MỤC LỤC
1. Mở đầu:
1.1. Lý do chọn đề tài………………………………………………
1.2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………
1.3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………............
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………… ..
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.............…………
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
2.3. Các giải pháp và biện pháp tổ chức thực hiện......................
2.4. Hiệu quả của sáng kiến ........................................................
3. Kết luận, kiến nghi:
3.1 Kết luận ....................................………………………………
3.2 Kiến nghị……………………………………………………
trang
trang
trang
trang
2
3
3
3
trang 3
trang 3
trang 5
trang 14
trang 15
trang 16
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng Việt được chia thành các phân
môn, mỗi phân môn có nhiệm vụ rèn cho học sinh một số kĩ năng nhất định.
Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh kĩ năng tái hiện các chi tiết đã quan sát
được tới khả năng nhào nặn các vật liệu có thực trong đời sống để xây dựng nên
nhân vật, hình tượng, … Từ đó tư duy lôgic của học sinh cũng được phát
triển.Tập làm văn là phân môn mang tính tổng hợp cao nhất. Nó rèn cho học
sinh cả bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết trong đó chú trọng vào các kĩ năng:
nghe, nói, viết. Hiện nay, trong các cấp học đặc biệt là bậc Tiểu học, phần lớn
học sinh viết văn rất khô khan, thiếu hình ảnh tiêu biểu nhất là văn miêu tả.
Ở bậc Tiểu học, văn miêu tả chiếm một thời lượng lớn trong các thể loại
Tập làm văn (lớp 4 dạy 30 tiết, lớp 5 dạy 26 tiết). Căn cứ vào đối tượng miêu tả,
thể loại này chia thành các kiểu bài khác nhau, bao gồm: tả đồ vật, tả cây cối, tả
con vật (lớp 4); tả cảnh, tả người (lớp 5). Tất cả các chủ đề miêu tả đều gần gũi,
nhưng vì bước đầu làm quen nên khả năng trình bày, diễn đạt một vấn đề mới
thông qua nói và viết đối với các em vẫn còn nhiều lúng túng, khó khăn. Một số
em có tâm lý e ngại khi phải trình bày, diễn giải một vấn đề nào đó trước mặt
thầy cô và bạn bè. Thậm chí, có những em ngại khi nhắc đến học Tập làm văn.
Bản thân mỗi em cũng gặp rất nhiều vướng mắc trong việc cảm nhận cái hay, cái
đẹp trong các bài văn, bài thơ.
Thực tế cho thấy, vẫn còn không ít giáo viên chưa nhận thức đầy đủ tầm
quan trọng của văn miêu tả. Chính vì vậy, chất lượng giờ Tập làm văn và các bài
viết văn miêu tả của học sinh vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều giáo viên chỉ dừng
lại ở việc hướng dẫn học sinh hoàn thành những nội dung yêu cầu của bài tập,
dựa vào gợi ý sách giáo khoa, sách giáo viên, tự thỏa mãn với nội dung có hạn
này. Một số khác chưa thực sự quan tâm phát huy hết năng lực của học sinh,
chưa tận tình giúp đỡ các em rèn giũa câu văn, ý văn sao cho hay và khéo. Còn
về phía học sinh, nhiều em chỉ dừng lại ở mức độ trả lời, liệt kê chi tiết các bộ
phận của sự vật; hoặc các hình ảnh theo gợi ý của giáo viên, khiến người học dễ
rơi vào tư duy máy móc theo lối chép văn mẫu. Mặt khác, với học sinh lớp 4,
lớp 5, vốn từ vựng mà các em học được vẫn còn khá đơn giản, nếu không chú
trọng trau dồi về ngôn ngữ, học sinh sẽ bó hẹp trong phạm vi sách vở và sẽ có
vốn từ vựng nghèo nàn. Chắc chắn khi ấy, việc diễn đạt câu văn, ý văn sẽ rất hạn
chế. Bài văn miêu tả của các em sẽ viết theo lối liệt kê, khiến câu văn hết sức
khô khan. Vì thế, chất lượng bài viết của học sinh thấp, khó cải thiện, hình ảnh
miêu tả hết sức ngô nghê tạo ra một thói quen không tốt cho các em tiếp tục học
lên ở các bậc học cao hơn. Là Hiệu Trưởng tôi luôn băn khoăn là làm thế nào
nâng cao chất lượng dạy - học văn miêu tả ở lớp 4, 5. Chính vì vậy, tôi chọn đề
tài “ Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy và học văn miêu tả
lớp 4, 5 ở trường Tiểu học”
1.2. Mục đích nghiên cứu.
2
Nghiên cứu đề tài nhằm phân tích thực trạng việc dạy học văn miêu tả ở
trường tiểu học Đông Vệ 1và các trường tiểu học khác. Từ đó làm rõ những tồn
tại, hạn chế; nguyên nhân của những tồn tại đó nhằm nâng cao chất lượng dạy
và học văn miêu tả lớp 4, 5 ở trường Tiểu học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Việc dạy và học văn miêu tả lớp 4,5 ở trường Tiểu học Đông Vệ 1 Thành
Phố Thanh Hóa
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin; Phương pháp
thống kê, xử lý số liệu; phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu,
tổng kết kinh nghiệm giáo dục; phương pháp nghiên cứu sản phẩm ...
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4, 5 đảm bảo đúng trọng tâm nhiệm vụ
môn học và đặc điểm đối tượng học sinh, các bài học được biên soạn theo các
quan điểm dạy giao tiếp, quan điểm tích hợp, quan điểm tích cực hóa hoạt động
của học sinh. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4,5 không trình bày kiến thức bằng
những kết quả cho sẵn mà xây dựng hệ thống câu hỏi bài tập yêu cầu học sinh
hoạt động nhằm chiến lĩnh kiến thức và phát triển kỹ năng nhận thức của học
sinh. Đây cũng chính là những điều kiện thuận lợi để giáo viên dạy học.
Trong chương trình tiểu học, các bài tập làm văn đều gắn với chủ điểm
của môn học. Vì vậy quá trình thực hiện các kỹ năng phân tích đề, tìm ý, quan
sát, viết đoạn văn là những cơ hội giúp học sinh mở rộng hiểu biết trong cuộc
sống. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn văn miêu tả... góp phần phát
triển khả năng phân tích, phân loại của học sinh. Tư duy hình tượng của học sinh
cũng được rèn luyện nhờ vận dụng biện pháp so sánh, nhân hóa khi miêu tả. Học
tập làm văn, học sinh cũng có điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của con người, thiên
nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình.
