Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng chuyên môn tại trường mầm non đông thọ b

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.58 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
STT
1

2

Mục
1.
1.1
1.2
1.3
1.4
2.
1
2.2

Nội dung
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến

Trang
2
2
3
3


3
3..15
3...4
4...5

2.3

kinh nghiệm.
Các giải pháp, nâng cao hiệu quả việc thực hiện quy

5…14

2.4

chế dân chủ trong nhà trường
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt

14...15

động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà
trường
3

3
3.1
3.2

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị

Tài liệu tham khảo

15..16
15...16
16
17

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Sự nghiệp giáo dục đào tạo luôn được Đảng và nhà nước đặc biệt chú trọng và quan
tâm hàng đầu trong đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

1


Điều đó cũng đã khẳng định tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ II BCH Trung ương
Đảng khóa VIII Đảng đã khẳng định.
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Để
đáp ứng nhu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục, đào tạo trong giai đoạn đổi mới,
Ban bí thư TW Đảng đã có Chỉ thị 40 – CT/TW ngày 15 thánh 6 năm 2004 về việc
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là nhiệm vụ rất
quan trọng, cần thiết, là nhân tố có tính quyết định đến việc nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện trong giai đoạn hiện nay.
Giáo dục Mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,là
nền tảng quan trong trong việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Vì vậy việc
chăm sóc giáo dục trẻ là trách nhiệm của nhà trường, của mỗi gia đình và của toàn
xã hội. Trong đó Trường mầm non là môi trường thuận lợi nhất để trẻ phát triển
một cách toàn diện đức, trí, thể, mỹ cho trẻ. bởi đội ngũ giáo viên là lực lượng nòng
cốt của sự nghiệp giáo dục. Muốn vậy, cần có đội ngũ nhà giáo đạt trình độ chuẩn
và trên chuẩn , giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, yêu nghề, mến trẻ , tập thể sư phạm

nhà trường phải đoàn kết thống nhất, có tình thương yêu, tương thân, tương ái, giúp
đỡ lẫn nhau, luôn có ý thức phấn đấu , rèn luyện học tập và bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn cũng như năng lực công tác. Có như vậy mới đáp ứng được
yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục
trong giai đoạn hiện nay.
Trong những năm qua chất lượng đội ngũ giáo viên Ngành học mầm non
Thành Phố Thanh Hóa nói chung và trường mầm non Đông Thọ B nói riêng đã có
những chuyển biến rõ rệt cả về số lượng và chất lượng. Song trong thực tế hiện nay
các trường mầm non trên địa bàn và đặc biệt là Trường mầm non Đông Thọ B có
nhiều giáo viên trẻ mới vào ngành năng lực chuyên môn còn rất hạn chế, vì vậy
việc vận dụng phương pháp giảng dạy chương trình giáo dục Mầm non non còn
lúng túng, tác phong chưa linh hoạt nên ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường.
Từ những lý do trên với trách nhiệm lớn lao của một người quản lý, đặc
biệt bản thân tôi là Phó Hiệu trưởng được phân công phụ trách về chuyên môn. Do
đó tôi luôn luôn trăn trở, suy nghĩ để nghiên cứu với mong muốn tìm ra những biện
pháp tối ưu nhất để áp dụng xây dựng , bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong nhà
trường vững vàng về mọi mặt, đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Chính vì vậy, mà tôi đã chọn đề tài “ Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất
lượng chuyên môn trong trường mầm non Đông Thọ B” làm đề tài nghiên cứu
của mình trong năm học 2016 – 2017.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của vấn đề nghiên cứu là đưa ra những giải pháp tối ưu nhất để “
Nâng cao chất lượng chuyên môn trong trường mầm non Đông Thọ B” nhằm phát
triển năng lực sư phạm của đội ngũ cán bộ giáo viên để nâng cao chất lượng giảng
dạy của giáo viên trong nhà trường đạt kết quả tốt.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
2



Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất
lượng chuyên môn trong công tác giảng dạy tại trường mầm non ĐôngThọ B.
Giáo viên và trẻ trong trường MN Đông Thọ B
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài này tôi sử dụng phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Đọc và nghiên cứu tài liệu, sách báo, tạp chí có liên quan đến chất lượng
giảng dạy của giáo viên mầm non hiện nay.
- Phương phápquan sát, điều tra: Thăm dò ý kiến đóng góp của đồng nghiệp
qua việc dự giờ thăm lớp, các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, và kết quả kiểm tra đột
xuất việc giảng dạy của giáo viên trên lớp.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Mỗi giáo viên đều hiểu được rằng chất lượng chuyên môn trong
trường mầm non chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi chuyên môn tốt nhất
đảm bảo chất lượng chăm sóc- giáo dục trong mỗi nhà trường. Khi đó chất lượng
chuyên môn sẽ là cầu nối thực hiện những nhiệm vụ quan trọng nhằm hoàn thành
mục tiêu kế hoạch của trường. Vì thế chất lượng chuyên môn có ý nghĩa cực kì
quan trọng nhằm giúp cho mỗi giáo viên ngày càng nâng cao năng lực chuyên môn
đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng linh hoạt sáng tạo khi tổ chức các hoạt
động cho trẻ nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ, kế hoạch mà mỗi nhà trường đã đặt ra
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, quan điểm về vai trò của
giáo dục trong việc phát huy nhân tố con người giữ vị trí hết sức quan trọng, thể
hiện sự quan tâm đặc biệt của Hồ Chí Minh đối với con người, coi con người là vốn
quý nhất, là nhân tố quyết định mọi thành công; con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp cách mạng. Đó cũng là cơ sở khoa học, là kim chỉ nam cho
hành động của Đảng ta trong nhận thức và hoạt động xây dựng nền giáo dục Việt
Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục - sự nghiệp “trồng người” là một
chiến lược vừa cơ bản, lâu dài, vừa là quốc sách hàng đầu của Đảng và Nhà nước

ta. Điều này cũng đúng với tuyên bố đưa ra năm 1994 của Tổ chức Giáo dục, Khoa
học, và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO): “Không có một sự tiến bộ và
thành đạt nào có thể tách khỏi sự tiến bộ và thành đạt trong lĩnh vực giáo dục của
quốc gia đó. Và những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục hoặc không đủ tri thức và khả
năng cần thiết để làm giáo dục một cách có hiệu quả thì số phận của quốc gia đó
xem như đã an bài và điều đó còn tồi tệ hơn cả sự phá sản”.

3


Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định vai trò của giáo dục đối với sự hình thành
nhân cách con người. Một mặt, giáo dục là sự tác động có mục đích, có hệ thống,
theo một tổ chức chặt chẽ, nó phác thảo trước mô hình nhân cách cần đạt đến. Mặt
khác, giáo dục truyền lại những thành tựu của nền văn minh xã hội theo con đường
ngắn nhất, hiệu quả nhất. Nhân cách con người được hoàn thiện bởi một nền giáo
dục xã hội và tự giáo dục toàn diện sẽ trở thành những người vừa “hồng”, vừa
“chuyên”; vừa có phẩm chất, vừa có năng lực; những công dân tốt, những cán bộ
tốt, sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam mới. Thấm nhuần
tư tưởng của Bác trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và nhà nước ta luôn coi
trọng sự nghiệp giáo dục là của toàn Đảng, toàn dân, là quốc sách hàng đầu. Văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (từ 12/1 - 19/1/2011) trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 chỉ rõ: " Phát triển Giáo dục là quốc sách hàng
đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản
lý Giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập
trung nâng cao chất lượng Giáo dục đào tạo coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống,
năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài
chính Giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng Giáo dục đào tạo ở tất cả các bậc
học, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường,
gia đình và xã hội”.

