Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Bài giảng sự học và sự phát triển tâm lý trẻ em lứa tuổi mầm non 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.15 MB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA SP TIỂU HỌC – MẦM NON

BÀI GIẢNG
(Lưu hành nội bộ)

SỰ HỌC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON 2
(Dành cho sinh viên ngành CĐGD mầm non)

Tác giả: Nguyễn Thị Diễm Hằng
Nguyễn Thị Xuân Hương


MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG 1. CÁC DẠNG HOẠT ĐỘNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN.......................4
TÂM VẬN ĐỘNG CỦA TRẺ MẪU GIÁO ........................................................4
1.1. Các dạng hoạt động của trẻ mẫu giáo ........................................................4
1.2. Phát triển tâm vận động của trẻ mẫu giáo ................................................ 15
CHƯƠNG 2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN MẶT XÃ HỘI................. 21
TRONG NHÂN CÁCH TRẺ MẪU GIÁO......................................................... 21
2.1. Sự hình thành và phát triển ý thức về bản thân ở trẻ mẫu giáo ................. 21
2.2. Sự phát triển động cơ hành vi và hình thành hệ thống thứ bậc các động cơ
ở trẻ mẫu giáo................................................................................................. 23
2.3. Sự phát triển đời sống tình cảm của trẻ mẫu giáo..................................... 25
2.4. Sự phát triển ý chí ở trẻ mẫu giáo ............................................................ 27
CHƯƠNG 3. SỰ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ CỦA TRẺ MẪU GIÁO................... 29
3.1. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ ở trẻ mẫu giáo .......................................... 29
3.2. Sự phát triển hoạt động nhận cảm của trẻ mẫu giáo ................................. 32
3.3. Đặc điểm phát triển trí nhớ của trẻ mẫu giáo ........................................... 36


3.4. Đặc điểm phát triển tư duy của trẻ mẫu giáo............................................ 38
3.5. Đặc điểm phát triển trí tưởng tượng của trẻ mẫu giáo .............................. 46
3.6. Đặc điểm phát triển chú ý của trẻ mẫu giáo ............................................. 48
CHƯƠNG 4. DẠY VÀ HỌC TRONG GIÁO DỤC MẦM NON VÀ CHUẨN BỊ
SẴN SÀNG TÂM LÝ CHO TRẺ VÀO TRƯỜNG TIỂU HỌC......................... 53
4.1. Khái niệm dạy và học trong giáo dục mầm non ....................................... 53
4.2. Chuẩn bị sẵn sàng tâm lý cho trẻ vào trường tiểu học .............................. 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI NÓI ĐẦU
Học phần sự học và sự phát triển tâm lí trẻ em lứa tuổi mầm non 2 giới thiệu về
sự phát triển tâm lí của trẻ từ 3 đến 6 tuổi nhằm giới thiệu với sinh viên chuyên ngành
giáo dục mầm non với những vấn đề cơ bản, có hệ thống của tâm lý học trẻ em. Bài
giảng được biên soạn dựa trên sự đúc kết những thành tựu tâm lí học trẻ em của nhiều
công trình nghiên cứu có giá trị của các nhà tâm lí học nổi tiếng trên thế giới và Việt
Nam. Ở đây, các tác giả trình bày sự phát triển của trẻ không theo từng chức năng
riêng lẻ mà theo từng giai đoạn phát triển. Trong mỗi giai đoạn bao gồm sự phát triển
của nhiều chức năng tâm lí và mối quan hệ qua lại giữa chúng dưới ảnh hưởng của
hoạt động chủ đạo, nổi bật lên là những đặc điểm tâm lý đặc trưng cho mỗi lứa tuổi,
giúp chúng ta hiểu được một cách toàn vẹn của trẻ trong mỗi giai đoạn phát triển; đồng
thời thấy được cả quá trình phát triển từ 3 đến 6 tuổi, từ đó có thể rút ra những phương
pháp, con đường phù hợp nhật cho mỗi giai đoạn phát triển cũng như toàn bộ quá trình
hình thành nhân cách của mỗi trẻ.
Tác giả


CHƯƠNG 1. CÁC DẠNG HOẠT ĐỘNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN
TÂM VẬN ĐỘNG CỦA TRẺ MẪU GIÁO
1.1. Các dạng hoạt động của trẻ mẫu giáo

1.1.1. Hoạt động vui chơi
1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động vui chơi
Hoạt động vui chơi của trẻ em là một hoạt động vô tư, trẻ chơi không chủ tâm
nhằm vào một lợi ích thiết thực nào cả. Trong khi chơi, các mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên và xã hội được mô phỏng lại. Hoạt động vui chơi mang lại cho trẻ một sự
phát triển trong trạng thái tinh thần vui vẻ, dễ chịu.
a. Đặc điểm hoạt động vui chơi của trẻ em
- Hoạt động vui chơi mang tính chất vô tư: khi chơi trẻ không chủ tâm nhằm vào
một lợi ích thiết thực mang tính thực dụng nào cả. Trong khi đó, người học sinh trong
hoạt động học tập chủ tâm nắm vững tri thức kĩ năng, kĩ xảo cần thiết và người lao động
chủ tâm tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội và cho bản thân. Nguyên
nhân dẫn đến trẻ tham gia vào trò chơi chính là sự hấp dẫn bản thân quá trình chơi chứ
không chủ tâm nhằm tới kết quả đạt được của hoạt động đó.
- Hoạt động vui chơi của trẻ là sự mô phỏng hoạt động của người lớn, những hoạt
động của con người với tự nhiên và con người với xã hội. Do đó, hoạt động này mang
tính tượng trưng, khi chơi trẻ có thể dùng các vật thay thế để tượng trưng cho người thật
việc thật. Đây là điều kiện cần thiết giúp trẻ có được niềm say mê đến tận cùng với bao
ước mơ ngộ nghĩnh và thú vị, làm này sinh trí tưởng tượng và chức năng kí hiệu - tượng
trưng, một chức năng tâm lý cần thiết cho cuộc sống, học tập, lao động của mỗi người.
- Hoạt động vui chơi của trẻ mang tính tự do. Khác với học tập và lao động, vui
chơi không buộc phải tuân theo một phương thức chặt chẽ nào trong lĩnh vực hoạt động
thực tiễn mà chỉ mô phỏng chung chung vẻ bề ngoài. Tính tự do trong hoạt động vui
chơi của trẻ còn thể hiện ở tính tự nguyện khi tham gia vào trò chơi, hành động chơi của
trẻ hoàn toàn xuất phát từ hứng thú cá nhân, chứ không do một sự áp đặt nào từ phía
bên ngoài.
- Hoạt động vui chơi của trẻ là một hoạt động độc lập và tự điều khiển. Hơn bất cứ
hoạt động nào, khi tham gia vào trò chơi đứa trẻ bộc lộ hết mình một cách tích cực và
chủ động. Chơi là một hoạt động độc lập và tự chủ đầu tiên của trẻ em. Trong khi chơi,
đứa trẻ cố làm lấy moi việc (tự chọn trò chơi, bạn chơi, đồ chơi... ), cố gắng suy nghĩ để
khắc phục trở ngại xuất hiện trong quá trình chơi. Có lẽ ít có hoạt động nào mà khi tham

gia trẻ lại thể hiện tinh thần tự cao đến vậy.
Một biểu hiện độc đáo của tính độc lập và sự tự điều khiển hành vi khi chơi cho
phù hợp với trò chơi và bạn chơi. Nhờ đó, trẻ cảm thấy tự tin và mạnh dạn phát huy mọi
khả năng sinh lí và tâm lí của mình.


- Hoạt động vui chơi của trẻ mang màu sắc xúc cảm chân thực mạnh mẽ. Trò chơi
tác động mạnh mẽ và toàn diện đến trẻ em chính là vì nó thâm nhập một cách dễ dàng
hơn cả vào thế giới tình cảm, mà tình cảm đối với trẻ em là động cơ thúc đẩy hành động
mạnh mẽ nhất. Do vậy, đứa trẻ lao vào cuộc chơi với tất cả sự say mê và lòng nhiệt tình
vốn có của nó. Dẫu biết rằng trong trò chơi mọi cái đều mang ý nghĩa tượng trưng, đều
không có thật, nhưng tình cảm mà các em biểu hiện trong đó tình cảm là chân thật nhất.
Không bao giờ đứa trẻ thờ ơ với những gì mà mình thể hiện. Sắc thái cảm xúc chân
thực mạnh mẽ mà trẻ bộc lộ trong trò chơi là một đặc điểm rất dễ nhận ra, khiến cho cả
những nghệ sĩ tài ba cũng mong có được trong hoạt động nghệ thuật của mình.
b. Các thành tố của hoạt động vui chơi
* Trò chơi
Trò chơi là một hình thức hoạt động được bày ra để vui chơi giải trí. Dân tộc nào
cũng có một kho tàng trò chơi cổ xưa và hiện đại, được chia thành 2 loại chính:
- Loại 1: Là loại trò chơi không có luật, người chơi có thể tự ý hoạt động miễn sao
phù hợp với nội dung chơi như trò chơi đóng vai theo chủ đề, trò chơi đóng kịch trò
chơi xây dựng…
- Loại 2: Là loại trò chơi có luật. Người chơi phải tuan thủ luật đã được quy định
một cách khách quan trong trò chơi. Loại trò chơi này rất phong phú, nhiều nhất là trò
chơi trí tuệ và trò chơi thể thao.
Nếu thời gian làm tiêu chí phân loại thì cũng có thể chia ra hai loại trò chơi:
- Loại thứ nhất: Trò chơi dân gian cổ truyền.
- Loại thứ hai: trò chơi hiện đại.
* Hành động chơi
- Hành động chơi là hành động của người tham gia vào trò chơi. Đó là, hành động

giả bộ, hành động của trẻ em mô phỏng lại hành động của người lớn trong xã hội với
việc sử dụng vật thay thế (thay thế cho vật thật). Nét nổi bật của hành động chơi là tính
tượng trưng. Hành động chơi được J.Piaget gọi là hành động tượng trưng và phát hiện
lần đầu trong khi quan sát trẻ chơi, để phân biệt với hành động thật như hành động bắt
chước trực tiếp (hành động bắt chước người lớn khi đang hành động với đồ vật thật như
thấy người lớn cầm lược chải đầu trẻ cũng cầm lược chải đầu) và hành động bắt chước
gián tiếp (khi không còn nhìn thấy người lớn hành động bằng vật thật như cầm lược
chải đầu mà vẫn bắt chước lại được). Hai kiểu hành động bắt chước trực tiếp và gián
tiếp đó vẫn chưa phải là hành động chơi. Phải đến một trình độ, khi trẻ biết sử dụng vật
thay thế như cầm cái que (vật thay thế) giả vờ làm chiếc lược chải đầu, khi đó trẻ mới
xuất hiện hành động tượng trưng - hành động chơi, thường là vào tuổi lên ba hay sớm
hơn nữa (nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hà). Nhờ đó, ở trẻ mới hình thành nên một
chức năng mới, đó là chức năng kí hiệu tượng trưng. Hành động tượng trưng được thực
hiện trong nhiều trò chơi mà rõ nét nhất là trong trò chơi đóng vai.


