiềm năng chiều cao: Rau củ quả còn
cung cấp chất khoáng tạo xương như canxi, phốt pho, kẽm, đồng, magiê,
mangan… Vitamin C và collagen giúp kết dính các thành phần của xương.
Vitamin kích thích tạo xương, chất hóa thực vật giúp tăng cường sức khỏe
xương, giúp trẻ phát triển tối đa tiềm năng chiều cao. Chế độ ăn giàu rau củ quả
giúp ngăn ngừa tình trạng thải canxi qua nước tiểu, phòng ngừa tình trạng mất
xương và đã được chứng minh cải thiện mật độ xương ở tuổi trưởng thành.
Ngoài ra rau, củ, quả còn bảo vệ sức khỏe lâu dài, giúp giảm nguy cơ béo
phì, bệnh tim mạch, rối loạn chuyển hóa mỡ trong máu, giảm nguy cơ ung thư,
đái tháo đường …
Tuyên truyền về giá trị dinh dưỡng từ các loại rau, củ, quả đối với sự phát
triển của trẻ. Rau củ quả còn cung cấp chất khoáng tạo xương như canxi, phốt
pho, kẽm, đồng, magiê, mangan… Vitamin C và collagen giúp kết dính các

thành phần của xương. Vitamin kích thích tạo xương, chất hóa thực vật giúp
tăng cường sức khỏe xương, giúp trẻ phát triển tối đa tiềm năng chiều cao. Chế
độ ăn giàu rau củ quả giúp ngăn ngừa tình trạng thải canxi qua nước tiểu, phòng
ngừa tình trạng mất xương và đã được chứng minh cải thiện mật độ xương ở
tuổi trưởng thành”. (4)
Những loại rau củ giúp trẻ phát triển chiều cao tối ưu các bậc phụ
huynh nên trồng, ngâm ủ, chế biến cho trẻ ăn:
“Giá đỗ: Trong giá đỗ chứa nhiều men tiêu hóa tự nhiên nên tốt cho hệ
tiêu hóa và các loại vitamin B6, C, E cần cho sự phát triển của cơ thể, bên cạnh
đó giá đỗ cũng rất giàu canxi.
Đậu: Trong đậu có chứa nhiều canxi có tác dụng hỗ trợ bé phát triển tốt
chiều cao hiệu quả. Ngoài canxi, trong đậu rồng còn chứa nhiều protit, gluxit,
lysin, methionine, cystin…những chất rất tốt cho sức khoẻ và sự phát triển thể
chất của trẻ.
Xúp lơ xanh: Trong cải xanh chứa nhiều chất xơ, protein, vitamin A, C và
đặc biệt là canxi và vitamin K là 2 chất quan trọng đối với sự phát triển của
xương. Ngoài ra, chất photochemical có trong xúp lơ xanh còn có tác dụng
chống oxy hóa, nhiễm trùng và bệnh tật.
Cải ngọt: Cải mgọt chứa nhiều canxi, vitamin K yếu tố hình thành
osteocalcin, hỗ trợ sự trao đổi chất trong xương giúp xương phát triển chắc
khoẻ, bé phát triển chiều cao.

12


Măng: Măng là loại rau rất tốt cho xương và giúp bé phát triển chiều cao,
do chứa nhiều canxi, kali, vitamin A, C, E (những chất giúp bảo vệ xương
khớp).
Cần tây: Cần tây có chứa nhiều canxi, sắt, photpho, protid có trong cần
tây cao hơn gấp đôi so với một số loại rau khác. Bên cạnh việc giúp bé phát triển