Giáo dục mầm non là bậc học vô cùng quan trọng nằm trong hệ thống giáo
dục quốc dân, mà mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể
chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách,
chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một (Điều 22 - Luật giáo dục, 2005). Để thực hiện tốt
mục tiêu giáo dục Mầm non thì chất lượng đội ngũ giáo viên là một trong những
nhân tố quyết định lớn trong việc chăm sóc giáo dục trẻ ở trường Mầm non. Vì vậy
bất kỳ người quản lý nào cũng không thể lơ là trong việc bồi dưỡng nâng cao chất
lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên. Mục tiêu của công tác bồi dưỡng là nhằm
giúp cho đội ngũ giáo viên thêm vững về kiến thức, kỹ năng, khắc phục những
thiếu sót trong công tác giảng dạy về quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục.
Do đó chúng ta cần nhanh chóng củng cố và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giỏi về
chuyên môn, vững vàng về nghiệp vụ tay nghề, có phẩm chất đạo đức tốt, có phong
cách sư phạm đẹp, tận tâm với công việc, yêu nghề mến trẻ, biết quan tâm chia sẻ.
Bồi dưỡng một đội ngũ giáo viên biết thể hiện tinh thần tự học, tự bồi dưỡng, biết
đổi mới phương pháp dạy học và hình thức tổ chức các tiết học, hoạt động một
4


cách linh hoạt, sáng tạo, bình tĩnh tự tin khi lên lớp, từ đó nâng cao trình độ, nghiệp
vụ tay nghề nhằm đáp kịp với xu hướng đổi mới của nền giáo dục hiện nay.
Vì vậy công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng chuyên môn trong
trường mầm non Đông Thọ B nói riêng và của ngành giáo dục nói chung là yêu cầu
cấp bách. Trong đó đòi hỏi mỗi người cán bộ quản lý phải có những biện pháp quản
lý chỉ đạo hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường.
Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên mầm non là hai giai đoạn có liên quan mật
thiết với nhau trong quá trình hình thành và phát triển nghề dạy học ở cấp học
mầm non. Đào tạo là giao đoạn đầu hình thành về năng lực và phẩm chất cần thiết
của GVMN (Giáo viên mầm non) để hành nghề. Còn bồi dưỡng chuyên môn cho
GVMN là giai đoạn nối tiếp đối với hoạt động đạo tạo nghề nghiệp.
Việc bồi dưỡng để hoàn thiện kỹ năng sư phạm là cần thiết và phù hợp khả

năng của các trường, là hình thức phổ biến thường làm ở các trường. Công tác bồi
dưỡng để nâng cao chất lượng chuyên môn bao gồm những mặt sau:
* Bồi dưỡng kiến thức cơ bản về giáo dục mầm non, về chăm sóc lứa tuổi
mầm non; Các kiến thức cơ sở chuyên nghành; Các kiến thức phổ thông về chính
trị,kinh tế, văn hóa, xã hội liên quan đến giáo dục mầm non.
Bồi dưỡng những kỹ năng về chăm sóc- giáo dục trẻ là bối dưỡng về kỹ năng
lập kế hoạch chăm sóc- giáo dục trẻ theo năm học, tháng, tuần; lập kế hoạch phối
hợp với cha mẹ của trẻ để thực hiện mục tiêu chăm sóc -giáo dục trẻ. Bồi dưỡng kỹ
năng tổ chức thưch hiện các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho trẻ như: tổ chức môi
trường nhóm lớp đảm bảo vệ sinh an toàn cho trẻ; tổ chức bữa ăn, giấc ngủ, rèn
luyện cho trẻ một số kỹ năng tự phục vụ, phòng tránh và xử trí ban đầu một số
bệnh, tai nạn thường gặp đối với trẻ. Bồi dưỡng kỹ nawngtoor chức hoạt động giáo
dục trẻ: tổ chức các hoạt động theo hướng tích hợp, phát huy tính tích cực sáng tạo
của trẻ, môi trường giáo dục phù hợp điều kiện của nhóm lớp, sử dụng có hiệu quả
đồ dùng, đồ chơi (kể cả đồ dùng, đồ chơi tự làm) và các nguyên vật liệu vào việc tổ
chức các hoạt động giáo dục trẻ, quan sát đánh giá và có phương pháp chăm sócgiáo dục trẻ phù hợp.
* Bồi dưỡng kỹ năng quản lý lớp học, đảm bảo an toàn cho trẻ, xây dựng và
thực hiện quản lý nhóm lớp gắn với kế hoạch hoạt động chăm sóc- giáo dục trẻ;
Sắp xếp, bảo quản đồ dùng, đồ chơi, sản phẩm của trẻ phù hợp với mục đích chăm
sóc- giáo dục; Quản lý và sử dụng hiệu quả hồ sơ cá nhân, nhóm, lớp. Bồi dưỡng
kỹ năng giao tiếp, ứng xử với trẻ một cách gần gũi, tình cảm; Giao tiếp ứng xử với
đồng nghiệp một cách chân tình, cởi mở, thẳng thắn; Gần gũi tôn trọng và hợp tác
trong giao tiếp, ứng xử với cha mẹ trẻ.
* Bồi dưỡng thực hiện chuyên đề: Chuyên đề được hiểu là những vấ đề
chuyên môn được đi sâu chỉ đạo trong một thời gian nhất định, nhằm tạo ra sự
chuyển biến chất lượng về vấn đề đó, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo
dục trẻ. Chính vì vậy, Hiệu trưởng cần có kế hoạch chỉ đạo chuyên sâu từng vấn đề
và tập trung vào những vấn đề khó, vấn đề còn hạn chế của nhiều giáo viên hoặc
5