* Đồ chơi
+ Đồ chơi là phương tiện để chơi
Nói đến chơi không thể không nhắc tới đồ chơi. Đồ chơi là phương tiện để chơi, là
người bạn thân thiết của trẻ thơ, nguồn tạo ra niềm vui. Đối với trẻ em, đồ chơi cũng
giống như cuốc cày đối với người nông dân, máy móc đối với người công nhân, thậm
chí cũng như thí nghiệm đối với nhà khoa học. Do đó, sắm đồ chơi cho trẻ là một việc
làm hết sức cần thiết chẳng khác nào mua sắm thức ăn, quần áo, vật dụng cho cuộc sống.
+ Đặc điểm của đồ chơi
Đồ chơi rất phong phú, đa dạng về thể loại, vật liệu chế tạo, kĩ thuật sản xuất, phù
hợp lứa tuổi... Tuy vậy, chúng đều có chung những đặc điểm sau:
- Tính tượng trưng: Đồ chơi không phải là đồ vật thật mà là đồ vật thay thế tượng
trưng cho đồ vật thật, chỉ mô phỏng hình dáng bên ngoài của đồ vật một cách ước lệ.
- Tính khái quát: Đồ chơi là sự mô phỏng dáng vẻ bề ngoài của đồ vật thật nhưng
không cần phải giống đến từng chi tiết mà chỉ hao hao mang tính đại thể, tính khái quát,

nhờ đó việc sử dụng đồ chơi của trẻ trở nên linh hoạt, kích thích óc tư duy và trí tưởng
tượng của trẻ.
- Tính năng động: Tính năng động của đồ chơi phải bảo đảm cho trẻ hành động tự
do với đồ chơi, có thể thao tác nhiều cách với nó. Tính năng động của đồ chơi còn thể
hiện ở những bộ phận cử động phát ra âm thanh sẽ làm cho trẻ thích thú.
Khi tạo ra hoặc mua sắm đồ chơi cho trẻ em, người lớn cần chú ý:
- Đồ chơi phải an toàn, tránh những đồ chơi dễ gây nguy hiểm và độc hại.
- Đồ chơi phải được tiếp xúc và hành động tự do với đồ chơi.
- Đồ chơi phải phong phú, nhiều dạng, nhiều hình, tránh để trẻ phải chơi một thứ
đồ chơi đơn điệu, tẻ nhạt.
- Đồ chơi phải mang tính thẩm mĩ, tránh những đồ chơi xấu.
1.1.1.2. Trò chơi đóng vai theo chủ đề và vai trò chủ đạo của nó đối với sự phát
triển của trẻ mẫu giáo
a. Khái niệm trò chơi đóng vai theo chủ đề
- Là loại trò chơi mà khi chơi trẻ mô phỏng một mảng nào đó của cuộc sống người
lớn trong xã hội thông qua việc nhập vào (hay còn gọi là đóng vai) một nhân vật nào đó
để thực hiện chức năng xã hội của họ bằng những hành động mang tính tượng trưng.
Trò chơi này chiếm một vị trí trung tâm của hoạt động vui chơi và giữ vai trò chủ đạo
đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo.
Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, có nghĩa là hoạt động vui chơi mà
trung tâm là trò chơi ĐVTCĐ đã gây ra những biến đổi về chất, tạo ra cấu tạo mới trong
đời sống tâm lí của trẻ, chứ không hẳn là trẻ dành nhiều thời gian để chơi. Cấu tạo mới
đó là sự hình thành ở trẻ một nhân cách.


Trò chơi ĐVTCĐ là hình thức tiếp xúc độc đáo của trẻ với cuộc sống xã hội được
trẻ ưa thích, đặc biệt là trẻ mẫu giáo. Khi tính độc lập phát triển mạnh, trẻ thích sống và
làm việc như người lớn thích gia nhập vào những mối quan hệ xã hội, nhưng khả năng
các bé còn quá non nớt, không thể làm nổi những việc đó. Để giải quyết mâu thuẫn này,
trẻ cần phải tìm đến một hoạt động gần giống với hoạt động của người lớn trong xã hội

là tham gia vào trò chơi ĐVTCĐ. Ở đây, trẻ thử ướm mình vào một người lớn nào đó
mà mình quan tâm để hành động giống họ, nhằm thỏa mãn nguyện vọng là được sống
và làm việc giống như người lớn.
Khi tham gia trò chơi ĐVTCĐ, lần đầu tiên những mối quan hệ giữa người và
người được hiện ra một cách khách quan. Qua đó, trẻ có thể hiểu được trong xã hội mọi
người lớn đều có quyền lợi và nghĩa vụ đối với bản thân cũng như đối với những người
xung quanh. Như vậy, trò chơi ĐVTCĐ đã giúp trẻ dần dần thoát khỏi tình trạng duy kỉ
để tạo thành một nhân cách.
Trong vô vàn trò chơi thì trò chơi ĐVTCĐ là loại trò chơi mang đầy đủ nhất, rõ
nét nhất các đặc điểm của trò chơi nói chung và phổ biến nhất ở trẻ mẫu giáo, mang bản
chất xã hội sâu sắc nhất và cũng có cấu trúc khá phức tạp.
b. Cấu trúc của trò chơi ĐVTCĐ
* Chủ đề chơi
Trò chơi ĐVTCĐ bao giờ cũng được thực hiện xoay quanh một chủ đề nhất
định. Đó là một mảng cuộc sống được phản ánh vào trò chơi dựa vào biểu tượng sinh
động của chính đứa trẻ về cuộc sống xung quanh. Phạm vi hiện thực mà trẻ tiếp xúc
càng rộng bao nhiêu thì chủ đề chơi càng phong phú bấy nhiêu và trẻ càng lớn lên chủ
đề chơi càng sâu rộng hơn. Lúc đầu trẻ chỉ phản ánh vào trò chơi những chủ đề gần gũi
như sinh hoạt gia đình, bệnh viện hay trường học, dần dần chủ đề lớn hơn, xa hơn như
chủ đề xây dựng, bưu điện, du lịch... những chủ đề trẻ chơi bao giờ cũng phản ánh cuộc
sống xã hội đương thời.
* Hoàn cảnh chơi
Sự phản ánh cuộc sống vào trò chơi không còn giữ nguyên như nó vốn có trong
đời thực. Trong trò chơi, mọi cái đều mô phỏng, đó là hoàn cảnh chơi mà trẻ tưởng
tượng ra. Hoàn cảnh chơi xuất hiện khi trẻ thực hiện hành động của một nhân vật nào
đó nhưng không hành động với vật thay thế. Rõ ràng đây là mâu thuẫn trẻ thường gặp
trong khi chơi. Để giải quyết mâu thuẫn đó buộc trẻ phải tưởng tượng ra vật thay thế
chính là vật thật và bản thân mình chính là nhân vật có thật trong cuộc sống. Tất cả từ
vai chơi, hành động chơi, đồ chơi đều được trẻ mô phỏng bằng trí tưởng tượng của
mình bằng những kí hiệu tượng trưng, như vậy trò chơi mới tiến hành được.Như vậy,

khi chơi trí tưởng tượng của trẻ buộc phải hoạt động, tức là trí tưởng tượng của trẻ được
hình thành và phát triển trong hoạt động vui chơi. “Tâm lý trẻ được hình thành và phát
triển bằng hoạt động” (TLH Hoạt động), “Hoạt động chơi làm nảy sinh trí tưởng tượng”


(A.N.Lêonchiep). Đến lượt nó, trí tưởng tượng lại giúp cho hoạt động vui chơi được
thực hiện dễ dàng hơn, bay bổng hơn. Điều đó chúng ta có thể bắt gặp ở bất cứ trò chơi
nào của trẻ em.
Như vậy, hoàn cảnh chơi chính là kết quả của hành động chơi mang tính chất
tượng trưng rõ nét.
* Vai chơi
Trong trò chơi ĐVTCĐ bao giờ cũng có các vai và hành động chơi chủ yếu nhất
trong trò chơi này là đóng vai, tức là trẻ ướm mình vào một người lớn nào đó để mô
phỏng hành động nhằm thực hiện chức năng xã hội của họ. Vai chơi là yếu tố tạo nên
trò chơi và đóng vai (nhập vai) là cách thức độc đáo để trẻ thâm nhập vào cuộc sống của
người lớn. Trò chơi ĐVTCĐ có được thực hiện hay không, điều đó phụ thuộc vào việc
trẻ có nhập được vào vai hay không, điều đó phụ thuộc vào việc trẻ có nhập được vào
vai hay không. Vai chơi là linh hồn của trò chơi này, chính nhờ đóng vai mà trẻ có thể
trải nghiệm được những xúc cảm buồn vui, sung sướng, khổ đau...
* Các mối quan hệ
Đến tuổi mẫu giáo trẻ bắt đầu chơi cùng nhau trong trò chơi ĐVTCĐ đối với trò
chơi này, trẻ không thể chơi một mình mà phải chơi theo nhóm và có nhiều thành viên
trong nhóm cùng chơi với nhau. Bởi lẽ, hoạt động của người lớn trong xã hội bao giờ
cũng quan hệ chặt chẽ với nhiều người khác, hợp tác với nhau. Đó là, đặc trưng của xã
hội loài người. Do đó, để trò chơi ĐVTCĐ được tiến hành cần phải có nhiều đứa trẻ
cùng chơi để phân nhau đóng các vai theo từng chủ đề. Từ đó, một “xã hội trẻ em” được
hình thành với nhiều mối quan hệ, nhiều khi cũng khá phức tạp, nhưng nổi bật là tính
hợp tác giữa các em cùng chơi với nhau.
Tính hợp tác là một bước phát triển mới, một nét nhân cách mới được hình thành
qua trò chơi ĐVTCĐ. Đó cũng chính là những mối quan hệ xã hội trong “xã hội trẻ em” này.