chiều cao, trong cần tây còn chứa nhiều loại vitamin có tác dụng kích thích vị
giác giúp bé ngon miệng, thèm ăn và hấp thụ tốt.
Rau diếp: Rau diếp là loại rau tiếp theo rất giàu canxi và tốt cho sức khỏe.
Ngoài việc cung cấp chất xơ và canxi, rau diếp còn là nguồn cung cấp vitamin
A, vitamin nhóm B cho cơ thể, tốt cho sức khỏe, đồng thời hỗ trợ tăng chiều cao
cho trẻ tối ưu”. (5)
Tuyên truyền kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm, tác hại từ các loại
rau, củ, quả bán trên thị trường. Do lợi nhuận kinh tế từ thị trường rau, củ, quả
mà rất nhiều hộ nông dân, các chủ buôn bán đã đưa ra thị trường những loại rau
có chứa các chất bảo vệ thực vật, dư lượng hóa chất tồn đọng trên rau, củ quả.
“Nên chú ý rằng về xảy ra tình trạng ngộ độc một trong các trường hợp sau:
1/ Dư lượng thuốc hoá học (thuốc sâu, bệnh, thuốc cỏ).
2/ Số lượng vi sinh vật và ký sinh trùng gây bệnh.
3/ Dư lượng đạm nitrát.
4/ Dư lượng các kim loại nặng (chì, thuỷ ngân, asêníc, kẽm, đồng...).
Trong 4 nhóm trên thì nhóm 1 và 2 nếu có hàm lượng chứa trong rau vượt
ngưỡng cho phép thì khi ăn vào sẽ bị ngộ độc tức thì, đa phần các trường hợp
ngộ độc do ăn rau thường do nhóm 1 hay nhóm 2 gây ra. Ngộ độc do nhóm 3 và
4 phải tích luỹ đến một mức độ nào đó mới biểu hiện ra ngoài, nhưng khi đã
biểu hiện ra ngoài rồi thì thường là khó chữa”. (6)
Tuyên truyền, vận động phụ huynh nên trồng rau, củ quả sạch, không
dùng hóa chất, thuốc trừ sâu, phân bắc hoặc phân chuồng chưa được ủ oai, trước
khi trồng cần xử lý phân và đất bằng vôi bột, tưới hoàn toàn bằng nước sạch,
không tận dụng nguồn nước thải, thời tiết có nhiều sương mù ban đêm phải dùng
tấm ni lông để che, ban ngày tan sương phải mở ra để rau không bị rợp, trồng
rau sạch cung cấp vào bữa ăn hàng ngày cho gia đình, những gia đình trồng
nhiều ăn khôn hết thì nhập rau cho nhà trường bổ sung thêm nguồn rau cho bếp
bán trú, hoặc bán rau sạch ra ngoài thị trường đảm bảo sức khỏe cho nhân dân.
Tuyên truyền vận động phụ huynh tham gia ủng hộ vật chất và tinh thần để xây
dựng vườn rau sạch tại trường mầm non cung cấp vào bữa ăn hàng ngày cho trẻ,

vận động phụ huynh ủng hộ giống, phân chuồng, cây tre, nứa, để làm dàn trồng
mướp, bầu, dưa chuột, đậu co ve. Đảm bảo cho trẻ thường xuyên được ăn các
loại rau, củ quả sạch.
Vì vậy biện pháp tuyên truyền cần được nhân rộng đến cộng đồng dân cư.
Để có những bữa ăn đảm bảo an toàn không phải là khó khi mọi người đều biết
quan tâm đến sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là trẻ nhỏ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:

13


Từ những biện pháp tôi đã đưa vào áp dụng trong : “ kinh nghiệm chỉ đạo
xây dựng vườn rau sạch, cung cấp cho trẻ ăn bán trú tại trường mầm non Xuân
Bình” đã đem lại được những kết quả đáng kể:
Có được một vườn rau xanh, sạch, đẹp cung cấp, bổ sung thêm lượng
thực phẩm cho bếp bán trú. Thuận tiện trong việc xây dựng được thực đơn theo
mùa, làm giảm tối đa thuốc bảo vệ thực vật vào cơ thể trẻ.
Bếp ăn được cung cấp rau sạch tự trồng trong vườn trường đảm bảo được
vệ sinh an toàn thực phẩm.
Kết quả thu được từ vườn rau của nhà trường bổ sung vào bữa ăn của trẻ
thời gian từ tháng 10/2016 - tháng 3/2017:
Chuối được: 37 buồng
Rau xanh: 67 kg
Đậu co ve: 32 kg
Bầu, bí: 61 kg
Nhà trường tìm được nguồn rau củ tươi sạch từ phụ huynh nhập vào,
không qua khâu trung gian, làm giảm giá thành các loại rau củ nhập vào trường.
Tạo khung cảnh xanh, sạch, đẹp cho trẻ được hoạt động, được trải
nghiệm, được thực hành để nắm vững bài dạy của cô trên lớp, được hòa mình
với thiên nhiên giúp trẻ hứng thú học và yêu thích tới trường.


(Hình ảnh trẻ đang cùng cô giáo thực hiện hoạt động ngoài trời)

Tận dụng lực lượng lao động, tạo điều kiện cho cán bộ, giáo viên, nhân
viên có kinh nghiệm hơn trong việc trồng rau sạch.
Phụ huynh tin tưởng cho trẻ tham gia ăn bán trú tại trường đông hơn.
Tổng số trẻ tham gia ăn bán trú: 223 cháu
14


Tăng hơn so với năm học trước là: 39 trẻ (Tăng 21,2%).
Thuận tiện trong việc xây dựng được thực đơn theo mùa, làm giảm tối đa
thuốc bảo vệ thực vật vào cơ thể trẻ. Thường xuyên thay đổi các loại thức ăn,
canh rau, trong bữa ăn trẻ ăn ngon miệng hơn.

