Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp bằng các biện pháp giáo dục tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.02 KB, 19 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách,được tổ chức có mục đích,
có kế hoạch, thông qua hoạt động và quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo
dục nhằm chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội của loài người. Giáo dục là quá trình tác
động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình thành niềm tin, lý
tưởng, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen ứng xử đúng đắn trong xã hội. Chính vì
lẽ đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định sự nghiệp trồng người không chỉ là sự
nghiệp của toàn nhân loại nói chung mà còn của toàn Đảng, toàn dân ta nói riêng.
Đối với nước ta, giáo dục được xác định là “Quốc sách hàng đầu”, là vô cùng quan
trọng và cấp thiết bởi sự thành đạt của một con người, sự phát triển của một thế hệ,
sự hưng thịnh của đất nước đều phụ thuộc vào kết quả của hoạt động giáo dục “Vì
lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Hơn thế, trong một thời đại hội nhập kinh tế ,công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước hiện nay, việc đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người lao động có ích cho xã
hội là việc làm cấp bách và cần thiết, đòi hỏi sự dày công của người giáo viên, bởi
yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Bên cạnh đó những tệ nạn xã hội đang tồn tại và
diễn ra ngay trước mắt các em nó cũng chính là động lực lôi cuốn các em vào
những thói hư tật xấu. Do đó, đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ, có năng lực
phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với nghề, yêu thương tận tụy với học sinh. Muốn
vậy phải qua cả một quá trình lâu dài và có sự kết hợp của nhiều ngành, nhiều bộ
phận có liên quan. Trong đó, giáo dục đóng vai trò quan trọng vì mọi kiến thức,
hành vi và phẩm chất đạo đức được hình thành ở nhà trường đặc biệt là cấp tiểu
học. Mặt khác, giáo viên tiểu học là người đại diện cho nhà trường trực tiếp giảng
dạy và giáo dục các em học sinh, ngoài việc cung cấp kiến thức, văn hoá còn dạy
các em về nề nếp, cách sống, cách làm người và làm chủ tương lai của đất
nước.Song trên thực tế vẫn còn không ít những giáo viên áp dụng các biện pháp
giáo dục không mang lại hiệu quả ,có tác động không tốt đến quá trình phát triển,
lợi ích và mong muốn của học sinh .Vì vậy các em không có tâm trạng vui vẻ ,
thoải mái khi đến trường và học tập đạt kết quả cao.
Từ nhận thức trên, người giáo viên chủ nhiệm lớp hết sức quan trọng trong


việc đào tạo thế hệ trẻ theo mục đích giáo dục toàn diện. Người giáo viên chủ
nhiệm lớp đóng vai trò quan trọng: Vừa là thầy dạy học vừa là người cha, người mẹ
và cũng có lúc phải là người bạn tốt nhất của các em. Từ đó có thể uốn nắn các em
đi theo quỹ đạo của mình. Giáo viên có chỉ đạo, quản lí lớp tốt mới dẫn đến việc
giảng dạy tốt. Khi mọi hoạt động của lớp đã đi vào nề nếp thì việc học tập của các
em chắc chắn sẽ tốt hơn. Mục đích làm tốt công tác chủ nhiệm, làm tốt nhiệm vụ
mà Đảng và nhân dân đã tin tưởng giao phó là giáo dục, rèn luyện các em ngày
càng tốt hơn, giúp các em trở thành những con người lao động “vừa hồng, vừa
chuyên”, sống hoàn thiện, có ích trong tương lai.
Chính vì những lẽ đó mà tôi đã dành khá nhiều thời gian, tâm sức cho công tác
1


chủ nhiệm lớp mình.Vì vậy tôi chọn đề tài : “Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu
quả công tác chủ nhiệm lớp bằng các biện pháp giáo dục tích cực.”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề xuất một số biện pháp giáo dục tích cực trong việc đổi mới công tác chủ
nhiệm lớp ở trường tiểu học.
III. ĐỐI TƯƠNG NGHIÊN CỨU
Tất cả học sinh lớp 4A – Trường Tiểu học Hoằng Đại – TP Thanh Hóa.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Công tác chủ nhiệm lớp đòi hỏi giáo viên có khả năng vận dụng một cách linh
hoạt, khéo léo tất cả các phương pháp giáo dục nói chung đồng thời có hiểu biết
đầy đủ và có kỹ năng sử dụng tốt các phương pháp tác động đặc thù trong công tác
chủ nhiệm sau:
* Phương pháp giáo dục cá nhân.
* Phương pháp tác động song song.
* Phương pháp “bùng nổ sư phạm”.