vấn đề mới theo chỉ đạo của ngành, giúp cho giáo viên nắn vững những vấn đề lý
luận và có kỹ năng thực hành chuyên đề tốt.
* Bồi dưỡng tại chỗ: Là tổ chức bồi dưỡng ngay tại trường, nơi giáo viên
công tác, thông qua sinh hoạt nhóm, tổ chuyên môn, tổ chức hội thảo theo từng
trường, cụm trường... Có nhiều hoạt động phong phú để bồi dưỡng giáo vieentheo
hướng này: tổ chức cho giáo viên dự giờ thăm lớp lẫn nhau, tổ chức chuyên đề về
phương pháp chăm sóc- giáo dục trẻ, tổ chức rút kinh nghiệm sau mỗi học kỳ, mỗi
năm học, tổ chức cho giáo viên giao lưu học hỏi kinh nghiệm tạo điều kiện cho
giáo viên tham gia các hội thảo...
* Bồi dưỡng thường xuyên: Là bồi dưỡng theo chu kỳ cho giáo viên mầm
non để họ được bổ sung các kiến thức còn thiếu hụt và cập nhật thêm các kiến thức
mới về chủ trương, đường lối chính sách của Đảng về giáo dục, về nội dung
chương trình, phương pháp giáo dục trẻ. Việc bồi dưỡng thường xuyên được ngành
giáo dục triển khai theo chu kỳ theo năm học và theo chuyên đề để giúp cho giáo
viên nâng cao tay nghề và trình độ năng lực chuyên môn của bản thân.
Như vậy việc nâng cao chất lượng chuyên môn trong trường mầm non đóng
vai trò quan trọng quyết định đến chất lượng chăm sóc- giáo dục trong nhà trường.
nâng cao chất lượng chuyên môn không chỉ giúp mỗi giáo viên nâng cao năng lực
bản thân, mà còn là môi trường để tình đồng nghiệp nảy nở và phát triển giữa tất cả
giáo viên giúp họ giúp đỡ lẫn nhau trong công tác, hình thành môi trường học tập
tốt đẹp cũng như truyền thống văn hóa bản sắc tốt đẹp cũng như truyền thống văn
hóa bản sắc riêng của mỗi nhà trường.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
* Thuận lợi:
Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo chuyên môn của Phòng giáo
dục. Đồng thời được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp chính quyền, nhân dân địa
phương, đặc biệt là Hội cha mẹ học sinh đến nay nhà trường đã có đủ phòng cho trẻ
học tập và hoạt động, mua sắm được tương đối đầy đủ các trang thiết bị tối thiểu
phục cho công tác dạy và học như bàn ghế, máy chiếu, biểu bảng, đồ dùng đồ

chơi…theo hướng chuẩn quốc gia. Các cháu đến trường được học theo chương
trình giáo dục Mầm non ở tất cả các nhóm lớp. Đặc biệt tháng 11 năm học 20162017 trường đã được công nhận trường mầm non đạt chuẩn Quốc Gia mức độ I.
Ban giám hiệu nhà trường luôn chú trọng tới công tác bồi dưỡng và nâng cao
chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong nhà trường: Như đưa ra các
mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho từng tháng, lên lịch dự giờ hàng tháng, và kế hoạch
thao giảng giáo viên giỏi cấp trường, xây dựng các tiết dạy mẫu cho giáo viên dự
và giáo viên được đi học tập kinh nghiệm ở trường bạn.
Nhà trường có đội ngũ cán bộ giáo viên trẻ, khoẻ, nhiệt tình, có trình độ từ
chuẩn và trên chuẩn trở lên, yêu nghề, mến trẻ, có tinh thần học hỏi, chịu khó kiên

6


trì trong công tác, tích cực học tập và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và
năng lực sư phạm cho bản thân.
* Khó khăn:
Khuôn viên sân trường quá chật hẹp không đủ diện tích cho trẻ tham gia các
hoạt động như: Hoạt động ngoài trời, thể dục sáng,… và đặc biệt là các hoạt động
hội thi, lễ hội của nhà trường.
Nhiều giáo viên chưa đào sâu suy nghĩ để áp dụng nhiều hình thức hấp dẫn thu
hút trẻ trong quá trình thực hiện chương trình. Bên cạnh đó một số giáo viên mới ra
trường, trình độ tay nghề còn non, khả năng nhận thức chưa đầy đủ về phương
pháp dạy học, chưa biết “lấy trẻ làm trung tâm”, còn lúng túng trong việc vận dụng
chương trình giáo dục mầm non mới vào thực tế giảng dạy.
Trong việc thực hiện nội dung chương trình, tuy đã chú ý phát triển toàn diện
nhưng trong nội dung gắn kết thiếu tính đồng bộ, việc tích hợp các môn học có lúc
chưa hợp lý. Một số giáo viên lên lớp còn mang nặng phương pháp dạy cũ, chưa
phát huy được tính tích cực chủ động của trẻ, còn hạn chế trong việc tạo môi
trường cho các cháu học tập và tham gia khám phá ở mọi lúc mọi nơi. Phương pháp
và hình thức tổ chức các hoạt động cho trẻ chưa được sáng tạo đang còn áp đặt,

cứng nhắc.
Trong công tác chỉ đạo chuyên môn trong năm vừa qua, bản thân tôi chưa có
nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý, đôi khi chỉ đạo còn mang tính chung
chung, chưa khoa học, công tác bồi dưỡng chuyên môn chưa đa dạng, chưa sâu, các
tiết dạy mẫu chưa được nhiều. Điều đó dẫn đến kết quả trên cô và trẻ chưa cao, vì
vậy việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong nhà trường còn nhiều hạn
chế.
* Kết quả thực trạng:
* Kết quả đánh giá năng lực giáo viên năm học 2016 – 2017:
T/S giáo viên
Giỏi
5
29,4

17
Tỷ lệ %

Kết quả đầu năm học 2016 -2017
Khá
TB
10
2
58,8
11,8

* Kết quả khảo sát, đánh giá chất lượnghọc sinh đầu năm học 2016 -2017:
Tổng số trẻ
350
Tỷ lệ %


Tốt
82
23,4

Đạt
Khá
91
26

Trung bình
96
27,4

Chưa đạt
81
23,2

Từ kết quả thực trạng trên tôi đã suy nghĩ và đưa ra một số các giải pháp sau:
7


2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
Giải pháp1. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng nâng cao nhận
thức cho đội ngũ giáo viên:
Thông qua các đợt học tập chính trị, Nghị quyết , nhà trường đã giáo dục, bồi
dưỡng cho giáo viên nhận thức được vai trò, nhiệm vụ của người giáo viên trong
giai đoạn mới. Cụ thể nhà trường đã tổ chức cho CBGV học tập, quán triệt sâu
sắc tư tưởng chỉ đạo, chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước về giáo dục
đào tạo, phân công đảng viên chịu trách nhiệm lãnh đạo các tổ chức quần chúng
như đoàn thanh niên, Công đoàn. Mỗi Đảng viên đều nêu cao tinh thần tiên