(Bữa ăn trưa của trẻ ở trường mầm non Xuân Bình)

Tạo điều kiện cho nhà trường thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục. Bổ sung thêm vào công tác xây dựng cảnh quan môi trường
cho nhà trường giúp cho giáo viên, cô nuôi có đủ phương tiện làm việc, nâng
cao hiệu quả công tác, trẻ có đủ điều kiện để thực hiện tốt các hoạt động trong
ngày ở trường, phát huy trí tuệ trẻ, giúp trẻ có sức khỏe hoạt bát nhanh nhẹn, tạo
điều kiện đem lại nhiều kết quả trong năm học 2016 – 2017.
* Kết quả việc nuôi dưỡng trẻ ăn bán trú ở khu trung tâm:
Thời điểm tháng
9/2016
TT

Nội dung


2
3
4

Trẻ tham gia ăn bán trú
Trẻ đạt kênh BT (cân
nặng)
Trẻ SDD ở thể nhẹ cân
Trẻ đạt kênh BT (chiều
cao)

Tỷ lệ (%)
Tăng (+)
giảm ( -)

197/238

Tỷ lệ
(%)
82,8

223/238

Tỷ lệ
(%)
93,7

183/197

92,9


211/223

94,6

1,7

14/197

7,1

12/223

5,4

1,7

179/197

90,9

206/223

92,4

1,5

Số trẻ
1


Thời điểm tháng
3/2017
Số trẻ

10,9

15


5

Trẻ SDD ở thể thấp còi

18/197

9,1

17/223

7,6

1,5

Qua bảng phân tích chúng ta thấy sự phát triển của trẻ đã được tăng khá
cao so với thời điểm đầu năm học.
Chiếm được sự tin yêu của các cấp chính quyền, phụ huynh và nhân dân
trong xã.
Việc tăng cường rau sạch vào ăn bán trú của trẻ tại trường mầm non là
thực hiện tốt công tác an toàn vệ sinh thực phẩm.
Đồng thời, cũng mang lại hiệu quả thiết thực trong công tác nuông dưỡng

và giáo dục trẻ góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
trẻ trong trường mầm non .
Để đạt được kết quả trên cần có sự đoàn kết, nhất trí của ban giám hiệu và
tập thể giáo viên, nhân viên nhà trường.
Trong quá trình làm việc giám hiệu cần đi sâu đi sát công việc hàng ngày
để từ đó thấy được cái gì cần, cái gì thiếu để có biện pháp bổ sung kịp thời, có
chế độ khen thưởng phù hợp, động viên khích lệ người lao động yên tâm công tác.
3. Kết luận và kiến nghị:
* Kết luận .
Trong công tác chỉ đạo xây dựng vườn rau sạch, cung cấp cho trẻ ăn bán
trú tại trường mầm non. Thì vấn đề xây dựng kế hoạch cần phải sát thực tế giúp
công việc thực hiện được thuận lợi. Đồng thời cũng phải làm tốt công tác thi
đua, sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động.
Để việc tăng cường rau sạch vào ăn bán trú có hiệu quả cần thực hiện tốt
các biện pháp sau:
Làm tốt công tác quản lý thực phẩm, nhất là rau sạch vào bếp ăn tập thể
nhà trường.
Bên cạnh đó cũng giúp cho nhà trường thực hiện tốt công tác xã hội hoá
giáo dục.
Phát động phong trào thi đua tạo “vườn rau xanh cho bé” làm đồ dùng
trực quan cho trẻ trải nghiệm, hoạt động phục vụ dạy và học trong trường mầm
non đạt kết quả tốt.
Việc tăng cường rau sạch vào ăn bán trú của trẻ trường mầm non đã đem
lại kết quả rất khả quan, nhờ áp dụng các biện pháp trên nên việc thực hiện đưa
rau sạch vào ăn bán trú của trẻ được thực hiện dễ dàng, đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm phòng tránh ngộ độc cho trẻ. Biện pháp này đã được áp dụng
thường xuyên trong trường mầm non và có thể áp dụng cho tất cả các trường
mầm non nông thôn. Xây dựng vườn rau sạch còn tạo được cảnh quan môi
trường xanh, sạch, đẹp. Góp phần bổ sung phương tiện dạy học là môi trường
cho cô và trẻ hoạt động.

Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là việc tăng cường rau sạch vào ăn bán
trú của trẻ trong trường mầm non thật sự cần thiết, cần khuyến khích sử dụng, để
làm hạn chế cho trẻ những ảnh hưởng không tốt từ những loại rau củ quả nhiễm
hóa chất độc hại vào cơ thể trẻ, giúp cho trẻ phát triển khỏe mạnh. Tạo được

16


lòng tin của phụ huynh đối với trường mầm non, là địa chỉ tin cậy để họ gửi gắm
con em mình. Tạo được lòng tin với các cấp lãnh đạo.
Vì vậy, các bếp ăn của trường mầm non cần chú ý làm tốt công tác xây
dựng vườn rau sạch, quản lý tốt công tác nuôi dưỡng, nhập thực phẩm rau quả
sạch vào chế biến ăn cho trẻ, tạo nên một chuyển biến mới, thực sự góp phần
nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ và lợi ích cao nhất là trẻ
là được chăm sóc, được bảo vệ sức khỏe để phát triển toàn diện về mọi mặt.
* Kiến nghị:
- Đối với phòng giáo dục và đào tạo cần chi đạo các trường mầm non xây
dựng vườn rau sạch đặc biệt là những trường tổ chức ăn bán trú.
- Đối với chính quyền địa phương cấp đất cho các trường mầm non đảm
bảo đủ diện tích theo qui định. Chỉ đạo cán bộ khuyến nông hỗ trợ nhà trường
về giống các loại rau, củ, quả và hỗ trợ về kỹ thuật làm vườn.
- Các nhà trường phát động phong trào trồng rau sạch, làm tốt công tác
tuyên truyền nhân dân trồng rau sạch. Đầu tư kinh phí vào việc làm dàn bằng
các loại sắt, thép không rỉ để thuận tiện cho việc trồng các loại cây dây leo./.
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng có hiệu quả, ở trường
mầm non Xuân bình. Kính mong Hội đồng thẩm định đề tài các cấp quan tâm và
giúp đỡ để đề tài của bản thân tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Xuân Bình, ngày 01 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Trần Thị Tuấn

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT
1
2
3
3

Tên tài liệu trích dẫn
Trang mạng: Vấn đề rau sạch của việt nam
hiện nay
Trang: Tháp rau xanh
Trang: Phụ nữ kiều việt
Trang: Chế độ dinh dưỡng

Mục trích dẫn
(1), (3) và (6)
(2)
(4)

(5)

18


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trần Thị Tuấn
Chức vụ và đơn vị công tác: PHT trường mầm non Xuân Bình
Cấp đánh
Kết quả
giá xếp loại
đánh giá
TT
Tên đề tài SKKN
(Phòng, Sở, xếp loại (A,
Tỉnh...)
B, hoặc C)
Một số kinh nghiệm tổ chức
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi làm
Phòng
quen với môi trường xung
1
GD&ĐT
C
quanh, tại lớp mẫu giáo thôn
Như Xuân
Mít trường mầm non Xuân

Bình
Một số kinh nghiệm tổ chức
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi làm
Phòng
2 quen với chữ cái, tại lớp mẫu
GD&ĐT
C
giáo thôn Mít trường mầm non Như Xuân
Xuân Bình
Một số kinh nghiệm huy động
Phòng
trẻ ra lớp, tại lớp mẫu giáo thôn
3
GD&ĐT
C
Mít trường mầm non Xuân
Như Xuân
Bình
Một số kinh nghiệm tổ chức
Phòng
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi làm
GD&ĐT
A
quen với tác phẩm văn học, tại Như Xuân
4
lớp mẫu giáo thôn Xuân Phú
trường mầm non Xuân Bình Sở GD&ĐT
C
Như Xuân, Thanh Hóa
Thanh Hóa

Một số kinh nghiệm tổ chức
Phòng
5 cho trẻ ăn bán trú tại trường
GD&ĐT
C
mầm non Xuân Bình
Như Xuân
Một số kinh nghiệm chỉ đạo
Phòng
giáo viên huy động trẻ nhà trẻ
6
GD&ĐT
B
đến trường học, ở trường mầm
Như Xuân
non Xuân Bình
Một số kinh nghiệm quản lý,
Phòng
7 chỉ đạo công tác bán trú tại
GD&ĐT
B
trường mầm non Xuân Bình
Như Xuân

Năm học
đánh giá
xếp loại

1999-2000


2002-2003

2003-2004

2004-2005

2009-2010

2011-2012

2013-2014

19


20



×