2.2. Thực trạng của dạy và học văn miêu tả lớp 4, 5
Trong nhiều năm gần đây, việc đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng
dạy học là nhiệm vụ trọng tâm của mỗi giáo viên, mỗi nhà trường. Vì vậy, chất
lượng dạy và học các môn học trong đó có phân môn Tập làm văn được nâng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, trong thực tế ở trường Tiểu học hiện nay, các tiết Tập làm văn
giáo viên còn nói nhiều, chưa khơi gợi, huy động vốn sống, vốn hiểu biết, cách
sử dụng từ ngữ từ phía người học. Tức là chưa chú trọng vào quy trình dạy học
sáng tạo, mà thiên về học thuộc, nhớ nhiều, để rồi bắt chước “làm văn”. …
Qua thực tế chỉ đạo dạy phân môn Tập Làm Văn ở trường Đông Vệ 1, tôi
nhận thấy, phần lớn giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng của phân môn
Tập làm văn nói chung và văn miêu tả lớp 4,5 nói riêng. Có giáo viên đã mạnh
dạn tổ chức các hình thức dạy học tích cực, gây hứng thú và cuốn hút học sinh.
Các tiết Tập làm văn đều được dạy tuân thủ theo qui trình, mục tiêu bài dạy. Tuy
3
nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn có những giáo viên chưa nhận thức được hết tầm
quan trọng của phân môn Tập làm văn. Các tiết dạy chưa được đầu tư sâu suy
nghĩ, những phương pháp giảng dạy phù hợp với tính chất môn học chưa được
chú trọng. Đặc biệt là, tiết trả bài chưa củng cố lý thuyết gắn với thực tiễn đời
sống mà chỉ làm cho qua loa. Vì vậy, các em không biết được bài viết của mình
đã đạt được những ưu điểm gì, những lỗi nào cần khắc phục, sửa chữa, đâu là
chỗ cần uốn nắn để rút kinh nghiệm. Chính cách dạy này đã làm hạn chế khả
năng viết văn miêu tả của học sinh.
Tôi đã tiến hành dự 8 tiết Tập làm văn, kèm theo một số tiết khảo sát chất
lượng. Tôi nhận thấy việc dạy và học phân môn Tập làm văn có những tồn tại
như sau: các tiết học thường kéo dài quá thời gian qui định, còn rất nhiều học
sinh còn mơ hồ về văn miêu tả. Bên cạnh đó, kĩ năng làm văn của các em còn
một số hạn chế như: khả năng quan sát, miêu tả còn chung chung, chưa thể hiện
rõ đặc điểm nổi bật của từng chủ đề mình miêu tả. Nhiều học sinh chưa biết sử
dụng những từ ngữ gợi tả cho hiệu quả, các thủ pháp nghệ thuật trong bài văn
còn giản đơn, cảm xúc của mình khi miêu tả khá gượng ép. Một điều đáng suy
nghĩ nữa là vốn từ ngữ diễn đạt ở các em còn nghèo.
Nguyên nhân dẫn đến việc học sinh viết văn miêu tả chưa tốt:
*Về phía giáo viên:
Cách dạy của nhiều giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc vào sách giáo khoa
và sách giáo viên, ít sáng tạo, chưa sinh động.
Trong chương trình thể loại văn miêu tả, các bài kiến thức không liền mạch
nên bài dạy chưa sâu.
Đại đa số giáo viên chỉ chú ý đến việc học ở lớp mà chưa chú ý đến việc
hướng dẫn các em tìm hiểu thêm sách, báo...
Để đối phó với việc học của học sinh làm bài kém, để đảm bảo chất lượng
kiểm tra ... nhiều giáo viên cho học sinh chép bài mẫu. Vì vậy dẫn đến tình trạng
cả thầy và trò nhiều khi bị lệ thuộc vào bài mẫu, không thoát khỏi bài mẫu.
* Về phía học sinh:
Qua thực tế, tôi thấy kết quả mà học sinh đạt được chưa được như mong
muốn. Học sinh còn mắc nhiều lỗi kể cả trong văn bản nói và văn bản viết cụ thể:
- Trong văn bản nói, do vốn từ ngữ còn nghèo nàn nên cách ứng xử chưa
nhanh nhạy, diễn đạt nội dung không rõ ràng mạch lạc, không lôi cuốn người nghe.
- Trong văn bản viết, câu văn diễn đạt còn lủng củng, dùng từ chưa đúng
với văn cảnh (VD: Khi miêu tả chân của con chó học sinh viết: Bốn chân to
khoẻ chắc chắn), hành văn diễn đạt khô khan, đơn điệu (VD: Khi miêu tả cái bút
mực, học sinh viết: Cái bút dài bằng một gang tay, thân bút tròn màu đỏ. Bên
trong bút có ngòi bút, em viết chữ rất đẹp, bên trong còn có cả ruột bút ,...)
- Khi tham khảo những đoạn văn, bài văn mẫu học sinh không xác định
được đâu là cái hay, cái đáng học tập của đoạn văn, bài văn đó. Có những em
xác định được nhưng lại không biết vận dụng, chế biến, chuyển thể thành sản
phẩm của mình mà sao chép nguyên vẹn đoạn văn, bài văn mẫu đó ...
4
- Học sinh miêu tả hời hợt, chung chung không có một sắc thái riêng biệt
nào với đối tượng miêu tả. Vì thế bài làm ấy không sâu sắc, đọc lên thấy mờ
nhạt nguyên nhân chủ yếu lại là kinh nghiệm sống của mình, không biết cách
quan sát nến không có được nhận xét gì cụ thể.
* Về phía chương trình :
Trong chương trình Tiểu học, Tập làm văn được biên soạn theo kiểu kết
hợp giữa văn chương nghệ thuật và văn bản nhật dụng, giúp học sinh trang bị
những kiến thức về sử dụng ngôn ngữ và rèn kỹ năng thực hành. Đan xen giữa
một số tiết học về văn miêu tả hay kể chuyện, có một số tiết học điền đơn từ,
viết đơn, tranh luận hay thuyết trình. Việc đan xen giữa các đơn vị kiến thức có
nhiều ưu điểm nhưng cũng có một số hạn chế nhất định. Nội dung bài luyện tập
tập trung quá nhiều vào việc tìm hiểu những đoạn văn mẫu. Các bài Tập đọc
cung cấp cho học sinh những kiến thức, biện pháp nghệ thuật để viết văn miêu tả còn ít.
* Về phía cha mẹ học sinh
Cha mẹ các em hầu như không quan tâm đến các em do phải vất vả mưu
sinh, do nhận thức chưa đúng về giáo dục, do trình độ không có…
* Kiểm nghiệm
Đầu năm học tôi và giáo viên chủ nhiệm kết hợp tiến hành khảo sát học
sinh về kiểu bài văn tả cảnh của khối lớp 5. Kết quả thu được như sau:
TSHS
120
Điểm 9-10
SL
TL
0
0
Điểm 7-8
SL
TL
36
30
Điểm 5-6
SL
TL
72
60
Điểm dưới 5
SL
TL
12
10
Ghi
chú
Từ những thực trạng trên cho thấy ở lớp 4 các em học về văn miêu tả còn hạn chế.