phong gương mẫu , giúp đỡ quần chúng về mặt tư tưởng chính trị cũng như các
hoạt động khác. Thường xuyên bồi dưỡng tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống
giúp cho giáo viên tin tưởng vào chủ trương đường lối chính sách của Đảng về
công tác giáo dục. Từ đó giáo viên yên tâm công tác, gắn bó với nghề nghiệp,
luôn bám trường, bám lớp , có lòng yêu nghề mến trẻ, ý thức trách nhiệm của
người giáo viên được nâng cao. Tích cực tham gia phong trào “ Kỷ cương - Tình
thương - Trách nhiệm” . Từ những hoạt động trên, nhận thức của giáo viên
được nâng lên rõ rệt, có những đồng chí cán bộ giáo viên trước đây có những tư
tưởng tự ti, mặc cảm, không có động cơ phấn đấu. Nay nhận thức và quan điểm
thay đổi hẳn đã hăng hái tham gia các phong trào thi đua. Nhất là đối với những
giáo viên trẻ mới vào ngành đã xác định được được nhiệm vụ của mình trong
công tác chăm sóc và giáo dục trẻ. Kết quả trong năm học đã bình xét được 3
đoàn viên xuất sắc tham gia học lớp đối tượng Đảng và 1 đông chí đề nghị Đảng
bộ Phường đang chuẩn y kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam.
Giải pháp 2. Xây dựng mối đoàn kết trong đội ngũ Cán bộ giáo viên:
Trong sự nghiệp giáo dục, Lênin đã nói: “Sự nhất trí trong một tập thể sư phạm la
yếu tố quyết định mọi sự thành công trong nhà trường”. Do đó, muốn xây dựng tập
thể đoàn kết, thì mỗi đồng chí trong BGH nhà trường phải là trung tâm xây dựng
khối đoàn kết trong nhà trường. Xác định được yêu cầu trên, BGH phải thực sự
gương mẫu trong công tác, trong sinh hoạt, đầu tư nghiên cứu để tạo được niềm tin
thật sự của tập thể, luôn gần gũi tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh từng giáo
viên để có những giúp đỡ, giải quyết phù hợp, chân tình, giải toả những mâu thuẫn
vướng mắc . Phối hợp với các đoàn thể trong trường, địa phương để làm tốt công
tác giáo dục tư tưởng, xây dựng đơn vị thực sự là tổ ấm, trao đổi giúp đỡ nhau
trong công tác, trong chuyên môn và trong đời sống để từ đó tình cảm gắn bó yêu
thương giúp cho giáo viên yên tâm công tác. Để làm được việc trên, bản thân luôn
nêu cao tinh thần trách nhiệm, lập trường tư tưởng vững vàng, sẵn sàng giúp đỡ
những khó khăn vưỡng mắc của cán bộ , giáo viên trong công tác, đời sống, biết
lắng nghe, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh của từng giáo viên qua đồng
nghiệp, qua các đợt kiểm tra, qua các lớp bồi dưỡng hay gặp mặt, tôi vẫn thường

xuyên quan tâm nhất là đối với những giáo viên trẻ mới vào trường vì những giáo
viên đó chưa quen với các mối quan hệ tập thể trong nhà trường, chưa mạnh dạn
tham gia vào các hoạt động tập thể . Do đó mà tôi càng gần gũi để có những giúp
8


đỡ phù hợp tạo thành một tập thể yêu thương, thân thiện, tôn trọng nhau, cùng
chung sức và hoàn thành nhiệm vụ. Chính vì vậy mà đội ngũ giáo viên nhà trường
đã trở thành một khối đoàn kết thống nhất.
Giải pháp 3. Sắp xếp bố trí cho đội ngũ giáo viên phù hợp với năng lực chuyên
môn:
Sau khi điều tra tình hình đội ngũ giáo viên của nhà trường, BGH căn cứ vào
năng lực của mỗi giáo viên để phân công sắp xếp đúng người, đúng việc, phù hợp
với năng lực, trình độ chuyên môn, sức khỏe, tuổi đời , tuổi nghề . Vì vậy nhà
trường đã phân công giáo viên hợp lý cho từng nhóm lớp tạo điều kiện cho giáo
viên phát huy được hết khả năng , năng lực sở trường của mình. Đồng thời từ đó
phát huy được sự sáng tạo của mỗi giáo viên trong quá trình công tác. Tôi đã tham
mưu cho đồng chí Hiệu trưởng ra quyết định chọn cử giáo viên có năng lực chuyên
môn vững vàng, có uy tín làm tổ trưởng chuyên môn, dạy lớp điểm của nhà
trường. Đồng thời để thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục trẻ mầm non 5 tuổi ,
nhà trường đã chọn những giáo viên đã nhiều năm công tác, có trình độ trên chuẩn,
có năng lực chuyên môn vững vàng dạy lớp Mẫu giáo 5 tuổi. Còn đối với các nhóm
lớp từ Nhà trẻ đến lớp Mẫu giáo 4 tuổi nhà trường đã phân công giáo viên lâu năm
có kinh nghiệm chăm sóc giáo dục trẻ và đồng chí mới vào ngành vào một lớp để
giáo viên trẻ có điều kiện học hỏi về công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Giải pháp 4. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo chuyên môn khoa học phù hợp với thực
trạng của nhà trường:
Xây dựng kế hoạch là chức năng, là nhiệm vụ không thể thiếu được của người
cán bộ quản lý, giúp người cán bộ quản lý điều hành công việc nhằm đưa các hoạt
động của nhà trường vào nề nếp, nâng cao chất lượng trong công việc. Xác định

được tầm quan trọng của việc xây dựng kế hoạch, đầu năm học Ban giám hiệu
chúng tôi đã rà soát lại toàn bộ, nhiệm vụ và kế hoạch chỉ đạo, kết quả của năm
học 2051-2016 xem những việc gì thực hiện tốt, những gì chưa làm được, sau đó
căn cứ vào chủ đề của năm học, vào thực trạng nhà trường, từ đó tìm ra những biện
pháp chỉ đạo rõ ràng cụ thể để xây dựng kế hoạch chỉ đạo chuyên môn phù hợp có
tính khả thi.
Cụ thể : Kế hoạch xây dựng lớp chỉ đạo điểm, tôi không xây dựng tất cả các
chủ đề vào một lớp như những năm học trước, mà mỗi chủ đề tôi phân cho 1 lớp
của các khối khác nhau làm chủ đạo cho từng chủ đề.
VD : Chủ đề 1: Tạo môi trường xanh - sạch đẹp tôi phân cho lớp Mẫu giáo
Nhỡ A1 khối Mẫu giáo Nhỡ, song đến chủ đề Môi trường thân thiện – học sinh tích
cực tôi phân vào lớp Mẫu giáo lớn A2 khối Mẫu giáo Lớn….Cứ như vậy mỗi một
chủ đề tôi phát động phong trào cho các nhóm lớp tham gia, cuối chủ đề có đánh
giá và xếp loại giáo viên thực hiện các chủ đề vào lớp học. Qua mỗi một chủ đề tôi
thấy các giáo viên và học sinh hào hứng tham gia, đó cũng là một phần kích thích
trẻ và cô tích cực hăng say, suy nghĩ làm gì? Làm như thế nào để chủ điểm sau lớp
có giải thưởng cao hơn.
9


Đối với kế hoạch thực hiện chương trình: đây là động lực nâng cao chất lượng
giáo dục trong nhà trường. Ngay từ đầu năm học tôi đã nghiên cứu xây dựng toàn
bộ phân phối chương trình cho cả năm học. Mỗi một chủ đề tôi cùng giáo viên thảo
luận và lựa chọn những bài hát hay, những câu chuyện phù hợp với từng chủ đề,
chủ điểm.
VD: Chủ đề “Quê hương, Đất nước, Bác Hồ, Trường tiểu học và Tết thiếu nhi”
của khối Mẫu giáo Lớn: khi lên kế hoạch về môn Âm nhạc chọn những bài hát cho
trẻ nghe như bài “Đi cấy”, “Hoa trong vườn”, “Hò sông Mã” “,…qua các bài hát
làn điệu dân ca của quê hương trẻ không những hứng thú lắng nghe cô hát mà còn
in đậm tình quê hương qua chủ điểm này.