+ Những mối quan hệ thực
Đó là những mối quan hệ qua lại giữa những đứa trẻ cùng tham gia vào trò chơi
như những người cùng thực hiện một công việc chung. Chúng tập hợp lại thành nhóm
để thỏa thuận với nhau về chủ đề chơi phân vai, cách chơi và giải quyết những vấn đề
nảy sinh sinh trong quá trình chơi.
+ Những mối quan hệ chơi
Đó là những mối quan hệ qua lại giữa các vai trong trò chơi theo một chủ đề nhất
định, là sự mô phỏng những mối quan hệ có thực giữa người lớn trong xã hội được trẻ
quan tâm và trở thành phương tiện định hướng cho trẻ vào cuộc sống xã hội. Sức sống
của trò chơi này là ở chỗ nó tạo ra quan hệ giữa các vai và đó cũng là bản chất xã hội
của trò chơi ĐVTCĐ. Bất cứ trò chơi ĐVTCĐ cũng diễn ra 2 mặt:
+ Mặt thứ nhất: Là quan hệ giữa các vai chơi với nhau
+ Mặt thứ hai: Là công việc của các vai.


Trong đó, mặt thứ nhất được coi là cơ bản. Mặt thứ 2 đó là mặt giao tiếp thân tình,
đó mới chính là bản chất xã hội đích thực của trò chơi này được thể hiện trong thái độ
của từng vai thông qua việc mô phỏng những mối quan hệ xã hội trong cuộc sống thực
và là mặt cơ bản của trò chơi ĐVTCĐ.
c. Vai trò của hoạt động vui chơi mà trung tâm là trò chơi ĐVTCĐ đối với sự phát
triển của trẻ mẫu giáo
Chính nhờ bản chất xã hội với những mối quan hệ thực và chơi mà trò chơi
ĐVTCĐ chiếm một vị trí đặc biệt - vị trí trung tâm trong hoạt động của trẻ mẫu giáo.
Hoạt động vui chơi mà trung tâm là trò chơi ĐVTCĐ là hoạt động chủ đạo đối với sự
phát triển của trẻ mẫu giáo, bởi lẽ nhờ đó nhân cách - một cấu tạo tâm lý mới của trẻ
đang hình thành và lứa tuổi mẫu giáo được coi là một giai đoạn quan trọng trong quá
trình phát triển - giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách của mỗi người với một lẽ dĩ nhiên là nhân cách chỉ có thể hình thành trong những mối quan hệ xã hội.
Những phẩm chất tâm lý và đặc điểm nhân cách của trẻ mẫu giáo đều được phát
triển mạnh mẽ trong hoạt động vui chơi đặc biệt là trong trò chơi ĐVTCĐ:
- Hoạt động vui chơi ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành tính chủ định trong các

quá trình tâm lý. Khi tham gia vào trò chơi, đặc biệt là trò chơi ĐVTCĐ, đứa trẻ buộc
phải chú ý và ghi nhớ có chủ định. Bởi vì bản thân trò chơi đòi hỏi trẻ phải tập trung
vào những đối tượng được đưa vào tình huống của trò chơi và nội dung của chủ đề.
- Tình huống của trò chơi và hành động của vai chơi ảnh hưởng thường xuyên đến
sự phát triển tư duy của trẻ mẫu giáo. Trong trò chơi, đứa trẻ học hành động với vật
thay thế là những ký hiệu tượng trưng và trở thành đối tượng của tư duy. Trong khi
hành động với vật thay thế, đứa trẻ học suy nghĩ về đối tượng có thực dần dần những
hành động chơi với vật thay thế được rút gọn và mang tính khái quát, nhờ đó hành động
chơi với các vật thay thế bên ngoài (hành động vật chất) được chuyển vào bình diện bên
trong (bình diện tinh thần). Như vậy, trò chơi góp phần rất lớn vào việc chuyển tư duy
từ bình diện bên ngoài (tư duy trực quan - hành động) vào bình diện bên trong ( tư duy
trực quan - hình tượng). Trò chơi còn giúp trẻ tích lũy biểu tượng về sự vật và hiện
tượng của thế giới xung quanh làm cơ sở cho tư duy hoạt động. Đồng thời với việc nhật
vai cho phép đứa trẻ đứng trên quan điểm của người khác mà dự đoán hành vi sắp tới
của họ và trên cơ sở đó, trẻ lập kế hoạch hành động và tổ chức hành vi của bản thân.
Hơn nữa, trong trò chơi, những tình huống khó khăn nảy sinh đòi hỏi trẻ phải tìm cách
khắc phục thúc đẩy tư duy của trẻ phát triển.
- Trò chơi ĐVTCĐ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển trí tưởng tượng của
trẻ mẫu giáo. Khi tham gia vào trò chơi ĐVTCĐ đứa trẻ hành động với vật thay thế,
nhận đóng các vai khác nhau, tạo ra hoàn cảnh chơi... Năng lực này là cơ sở để phát
triển trí tưởng tượng. Về cuối tuổi mẫu giáo, trẻ còn có khả năng chuyển trí tưởng tượng


từ bình diện bên ngoài vào bình diện bên trong. Trẻ đã biết xây dựng tình huống mới
trong trí tưởng tượng của mình để tạo ra những hoàn cảnh chơi ngày càng phong phú.
- Hoạt động vui chơi nó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển ngôn ngữ trẻ mẫu
giáo. Tình huống chơi đòi hỏi đứa trẻ khi tham gia vào phải có một trình độ giao tiếp
bằng ngôn ngữ nhất định. Nếu nó không diễn đạt được rõ ràng nguyện vọng và ý kiến
của mình không hiểu lời bàn bạc hay chỉ dẫn của bạn cùng chơi thì nó không thể tham
gia vào trò chơi được. Để đáp ứng những yêu cầu của cuộc chơi đứa trẻ phải nói năng

rõ ràng và mạch lạc, nhờ đó ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách nhanh chóng.
- Trò chơi ĐVTCĐ tác động rất mạnh đến đời sống tình cảm của trẻ mẫu giáo.
Qua từng vai chơi được thể hiện trong nhiều hoàn cảnh chơi khác nhau, trẻ trải nghiệm
được tình cảm của con người với những sắc thái phong phú. Nhờ trải nghiệm như vậy,
qua các vai chơi mà đời sống tình cảm của trẻ ngày càng sâu sắc và phong phú.
- Những phẩm chất ý chí của trẻ mẫu giáo được hình thành và phát triển qua việc
tham gia vào trò chơi, đặc biệt là trò chơi ĐVTCĐ... việc đóng vai trong mối quan hệ
với những vai khác của trò chơi buộc trẻ phải điều tiết hành vi của mình sao cho phù
hợp với yêu cầu của trò chơi. Nhờ đó, trẻ hình thành kỹ năng giao tiếp ứng xử xã hội
phù hợp với vai trò, tình huống...
Kết luận sư phạm:
- Giáo viên cần tổ chức nhiều hoạt động vui chơi cho trẻ đặc biệt là trò chơi đóng
vai theo chủ đề phong phú, hấp dẫn.
- Tạo điều kiện để trẻ chơi cùng với nhau để khuyến khích, động viên trẻ.
- Giáo viên cần quan tâm đặc biệt đến các nhóm chơi nhằm điều chỉnh các mối
quan hệ của trẻ, tạo không khí thân mật bình đẳng trong nhóm.
- Cần thay đổi “thủ lĩnh” trong nhóm chơi của trẻ để trẻ lần lượt phát huy hết vai
trò của các em đó.
1.1.1.3. Sự phát triển của hoạt động vui chơi
a. Sự thay đổi hoạt động chủ đạo ở đầu tuổi mẫu giáo
Sự xuất hiện mâu thuẩn khi trẻ lên ba (cuối tuổi ấu nhi) giữa một bên là nguyện
vọng độc lập, tự làm lấy mọi việc như người lớn với một bên là khả năng của trẻ còn rất
non nớt. Để giải quyết mâu thuẩn này, trẻ phải tìm đến một hoạt động mới, trò chơi mô
phỏng hoạt động của người lớn xuất hiện không làm thật thì làm giả vờ (tức là chơi).
Giai đoạn đầu của trò chơi mô phỏng là trò chơi phản ứng sinh hoạt (Nguyễn Thị Thanh
Hà), trẻ mô phỏng một số hành động của người lớn trong sinh hoạt hằng ngày như cho
bé ăn, tiêm cho bé... Đây cũng là một dạng sơ khai của trò chơi ĐVTCĐ tạp ra những
tiền đề để trẻ bước sang trẻ mẫu giáo. Hoạt động vui chơi đã xuất hiện ở tuổi ấu nhi kéo
theo những đặc điểm tâm lý mới, nhưng đó chỉ là giai đoạn khởi đầu còn hết sức đơn
giản. Những cấu tạo tâm lý mới đó sẽ được phát triển rõ nét trong suốt thời kỳ mẫu

giáo, dần dần xác định rõ ràng mỗi đứa trẻ là một con người có ý thức bản ngã nhất


định. Điều đó diễn ra cùng với sự kiện hoạt động vui chơi mà trung tâm là trò chơi
ĐVTCĐ chuyển thành hoạt động chủ đạo. Đó chính là bước chuyển biến cơ bản trong
hoạt động của trẻ khi bước vào tuổi mẫu giáo. Hoạt động với đồ vật nguyên là hoạt
động chủ đạo của trẻ ấu nhi nay lùi xuống hàng thứ hai (tuy nó vẫn tiếp tục phát triển)
nhường chỗ cho hoạt động vui chơi chiếm vị trí chủ đạo với trò chơi ĐVTCĐ là trung
tâm để tạo ra một chuyển biến cơ bản trong tâm lí trẻ: bắt đầu hình thành một nhân cách.
Tuy đã xuất hiện trò chơi phản ánh sinh hoạt nhưng ấu nhi vẫn thường chơi một
mình, chỉ lúi húi với mấy đồ chơi để mô phỏng hành động của người lớn. Nếu có vài
đứa trẻ thì chúng cũng chỉ chơi cạnh nhau, mỗi đứa làm một việc, không cần biết đến
nhau hoặc có để ý đến bạn cũng dành những thứ đồ chơi mà mình cần. Nhưng khi trò
chơi ĐVTCĐ xuất hiện thì việc chơi một mình không còn thỏa mãn đứa trẻ nữa, vì trẻ
nhận thấy người lớn thường hoạt động với những người khác, nên chúng bắt đầu thiết
lập những mối quan hệ giữa các vai trong trò chơi và bắt đầu thực hiện những hành
động hợp tác với nhau. Tất nhiên, đó chỉ là những mối quan hệ mô phỏng lại những mối
quan hệ có thực trong cuộc sống. Ở đây, sự hướng dẫn của người lớn là vô cùng quan
trọng. Người lớn hướng dẫn trẻ quan sát cuộc sống xung quanh, cho trẻ tiếp xúc rộng
dần với cuộc sống xã hội, bày cho trẻ hành động với vật thay thế như người lớn vẫn làm
với đồ vật thật. Nhờ đó, trò chơi ĐVTCĐ từ dạng sơ khai (trò chơi phản ánh sinh hoạt)
mới được hoàn thiện dần. Đầu tuổi mẫu giáo, tuy trò chơi ĐVTCĐ còn non yếu nhưng
nó cũng bắt đầu tạo ra tâm lý mới - một nhân cách hết sức đơn giản và đó chính là xu
hướng phát triển cơ bản của trẻ. Do đó, việc người lớn tập trung mọi cố gắng để phát
triển mạnh mẽ hoạt động vui chơi mà trung tâm là trò chơi ĐVTCĐ là một công việc
hết sức quan trọng, có ý nghĩa giáo dục lớn lao đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo.
b. Hoàn thiện hoạt động vui chơi mà trung tâm là trò chơi ĐVTCĐ và hình thành
“xã hội trẻ em”
Ở đầu tuổi mẫu giáo, hoạt động vui chơi bắt đầu phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là sự
phát triển trò chơi ĐVTCĐ. Tuy nhiên, phải đến giữa và cuối tuổi mẫu giáo, trò chơi