.3. Các giải pháp thực hiện
1.3.1. Chỉ đạo thực hiện đổi mới phương pháp dạy – học phân môn
Tập làm văn
2.3.1.1. Giáo viên và học sinh chuẩn bị tốt các điều kiện trước khi thực
hiện việc dạy và học giờ Tập làm văn.
*Điều tra phân loại học sinh
Giáo viên điều tra phân loại, nắm chắc từng đối tượng học sinh. Từ đó đề
ra được kế hoạch dạy học phù hợp, có những biện pháp giúp vun xới, phát triển
năng lực học văn của học sinh có năng khiếu, đồng thời giúp học sinh yếu biết
làm văn miêu tả, có thể vận dụng làm được một bài văn hoàn chỉnh.
* Giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình và phương pháp dạy Tập làm văn:
Dạy học cái gì? Dạy học như thế nào cho học sinh học giỏi Tập làm văn,
viết được những bài văn miêu tả sinh động ? Điều cơ bản là người dạy phải nắm
vững nội dung chương trình, đồng thời, biết chọn lựa và vận dụng phương pháp
phù hợp truyền thụ kiến thức cho học sinh. Giáo viên một mặt biết được học
sinh cần nội dung gì, những mơ hồ về chưa biết về mục tiêu bài dạy rất cần chia
sẻ, mặt khác, xác lập được mối quan hệ logic giữa kiến thức bài dạy với kiến
thức cũ và kiến thức sẽ cung cấp tiếp theo. Cụ thể, giáo viên cần nắm vững các vấn đề sau :
5
Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 4,5: mỗi lớp có 62 tiết cả năm, trong
đó Tập làm văn miêu tả lớp 4 là 30 tiết; lớp 5 là 26 tiết tả cảnh và tả người, 17
tiết ôn tập văn miêu tả (chiếm hơn 50% số tiết). Mục tiêu của miêu tả là trang bị
kiến thức và rèn luyện kĩ năng làm văn, góp phần cùng với các môn học khác
làm giàu thêm vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ,
hình thành nhân cách cho học sinh.
Quy trình dạy Tập làm văn:
Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững quy trình dạy đối với hai
loại bài Tập làm văn: loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực hành. Khi dạy,
từng loại bài, giáo viên cần chú ý đến các đối tượng học sinh của lớp: có nội
dung cho học sinh khá, giỏi; có nội dung cho học sinh trung bình, yếu,...
2.3.1.2. Xác định yêu cầu trọng tâm đề bài:
Bài văn của học sinh được viết theo một đề bài cụ thể, cho nên yêu cầu
hàng đầu là các em phải viết đúng đề bài. Một đề bài đưa ra cho học sinh viết
thường ẩn chứa đến 3 yêu cầu: yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu về nội
dung, yêu cầu về trọng tâm.
Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp 5:
“ Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay
trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy).
Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp học
sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội
dung bài viết: Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:
a. Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
b. Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ
“cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
c. Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên….).
Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề
bài “Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này,
giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết.
Chẳng hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”...
Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên
các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,...
2.3.1.3 Rèn luyện kĩ năng quan sát, tìm ý cho học sinh.
Hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý trước khi làm bài tập làm văn là một việc làm
cần thiết và quan trọng. Điều kiện và phương pháp cơ bản để làm tốt bài văn miêu
tả là phải biết quan sát và chọn lọc những chi tiết quan sát được. Mọi kết quả quan
sát được thể hiện trong bài miêu tả. Nếu quan sát tinh vi, thấu đáo bài viết sẽ đặc
sắc, hấp dẫn. Quan sát hời hợt, phiến diện bài viết sẽ khô khan, nông cạn. Do vậy,
giáo viên phải tạo điều kiện cho các em sở mục tận nơi, quan sát đối tượng được
miêu tả, coi việc tổ chức cho các em quan sát trực tiếp đối tượng được miêu tả là
một công việc thuộc nguyên tắc dạy học làm văn miêu tả. Giáo viên phải dạy tốt
tiết quan sát tìm ý. Trong tiết học đó, học sinh phải tập quan sát bằng nhiều giác
6
quan khác nhau. Tuy vậy, giáo viên cũng cần hướng dẫn các em quan sát, huy động
vốn sống, khả năng tưởng tượng và cảm xúc rồi ghi chép lại. Muốn vậy, giáo viên
phải nghiên cứu kỹ chương trình, có kế hoạch hướng dẫn học sinh quan sát trực
tiếp đối tượng cần miêu tả. Việc quan sát cũng có thể tiến hành trên lớp, cũng có
khi tiến hành ngoài lớp.
Hướng dẫn học sinh quan sát theo trình tự từ xa đến gần, từ trong ra
ngoài, từ tổng quát đến cụ thể… Học sinh ghi chép những điều đã quan sát được
vào vở nháp. Tổ chức cho học sinh quan sát cụ thể đối tượng miêu tả. Có thể
hướng dẫn quan sát theo nhiều hình thức: quan sát trực tiếp đối tượng (sân
trường, cây phượng, cánh đồng, ...), quan sát ở nhà, ghi chép (ngôi nhà em đang
ở), quan sát qua phim ảnh (cảnh biển buổi sáng) …
Ví dụ: Đề bài: Em hãy tả cánh đồng quê em.
Học sinh quan sát và ghi chép vào vở nháp những điều đã quan sát được.
- Cánh đồng quê em nằm ở phía sau làng.
- Vào buổi chiều, không khí trên cánh đồng: mát mẻ, dễ chịu gió thổi nhẹ
- Cảnh đồng lúa: lúa đang thì con gái, màu xanh rờn trông như tấm thảm
nhung màu xanh.
- Trên bờ ruộng: mấy bác nông dân dắt trâu về, một số người đi thăm đồng.
- Trên trời: Đàn chim bay về tổ, tiếng sáo diều vi vu vi vút...
- Buổi chiều muộn: mặt trời còn cao sau đó dần dần xuống thấp hơn, những
tia nắng nhạt dần, người đi lại lác đác.
- Khi mặt trời lặn hẳn: cánh đồng vắng vẻ chỉ còn tiếng gió thổi, trời nhá nhem tối.
2.3.1.4. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý chi tiết.
Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh lập dàn ý trước khi làm thành một
bài văn hoàn chỉnh. Có lập được dàn bài thì mới có thể tìm ý, sắp xếp ý, viết
thành một bài văn mạch lạc, bố cục rõ ràng, ý văn trong sáng.