Như vậy có thể nói rằng để nâng cao chất lượng, việc xây dựng kế hoạch khoa
học, phù hợp với từng chủ điểm là rất cần thiết của người quản lý.
Giải pháp 5. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn và bồi dưỡng phương
pháp dạy cho giáo viên:
* Nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn:
Sinh họat chuyên môn vừa là quy chế vừa là nhiệm vụ quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng của mỗi nhà trường.
Xác định được tầm quan trọng của việc sinh hoạt chuyên môn và thực trạng
đội ngũ cán bộ giáo viên có trình độ chuyên môn không đồng đều, việc tiếp cận với
chương trình mầm non mới còn gặp nhiều khó khăn nên Ban giám hiệu thường
xuyên tham dự các buổi sinh hoạt chuyên môn ở các tổ vào tuần 2 và tuần 4 hàng
tháng, cùng với tổ trưởng giải đáp những vướng mắc trong thực hiện chương trình,
và hướng dẫn tổ trưởng chuyên môn cách tổ chức cuộc họp có chất lượng, đánh giá
thật cụ thể, sát thực những công việc nổi bật hay còn hạn chế trong tổ thảo luận về
chủ đề đang học hoặc sắp thực hiện xem phù hợp chưa, tổ chức cho chị em làm đồ
dùng đồ chơi phục vụ giảng dạy. Thảo luận và thống nhất chung phương pháp tổ
chức các đề tài mới, bàn bạc để tìm những hình thức tổ chức phong phú, mới lạ,
hấp dẫn để vận dụng trong tổ chức các hoạt động đạt kết quả cao.
Là phó hiệu trưởng chỉ đạo chuyên môn tôi yêu cầu toàn thể giáo viên tham
gia đầy đủ và nghiêm túc trong buổi sinh hoạt tổ. Mỗi giáo viên phải tự xác định rõ
vai trò trách nhiệm của mình. Khi đi dự giờ mẫu hay dự giờ đồng nghiệp, sau tiết
dạy tôi cho toàn thể giáo viên tham dự đánh giá tiết dạy một cách khách quan tránh
tình trạng ngồi ì. Mỗi giáo viên phải đưa ra một ý kiến của mình về tiết dạy, và
đưa ra những biện pháp, hình thức hay cho đồng nghiệp học tập. Đặc biệt các đồng
chí giáo viên mới vào trường, những buổi sinh hoạt chuyên môn này tôi yêu cầu
những giáo viên đó phải đưa ra những ý kiến riêng của mình về tiết dạy, và những
vấn đề chưa hiểu của đề tài để cho tổ phân tích, làm rõ. Bên cạnh đó, nhà trường
luôn sinh hoạt chuyên môn thường xuyên, đều đặn, trong những buổi sinh hoạt
chuyên môn giáo viên được hỏi - đáp những thắc mắc của mình. Chính vì vậy năng
lực sư phạm của giáo viên trong trường ngày càng tiến bộ rõ nét.

Mặt khác, tôi chỉ đạo cho giáo viên cập nhật thông tin vào sổ tay ghi chép của
mình. Điều đó giúp cho giáo viên dễ tìm lại những phần bổ sung khi cần loại tiết
10


nào, môn nào nó sẽ hỗ trợ được tốt hơn trong quá trình giáo viên bị vướng mắc.
Với biên bản sinh hoạt chuyên môn hàng tháng, thông qua sổ này còn giúp cho Ban
giám hiệu nắm được tình hình của mỗi giáo viên, để uốn nắn, bồi dưỡng kịp thời.
* Bồi dưỡng phương pháp cho giáo viên:
Để xác định đúng khả năng giáo viên có nắm vững những phương pháp các bộ
môn hay không, ngay từ đầu tháng 9 tôi lên kế hoạch dự giờ toàn bộ giáo viên
trong toàn trường. Qua những lần dự giờ tôi thấy các giáo viên mới hầu như không
nắm vững các phương pháp của môn học, nội dung cung cấp kiến thức lộn xộn, lan
man. Khi dự xong các tiết dạy, tôi suy nghĩ phải bồi dưỡng như thế nào vừa hết ít
thời gian mà toàn bộ giáo viên mới phải nắm vững được phương pháp tổ chức các
hoạt động trong ngày của trẻ. Vào các buổi chiều trong những ngày dự giờ, tôi mời
tất cả giáo viên mới lên trình bày phương pháp của các bộ môn ra giấy để tôi xem
khả năng nhận thức của giáo viên về các môn học đến đâu. Sau đó khi biết được
tình hình cụ thể tôi mới tổng hợp và đưa những góp ý về phương pháp bộ môn cho
giáo viên. Yêu cầu giáo viên ghi rõ các nội dung đã được rút kinh nghiệm, sang
tuần 2 tôi tiếp tục dự giờ xem giáo viên đã học được những gì sau khi tôi cung cấp
kiến thức cũng như bổ sung các phương pháp giảng dạy. Như vậy việc bồi dưỡng
trực tiêp đã nâng cao được chất lượng chuyên môn. Số giáo viên mới dạy đúng
phương pháp tăng lên rõ rệt, họ đã chủ động và tự tin hơn khi thực hiên chương
trình
Ngoài ra, tôi còn bồi dưỡng cho giáo viên tại lớp sau mỗi lần dự giờ, góp ý để
giáo viên thấy được những ưu điểm để phát huy và những tồn tại để khắc phục. Gợi
ý cho giáo viên một số biện pháp, hình thức tổ chức hoạt động hay, sáng tạo, linh
hoạt.
Có thể nói, việc bồi dưỡng nhận thức và chuyên môn cho đội ngũ giáo viên là

một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết, giúp cho giáo viên có những nhận
thức, hiểu biết đúng đắn các kiến thức về chuyên môn cũng như các kỹ năng sư
phạm trong quá trình tổ chức các họat động chăm sóc giáo dục trẻ ngày càng đạt
hiệu quả cao hơn.
Giải pháp 6. Chỉ đạo giáo viên đổi mới phương pháp giảng dạy:
Đổi mới phương pháp giảng dạy là quá trình phối hợp linh hoạt và hợp lý
những kinh nghiệm, ngoài ra đổi mới phương pháp nhằm tích cực hoá các hoạt
động dạy học, khuyến khích giáo viên chủ động, tự tin, sáng tạo. Dạy học tập trung
vào trẻ, lấy trẻ làm tung tâm để phát triển mọi khả năng của trẻ, tổ chức hướng dẫn
trẻ học tập bằng cách tự phát hiện khả năng của mình và có niềm tin trong lao
động, học tập.
Với sự hiểu biết của bản thân, về đổi mới phương pháp giảng dạy, tôi đã đặt ra
cho giáo viên những yêu cầu của một giờ dạy như sau:
* Tổ chức tiết dạy
+ Đối với giáo viên:
Nghiên cứu bài dạy và phân tích sư phạm bài dạy.
11


Soạn kế hoạch lên lớp, xác định trọng tâm kiến thức, kỹ năng bài dạy và các
hình thức tổ chức hoạt động trong tiết dạy.
Chuẩn bị hệ thống câu hỏi những nội dung khó, mục đích giải quyết ở lớp. Dự
kiến những tình huống của trẻ và hướng khắc phục.
Chọn hình thức tổ chức tiết học phù hợp với điều kiện CSVC của lớp, phù hợp
với đề tài dạy và lĩnh vực đã lựa chọn.
Để tổ chức tốt một tiết dạy phải tuỳ vào nội dung và mục đích cụ thể của bài
dạy, xác định mục đích, cách tổ chức họat động cho trẻ, làm thế nào có kết quả cao
nhất.
VD: Nếu mục đích của bài chủ yếu là rèn kỹ năng thì coi trọng cách học cá
nhân của trẻ.