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

I.CƠ SỞ LÝ LUẬN
Giáo dục Tiểu học là vấn đề chính trị - xã hội quan trọng, có giá trị cơ bản và
lâu dài, có tính quyết định đối với cuộc đời cá nhân mỗi người. Vì vậy, người giáo
viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng. Lao động của một
giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là lao động sáng tạo không ngừng, sự sáng tạo
đó đòi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong soạn giảng, trong tổ chức các hoạt động
học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể và đặc biệt là trong các biện pháp giáo dục
đạo đức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.
Khi bàn về vai trò yếu tố giáo dục trong sự phát triển nhân cách con người, sinh
thời Hồ Chí Minh đã viết trong bài thơ “Nửa đêm” (trích “Nhật ký trong tù”):
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Theo quan niệm của Người : Con người ta khi mới sinh ra vốn bản chất là tốt,
nhưng chỉ sau do ảnh hưởng của giáo dục và môi trường sống cùng sự phấn đấu,
rèn luyện của mỗi cá nhân mà hình thành những con người thiện, ác khác nhau.
Ngôi trường Tiểu học chính là ngôi nhà chung đầu đời của mỗi con người. Ở
nơi ấy, mỗi một thầy cô giáo lại là một người mẹ thứ hai dạy cho học sinh tất cả
những kiến thức đầu tiên, những kỹ năng đầu tiên, trang bị cho các em một hành
trang lớn để các em bước dần đến tương lai.Chỉ có yêu thương, quan tâm, lo lắng,
lắng nghe để hiểu những nhu cầu, những khó khăn của trẻ và cùng trẻ giải quyết sẽ
giúp cho trẻ tiến bộ hơn. Vậy, người thầy ở đây phải nắm giữ một vai trò vô cùng
2


quan trọng. Vai trò là một người dìu dắt, người hướng dẫn, người ảnh hưởng và
người trang bị cho học sinh tất cả về kiến thức và kỹ năng sống hàng ngày của
chính các em.
Một nét đặc thù ở cấp Tiểu học là mỗi giáo viên đứng lớp đều là một giáo viên
chủ nhiệm (trừ giáo viên bộ môn ít giờ). Vì thế, để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp,
theo tôi việc đầu tiên của mỗi giáo viên chủ nhiệm là phải nhận thức rõ về vai trò

chủ nhiệm của chính mình. Cụ thể:
- Giáo viên chủ nhiệm phải là một người quản lý tốt, quản lý chặt chẽ, cụ thể,
chi tiết và toàn diện. Giáo viên chủ nhiệm phải có tri thức về mọi mặt kể cả tri thức
về tâm lý giáo dục. Giáo viên chủ nhiệm phải có kỹ năng sư phạm, biết tiếp cận,
phán đoán học sinh khéo léo và đúng đắn với học sinh trong hoạt động dạy học và
giáo dục.
- Giáo viên chủ nhiệm phải là người cố vấn cho các hoạt động tự quản của tập
thể học sinh. Để phát huy tốt vai trò cố vấn giáo viên chủ nhiệm cần có năng lực
đánh giá và dự báo chính xác khả năng dự báo của học sinh, có khả năng kích thích
khả năng sáng tạo của các em, lôi cuốn tất cả học sinh tham gia vào các hoạt động
của lớp, hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch giáo dục toàn diện, đồng thời theo
dõi, giúp đỡ học sinh thực hiện kế hoạch đó.Lưu ý, cố vấn không có nghĩa là khoán
trắng hay đứng ngoài hoạt động của học sinh mà phải cùng hoạt động, kịp thời giúp
học sinh tháo gỡ những khó khăn, tranh thủ các lực lượng giáo dục trong và ngoài
nhà trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh và tập thể học sinh tiến hành
thành công các hoạt động, tạo động lực cho học sinh trong những hoạt động tiếp
theo.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối giữa tập thể học sinh với các lực lượng
giáo dục trong nhà trường. Đây là một việc không đơn giản, đòi hỏi giáo viên chủ
nhiệm chẳng những phải có trách nhiệm cao, say sưa với nghề, yêu thương học sinh
mà còn phải có năng lực thuyết phục, có khả năng thiết lập quan hệ tốt đẹp với các
lực lượng giáo dục, biết xây dựng và giữ gìn uy tín, có ý chí vượt khó, không ngại
thử thách, đặc biệt trong những trường hợp cần đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính
đáng của học sinh, kiên định thực hiện lý tưởng giáo dục thế hệ trẻ.
- Giáo viên chủ nhiệm là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục ngoài
nhà trường. Hiệu quả giáo dục học sinh phụ thuộc không nhỏ vào khả năng phối
hợp và phát huy tiềm năng của các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường (gia đình,
các đoàn thể xã hội, cộng đồng, dân cư, …) về mọi mặt nhằm thực hiện nội dung
giáo dục đối với lớp chủ nhiệm. Dựa vào đặc điểm, điều kiện của nhà trường, lớp
cộng đồng, gia đình học sinh mà giáo viên chủ nhiệm tổ chức phối hợp các lực