Sau khi tìm ý, học sinh sẽ sắp xếp ý thành các đoạn mở bài, thân bài, kết bài.
Giáo viên cần lưu ý cho học sinh mục đích của từng đoạn văn. Đoạn mở
bài có tác dụng giới thiệu cho người đọc, người nghe biết đối tượng miêu tả.
Đoạn thân bài là bức tranh vẽ bằng lời hình dáng, đường nét, cử chỉ hoạt động,
màu sắc của đối tượng. Có chọn được những chi tiết đặc sắc, tiêu biểu ta mới vẽ
được một nhân vật mang những cá tính riêng. Bạn học sinh trong bài là một học
sinh vùng nông thôn với những đặc điểm riêng, cá tính riêng không lẫn với bất
cứ một bạn học sinh nào khác. Đoạn kết bài mang đậm dấu ấn cá nhân của
người viết. Không thể có đoạn kết bài chung cho mọi học sinh. Giáo viên cần
hướng dẫn học sinh nêu được cảm xúc tự nhiên, chân thật, không sáo rỗng kiểu như:
Em rất yêu quý bạn…
2.3.1.5. Hướng dẫn học sinh diễn đạt có nghệ thuật.
* Hướng dẫn học sinh tập diễn đạt bằng câu văn có hình ảnh
Đối với phần này, diễn đạt câu văn có hình ảnh rất phù hợp với thể loại văn
miêu tả. Trước hết, giáo viên hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu một số đoạn văn
7
mẫu hoặc những đoạn viết hay của học sinh để nhận xét về cách miêu tả, cách
sử dụng các biện pháp nghệ thuật.Từ đó, sẽ dễ dàng cho việc hướng dẫn các em
diễn đạt bằng câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp tu từ đã học
như: so sánh, nhân hoá... trong bài làm.
Ví dụ: Giáo viên lấy trực tiếp những câu văn, đoạn văn hay của học sinh có
sử dụng các biện pháp so sánh hoặc nhân hóa khi tả về cây bàng như:“Nhìn từ
xa, cây bàng như chiếc ô xanh khổng lồ mát rượi.Cành lá mơn man đùa vui
trong gió như vẫy chào chúng em”, hoặc khi tả cây đa các em đã viết: “ Những
chiếc rễ ăn sâu bò rộng trên khắp mặt đất. Có những cái rề như những con rắn
khổng lồ bò ra bốn phía. Nó còn làm thành những chiếc ghế cho người đi chùa
ngồi nghỉ hóng mát và ngắm cảnh chùa”.
Giáo viên yêu cầu học sinh nêu nhận xét của mình về những câu văn trên
như bạn đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Các biện pháp đó có tác dụng gì?
Học sinh so sánh những câu văn trên với những câu văn khác không sử dụng các
biện pháp nghệ thuật xem cách miêu tả nào hay hơn, sinh động và hấp dẫn hơn?
Để học sinh diễn đạt được bài văn của mình một cách sinh động, có nghệ
thuật, các em thường được trau dồi qua tiết: Luyện tập xây dựng đoạn văn, luyện
tập xây dựng mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả. Luyện tập miêu tả các bộ
phận của cây cối. Lập dàn ý cho bài văn miêu tả. Luyện tập tả ngoại hình, tả
hoạt động trong bài văn tả người…Qua những tiết Tập làm văn này, học sinh được thể hiện cách diễn đạt của mình và học tập bạn, học sinh được luyện tập
cách viết mở bài, kết bài và luyện tập xây dựng đoạn văn. Qua đó, học sinh tập
vận dụng một số biện pháp nghệ thuật đã học vào việc diễn tả nội dung.
Ví dụ: Khi viết văn, học sinh vận dụng sáng tạo những từ láy, từ chỉ màu
sắc, âm thanh, từ biểu cảm, biện pháp so sánh, nhân hoá... Những từ ngữ này là
thế mạnh đặc trưng của Tiếng Việt, là phương tiện miêu tả rất hiệu quả. Giáo
viên cần khai thác giá trị của lớp ngôn từ nghệ thuật này để hướng dẫn học sinh
sử dụng cái hay, cái đẹp, cái bóng bẩy, giàu tính gợi tả và hình ảnh gợi cảm của
tiếng Việt. Trong bài văn của các em ta đã gặp cách dùng từ như: ngọn cây cao
vút, bông hồng mỉm cười,... hay những câu văn học sinh sử dụng các biện pháp
nghệ thuật khi tả về hoa phượng “Khi chưa muốn khoe vẻ đẹp của mình, hoa e
lệ ẩn mình trong lớp đài hoa xanh mỡ màng”. Hay có những câu học sinh tả hoa
mai vàng: “Mỗi cơn gió thoảng qua, những cánh hoa rơi như những con bướm
vàng lượn bay trước khi rơi xuống đất”.
Như vậy, việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong miêu tả rất quan
trọng. Sử dụng so sánh tu từ sẽ giúp các em thể hiện kín đáo mà sâu sắc tình
cảm, cảm xúc, thái độ, và sự đánh giá về đối tượng; làm cho đối tượng trở nên
đẹp đẽ, sinh động, cụ thể, hấp dẫn, lôi cuốn sự chú ý và dễ gợi liên tưởng bất
ngờ độc đáo cho người đọc, người nghe. Cũng như so sánh, nhân hoá được sử
dụng trong miêu tả rất hữu hiệu vì nó là con đường ngắn nhất đưa sự trừu tượng,
khô khan đến với nhận thức của con người.
* Luyện cho học sinh xây dựng mở bài, kết bài
8
Giáo viên cần cho học sinh hiểu rõ: Nếu viết mở bài hay, bài văn sẽ cuốn
hút người nghe, người đọc. Kết bài hay, hấp dẫn sẽ để lại trong lòng người đọc
ấn tượng nhớ mãi, khó quên. Do vậy, phần mở bài và kết bài trong bài văn là rất quan trọng.
Phần mở bài:
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh viết phần mở bài theo cách trực tiếp
hoặc gián tiếp. Có thể mở bài bằng một câu hoặc bằng một đoạn văn nhưng
không được phép tách rời nội dung đã xây dựng được. Dù mở bài bằng cách nào
thì cũng phải đạt được yêu cầu là giới thiệu được đối tượng định tả. Tuỳ nghệ
thuật vào bài của từng em, giáo viên không nên gò bó, áp đặt. Học sinh mở bài
bằng những cách khác nhau nhưng vẫn đảm bảo nội dung một cách tự nhiên với
sự nhận thức và tình cảm của chính mình.