Cần phải giúp cho giáo viên hiểu được đổi mới phương pháp không có nghĩa
là loại bỏ hoàn toàn phương pháp cũ mà về cơ bản vẫn phải tuân thủ các bước trong
suốt tiến trình của tiết học, vẫn phải dựa trên cơ sở của phương pháp bộ môn. Đổi
mới phương pháp là cách học “ lấy trẻ làm trung tâm” dựa trên sự hiểu biết, hứng
thú, nhu cầu của trẻ mà ta đưa ra nội dung bài học, kiến thức cho phù hợp với trẻ.
Hình thức tổ chức tiết học đa dạng, phong phú tuỳ vào sự sáng tạo của mỗi giáo
viên để tiết học trở nên nhẹ nhàng, không gò bó, áp đặt trẻ theo đúng tính chất “
Học bằngchơi, chơi mà học” của trẻ Mầm non.
+ Đối với trẻ:
Phải khuyến khích trẻ mạnh dạn tham gia các hoạt động cùng cô, giúp trẻ tự
tin trong giao tiếp, tạo sự gần gũi giữa cô và trẻ, tạo tâm thế thoải mái cho trẻ khi
bước vào giờ hoạt động.
Giúp trẻ chủ động, tích cực trong quá trình lĩnh hội tri thức, tạo cơ hội cho tất
cả các trẻ đều được tham gia vào quá trình nhận thức, tìm tòi, khám phá, trẻ được
thể hiện sự hiểu biết, suy nghĩ của trẻ thông qua các hoạt động cụ thể.
Để giúp giáo viên hiểu sâu sắc vấn đề đổi mới phương pháp và đối chiếu giữa
kiến thức sách vở với thực tiễn, tôi đã xây dựng và tổ chức cho giáo viên dự giờ các
tiết mẫu, tôi cho giáo viên thảo luận, phân tích cụ thể các tiết dạy đó là tiết đã đổi
mới chưa? Đổi mới ở chỗ nào? Có gì khác so với cách dạy trước và tiết dạy đó đã
thực sự mang lại hiệu quả chưa? Đồng thời qua những lần dự giờ lên lớp tôi cũng
nhận xét rất cụ thể, chỉ cho giáo viên thấy những mặt được và những mặt hạn chế
của mình trong việc vận dụng phương pháp vào quá trình giảng dạy. Qua đó giúp
giáo viên hiểu sâu hơn về đổi mới phương pháp thực sự mang lại hiệu quả trong
công tác giáo dục. Cũng từ đó, khi tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục trẻ,
giáo viên càng chủ động, mạnh dạn, tích cực, sáng tạo hơn trong giảng dạy.
Giải pháp 7. Bồi dưỡng và nâng cao chuyên môn thông qua dự giờ thăm lớp:
Trong công tác chuyên môn trường học việc kiểm tra dự giờ thăm lớp để nâng
cao chất lượng của nhà trường là công việc thường xuyên, liên tục của ban giám
hiệu nhà trường và không thể thiếu được đối với giáo viên trực tiếp làm công tác
giảng dạy, công tác này đòi hỏi người cán bộ quản lý mà đặc biệt là hiệu phó phụ

trách chuyên môn phải nắm chắc nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức
12


tiết học của giáo viên đã đạt yêu cầu chưa, để có biện pháp bổ sung và bồi dưỡng
kiến thức mới vào bài giảng đạt kết quả cao hơn.
Đối với việc dự giờ giáo viên, dù dưới hình thức báo trước hay đột xuất thì
qua mỗi giờ dạy ta có thể đánh giá được trình độ chuyên môn nghiệp vụ kỹ năng sư
phạm của giáo viên được thể hiện qua giảng dạy, khả năng vận dụng phương pháp
giảng dạy và giáo dục từ đó có biện pháp bồi dưỡng chuyên môn kịp thời tới mỗi
giáo viên.
Thực tế trong mỗi lần dự giờ tôi có thể đánh giá giờ lên lớp của giáo viên tập
trung ở các nội dung như: Chuẩn bị trước khi lên lớp (giáo án, đồ dùng), chất lượng
giảng dạy của giáo viên qua việc tổ chức các hoạt động, chú ý tính sáng tạo, linh
hoạt của cô và tính tích cực của trẻ. Sau khi dự giờ thì nhận xét rút kinh nghiệm
kích lệ những ưu điểm nổi bật đồng thời chỉ ra những hạn chế cần khắc phục của
giáo viên.
Bằng những biện pháp cụ thể trong việc kiểm tra dự giờ thăm lớp của giáo
viên để nâng cao chất lượng chuyên môn trong nhà trường là rất cần thiết và ảnh
hưởng rất tốt đến việc nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, cùng với việc
kiểm tra, dự giờ thăm lớp giáo viên là công việc khảo sát chất lượng trên trẻ mỗi
tháng một lần vào tuần cuối trong tháng để đánh giá chất lượng nề nếp trên trẻ từ
đó đánh giá chất lượng của giáo viên, xếp loại lớp hàng tháng một cách chính xác.
Giải pháp 8. Bồi dưỡng và nâng cao chuyên môn cho giáo viên thông qua tổ
chức hội thi, các lớp học chuyên đề.
a. Tổ chức hội thi.
Ý nghĩa của việc tổ chức hội thi nhằm khích lệ sự thi đua giữa giáo viên trong
trường. Thông qua hội thi, giáo viên được thể hiện mình trước tập thể, được học hỏi
những điều mới, những sáng tạo của chị em đồng nghiệp. Đầu năm học tôi xây
dựng kế hoạch tổ chức 2, 3 hội thi: Hội thi giảng dạy, thi đồ dùng đồ chơi. Với hội

thi giảng dạy giáo viên giỏi cấp trường, để đạt được kết quả cao, tôi tổ chức cho chị
em bốc đề tài trước 1 tuần để giáo viên có nhiều thời gian chuẩn bị xây dựng các
tiết dạy đổi mới, linh hoạt, sáng tạo. Qua hội thi đã có 14/17 giáo viên tham dự hội
thi được công nhận là giáo viên dạy giỏi cấp trường. (Có 3 giáo viên không tham
dự vì lý do 01 nghỉ sản 02 giáo viên mới)
Trong năm học 2015 – 2016 nhà trường có 2 giáo viên tham dự hội thi giáo
viên dạy giỏi cấp thành phố và qua 3 vòng thi cả 3 giáo viên đều đạt được kết quả
cao.
Với hội thi làm “đồ dùng đồ chơi” khích lệ giáo viên thi đua là đồ dùng đồ
chơi tự tạo có chất lượng mà an toàn, giá thành rẻ, phù hợp với chủ đề và nhóm
lớp. 100% giáo viên trong trường tích cực, hưởng ứng tham gia tạo thành một
phong trào thi đua sôi động trong toàn trường. Kết quả các nhóm lớp có thêm rất
nhiều đồ dùng, đồ chơi để phục vụ cho việc học tập và vui chơi của cô và trẻ. Hội
thi đã lựa chọ được các lớp xứng đáng đạt giải và được nhận phần thưởng. Qua hội
thi đã lựa chọn được những bộ đồ dùng, đồ chơi đẹp có tính sáng tạo và hiệu quả sử
dụng cao đi dự thi đồ dùng, đồ chơi cấp thành phố.
13