này mới hoàn thiện, đạt tới dạng chính thức và mang đầy đủ ý nghĩa với những đặc
điểm vón có của trò chơi, được thể hiện ở những điểm sau:
* Trẻ thể hiện tính độc lập và rõ nét trong khi chơi
Trò chơi là một hoạt động độc lập và chủ động của trẻ nói chung, nhưng càng về
cuối (mẫu giáo nhỡ và lớn) thì tính độc lập, chủ động mới biểu lộ rõ nét ở việc chọn chủ
đề chơi, vai chơi, tìm kiếm đồ chơi, tìm cách khắc phục trở ngại trong khi chơi... Đặc
biệt là trong việc chọn bạn chơi và thiết lập quan hệ với bạn cùng chơi, phân vai cho
nhau và phối hợp hành động với các vai trong trò chơi. Hơn nữa, lúc này trẻ đã tiếp xúc
rộng rãi hơn với cuộc sống thực xung quanh, xem sách báo, tranh ảnh, ti vi... nhiều hơn
nên vốn sống của trẻ đã tương đối phong phú, giúp chúng mô phỏng cuộc sống vào trò
chơi dễ dàng và linh hoạt hơn.


* Trẻ thiết lập những mối quan hệ rộng rãi, phong phú và hình thành “xã hội trẻ em”
Vui chơi mà đặc biệt là tham gia vào trò chơi ĐVTCĐ là hoạt động cùng nhau
đầu tiên ở trẻ. Không có sự phối hợp với nhau giữa các thành viên thì không thành trò
chơi ĐVTCĐ. Đầu tuổi mẫu giáo, sự phối hợp này còn lỏng lẻo nhưng càng về cuối, sự
phối hợp giữa các thành viên trong trò chơi chặt chẽ hơn tạo nên các nhóm chơi chẳng
khác gì những nhóm xã hội người lớn. Trong mỗi trò chơi, trẻ em đã hành động cùng
nhau mà tạo thành nhóm chơi - nhóm xã hội. Trên thực tế, trẻ thường chơi nhiều trò, tạo
thành nhiều nhóm chơi, các nhóm chơi lại liên kết với nhau. Trong một lớp mẫu giáo
lớn, trẻ em chơi nhiều trò chơi theo nhiều chủ đề khác nhau để mô phỏng xã hội người lớn.
“Xã hội trẻ em” tuy còn khác xa với xã hội người lớn, hợp rồi tan, tan rồi hợp,
chơi và thực, thực và chơi, nhưng cấu trúc của nó không đơn giản, trong đó mỗi đứa trẻ
đều có một vị trí nhất định do thái độ của bạn bè quy định. Thông thường, trong nhóm
trẻ có một vài cháu nổi hẳn lên được các bạn yêu mến hay nể phục, thích cùng chơi,
muốn được ngồi cạnh, muốn được bắt chước chúng và tự nguyện làm theo yêu cầu của
chúng; thậm chí có khi còn nhường cả đồ chơi, vai chơi cho chúng, đó là phần tử trung
tâm. Bên cạnh những đứa trẻ này lại có những trẻ không được các bạn cùng chơi ưa
thích đến mức không nhận chúng vào nhóm chơi, đó là phần tử cô đơn. Còn lại, các em

khác nằm giữa hai cực này. Nguyên nhân được các bạn ưa thích có thể do thông minh,
nhiều sáng kiến, cũng có thể do tốt bụng, vui tính. Vị trí, của mỗi thành viên trong “xã
hội trẻ em”, nhất là vai trò “thủ lĩnh” có ảnh hưởng đáng kể đến sự hình thành nhân
cách của trẻ. Những “phần tử cô đơn” thì dễ sinh ra nhút nhát, tự ti, còn những “phần tử
trung tâm” nhất là “thủ lĩnh” thì lại trở nên tự mãn, tự kiêu thậm chí còn có thái độ hống
hách đối với các bạn. Bởi vậy, người lớn cần quan tâm điều chỉnh các mối quan hệ của
trẻ trong nhóm chơi, tạo bầu không khí thân mật, bình đẳng giữa các thành viên. Ở “xã
hội trẻ em”, cũng đã bắt đầu hình thành “dư luận”, có nghĩa là trẻ biết phục tùng ý kiến
chung, ngay cả khi điều đó mâu thuẫn với ấn tượng và kinh nghiệm riêng của mình.
Tính thích nghi ở trẻ sẽ mất dần nhờ giáo dục, kinh nghiệm sống ngày càng tăng giúp
trẻ nhận xét một cách độc lập về các sự kiện xảy ra xung quanh.
c.Từ trò chơi ĐVTCĐ đến trò chơi có luật
Cũng như mọi sự vật và hiện tượng khác, trò chơi cũng tuân theo quy luật: có nảy
sinh ở dạng sơ khai - có phát triển để đạt tới dạng hoàn thiện, rồi sau đó sẽ lụi tàn hoặc
biến dạng để chuyển hóa thành một dạng khác. Trong quá trình phát triển của trò chơi,
trò chơi phản ánh sinh hoạt (trẻ mới chỉ mô phỏng hành động đơn giản của người lớn
trong sinh hoạt gần gũi hàng ngày), thời điểm bắt đầu của trò chơi mô phỏng ở dạng sơ
khai rồi sau đó mới tiến tới dạng chính thức của trò chơi mô phỏng, đó là trò chơi
ĐVTCĐ. Cao hơn trò chơi ĐVTCĐ là trò chơi có luật, do sự phát triển (hoặc biến dạng
đi) của trò chơi ĐVTCĐ mà thành, nó xuất hiện chậm hơn và ở trình độ cao hơn.


Ở trò chơi ĐVTCĐ, vai chơi là yếu tố nổi lên hàng đầu, còn luật chơi là yếu tố phụ
xếp hàng thứ yếu, nói đúng hơn là trò chơi này không có luật, đó mới chỉ là sự mô
phỏng lại hành vi của lớn trong xã hội. Khi tham gia vào trò chơi ĐVTCĐ, đứa trẻ mới
để ý đến vai sao cho hành động của nó phù hợp với cách ứng xử của nhân vật mà nó thể
hiện. Luật chơi chỉ sự thỏa thuận ngầm giữa trẻ với nhau trong các mối quan hệ thì
đương nhiên luật là yếu tố nổi lên hàng đầu, còn vai chơi thì chìm xuống hàng thứ yếu
và rồi mất hẳn trong nhiều trò chơi sau này. Nắm luật chơi là một bước phát triển mới
của hoạt động vui chơi, nó đòi hỏi đứa trẻ phải phát triển ở trình độ cao, thường là về

cuối tuổi mẫu giáo hay tuổi tiểu học. Vì nắm luật cũng tức là nắm một tri thức mang
tính khách quan buộc người chơi phải tuân thủ và điều quan trọng hơn nữa là phải có ý
chí để điều khiển hành vi của mình cho đúng luật, mà điều đó thì trẻ đầu tuổi mẫu giáo
là chưa thể có được. Cho đến cuối tuổi mẫu giáo hay học sinh tiểu học thì trẻ mới nắm
được luật khách quan.
Xét trong quá trình phát triển của một đứa trẻ cũng như tiến trình phát triển của trò
chơi thì trò chơi có luật xuất hiện chậm hơn trò chơi ĐVTCĐ. Nói cách khác, trò chơi
có luật là một biến dạng của trò chơi ĐVTCĐ, khi một phần động cơ di chuyển một
phần về phía kết quả của hoạt động. Như vậy, khi trò chơi có luật, động cơ của người
chơi vừa nằm trong quá trình chơi vừa nằm ở kết quả chơi, nhưng kết quả này vẫn
không phải là một lợi ích thiết thực. Sau này trò chơi có luật phát triển thành thiên hình
vạn trạng và người ta đã chia trò chơi đó thành các loại khác nhau theo nội dung, cách
chơi và tác dụng của chúng đến sự phát triển tâm lí trẻ em.
1.1.2. Các dạng hoạt động khác
a. Nảy sinh các yếu tố của hoạt động học tập
Hoạt động học tập là hoạt động lấy tri thức khoa học làm đối tượng, động cơ của
hoạt động này là chiếm lĩnh tri thức khoa học, đó là dạng hoạt động chủ đạo của học
sinh phổ thông, và chỉ đến tuổi học sinh phổ thông, dạng hoạt động này mới phát triển
tới mức hoàn chỉnh, còn ở tuổi mẫu giáo, hoạt động học tập đang ở thời kỳ phôi thai.
Ở tuổi mẫu giáo, hoạt động học tập chưa được hình thành đầy đủ. Nhưng trong
nhiều hoạt động, đặc biệt là hoạt động vui chơi, ở trẻ mẫu giáo đã xuất hiện những yếu
tố của hoạt động học tập.
Trong cuộc sống hàng ngày trẻ đã tiếp thu được một lượng tri thức đáng kể về thế
giới xung quanh. Từ đó thế giới biểu tượng của trẻ cũng phong phú dần lên và làm nảy
sinh tính ham hiểu biết, hứng thú nhận thức, muốn khám phá những điều mới lạ.
Nhưng lòng ham hiểu biết của trẻ mẫu giáo vẫn chưa đủ để đảm bảo thái độ sẵn
sàng học tập, tiếp thu tri thức một cách có hệ thống trong các môn học. Để hình thành
những hứng thú bền vững và nảy sinh những kỹ năng trí tuệ chuẩn bị cho trẻ vào trường
phổ thông, người ta đã dạy trẻ trong các hình thức tổ chức đặc biệt gọi là “ tiết học”.
Trong “tiết học” người ta dạy cho trẻ những tri thức, kỹ năng tương đối có hệ thống về