Ví dụ : Khi học sinh tả cây trong vườn mà em yêu thích, học sinh có thể
mở bài theo những cách sau: “ Bên cạnh bờ ao nhà em, một hàng xoan đang
mùa hoa nở, soi vẻ đẹp rực rỡ của mình trên mặt nước”. (Mở bài trực tiếp)
Hoặc: “ Mười năm trước đây, ông em đã trồng một hàng xoan bên bờ
ao.Giờ là tháng ba, những cây xoan ấy đã lớn và đang khoe những chùm hoa
đẹp nhất của mình.” (Mở bài gián tiếp)
Qua hai cách mở bài trên, giáo viên cần cho học sinh nhận xét cách mở bài
nào hay hơn, sâu hơn. Từ đó, giáo viên khuyến khích học sinh viết mở bài theo
cách gián tiếp để phần mở bài hay hơn, sâu hơn, hấp dẫn người đọc. (Giáo viên
cần lưu ý khi dạy học sinh khá, giỏi)
Phần kết bài:
Giống như mở bài, kết bài có thể bằng nhiều cách, có thể kết bài mở rộng
hoặc kết bài không mở rộng. Giáo viên hướng cho học sinh nên chọn cách nào
phù hợp với mở bài và thân bài thì bài văn mới đúng trọng tâm, mới hay.
Để học sinh hiểu và viết tốt hơn hai cách kết bài này, giáo viên cũng cần
làm rõ cho học sinh hiểu thế nào là kết bài mở rộng hoặc kết bài không mở
rộng? Kết bài mở rộng: Nêu ý nghĩa kết hợp đưa ra lời bình luận cũng như tình
cảm của người viết đối với đối tượng đang tả. Kết bài không mở rộng: Có thể
nêu ích lợi hoặc tình cảm của người tả đối với đối tượng tả, không bình luận gì thêm.
Ví dụ : học sinh viết phần kết bài cho bài văn tả cây bóng mát ở sân
trường như sau: “ Em rất thích cây phượng ở sân trường. Dù đi đâu xa em vẫn
nhớ về nó.”(Kết bài không mở rộng) Hoặc “ Rồi cũng sẽ đến ngày chúng em
phải xa mái trường tiểu học thân yêu, xa cây phượng già với bao kỷ niệm buồn
vui của tuổi học trò. Em sẽ không bao giờ quên cây phượng, quên những giờ
phút chúng em đã cùng nhau ngồi ôn bài, ngồi hóng mát và trò chuyện. Vì vậy,
dù đi đâu em vẫn luôn nhớ về cây như nhớ về những kỷ niệm đẹp của tuổi học trò”. (Kết
bài mở rộng)
Như vậy, với hai cách kết bài trên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thảo
luận và nêu nhận xét xem cách kết bài nào của bạn hay hơn? Hay hơn chỗ nào?
Vì sao lại hay? Từ đó, giáo viên nên khuyến khích nhiều học sinh học tập cách
kết bài mở rộng để bài văn có chiều sâu hơn.
9
2.3.1.6. Luyện viết câu văn ngắn gọn, biết sử dụng các dấu câu và bố cục
bài văn rõ ràng.
Thực trạng cho thấy, nhiều học sinh chưa biết sử dụng đúng dấu câu trong bài
văn. Có những bài văn học sinh không hề sử dụng dấu câu, chỗ nào thích viết hoa
là các em tự do viết hoa. Để khắc phục tình trạng này, ngay khi luyện viết từng
đoạn, giáo viên cần giúp học sinh hiểu, biết cách ngắt các ý diễn đạt bằng các dấu
câu như dấu phẩy, dấu chấm. Trong các tiết làm văn đầu tiên, việc hướng dẫn sử
dụng dấu câu đòi hỏi giáo viên phải thật sự kiên trì, tận tình, công phu để tập thói
quen cho học sinh. Cụ thể là: Cho học sinh đọc đoạn văn mình viết, nêu chỗ dùng
dấu câu, nếu dấu câu dùng chưa đúng, giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát hiện
lỗi sai vì sao lại chưa đúng và cách sửa lại như thế nào cho phù hợp. Hoặc nếu chưa
có dấu câu nào thì yêu cầu học sinh học sinh đọc kĩ lại từng câu, xem từng câu diễn
đạt nội dung gì, ý gì, từ đó có cách sử dụng dấu câu phù hợp. Ở phần này, giáo viên
tập trung vào những học sinh thường sử dụng sai dấu câu. Qua việc hướng dẫn
những học sinh thường sử dụng dấu câu sai, những học sinh khác cũng tự soát bài
và rút kinh nghiệm cho bản thân trong mỗi bài viết.
Bên cạnh đó, giáo viên cần giúp học sinh biết viết câu văn ngắn gọn. Khi
luyện cho học sinh viết từng đoạn văn, đặc biệt là viết các đoạn ở thân bài, giáo
viên hướng dẫn học sinh diễn đạt câu văn rõ ràng, mạnh lạc, sinh động nhưng lại
phải giàu hình ảnh bằng cách sử dụng hợp lý các từ láy, từ tượng thanh, tượng
hình, từ ghép.... có thể mở rộng nòng cốt câu nhưng lời lẽ phải rõ ràng, không
lủng củng, trùng lặp. Trong các tiết luyện tập xây dựng đoạn văn, giáo viên nên
cho học sinh viết nháp, gọi một số học sinh trình bày, cả lớp và giáo viên cùng
sửa cách dùng từ, cách diễn đạt, đưa ra các phương án diễn đạt hay để học sinh
học tập.. Sau đó học sinh mới viết lại đoạn văn vào vở. Với những câu văn học
sinh viết dài dòng mà không sáng ý, giáo viên nên cho học sinh nêu ý cần thông
báo là gì rồi tập cho học sinh lựa chọn từ ngữ, sắp xếp câu để viết ngắn gọn mà
vẫn đảm bảo nội dung.
Việc lựa chọn, sử dụng phù hợp các từ ngữ trong mỗi câu văn là một kỹ
năng khó đòi hỏi học sinh phải thực hành viết nhiều mới có được. Có thể do
tâm lý phải viết nhiều, học sinh sẽ ngại viết, ngại làm bài. Do đó, giáo viên
thường xuyên động viên, khuyến khích giúp các em dần dần say mê với việc
học làm văn. Đặc biệt giáo viên cần giúp các em bố cục bài viết rõ 3 phần.
Hết mỗi phần mở bài, thân bài, kết bài phải xuống dòng. Trong phần thân
bài có thể có nhiều đoạn văn, mỗi đoạn văn nêu một nội dung nhất định.
2.3.1.7. Giúp học sinh mở rộng vốn từ; kết hợp các biện pháp nghệ
thuật; cảm nhận cái hay, cái đep của đoạn văn và tích luỹ vốn kiến thức văn
học.