Trong hội thi đồ dùng, đồ chơi cấp thành phố nhà trường đã được giải nhì, với
thành tích này là động lực cho chị em trong toàn trường cùng nhau học hỏi sáng tạo
để làm những bộ đồ dùng, đồ chơi đẹp cho trẻ học tập và vui chơi.
b. Tổ chức chuyên đề.
Sau khi được tiếp thu các chuyên đề của năm học ở phòng giáo dục, nhà
trường đã tổ chức triển khai lại và 100% giáo viên đã tham gia học tập nghiêm túc,
và hàng tháng tôi kiểm tra lại mức độ nắm bắt của từng giáo viên để có kế hoạch
bồi dưỡng lại cho những giáo viên còn yếu kém, vướng mắc.
Đặc biệt chú ý tới các chuyên đề được triển khai trọng tâm trong năm bằng
các biện pháp:
- Xây dựng và tổ chức dạy các tiết đối chứng đối với chuyên đề phát triển vận

động.
- Thi giáo viên dạy giỏi qua các chuyên đề.
- Tổ chức các cuộc thi, hội thi ở trường và tham gia vào các phong trào mà
các tổ chức nhà trường và cấp trên phát động hàng năm.
Tổ chức các lớp học chuyên đề là việc làm hết sức quan trọng và bổ ích đối
với mối giáo viên trong nhà trường từ đó mà những giáo viên còn lúng túng trong
việc triển khai thực hiện các chuyên đề để có phương pháp tổ chức thực hiện mang
lại hiệu quả cao.
Giải pháp 9. Đổi mới kiểm tra, đánh giá trẻ làm cơ sở để nâng cao chất lượng:
Kiểm tra, đánh giá là chức năng quan trọng của người quản lý, nếu không
kiểm tra người quản lý sẽ không biết được quá trình thực hiện công việc theo kế
hoạch đến đâu. Vì vậy kiểm tra, đánh giá, nhận xét sẽ giúp cho giáo viên thấy được
mặt mạnh để phát huy và thấy được mặt yếu kém để khắc phục, từ đó điều chỉnh
công việc đi theo hướng tốt hơn.
Kiểm tra có rất nhiều hình thức như kiểm tra hồ sơ sổ sách của cô – của trẻ
hàng tháng. Nhà trường kiểm tra hồ sơ sổ sách chấm điểm, rút kinh nghiệm cho
giáo viên kịp thời sửa chữa những sai sót, hạn chế để ngày một tiến bộ hơn. Kiểm
tra thường xuyên việc trang trí phòng nhóm lớp phù hợp với chủ đề, không gian,
điều kiện nhóm lớp, từ đó định hướng giúp cho giáo viên có kinh nghiệm trong
việc tạo môi trường mở cho trẻ hoạt động cũng như cách trang trí theo chủ đề. Việc
dự giờ đánh giá tiết dạy được đưa vào tiêu chí xếp loại giáo viên hàng tháng nhằm
tạo điều kiện để giáo viên tích cực phấn đấu và điều chỉnh phương pháp phù hợp
với đối tượng dạy của lớp mình. Ngoài ra tôi còn thường xuyên kiểm tra chế độ
sinh hoạt của trẻ hàng ngày như ăn, ngủ, vệ sinh… để nhắc nhở và giúp đỡ giáo
viên thực hiện tốt.
Qua công việc kiểm tra được tiến hành như vậy đã giúp cho giáo viên có thói
quen trong công tác và cũng là nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ hàng
ngày.
Việc đánh giá chất lượng chăm sóc giáo dục mầm non liên quan đến nhiều mặt
như: đánh giá giáo viên, đánh giá cơ sở vật chất, đánh giá việc thực hiện chương

trình giáo dục trẻ, đánh giá chế độ dinh dưỡng. Nhưng tổng thể chất lượng chăm
14


sóc giáo giáo dục trẻ ở trường Mầm non phải được phản ánh qua kết quả đạt được
trên trẻ, còn những khâu khác chỉ là điều kiện đem lại kết quả đó. Vì vậy, việc đánh
giá trẻ là khâu quan trọng để nâng cao chất lượng trong mỗi nhà trường. Đánh giá
trẻ trong trường Mầm non có: hình thức đánh giá hàng ngày, đánh giá theo chủ đề
bộ chuẩn 5 tuổi đối với mẫu giáo lớn và đánh giá theo giai đoạn đối với MG bé,
nhỡ, và nhà trẻ, đó là hai hình thức đạt hiệu quả cao nhất.
Ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu chúng tôi đã chỉ đạo cho giáo viên đánh
giá, khảo sát chất lượng thật nghiêm túc để làm cơ sở cho việc xây dựng chỉ tiêu kế
hoạch và có các biện pháp chăm sóc, giáo dục phù hợp.
Đối với trẻ Mầm non, đánh giá ghi chép cập nhật thông tin thường xuyên là rất
quan trọng, vì trẻ còn nhỏ, sự phát triển thay đổi liên tục. Do vậy qua họp chuyên
môn, dự giờ, kiểm tra đánh giá giáo viên, tôi chỉ đạo, hướng dẫn cho giáo viên cách
đánh giá, ghi chép thường xuyên qua các hoạt động hàng ngày, giáo viên quan sát,
trò chuyện xem những trẻ nào thực hiện tốt về trí tuệ, hoạt động nào trẻ có hứng
thú. Từ đó giáo viên có những biện pháp bồi dưỡng, phù hợp cho các cháu vào các
hoạt động tiếp theo và ghi vào nhật kí nhóm lớp. Nhưng khi đánh giá trẻ giáo viên
phải ân cần, động viên, khuyến khích và cho trẻ có thời gian suy nghĩ để trả lời,
điều quan trọng hơn là trẻ còn có khả năng tự đánh giá sản phẩm của mình hay của
bạn rất cao.
VD: Qua bài vẽ tạo hình cô đưa ra các câu hỏi mở như sau: Con thấy bức
tranh này như thế nào? Theo con bức tranh nào đẹp nhất? Vì sao? Tranh này con
thấy điểm nào hay?...
Vậy đánh giá theo giai đoạn hay chủ đề không chỉ phải xem đạt hay không đạt
về nhận thức, kỹ năng hay hành động mà đó là cơ sở giúp cho giáo viên biết trẻ
chưa hoàn thiện ở phần nào, từ đó đưa ra những biện pháp khắc phục để đạt hiệu
quả.