lượng giáo dục trên.
Giáo viên chủ nhiệm không chỉ biết cách phối hợp tốt với gia đình học sinh mà
còn là người tổ chức bồi dưỡng nhận thức lý luận giáo dục cho các bậc cha mẹ khi
cần thiết.

3


II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân tôi thấy rằng: Sản phẩm giáo dục mà
chúng ta tạo ra không thể biết trước chính xác kết quả như bao sản phẩm của ngành
nghề khác.Vì vậy, để làm tốt công tác giáo dục chúng ta cần phải thật kiên trì, nhẫn
nại, chịu khó và phải chịu tốn nhiều thời gian,công sức để tìm hiểu tâm tư nguyện
vọng của học sinh và đặc biệt là phải có tấm lòng yêu thương, nhân ái của người
thầy.
Đầu năm học 2016 - 2017 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ
nhiệm lớp 4A. Tuy trường nằm ở vùng dân cư phần lớn là người lao động chân tay,
trình độ văn hóa của người dân chưa cao nhưng được sự quan tâm của Ban giám
hiệu nên trường lớp khang trang, cơ sở vật chất đầy đủ tôi nhận thấy có những điều
kiện thuận lợi và khó khăn như sau:
1. Thuận lợi:
- Đa số học sinh lớp tôi nhà gần trường. Hầu hết các em đi học đúng độ tuổi,
ngoan ngoãn, lễ phép.
- Trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy tương đối đầy đủ cho từng khối lớp
nên giờ học rất sinh động.
- Đội ngũ giáo viên luôn đoàn kết, có tinh thần trách nhiệm cao, thường xuyên
trao đổi và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cùng nhau dạy tốt.
- Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường tạo mọi điều kiện
thuận lợi để giáo viên an tâm công tác.

- Ban đại diện Hội phụ huynh học sinh của lớp, trường rất nhiệt tình gắn bó
với các hoạt động của nhà trường về mọi mặt, góp phần động viên tập thể cán bộ,
giáo viên nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
2. Khó khăn:
Là một trường nằm trên địa bàn xa trung tâm, học sinh lớp tôi chủ yếu là con
công nhân, lao động, trồng trọt, buôn bán... các em thiếu sự quan tâm, nhắc nhở của
cha mẹ, nên đa số các em chưa có ý thức học tập cao.
Có những em bố mẹ bỏ nhau,các em ở với ông bà ,chú, bác ...Hoàn cảnh kinh
tế gia đình lại khó khăn, không có thời gian học tập, nên kết quả đạt được không
cao. Một số em gia đình có điều kiện đầy đủ cho các em nhưng các em lại ham
chơi, không chú ý học tập, phụ huynh lại có tư tưởng khoán trắng cho nhà trường
và thầy cô trong việc giáo dục con em mình.
Một số em học sinh nam học yếu luôn bày trò nghịch ngợm, phá phách trong các
giờ học cũng như các giờ chơi .
Một số em học chậm không có hứng thú học tập, rụt rè, không tự tin khi đến lớp.