* Giúp học sinh mở rộng vốn từ :
Nếu học kiểu bài kể chuyện học sinh chỉ tái hiện lại nội dung câu chuyện
đã nghe, đã đọc là có thể đạt được yêu cầu cơ bản của đề bài thì văn miêu tả đòi
hỏi phải có một vốn từ phong phú mới có thể làm bài. Thế giới quanh ta rất
10
phong phú đa dạng và không ngừng biến đổi. Người viết văn không thể “vẽ”
được một cảnh, một người nếu bản thân người ấy thiếu vốn từ, vốn sống.
Mở rộng vốn từ cho học sinh có nghĩa là giúp cho các em nắm một số từ
gợi tả để có thể dùng trong miêu tả. Cho học sinh tìm từ bằng các hình thức như:
quan sát thực tế: quan sát tranh ảnh, xem phim, đọc sách truyện, nhất là qua các
phân môn của Tiếng Việt hoặc các môn học khác. Ví dụ: Dạy Luyện từ và câu
bài từ đồng nghĩa, giáo viên gợi ý cho học sinh tìm các từ gợi tả đồng nghĩa như
bao la, mênh mông, bát ngát.
Qua hình thức trò chơi như: tìm từ láy âm gợi tả hình ảnh.
Trên cơ sở những từ láy tìm được, giáo viên tiếp tục cho học sinh xác định
những từ láy chỉ dùng để tả người: nho nhỏ - đủng đỉnh – mượt mà - đẫy đà cứng cáp – thướt tha - nhanh nhẹn - nũng nịu…
* Hướng dẫn học sinh kết hợp các biện pháp nghệ thuật.
Nếu như khi viết văn miêu tả các em chỉ dừng lại ở việc tả thì bài văn trở
nên khô khan. Ví dụ tả mái tóc của bạn: Lan có mái tóc đen huyền. Hay tả cây:
Nhìn từ xa, cây phượng cao to.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh
và nhân hoá trong quá trình làm bài để bài viết của các em sinh động hơn, hấp
dẫn hơn. Ví dụ: - Lan có mái tóc đen huyền, mượt như nhung.
- Nhìn từ xa, cây phượng như một chiếc ô khổng lồ bung nở
- Nó đã là cây chuối to đĩnh đạc.
- Cành bàng xòe ra như những nan sắt của chiếc ô khổng lồ.
* Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, cảm nhận cái hay, cái đẹp của một đoạn văn
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu để cảm nhận cái hay, cái đẹp qua việc đọc
một đoạn văn hay để cảm nhận được cái hay, cái đẹp, các em sẽ hình thành
những cảm xúc thẩm mĩ, giúp cho việc học tập làm văn tốt hơn, nhất là văn miêu tả.
- Để hướng dẫn tìm hiểu cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn văn, giáo viên
hướng dẫn học sinh hình thành thói quen suy nghĩ, tự đặt và ghi các câu hỏi
xoay quanh nội dung đoạn văn. Kết quả học sinh đặt ra các câu hỏi như:
Đoạn văn trên miêu tả đặc điểm gì của nhân vật?
Đoạn văn trên có những từ láy nào gợi tả hình ảnh của nhân vật?
Đoạn văn trên có những hình ảnh so sánh nào?
Em có suy nghĩ gì sau khi đọc đoạn văn trên? …
* Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn kiến thức văn học
Tích lũy văn học là điều kiện tối thiểu để có thể học tốt môn tiếng Việt,
nhất là phân môn Tập làm văn. Giáo viên đã cho học sinh sử dụng sổ tay chính
tả để ghi chép những tiếng khó, ghi những trường hợp mắc lỗi chính tả đã được
sửa chữa. Trong môn Tập làm văn, đây cũng là một biện pháp tích cực để giúp
học sinh trau dồi vốn kiến thức văn học. Sổ tay văn học để cho học sinh ghi chép
các ý hay, câu đoạn văn hay. Việc ghi chép này không nhất thiết để cho học sinh
khi làm văn sẽ mở ra sử dụng nhưng trước hết, mỗi lần ghi chép, các em sẽ được
11
một lần đọc, ghi nhớ, bắt chước, lâu dần thành thói quen. Khi làm bài, những từ
ngữ, hình ảnh, ý văn sẽ tự động tái hiện, giúp học sinh có thể vận dụng làm văn.
2.3.1.8. Phát huy tính tích cực của các đối tượng học sinh trong giờ học
Để phát huy được tính tích cực của học sinh, giáo viên cần chú ý tới tất cả
mọi đối tượng học sinh. Muốn vậy, giáo viên cần phải phân định theo nhiều mức
độ (Hoàn thành tốt, Hoàn thành và Chưa hoàn thành), có cách tổ chức dạy, học
phù hợp để phát huy, khích lệ tất cả mọi học sinh học tập.
Muốn phát huy được tính tích cực của học sinh, chủ công phải là người
thầy. Mỗi giờ dạy, giáo viên phải có hệ thống câu hỏi có tính chất gợi mở, định
hướng cho mọi đối tượng học sinh đều có thể trả lời được, đáp ứng được yêu
cầu của giáo viên. Mặt khác, phải động viên kịp thời khi học sinh có tiến bộ,
đặc biệt là học sinh trung bình và học sinh yếu. Giáo viên cũng cần chú ý hơn
khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh giỏi, nên khuyến khích các em mạnh dạn,
tự nhiên hơn trong cách viết. Muốn vậy, giáo viên nên tổ chức và giành nhiều
thời gian hơn cho học sinh vào buổi học thứ 2 trong ngày được thực hành viết
đoạn văn nhiều lần, sau mỗi lần, giáo viên giúp đỡ các em chỉnh sửa để có được
những đoạn văn, bài văn hay và hoàn chỉnh. Với những em viết văn còn nhiều
lỗi chính tả thì đây cũng là thời gian, cơ hội cho phép các em rèn luyện về chính
tả. Tuỳ theo từng học sinh, giáo viên có thể tự đánh giá và phân chia đối
tượng, tổ chức luyện tập viết văn sao cho phù hợp.
Tóm lại, trong giờ Tập làm văn, nếu giáo viên biết tổ chức các hoạt động
phát huy được tính tích cực của học sinh theo từng đối tượng thì tất cả mọi đối
tượng học sinh sẽ tự tin hơn, mạnh dạn hơn để bày tỏ suy nghĩ của mình thông
qua bài viết. Cũng như tự học sinh có thể rút ra những kiến thức cần ghi nhớ để
vận dụng vào thực hành nói – viết văn ngày một tốt hơn.