Giải pháp 10. Công tác thi đua khen thưởng:
Trong công tác thi đua khen thưởng, Ban giám hiệu nhà trường đã đưa vào
kế hoạch năm học và đã được Hội nghị CBVC đầu năm thống nhất và đưa vào
Nghị quyết. Nhà trường thực hiện một cách nghiêm túc, chất lượng, đảm bảo tính
khách quan, khen chê đúng người, đúng việc công bằng nhằm khích lệ sự phấn đấu
của đội ngũ CBGV. Ngay từ đầu năm học, nhà trường tổ chức cho giáo viên tự
đăng ký thi đua về tất cả các mặt, hàng tháng , học kỳ đều sơ kết, đánh giá xếp loại
giáo viên và lưu vào hồ sơ theo dõi thi đua . Đến cuối năm học tổng hợp, bình xét
đánh giá theo tiêu chuẩn , xếp loại CBGV đã được Hội đồng thi đua khen thưởng
thống nhất theo quy chế dân chủ ngay từ đầu năm học. Từ những chỉ tiêu phấn đấu
và đăng ký thi đua của mỗi giáo viên, trong suốt quá trình một năm học với sự
phấn đấu không mệt mỏi, tích cực học tập nâng cao năng lực công tác đến nay nhà
trường có đội ngũ giáo viên vững vàng về chuyên môn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
15


Qua những biện pháp và việc làm cụ thể ở trên cùng với sự cố gắng của tập
thể giáo viên trong nhà trường tôi nhận thấy chất lượng chuyên môn nhà trường
được tăng lên rõ rệt và đã đem lại kết quả đáng khích lệ sau:
* Đối với trẻ: Các cháu mạnh dạn, tự tin, chủ động, tích cực tham gia vào các
hoạt động hàng ngày.
Kết quả đánh giá chất lượng năm học 2016 – 2017:
Tổng số trẻ

Đạt
K
74
21,4


T
253
72,3

350
Tỷ lệ %

Chưa đạt

TB
23
6,3

0
0

* Đối với giáo viên:
100% nắm vững nội dung phương pháp giảng dạy, có lòng yêu nghề, mến trẻ,
nhiệt tình trong công tác, có nhiều sáng kiến trong việc đổi mới phương pháp chăm
sóc giáo dục trẻ. Nhiều giáo viên đạt giáo viên giỏi, có khả năng sử dụng thành
thạo công nghệ thông tin trong giảng dạy. Công tác phối kết hợp với phụ huynh đạt
hiệu quả cao, tạo được niềm tin trong nhân dân.
Kết quả đánh giá năng lực giáo viên năm học 2016 – 2017:
TS Giáo

Kết quả đầu năm

Kết quả cuối năm


viên

Giỏi

Khá

TB

Giỏi

Khá

TB

17

5

10

2

12

6

0

Tỉ lệ %


29,4

58,8

11,4

70,6

29,4

0

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Giáo dục Mầm non là một bậc học đòi hỏi có nghệ thuật khoa học, có sự
khác biệt và đặc trưng riêng không giống với các bậc học phổ thông. Vì vậy để
nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường trước hết người Cán bộ quản lý phải
có sự năng động, sáng tạo, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất chính trị,
đạo đức lối sống, chủ động trong công tác chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ cũng như
tác phong lãnh đạo, kỹ năng sư phạm.
Phải nắm vững đặc điểm tình hình đội ngũ cán bộ giáo viên về mọi mặt tư
tưởng, tình cảm , chuyên môn nghiệp vụ...trên cơ sở đó có biện pháp bồi dưỡng cụ
thể.
16


Xây dựng kế hoạch chuyên môn một cách khoa học và chỉ đạo tốt việc thực
hiện nghiêm túc chương trình.
Kiểm tra, dự giờ đánh giá thường xuyên các hoạt động chuyên môn của từng
giáo viên, nâng cao chất lượng giờ dạy và bồi dưỡng cho giáo viên còn non về

phương pháp một cách kịp thời.
Thường xuyên đánh giá chất lượng giáo dục, khảo sát chất lượng trẻ theo
đúng quy định.
Thực hiện nghiêm túc các buổi sinh hoạt chuyên môn nhằm thúc đẩy việc
nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
Chỉ đạo giáo viên thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp, hình thức dạy
học, lấy trẻ làm trung tâm, phát huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ trong các hoạt
động nhằm mang lại hiệu quả cao.
Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục trẻ để làm tốt công
tác chăm sóc và giáo dục trẻ.
Chỉ đạo đội ngũ giáo viên luôn học tập, không ngừng nâng cao phẩm chất, tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống, nắm bắt kịp thời các thông tin đổi mới về phương
pháp giáo dục, góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ trong trường
Mầm non, thực hiện tốt lời dạy của Bác: “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm trồng người”.
Bậc học Mầm non là nền tảng đầu tiên của ngành giáo dục và đào tạo, chất
lượng chăm sóc giáo dục trẻ tốt sẽ góp phần vào việc xây dựng và phát triển nguồn
lực tương lai của Đất nước. Hình thành toàn diện con người mới, con người Xã hội
chủ nghĩa. Muốn đạt được điều đó, người cán bộ quản lý cũng như giáo viên phải
luôn gương mẫu, đi đầu trong các hoạt động. Học tập, nghiên cứu, góp phần thực
hiện công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.
3.2. Kiến Nghị
- Kiến nghị, đề xuất lên các cấp lãnh đạo cấp trên nên có các dự án thiết thực
đầu tư cho giáo dục nhất là bậc học Mầm non như về cơ sở vật chất, các đồ dùng
đồ chơi thông minh hiện đại để giáo dục mầm non Tỉnh nhà phát triển bền vững.
- Đặc biệt quan tâm hơn nữa đến đời sống, chế độ chính sách của giáo viên
hợp đồng để họ yên tâm công tác, tận tâm với nghề.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi trong việc nâng cao chất
lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên, được áp dụng trong quá trình thực hiện ở
trường Mầm non Đông Thọ B. Kính mong sự góp ý của hội đồng khoa học cấp

trên, để bản sáng kiếm kinh nghiệm của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hoá, ngày 10 tháng 04 năm 2017
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là
SKKN của mình viết, không
sao chép nội dung của
người khác.
Người viết SKKN
17


Trịnh Thị Hoa
PHẦN DUYỆT CỦA HĐKH PHÒNG GIÁO DỤC TP

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Điều lệ trường mầm non ( Ban hành kèm theo quyết định só 14/2008/QĐBGDĐT ngày 7 tháng 4 năm 2008 của bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo)
2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên năm học 2015- 2016, 2016-2017
3. Tài liệu bồi dưỡng tổ chuyên môn
4. Các quyển hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non ở các độ
tuổi - Đồng tác giả: Trần Thị Ngọc Trâm, Lê Thu Hương, Lê Thị Ánh Tuyết
- Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.

18



×