các lĩnh vực của đời sống tự nhiên và xã hội xung quanh trẻ theo một chương trình nhất
định. Đồng thời trong “tiết học” người ta bắt đầu đề ra cho trẻ những yêu cầu nhất định
về mức độ và chất lượng lĩnh hội các tri thức, luyện tập cho trẻ những kỹ năng nghe và
làm theo lời chỉ dẫn của cô giáo để thực hiện nhiệm vụ cụ thể do cô đề ra.
Việc dạy học trong các tiết học có một ý nghĩa quan trọng đối với việc làm nảy sinh
các yếu tố của hoạt động học tập ở trẻ mẫu giáo.
Khác với “giờ học” ở trường phổ thông, “tiết học” ở trường mẫu giáo được tổ chức
linh hoạt hơn, mang tính tổng hợp hơn, trong đó trò chơi học tập giữ một vị trí vô cùng
quan trọng.
Trong “ tiết học “, chủ yếu là thông qua các trò chơi học tập, niềm hứng thú đối với
các lĩnh vực tự nhiên và xã hội có khả năng xuất hiện ở hầu hết trẻ mẫu giáo. Ở đây
người ta đã dạy trẻ những tri thức mang tính hệ thống nhất định, trong đó những quan
hệ chủ yếu của các hiện tượng vốn có ở mỗi lĩnh vực trong hiện thực được bộc lộ trước
trẻ em.
Cùng với trò chơi, “tiết học” còn giúp trẻ hình thành những kỹ năng ban đầu của
học tập. Kỹ năng đó đòi hỏi trước hết phải hiểu ý nghĩa của nhiệm vụ học tập như là
một nhiệm vụ cần phải thực hiện, từ đó biết phân biệt nhiệm vụ học tập với các nhiệm
vụ khác trong đời sống thực tế.
Việc tổ chức trò chơi có định hướng cùng với việc tổ chức các “tiết học” vừa sức
và phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ mẫu giáo, sẽ làm thúc đẩy những yếu tố của
hoạt động học tập nảy sinh một cách thuận lợi, chuẩn bị tốt cho trẻ học tập ở trường phổ
thông sau này.
b. Những hình thức sơ đẳng của hoạt động lao động
Hoạt động lao động là một loại hoạt động nhằm tạo ra những sản phẩm có ích cho
xã hội, những giá trị vật chất và tinh thần cần thiết cho loài người. Đó chính là hình
thức hoạt động cơ bản của người lớn, nó đòi hỏi những điều kiện thể lực và tâm lý cao.
Những phẩm chất tâm lý của người lao động chưa thể có được ở tuổi mẫu giáo
nhưng những tiền đề của chúng đang được hình thành ở lứa tuổi này. Việc hình thành

những tiền đề cần thiết cho hoạt động lao động ở lứa tuổi mẫu giáo lại được diễn ra theo
con đường đặc biệt, chủ yếu ở bên ngoài việc thực hiện nhiệm vụ lao động.
Trẻ em làm quen bước đầu với hoạt động khi chúng quan sát người lớn làm việc
hay thông qua kể chuyện, tranh vẽ… Trong những cuộc chơi, trẻ tái tạo lại những hành
động lao động và những mối quan hệ giữa những người lớn với nhau, qua đó mà thu
nhận những biểu tượng cần thiết về lao động., về ý nghĩa xã hội và tính chất tập thể của
nó. Thông qua trò chơi, ở trẻ cũng được hình thành những hình thức đầu tiên của sự
phân công hợp tác của những người lao động.
Trong những hình thức hoạt động có sản phẩm, trẻ mẫu giáo đã biết thực hiện
những hành động nhằm tạo ra một kết quả nhất định.. Trong hoạt động đó ở trẻ hình


thành nên những kỹ năng cần thiết. Việc thực hiện những nhiệm vụ học tập đơn giản
cũng góp phần hình thành ở trẻ sự tự kiểm tra, tự đánh giá công việc của mình. Tất cả
những điều đó là tiền đề cần thiết để hình thành nên hoạt động lao động. Tuy nhiên
những tiền đề đó còn bị tản mạn trong nhiều hình thức hoạt động khác nhau. Để thống
nhất lại, cần phải hình thành ở trẻ em những hình thức sơ đẳng của lao động, trước hết
là hướng dẫn trẻ thực hiện những nhiệm vụ lao động đơn giản nhằm đạt được một kết
quả cụ thể.
Hướng dẫn trẻ em hợp tác với nhau trong nhiệm vụ lao động chung có một ý nghĩa
quan trọng vì nó tạo ra ở đứa trẻ một ý thức hợp tác, tinh thần trách nhiệm và sự quan
tâm đến công việc chung, và đó là những điều kiện cần thiết cho việc hình thành con
người lao động kiểu mới sau này.
Tuy nhiên, do đặc điểm phát triển về thể chất và tâm lý của trẻ mẫu giáo mà thường
những nhiệm vụ lao động được tổ chức gắn liền với trò chơi. Hơn nữa, điều quan trọng
không phải là làm sao cho những hành động lao động cho trẻ mẫu giáo thực sự mang lại
kết quả cao, mà điều chủ yếu là làm sao để trẻ hiểu được thế nào là lao động. Cần tổ
chức cho trẻ tham gia những hình thức lao động đơn giản, nhằm tạo cho sự xuất hiện
những tiền đề của hoạt động lao động.
1.2.Pháttriểntâmvậnđộngcủatrẻmẫugiáo

1.2.1. Sự phát triển vận động
Đến tuổi mẫu giáo, trẻ đã có khả năng vận động hài hòa. Di chuyển nhanh nhẹn,
trẻ đi vững và có khả năng cân bằng tốt. Sự phối hợp tay - chân đã phát triển và nhịp
nhàng.
Một đặc trưng chủ yếu của động tác, cử chỉ của trẻ đầu tuổi mẫu giáo (3 tuổi) là
tính tự phát và tự nhiên. Đây chính là thời kỳ mà những điệu bộ, động tác của trẻ được
thể hiện một cách tự nhiên, thoải mái. Tính tự phát về vận động được thể hiện trong các
hoạt động khám phá môi trường của trẻ và nó có lợi cho sự phát triển các vận hành (vận
hành là một tổng thể phản ứng vận động được phối hợp lại để thực hiện hành động có
hiệu quả). Dần dần tính tự phát sẽ mất đi (khoảng 4 tuổi) cùng với những khám phá của
trẻ, cùng với việc phát triển sự nhận thức về mục đích hành động cần đạt được và trẻ bắt
đầu tính đến hiệu quả của những tác động của nó tới người khác, đồ vật.
Sự phát triển về vận hành giúp chức năng điều chỉnh vận động, hành động trở nên
linh hoạt hơn. Từ đó, trẻ thu được những thông tin ngày càng chính xác hơn về môi
trường. Sự phát triển khả năng điều chỉnh hành động, vận động là hệ quả của sự phát
triển những hiểu biết, kinh nghiệm, những cấu trúc cảm giác - vận động và không thể
không kể đến sự phát triển của chức năng tượng trưng ở trẻ.
Do sự phát triển khả năng ức chế của não, phát triển khả năng kiểm soát trương
lực, ở tuổi này, cử chỉ, động tác, hành động của trẻ ít động tác thừa hơn. Khoảng 4 - 5


tuổi, vận động của trẻ trở nên hài hòa và nhịp nhàng. Đậy thực sự là một biểu hiện của
sự hoàn thiện về mặt vận động. Việc tham gia vào các trò chơi và nhất là tham gia vào
các tình huống hiện thực của cuộc sống rất có lợi cho sự phát triển vận động của trẻ.
1.2.2. Phát triển hiểu biết về cơ thể bản thân
Hiểu biết về cơ thể bản thân chính là ý thức về chính cơ thể mình, về những khả
năng vận động, hành động và biểu hiện của cơ thể đó. Vận động là nguồn gốc để mỗi
chủ thể tạo ra hình ảnh thân thể mình. Tuy nhiên, sự hiểu biết về cơ thể lại là điều kiện
cho vận động diễn ra.
Hiểu biết về cơ thể là một yếu tố cơ bản cần thiết cho sự hình thành nhân cách của

đứa trẻ. Trẻ nhận ra mình, nhận ra người khác và mọi vật xung quanh dựa theo chính
con người đó. Đứa trẻ hiểu biết cơ thể mình, biết được cơ thể gồm nhiều bộ phận được
thông nhất lại thành một chỉnh thể, biết cơ thể mình là thuộc về chính mình sẽ có khả
năng hành động bằng cơ thể đó một cách hiệu quả, phù hợp. Càng hiểu biết rõ về cơ thể
bản thân, con người càng dễ dàng nhận ra mình, chấp nhận mình và chịu trách nhiệm về
mình và ngược lại.
Sự phát triển về mặt này ở trẻ được thể hiện bằng việc nhận được hình ảnh cơ thể
trong gương và khám phá, nhận biết về cơ thể bản thân. Việc nhìn ra hình ảnh mình
trong gương được bắt đầu từ khoảng tháng thứ tư nhưng phải đến giữa năm thứ hai trẻ
mới biết rằng hình ảnh trong gương và cơ thể mình chỉ là một. Đến cuối năm thứ hai,
trẻ nắm vững hơn hình ảnh về bản thân, từ đó chế ngự và hành động với nó. Sự khám
phá và nhận biết về cơ thể bản thân được bắt đầu vào cuối tháng thứ ba khi trẻ đưa mắt
dõi theo sự di chuyển của tay. Từ lúc này cho đến khoảng cuối năm thứ hai, trẻ nhận ra
những bộ phận khác nhau của cơ thể nó.
Từ ba tuổi trở đi, chức năng nội tâm hóa phát triển, trò chơi tượng trưng, trí tưởng
tượng... phát triển làm cho hiểu biết về cơ thể của trẻ có những thay đổi. Sự hợp nhất
giữa hình ảnh cơ thể mà trẻ nhìn thấy được qua soi gương với các cảm giác xúc giác và
vận động do cơ thể mang lại giúp trẻ hiểu rõ hơn và làm phong phú thêm hình ảnh mà
nó nhìn thấy về cơ thể mình. Để trẻ hiểu biết tốt về cơ thể bản thân cần giúp trẻ làm
phong phú các cảm nhận về xúc giác và nhất là về vận động. Giáo dục cần giúp cho trẻ
tạo dựng được những quan hệ chính xác giữa cái mà trẻ nhìn thấy về cơ thể nó với cái
nó cảm thấy từ chính cơ thể đó. Khi hình ảnh do mắt nhìn thấy về cơ thể và hình ảnh do
vận động mang lại được hợp nhất, theo Wallon, là một bước phát triển quan trọng trong
hiểu biết về cơ thể và cũng là một bước tiến về nhân cách.
1.2.3. Phân hóa thuận nghịch phải - trái
Phân hóa thuận nghịch phải - trái, còn gọi là phân hóa ưu thế thuận cơ thể, ưu thế
trội một bên của hai phần đối xứng của cơ thể đưa đến việc sử dụng thiên về một phía,
xác định sự thuận phải hoặc trái.