2.3.2. Rèn kĩ năng viết văn cho học sinh trong tiết trả bài
Chấm chữa bài là một công việc thường xuyên của giáo viên. Công việc
này rất cần thiết đối với phân môn Tập làm văn. Vì nếu giáo viên chịu khó chấm
chữa bài thường xuyên, chắc chắn sẽ nắm được lực học của từng em, từng đối
tượng về cách viết văn. Từ đó, giáo viên nắm được những phần mà học sinh đã
làm được, cũng như phát hiện và nắm được các lỗi sai mà học sinh thường mắc
phải trong bài văn như lỗi chính tả, lỗi về cách dùng từ, ngữ pháp, về cách diễn
đạt câu, đoạn và cấu tạo của bài văn. Để từ đó, giáo viên có biện pháp giúp đỡ,
bồi dưỡng hướng dẫn các em biết cách viết ngày càng hay hơn.
Để làm tốt phần này, giáo viên cần phải đầu tư dạy tốt tiết Tập làm văn trả
bài viết. Trong tiết trả bài các em tự đánh giá được bài viết của mình, nhận xét
bài của bạn; thấy được ưu điểm, hạn chế trong bài làm của mình, của bạn, biết
sửa lỗi, viết đoạn văn hay hơn.
Để thực hiện tốt tiết trả bài, giáo viên phải chuẩn bị tốt các việc như sau :
- Chấm bài viết của học sinh thật kĩ, phát hiện và ghi lại những ưu điểm, hạn
chế phổ biến của bài văn : bài hay, đoạn hay, câu hay, ý sáng tạo, từ hay, bố cục
12
chặt chẽ; dùng từ chưa chính xác, lặp từ, lặp ý, câu chưa hoàn chỉnh (thiếu thành
phần, chưa rõ nghĩa), lỗi chính tả.
- Ghi nhận xét cụ thể của giáo viên vào bài của học sinh.
- Giáo viên chọn đoạn, bài văn tiêu biểu của lớp có thể chọn thêm bài của
năm trước cho các em tham khảo.
- Chuẩn bị câu hỏi gợi mở (dẫn dắt học sinh tự phát hiện, nhận thức được
sai sót trong bài viết của mình, của bạn), giáo viên sử dụng phương pháp nêu
vấn đề kết hợp giảng giải để dạy tiết trả bài.
Ví dụ: khi dạy tiết học trả bài văn miêu tả đồ vật (tuần 26- Lớp 5). Sau khi
chấm bài xong, giáo viên cần nêu nhận xét chung về bài làm của học sinh. Nhận
xét những ưu điểm mà học sinh đã làm được và những tồn tại học sinh còn mắc
phải. Sau đó, giáo viên phát bài cho học sinh, yêu cầu các em đọc lại lời phê của
giáo viên và cho học sinh đổi bài cho nhau trong một nhóm đôi, tìm ra những lỗi
sai trong bài như: sai về chính tả, cách dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp
nghệ thuật chưa phù hợp... Sau đó, học sinh tự nêu lỗi sai trong bài và tự tìm
cách sửa lỗi. Cuối cùng, giáo viên hướng dẫn cả lớp cùng nêu cách sửa lỗi chung.
Bước tiếp theo, giáo viên đọc mẫu những đoạn văn, bài văn hay cho học
sinh nghe và nêu nhận xét đoạn văn hay chỗ nào? Vì sao? Trên cơ sở đó, học
sinh có thể học tập cách viết của bạn để viết lại một đoạn văn khác hay hơn.
Chẳng hạn, viết lại phần thân bài, mở bài theo cách gián tiếp và kết bài theo cách mở rộng.
Tiết trả bài là rất quan trọng. Vì đây là dịp cho mỗi học sinh có điều kiện
nhìn lại bài của mình, so sánh với bài của bạn mình và nhận ra những mặt mạnh
và điểm yếu một cách rõ hơn. Để từ đó, học sinh biết được bài viết của mình còn
phần nào chưa được, có ý thức khắc phục, cũng như có cơ hội học tập cách viết
của bạn, cố gắng sao cho bài viết của mình ngày càng hoàn thiện hơn, tiến bộ hơn.
2.2.3. Đổi mới cách kiểm tra, đánh giá học sinh
Giáo viên cần nắm vững Chuẩn kiến thức kỹ năng phân môn Tập làm văn
và Thông tư 32/2009, Thông tư 30/2015 Thông tư 22/2016 của Bộ GD&ĐT để
thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh cả về hình thức kiểm tra và cách
đánh giá. Đảm bảo tính phân hóa, cá thể hóa tới từng đối tượng, từng mặt hoạt
động của học sinh; có tác dụng động viên, khuyến khích, coi trọng sự tiến bộ
của học sinh. Đánh giá về hiểu và vận dụng kiến thức, về kỹ năng viết văn, tránh
ghi nhớ, thuộc lòng máy móc.
2.3.4. Tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp tích hợp nội
dung dạy học văn miêu tả
Tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh gắn với
quan sát thực tế đối tượng của văn miêu tả trong chương trình.
Tổ chức các cuộc thi kể chuyện, diễn tiểu phẩm, đọc thơ, viết văn, hùng
biện... với những đề tài gần gũi với mái trường, gia đình và làng xóm để rèn kỹ
năng viết văn cho học sinh. Qua đó, bồi dưỡng cho các em lòng yêu quê hương
đất nước, sống có trách nhiệm và ước mơ trong sáng, lành mạnh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
13
Những giải pháp vừa trình bày ở trên giúp cho cả giáo viên và học sinh tự
tin, chủ động hơn trong các tiết dạy học Tập làm văn miêu tả. Nó làm cho các
giờ Tập làm văn cũng trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn. Học sinh vì thế cũng
không còn lúng túng trong việc lập dàn ý cho mỗi bài văn; việc viết một đoạn
văn hay, hoặc một bài văn của các em trở nên dễ dàng hơn. Các em biết miêu tả
một số đặc điểm, tính chất của một sự vật cụ thể theo yêu cầu, biết viết câu văn
đúng ngữ pháp, rõ ý; vang nhạc, sáng hình; biết sử dụng những từ ngữ sát nghĩa,
có tác dụng gợi tả, gợi cảm; bước đầu biết sử dụng biện pháp tu từ đơn giản khi
viết văn. Lời văn, ý văn của các em không còn mang nặng tính liệt kê hay kể lể nữa.
Thông qua việc dự giờ thăm lớp thường xuyên, qua quan sát trực tiếp hoạt
động dạy và học trên lớp cho thấy kết quả học tập phân môn Tập làm văn lớp
4,5 nói chung và văn miêu tả nói riêng được thể hiện ở chỗ: Các em nói, viết
được những đoạn văn, bài văn đúng với yêu cầu của đề bài. Các em say mê, ham
thích đọc và nghe các tác phẩm văn học, mong muốn học cách diễn đạt tác phẩm
văn học chuẩn mực, tinh tế; biết vận dụng vào việc bày tỏ ý nghĩ và tình cảm tự
nhiên, chân thật và sâu sắc trong bài văn. Qua các bài Tập làm văn, các em có cơ
hội bộc lộ vốn sống thực tế của mình, có ý thức viết được bài văn đúng đến bài
văn hay. Từ đó, các em có điều kiện cảm nhận được vẻ đẹp của thơ văn một
cách tinh tế và sâu sắc.
Sau một năm học chỉ đạo giáo viên lớp 4, lớp 5 thực hiện một số giải pháp
dạy học Tập làm văn nêu trên, tôi nhận thấy chất lượng giảng dạy môn Tiếng
Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng của nhà trường đã có một số
tiến bộ rõ rệt. Nhờ vậy, chất lượng phân môn Tập làm văn cũng như môn Tiếng
Việt đã được nâng lên. Kết quả khảo sát khả năng làm văn vừa qua đối với phân
môn Tập làm văn của 105 học sinh lớp 4 và 120 học sinh lớp 5 năm học 20162017 như sau:
Kết quả của khối lớp 5:
TSHS
120
Điểm 9-10
SL
TL
25
20,8
Điểm 7-8
SL
TL
60
50
Điểm 5-6
SL
TL
35
29,2
Điểm dưới 5
SL
TL
0
0
Ghi
chú
Điểm 5-6
SL
TL
28
26,7
Điểm dưới 5
SL
TL
2
1,9
Ghi
chú
Kết quả của khối lớp 4:
TSHS
105
Điểm 9-10
SL
TL
20
19
Điểm 7-8
SL
TL
55
52,4
Như vậy, kết quả khảo sát phân môn Tập làm văn của khối lớp 4, 5 cho thấy
học sinh có sự tiến bộ rõ rệt. Đa số học sinh nắm được bố cục bài viết, kỹ năng
sử dụng ngôn ngữ được nâng cao. Các biện pháp tu từ Tiếng Việt được sử dụng
nhuần nhuyễn hơn. Việc dạy học kết hợp với kiểm tra đánh giá thường xuyên,
14
định kỳ sẽ giúp học sinh tiến bộ hơn, chất lượng làm bài Tập làm văn của hai
khối lớp 4, 5 có kết quả. Kiến thức và kỹ năng đạt Hoàn thành trở lên đối với
khối lớp 5 là 100% và đối với khối lớp 4 là 98,1 %( tính đến thời điểm giữa kì 2
năm học 2016- 2017)
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng, bản thân tôi là cán bộ quản lý đã rút
ra được một số kinh nghiệm sau:
Trước hết, phải tạo cho người thầy giáo luôn có lòng yêu nghề, yêu người,
có ý thức trách nhiệm và tinh thần cầu tiến, không ngừng học hỏi và mạnh dạn
áp dụng những cái mới vào trong thực tiễn giảng dạy.
Giáo viên phải thấy rõ nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của người giáo viên
tiểu học là phải nắm vững đối tượng học sinh, hiểu rõ trình độ và năng lực, hoàn
cảnh và sở thích của từng em cũng như tâm sinh lí lứa tuổi học sinh. Phân loại
được học sinh, người giáo viên mới có thể áp dụng những phương pháp dạy học
phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh, với từng cá thể học sinh.
Chỉ đạo giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu, dự giờ đồng nghiệp, tham
dự đầy đủ các lớp tập huấn chuyên môn … để nắm bắt những thông tin về nội
dung, phương pháp của chương trình môn Tiếng Việt. Từ đó, giáo viên mới có
thể lập kế hoạch dạy học và kế hoạch bài học một cách khoa học, có sự tích hợp
giữa kiến thức các môn học và các lớp học với nhau.
Giáo viên phải thực sự có lòng nhiệt tình và tâm huyết với nghề nghiệp. Rõ
ràng, sự miệt mài, tận tuỵ của người giáo viên sẽ tạo ra niềm đam mê học tập ở
học sinh, sẽ có nhiều học sinh giỏi văn, yêu văn hơn. Sau thời gian đầu tư
nghiên cứu, áp dụng những giải pháp dạy học như trên cho học sinh lớp 4,5 của
trường, chất lượng bài làm của học sinh đã có chuyển biến, đi lên đáng kể ở
phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
Tập làm văn đúng là phân môn có tính chất tổng hợp và sáng tạo cao. Cho
nên, mỗi bài văn của học sinh phải là một tác phẩm văn học do các em lĩnh hội,
thiết kế. Mỗi người giáo viên phải biết trân trọng suy nghĩ nhiều chiều của các
em, giúp đỡ học sinh mỗi ngày sẽ góp phần cải thiện chất lượng giáo dục, đưa
lại những thành công trong giao tiếp và cuộc sống mỗi người. Điều này sẽ tạo ra
môi trường giáo dục thân thiện, nhân văn. Với mong muốn nâng cao chất lượng
môn Tiếng Việt cấp Tiểu học, tôi hy vọng môn văn sẽ là chiếc chìa khóa công
cụ, góp phần cho các em hiểu biết các môn học khác tốt hơn.
3.2. Kiến nghi
1. Đối với cấp trên : Cần điều chỉnh phân phối chương trình Tập làm
văn lớp 4-5, dành thêm một số tiết Tập làm văn cho học sinh rèn kỹ năng viết
bài và giáo viên trả bài kỹ lưỡng hơn. Các bài văn cùng thể loại cần được sắp
xếp liền mạch, tạo ra các Modul giáo dục, giúp học sinh dễ tiếp nhận hơn. Bổ
sung thêm các bài tập đọc cung cấp kiến thức viết văn miêu tả cho học sinh.
15
2. Đối với nhà trường : Cần nâng cao chất lượng chuyên môn, mở các
chuyên đề về văn miêu tả, bàn bạc, rút kinh nghiệm chung
3. Đối với các đồng chí giáo viên dạy lớp 4- 5 : Mỗi thầy, cô giáo cần phải
đầu tư hơn nữa về kiến thức thực tế, mạnh dạn đổi mới phương pháp, cải tiến
phương tiện dạy học cho mỗi giờ học.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong việc chỉ đạo nâng cao chất
lượng dạy học văn miêu tả ở lớp 4- 5. Trong quá trình thực hiện, sẽ không tránh
khỏi thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến từ hội đồng khoa học các cấp, giúp
tôi thực hiện nhiệm vụ quản lí và giảng dạy ngày một tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG
Đông Vệ, ngày 10 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết
Nguyễn Thi Hiền
16