Sự thuận nghịch phải - trái trước hết bị chi phối bởi những nguyên nhân về sinh lí,
những yếu tố có tính chất bẩm sinh - di truyền. Ngoài ra còn có những yếu tố văn hóa,
giáo dục, những yếu tố tâm lý gia đình và tình cảm (nhất là về thuận tay). Sự phân hóa
thuận nghịch phải - trái còn bị chi phối bởi sự luyện tập và hoạt động của chính trẻ.
Chính vì vậy, mà phân hóa thuận nghịch phải - trái ở trẻ em đa dạng, nhiều hình nhiều
vẻ.
Phân hóa thuận nghịch phải - trái của cơ thể có vai trò quan trọng trong sự phát
triển của đứa trẻ. Trước hết, nó ảnh hưởng đến nhận thức của trẻ về chính bản thân
mình, một yếu tố chủ yếu của sự hình thành nhân cách. Phân hóa ưu thế thuận là cơ sở
của sự định hướng, phân biệt phải - trái, một thành phần quan trọng của sự định hướng
không gian. Để định hướng được trong không gian, trước hết đứa trẻ tìm điểm mốc trên
cơ thể mình rồi chiếu những điểm mốc đó vào thế giới xung quanh. Trẻ hiểu được phải
- trái chính là từ tính trội một phía so với phía kia của cơ thể. Sự hiểu biết này rõ ràng,
chắc chắn khi tính trội phải - trái được xác định và thuần nhất (thuận về bên phải hoặc
bên trái của cả mắt, tai, tay và chân). Khả năng định hướng, phân biệt phải - trái còn
chịu ảnh hưởng của yếu tố giáo dục. Tuy vậy, tác động của giáo dục có hiệu quả đến
mức nào vẫn phụ thuộc vào yếu tố “gốc”, đó là cơ thể của trẻ với những đặc điểm phát
triển của nó.
Mặc dù bị chi phối bởi những yếu tố bẩm sinh di truyền nhưng không phải tính trội
một bên cơ thể được thể hiện ngay từ giai đoạn đầu tiên của cuộc sống đứa trẻ. Phân
hóa thuận nghịch phải - trái rõ ràng thông thường phải sau 4 tuổi mới có được. Vì vậy,
trong giáo dục trẻ, không nên yêu cầu trẻ nắm được “phải”, “trái” trước khi sự thuận trái
- phải đã hình thành thực sự.
Phân hóa ưu thế thuận cơ thể, sự định hướng, phân biệt được phải - trái có ảnh
hưởng lớn đến việc học tập của trẻ, cụ thể là học đọc, học viết, học tính toán. Đọc hay
viết đều theo hướng từ trái sang phải. Muốn nhận chữ đúng (ví dụ: b và d; p và q) phải
biết được cái gạch đứng bên phải hay bên trái bụng chữ quay trái hay phải. Trong học
tính toán, nếu trẻ nhầm 12 với 21, phép cộng theo chiều dọc lẽ ra phải làm từ phải qua
trái thì lại làm ngược lại... sẽ không thể có kết quả đúng. Nhiều nghiên cứu về những
khó khăn mà trẻ gặp phải khi tập đọc, viết đã tìm thấy mối tương quan có tính chất

nguyên nhân - hậu quả giữa định hướng phải - trái và những khó khăn này.
Sau 4 tuổi, khi trẻ đã có sự phân hóa thuận nghịch phải - trái rõ ràng, cùng với hoạt
động ngày càng phức tạp của trẻ, cùng với những kinh nghiệm ngày càng phong phú
của các em, sự thuận nghịch phải - trái của cơ thể càng cần thiết đối với sự phát triển
của trẻ.
1.2.4. Cấu trúc hóa không gian
Cấu trúc hóa không gian chính là sự định hướng, sự cấu trúc hóa thế giới bên
ngoài. Đứa trẻ luôn luôn ở trong một không gian nhất định, ở đó trẻ phải biết được vị trí


của mình, xác định vị trí giữa các vật với nhau, biết tự tổ chức sắp đặt bản thân trong
không gian mình ở. Sự cấu trúc hóa không gian không thể thiếu trong việc giúp con
người sống và hoạt động bình thường. Nó là một bộ phận cấu thành của đời sống con
người.
Đứa trẻ định hướng và cấu trúc hóa không gian nhờ vào chính cơ thể của nó. Sau
khi đã nhận ra cơ thể mình, trẻ xác định vị trí của nó trong mối liên quan với các đối
tượng xung quanh, tạo dựng quan hệ giữa vận động của nó với những biến đổi của thế
giới. Như vậy, khả năng định hướng, cấu trúc hóa không gian có liên quan chặt chẽ với
khả năng hiểu biết về cơ thể.
Thế giới không gian của trẻ được tạo dựng cùng với sự phát triển cảm giác - vận
động. Trẻ tri giác không gian dựa trên những kinh nghiệm cơ thể. Không gian của trẻ có
hạn và có liên quan với những ấn tượng của trẻ có được khi tiếp xúc với cơ thể của mẹ
qua vòn tay mẹ. Với trẻ nhỏ, môi trường và cơ thể không khác biệt nhau. Xuất phát từ
định hướng trên cơ thể và chiếu vào thế giới rồi dần dần sau đó mới xác định bằng vị trí
của các vật, các đối tượng trong không gian.
Tuổi mẫu giáo là thời kì trẻ phát triển khả năng nhận biết những đặc điểm của
không gian. Từ tuổi này, trẻ biết dùng những từ như: gần, xa, cao, thấp, trước, sau...
Đây là những khái niệm để biểu thị không gian, những khái niệm này được cấu tạo ra
trước hết nhờ vào cơ thể bản thân, lấy cơ thể bản thân làm gốc rồi chiếu vào không
gian. Để định hướng được trong không gian, con người phải sử dụng một hệ tọa độ nhất

định. Với trẻ em, hệ tọa độ gốc chính là trục của cơ thể. Với 3 trục cơ bản: thẳng đứng,
chính diện, nằm ngang của cơ thể, trẻ định hướng cho bản thân và mọi vật trong thế giới
xung quanh. Tương ứng với vị trí thẳng đứng của cơ thể là khái niệm trên - dưới; cao thấp; theo phương chính diện là trước - sau, theo phương nằm ngang là phải - trái.
Trong các khái niệm biểu thị không gian mà trẻ biết được thì trên - dưới được nhận biết
sớm hơn. Nắm được phải - trái là khó hơn cả. Trẻ chỉ nắm được 2 khái niệm này khi ưu
thế thuận nghịch phải - trái của cơ thể trẻ được xác định chắc chắn. Theo nghiên cứu,
trong 3 nội dung cơ bản của định hướng, phân biệt phải - trái của trẻ cuối tuổi mẫu giáo
(5 - 6 tuổi) là: Vị trí của cơ thể bản thân, vị trí tương đối giữa các vật với nhau, nhận
biết và chuyển hóa đảo ngược phải - trái của mình và người đối diện thì kết quả cao
nhất thuộc về nội dung thứ nhất, trẻ gặp khó khăn nhất ở nội dung thứ 3. Tuy vậy, chỉ
có khoảng gần 30% trẻ được nghiên cứu nhận biết chắc chắn về vị trí phải - trái của các
bộ phận cơ thể.
Ở tuổi này, khả năng định hướng, cấu trúc hóa không gian căn cứ vào những điểm
mốc nằm bên ngoài trẻ, ít cần lấy cơ thể làm gốc, còn yếu. Phải đến cuối tuổi mẫu giáo
và cũng chỉ ở một số ít trẻ mới hình thành khả năng này.
1.2.5. Định hướng, cấu trúc hóa thời gian


Sự định hướng, cấu trúc hóa thời gian là khả năng tự xác định vị trí của bản thân
theo sự tiếp diễn của các sự kiện, sự kéo dài của những khoảng cách thời gian, sự thay
đổi chu kỳ thời gian và tính chất không đảo ngược của thời gian.
Đối với trẻ em, sự phát triển khả năng này luôn gắn liền với hoạt động của trẻ.
Cùng với sự cấu trúc hóa không gian, định hướng và cấu trúc hóa thời gian là những
yếu tố hàng đầu giúp cho con người có thể thích ứng với môi trường.
Khả năng định hướng và cấu trúc hóa thời gian là khả năng khó, những khái niệm
về thời gian là những khái niệm rất trừu tượng, trẻ rất khó nắm bắt. Thời gian gồm hai
loại: Thời gian chủ quan, do ấn tượng của chúng ta, thay đổi tùy người và tùy theo tình
huống hoạt động; thời gian khách quan là thời gian theo cách tính toán học, lúc nào
cũng vẫn thế, một giờ bao giờ cũng 60 phút...
Nhịp thời gian có trước hết trong chính nhịp của các hoạt động sinh học của cơ thể

trẻ, trong những vận động của nó. Những kinh nghiệm mà trẻ có được từ sự trải nghiệm
của cơ thể sống cho trẻ những nhận biết đầu tiên về tính nhịp độ của thời gian. Sự cảm
nhận về nhịp thời gian thông qua vận động của cơ thể giúp trẻ có được những tri giác
ban đầu về thời gian. Tuy vậy, cho đến 5 tuổi, khả năng thông hiểu về trật tự thời gian ở
trẻ vẫn rất không chắc chắn. Nguyên nhân là trẻ chưa thể sử dụng phối hợp một cách
hợp lý những mốc thời gian khách quan với nhiều loại kích thích tác động vào bản thân
trẻ. Về độ dài thời gian, trẻ chưa thể trừu tượng hóa được độ dài thời gian có tính khách quan.
1.2.6. Vẽ, viết
Vẽ là hoạt động mà ở đó tập hợp những cảm nhận mà trẻ có về cơ thể mình và về
thế giới xung quanh được phóng chiếu vào đường nét, hình dạng do nó tạo ra. Tranh vẽ
của trẻ thể hiện sự tri giác của nó về chính cơ thể mình, thế giới khách quan xung
quanh. Vẽ, viết là kết quả của sự thống nhất giữa tri giác và vận động, thống nhất và thể
hiện những điểm mốc không gian có được từ kinh nghiệm cảm giác - vận động. Nhịp
điệu của nét vẽ phụ thuộc vào chính nhịp điệu của cơ thể, thể hiện trong sự nhanh hay
chậm, ngắn hoặc dài, đậm hay mãnh của các nét vẽ. Thời gian và không gian cũng được
thể hiện ở chủ đề được lựa chọn hoặc cách thức thể hiện chúng. Xúc cảm, tình cảm, thái
độ của trẻ cũng được thể hiện trong nét vẽ, viết.
Trong năm thứ hai, trẻ bắt đầu vạch ra những đường nét đầu tiên. Những đường
nét này còn nguệch ngoạc này tiến bộ hơn, ý đồ vẽ đã rõ hơn và trẻ bắt đầu vẽ hình
người sơ khai. Sang 4 tuổi, trẻ vẽ giống thực hơn, không chỉ vẽ được hình vuông mà
còn vẽ được hình tròn khép kín. 5 tuổi biết vẽ lại theo mẫu, 6 tuổi là thời điểm mà ảnh
hưởng của người lớn đến trẻ được thể hiện khá rõ trong việc trẻ vẽ, viết.
Giai đoạn 5 - 6 tuổi là thời kì cuối của tuổi mầm non, đến đây, sự phát triển tâm
vận động đã đạt được những thành tựu đủ để trẻ chuyển sang giai đoạn phát triển tiếp
theo: tuổi tiểu học.


Mặc dù mỗi giai đoạn phát triển mang những đặc trưng riêng, tâm vận động luôn
giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển. Sự phát triển bình thường của trẻ em phụ thuộc
vào sự phát triển tâm vận động và được thể hiện thông qua chính sự phát triển ấy.


Câu hỏi ôn tập và thảo luận
1. Làm rõ bản chất của tâm vận động
2. Nêu đặc điểm phát triển về vận động của trẻ mẫu giáo. Cần làm gì để phát
triển tâm vận động cho trẻ?
3. Hiểu biết về cơ thể bản thân có vai trò gì đối với sự phát triển của trẻ em? Nêu
đặc điểm phát triển về mặt này ở trẻ.
4. Sự phân hóa thuận - nghịch, phải trái có ý nghĩa như thế nào đối với sự phát
triển của trẻ? Đặc điểm sự phát triển này ở trẻ mẫu giáo là gì?
5. Bản chất của cấu trúc hóa không gian là gì? Nêu vai trò của cơ thể đối với sự
định hướng và cấu trúc không gian ở trẻ em.
6. Nêu đặc điểm của định hướng không gian ở trẻ mẫu giáo.
7. Thế nào là định hướng và cấu trúc hóa thời gian? Trẻ em định hướng và cấu
trúc hóa thời gian căn cứ vào đâu? Nêu đặc điểm định hướng, cấu trúc hóa thời gian của
trẻ mẫu giáo.
8. Trình bày đặc điểm phát triển về vẽ, viết của trẻ tuổi mẫu giáo. Tại sao vẽ, viết
lại được coi là một yếu tố của tâm vận động?
Thảo luận: Vai trò của hoạt động vui chơi mà trung tâm là trò chơi đóng vai
theo chủ đề đối với sự phát triển tâm lí của trẻ mẫu giáo.


CHƯƠNG2.SỰHÌNHTHÀNHVÀPHÁTTRIỂNMẶTXÃHỘI
TRONGNHÂNCÁCHTRẺMẪUGIÁO

2.1.Sựhìnhthànhvàpháttriểnýthứcvềbảnthânởtrẻmẫugiáo
2.1.1. Bước phát triển mới ý thức về bản thân ở đầu tuổi mẫu giáo
Ý thức về bản thân (hay ý thức bản ngã, “cái tôi”) đã chớm nãy sinh từ cuối tuổi
ấu nhi (lên ba) khi trẻ biết tách mình ra khỏi những người xunh quanh để nhận ra chính
mình, nhận ra sức mạnh chủ quan của mình. Nhưng ý thức về bản thân của trẻ ấu nhi
còn rất mơ hồ, nên trẻ vẫn chưa phân biệt đâu là ý muốn chủ quan, đâu là khách quan.

Lớn dần lên, trẻ tiếp xúc với thế giới bên ngoài rộng lớn thì đã biết nhiều điều lí
thú trong thiên nhiên, nhưng quan trọng là trẻ bắt đầu tìm hiểu thế giới con người và
khám phá ra những mối quan hệ giữa người và người trong xã hội. Đến tuổi mẫu giáo,
trẻ muốn khám phá những mối quan hệ, nhập vào đó để học làm người lớn. Trò chơi
ĐVTCĐ là một hình thức hoạt động đặc biệt giúp trẻ khám phá ra những mối quan hệ
ấy một cách có hiệu quả. Trò chơi ĐVTCĐ là nơi trẻ có thể gia nhập vào quan hệ xã
hội để tiếp thu những kinh nghiệm về cuộc sống xã hội.
Khi nhập vào những mối quan hệ xã hội trong trò chơi, điều quan trọng là trẻ phát
hiện ra mình trong nhóm bạn cùng chơi, trẻ có dịp đối chiếu, so sánh những bạn cùng
chơi với bản thân, thấy được vị trí của mình trong nhóm chơi, khả năng của mình so với
các bạn và cần phải điều chỉnh hành vi của mình như thế nào để phù hợp với cuộc chơi
chung. Dần dần trẻ sẽ nhận ra mình, nhưng nhận ra được bản thân đâu phải dễ, trẻ phải
trải qua một thời kỳ khá dài từ 3 đến 6 tuổi, lúc này ý thức bản ngã bắt đầu hình thành
rõ nét.
Độ tuổi mẫu giáo bé là điểm khởi đầu của ý thức bản ngã, lúc này trẻ vẫn chưa
phân biệt rõ đâu là ý muốn chủ quan của mình với tính chất khách quan của sự vật và
những quy định của xã hội, nên dễ rơi vào tình trạng duy kỉ (tự kỉ) - lấy mình làm trung
tâm. Biểu hiện của hiện tượng duy kỉ ở chỗ trẻ thường thích làm những việc rất vô lí
miễn sao thỏa mãn ý muốn của mình. Do chưa nhận ra quy luật khách quan nên trẻ đã
gán ý muốn chủ quan của mình cho sự vật xung quanh và bất chấp những quy định của
xã hội. Người lớn bình thường biết phân biệt rõ ràng một bên là bản thân (bao gồm cảm
giác, suy nghĩ, nhu cầu tình cảm của mình, tức là cái tâm lí bên trong - cái chủ quan,
một bên là đối tượng xung quanh, bao gồm các vật thể và những người khác là cái bên
ngoài - cái khách quan, nên biết nhìn nhận thực tế khách quan để hành động cho hợp lí.
Trẻ từ 3 tuổi trở xuống, bao gồm cả tuổi mẫu giáo bé chưa phân rõ thế giới thành 2 phía
khách quan và chủ quan. Hành động của trẻ thường xuất phát từ chủ quan, chưa phân
biệt đâu là ý muốn, ý đồ của mình, đâu là tính chất khách quan của sự vật và những quy


định quy tắc trong xã hội nên có nhiều hành động phi lí, không phù hợp với quy luật

khách quan. Trẻ thường xuất phát từ ý muốn của bản thân mà hành động, tức là lấy
mình làm trung tâm. Phải qua một quá trình phát triển khá dài trẻ mới có hành động
khách quan thực tế. Để giúp trẻ thoát ra khỏi hiện tượng duy kỉ, một mặt phải để cho trẻ
năng hoạt động cọ xát với thế giới đồ vật, dần dần trẻ mới nhận ra sự khác nhau giữa ý
muốn của mình với sự vật khách quan, giúp trẻ nhận ra thuộc tính của sự vật không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của mình. Mặt khác, lại cần cho trẻ giao tiếp rộng rãi với
mọi người xung quanh, qua đó trẻ mới nhận ra luật lệ, quy tắc xã hội buộc mọi người
phải tuân thủ, chứ không thể muốn làm gì thì làm. Chính đó cũng là một quá trình giúp
cho trẻ nhận thức về bản thân một cách sâu sắc, ý thức bản ngã (cái “tôi”) nhờ đó cũng
được xác định rõ nét hơn.
2.1.2. Sự xác định rõ ràng về ý thức bản ngã ở cuối tuổi mẫu giáo
- Khi bước vào tuổi mẫu giáo, đứa trẻ chưa biết gì mấy về bản thân với những
phẩm chất của mình. Nhưng càng về sau, trẻ mới biết mình là người như thế nào, có
những ưu và khuyết điểm gì, ngoan, hư ra sao, những người xung quanh đối xử với
mình thế nào, tại sao mình hành động như thế nào, thế kia... Ý thức về bản thân hay tự ý
thức được thể hiện rõ nhất trong sự tự đánh giá về thành công hay thất bại của mình, về
những khả năng và cả sự bất lực nữa.
Để đánh giá bản thân một cách đúng đắn, đầu tiên trẻ phải học cách đánh giá
người khác và nghe người xung quanh đánh giá mình như thế nào.
- Ở tuổi mẫu giáo lớn, tự ý thức còn biểu hiện rõ trong việc nhận biết giới tính của
mình, trẻ không những nhận biết mình là trai hay gái mà còn biết hành động như thế
nào cho phù hợp với giới tính của mình. Về vấn đề này, sự giáo dục và những tấm
gương của người lớn có ảnh hưởng đáng kể.
Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng giúp trẻ điều khiển và điều chỉnh hành vi
của mình dần dần phù hợp với nhiều chuẩn mực, quy tắc xã hội, làm cho hành vi của trẻ
mang tính xã hội cao - hành vi mang tính nhân cách đậm nét.
Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng còn giúp cho hoạt động tâm lý của trẻ có
chủ tâm hơn, nhờ đó hoạt động tâm lý của trẻ mang tính chủ định rõ nét (như tri giác có
chủ định, ghi nhớ có chủ định, chú ý có chủ định...)
Kết luận sư phạm:

- Giáo viên cần đánh giá đúng hành vi của trẻ để trẻ biết điều chỉnh hành vi của
mình, hướng dẫn trẻ tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau.
- Tổ chức nhiều hoạt động vui chơi đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề, tập
cho trẻ chơi các trò chơi có luật
- Giáo viên cần có cách thức tổ chức hoạt động học có chủ đích cho trẻ lứa tuổi
mẫu giáo hấp dẫn để trẻ hứng thú với việc học.


- Giúp trẻ giao tiếp rộng rãi với mọi người xung quanh, qua đó trẻ mới nhận ra luật
lệ, quy tắc chuẩn mực xã hội.
2.2.Sựpháttriểnđộngcơhànhvivàhìnhthànhhệthốngthứbậccácđộngcơởtrẻ
mẫugiáo
2.2.1. Sự xuất hiện động cơ hành vi
Trong suốt lứa tuổi mẫu giáo, ở trẻ diển ra những biến đổi căn bản trong hành vi:
chuyển từ hành vi bột phát sng hành vi có động cơ - hành vi mang tính nhân cách. Đó
cũng là quá trình hình thành động cơ của hành vi. Tuy nhiên, ở đầu lứa tuổi mẫu giáo
bước chuyển này cũng mới ở thời điểm khởi đầu. Phần nhiều hành động của trẻ mẫu
giáo bé còn giống với hành động của trẻ ấu nhi. Trẻ hành động do những nguyên nhân
trực tiếp như theo ý muốn củ quan của mình hoặc do tình huống khách quan tác động
trực tiếp, mà chưa ý thức được nguyên nhân nào khiến mình hành động như vậy.
Dần dần trong hành vi của trẻ có một sự biến đổi quan trọng, đó là sự nãy sinh
động cơ. Lúc đầu động cơ còn đơn giản và mơ hồ. Thông thường hành động của trẻ
được thức đẩy bởi những động cơ sau đây:
a. Động cơ gắn liền với nguyện vọng được làm như người lớn
Người lớn có thể dựa vào nguyện vọng đó của trẻ để thực hiện những yêu cầu giáo
dục hằng ngày, đặc biệt trong việc tự phục vụ.
b. Những động cơ gắn liền với hoạt động chơi
Những động cơ này thúc đẩy mạnh mẽ hành động của trẻ. Trẻ ham chơi không
phải do kết quả của hoạt động vui chơi mang lại mà chính quá trình chơi đã hấp dẫn
chúng. Khi vượt ra khỏi phạm vi trò chơi để làm một việc nào đó nói chung là trẻ làm

việc đó một cách khó khăn, nhưng nếu công việc đó biến thành một trò chơi thì trẻ làm
một cách hào hứng hơn. Trong trường hợp này, động cơ chơi đã thúc đẩy hành động
của trẻ, chính động cơ chơi đã làm cho hành vi của trẻ mang một sắc thái đặc biệt và đó
chính là nét đọc đáo của tuổi mẫu giáo. Đứa trẻ có thể biến mọi việc nghiêm chỉnh
thành trò chơi và nó làm việc đó một cách hứng thú.
c. Động cơ nhằm làm cho người lớn vui lòng
Vào tuổi mẫu giáo, đời sống tình cảm của trẻ mẫu giáo phát triển mạnh làm xuất
hiện ở trẻ động cơ muốn làm cho người lớn vui lòng, động cơ này đã thúc đẩy trẻ thực
hiện những hành vi tích cực, đồng thời kiềm chế những hành vi tiêu cực. Trẻ cố gắng
làm những việc tốt để được khen ngợi và được yêu mến. Tuy nhiên việc thích được
người lớn khen ngợi và yêu mến thường đi đôi với những yêu cầu cụ thể như được
thưởng quà hay được đi chơi. Ở đây ta thường gặp phải một vấn đề giáo dục tế nhị,
người lớn thường khen thưởng và cũng cố hành vi tốt đẹp của trẻ. Vấn đề là khen
thưởng như thế nào để không kích thích những hành vi có động cơ vụ lợi.


Trên cơ sở cũng cố bằng những món quà mang ý nghĩa tinh thần như vậy, động cơ
đạo đức của trẻ sớm được hình thành loại động cơ này thường xuất hiện vào cuối tuổi
mẫu giáo đó là cốt lõi trong nền tảng đạo đức của nhân cách con người.
2.2.2. Sự hình thành hệ thống thứ bậc các động cơ
Sự biến đổi căn bản hành vi của trẻ suốt thời kỳ mẫu giáo được biểu hiện rõ nhất là
sự hình thành một hệ thống thứ bậc các động cơ. Ở giữa tuổi mẫu giáo (mẫu giáo nhỡ),
trong việc thực hiện hành vi của trẻ đã mang khá nhiều động cơ càng về cuối tuổi mẫu
giáo thì những động cơ đạo đức thể hiện thái độ của trẻ đối với những người xung
quanh có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự phát triển các động cơ hành vi.
Những động cơ này gắn liền với sự lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và quy tắc hành vi
xã hội. Lúc đầu chỉ là phương tiện để trẻ duy trì mối quan hệ qua lại tích cực giữa mình
với những người khác. Sau rồi do được tán thưởng, khen ngợi mà đứa trẻ vui vẻ thực
hiện những hành vi đó như một sự mong đợi của người lớn - một nghĩa vụ xã hội, có ý
nghĩa là trẻ đã hiểu được ý nghĩa xã hội của những hành vi này. Những động cơ đó

mang ý nghĩa xã hội ngày càng cao, ý nghĩa xã hội ngày càng rõ nét, trẻ muốn làm
những việc nào đó để đem lại lợi ích cho người khác. Những động cơ như vậy bắt đầu
có vị trí ngày càng quan trọng trong nhiều động cơ đạo đức, nếu người lớn luôn tỏ thái
độ đồng tình để trẻ hình dung được rằng những việc mình làm quả là có mang lại niềm
vui cho những người mà mình quan tâm.
Sự hình thành động cơ đạo đức, động cơ mang tính xã hội ngày càng phong phú
vào cuối tuổi mẫu giáo đánh dấu một bước trưởng thành của trẻ.
Sự biến đổi động cơ trong tuổi mẫu giáo nhở và lớn không chỉ thể hiện ở mặt nội
dung của động cơ, với sự xuất hiện nhiều động cơ xã hội khác nhau, mà điều cần lưu ý
là trong lứa tuổi này đã bắt đầu hình thành quan hệ phụ thuộc theo thứ tự của các động
cơ, được gọi là hệ thống thứ bậc các động cơ. Đó là một cấu tạo tâm lý mới xuất hiện
trong quá trình phát triển nhân cách của trẻ mẫu giáo.
Trong hệ thống thứ bậy này, những động cơ không nằm ngang nhau do mức độ
quan trọng khác nhau của mỗi động cơ đối với bản thân đứa trẻ nên chúng tồn tại không
bình đẳng với nhau.. Trong hệ thống thứ bậc các động cơ của mỗi đứa trẻ thường có
một động cơ nào đó nổi hẳn lên hàng đầu, chiếm vị trí ưu thế, có thể là động cơ vì
người khác hay động cơ vì mình. Đó là dấu hiệu xu hướng nhân cách của đứa trẻ - xu
hướng vị tha (vì người khác) hay vị kỷ (vì bản thân). Sự khác nhau giữa những đứa trẻ
rõ nhất là khi hành động động cơ nào chiếm vị trí ưu thế. Điều đó phụ thuộc phần lớn
vào sự giáo dục của người lớn và ảnh hưởng của cuộc sống bên ngoài mà trẻ tiếp xúc.
Một đứa trẻ có động cơ ưu thế là vị tha thì trong đại đa số trường hợp thể hiện những
hành động có đạo đức tốt đẹp, ngược lại đứa trẻ có động cơ ưu thế là vị kỷ thì nó luôn
hành động để thỏa mản ý thích hay tìm kiếm quyền lợi cá nhân, ích kỷ dễ đưa đến sai
phạm đạo đức xã hội.


Việc phát hiện hệ thống thứ thứ bậc các động cơ, nhất là phát hiện động cơ ưu thế
là việc làm có ý nghĩa giáo dục quan trọng. Tuy vậy, trẻ đang ở tuổi mẫu giáo, giai đoạn
đầu của sự hình thành nhân cách, nên mọi cái đều chưa thật ổn định, đều dễ thay đổi, dễ
uốn nắn. Bởi vậy người lớn cần kịp thời uốn nắn những động cơ lệch lạc, khuyến khích

những động tốt đẹp khi mà hệ thống thứ bậc các động cơ vừa mới hình thành.
2.3.Sựpháttriểnđờisốngtìnhcảmcủatrẻmẫugiáo
2.3.1. Tuổi mẫu giáo, trẻ em sống nặng về tình cảm
Ở tuổi ấu nhi cũng như tuổi mẫu giáo, tình cảm chi phối tất cả các mặt hoạt động
tâm lý của trẻ. Đặc biệt ở tuổi mẫu giáo đời sống tình cảm của trẻ có một chuyển biến
mạnh mẽ, vừa phong phú vừa sâu sắc hơn ở lứa tuổi trước đó.
Tình cảm của con người chỉ nảy sinh trong mối quan hệ giữa người với người, mà
quan hệ của trẻ mẫu giáo với những người xung quanh được mở rộng một cách đáng kể
khiến cho tình cảm của trẻ được phát triển về nhiều phía đối với những người trong xã
hội. Có thể coi đây là nguồn sức mạnh quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của trẻ.
Trẻ mẫu giáo rất cần sự trìu mến thương yêu, đồng thời rất lo sợ trước thái độ thờ
ơ lạnh nhạt của những người xung quanh của mình nhất là những người gần gũi. Nhu
cầu được yêu thương của trẻ mẫu giáo rất lớn. Hiện tượng thường thấy là trẻ rất buồn
khi người thân đau ốm, không những chúng tỏ ra thông cảm mà còn muốn làm một việc
gì đó để chăm sóc, an ủi họ.
Trẻ mẫu giáo tuy chưa có tình bạn ổn định như lứa tuổi lớn hơn, trẻ thường kết bạn
tùy theo hoàn cảnh cụ thể, nhưng do được chơi trong nhóm bạn bè nên cũng đã quan
tâm đến bạn. Trẻ không những quan tâm đến bạn cùng lứa mà cả đến những em bé hơn
mình, sẵn sàng nâng đỡ, nhường nhịn và thích chơi với em bé.
Có thể nói tình thương yêu của trẻ mẫu giáo đối với người xung quanh được bọc lộ
khá rõ ràng và nồng nhiệt. Tình cảm đó cũng dễ dàng được trẻ chuyển vào những nhân
vật trong truyện nhất là truyện cổ tích. Trẻ thông cảm với nổi bất hạnh của những nhân
vật trong truyện. Tình cảm của trẻ không những bộc lộ đối với người thân thích hay
nhân vật trong truyện mà còn đối với cả những nhân vật, cây cỏ, đồ vật và cả hiện tượng
thiên nhiên.
2.3.2. Đặc điểm tình cảm của trẻ mẫu giáo
Từ những biểu hiện tình cảm của trẻ mẫu giáo được nêu lên ở trên, chúng ta có thể
nhận định rằng đời sống tình cảm của trẻ mẫu giáo phát triển khá mạnh liệt, nỗi bật lên
là tính đồng cảm (dễ cảm thông và sẵn sàng chia sẽ niềm vui, nỗi buồn với người khác)
và tính dễ xúc cảm (nhạy cảm với những rung động của người khác) đối với con người

cũng như cảnh vật xung quanh. Đây là một thời điểm giáo dục thuận lợi lòng nhân ái
cho trẻ mẫu giáo.


×