4


Vẫn không ít học sinh chưa chuẩn bị bài và luôn thiếu đồ dùng học tập trước khi
đến lớp.
3. Khảo sát chất lượng học sinh:
Qua những thuận lợi và khó khăn trước khi áp dụng đề tài nghiên cứu tôi đã
kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm kết quả như sau:
Môn

Tổng
số HS

HHT


Số bài hoàn
thành

Số bài chưa hoàn
thành

Tiếng Việt

24

3 em =
12,5%

15 em =
62,5%

6 em = 25%

Toán

24

3 em = 12,5%

15 em =
62,5%

6 em = 25%


Từ kết quả trên, tôi nhận thấy phần lớn các em đã quên kiến thức cũ, có những
em quên thực hiện được phép tính đơn giản, đặc biệt là nhân chia.
Bên cạnh đó, nề nếp lớp học không tốt, nhiều học sinh nam luôn gây mất trật
tự trong giờ học, tình trạng học sinh làm việc riêng trong giờ học rất phổ biến. Hơn
nữa các em chưa tự ý thức được các việc trong lớp cũng như nội quy ra vào lớp, nội
quy của nhà trường đề ra. Nhiều học sinh trong lớp nghỉ học vô lí do, không có sự
báo cáo của phụ huynh... Vì vậy tôi nhận thấy: Để ổn định học sinh và đưa nề nếp
của các em đi vào quỹ đạo của mình, tôi đã tìm ra một số giải pháp, biện pháp như
sau:

III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Khảo sát thực trạng đầu năm học:
1.1 Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh
Năm học 2016 – 2017, sau khi nhận lớp xong, tôi tiến hành điều tra lí lịch của
từng học sinh. Vì muốn hiểu kĩ học sinh, tôi phải biết rõ gia đình các em.
Lớp 4A có 24 học sinh trong đó có 11 học sinh nữ, 13 học sinh nam.
* Trước tiên, tôi tìm hiểu sơ lược về thành phần gia đình từng cá nhân học sinh:
- Cha mẹ làm nông, trồng trọt, chăn nuôi: 10/24
- Cha mẹ làm công nhân, thợ xây: 11/24
- Cha mẹ buôn bán: 2/24
- Cha mẹ là viên chức nhà nước: 1/24
* Hoàn cảnh gia đình: - Số học sinh sống cùng với bố mẹ: 23/24
- Số học sinh sống cùng ông, bà, chú bác : 1/24 ( Em Lê Thị Hoàn.)
* Sự quan tâm của mỗi gia đình đối với học sinh:
5


- 20 em có góc học tập riêng, số còn lại không có góc học tập riêng.
- 4 em được bố, mẹ hoặc anh chị kiểm tra, nhắc nhở việc học ở nhà.
- 23 em có đầy đủ sách vở và dụng cụ học tập.

*Về tình trạng sức khỏe: - Sức khỏe bình thường: 23/24 học sinh.
- Nhìn không tốt: 1/24 học sinh.
- Sức khỏe yếu: 1/ 24 học sinh.
Qua việc tìm hiểu trên có thể giúp tôi lựa chọn được những phương pháp giáo
dục phù hợp đối với từng học sinh. Đặc biệt, sau khi tìm hiểu được hoàn cảnh của
các em, tôi nhận thấy rằng muốn các em thật sự tin yêu và gắn bó với mình thì bản
thân tôi phải đến với các em bằng tấm lòng của người thầy, bằng tình cảm của một
người chị, của một người bạn. Vì trẻ em không phải em nào cũng có tính cách
giống nhau. Có em khi sai phạm ta phải hết sức nghiêm khắc, nhưng cũng có em
thì các hình thức trách phạt không phải là biện pháp tốt để uốn nắn, sửa chữa mà ta
lại phải mềm mỏng, nhẹ nhàng phân tích lỗi lầm thì trẻ mới nhận ra.
1.2 Tình hình học tập:
Với học sinh, sau ba tháng nghỉ hè, quả là một khoảng thời gian khá dài khiến
các em quên đi kiến thức cũ. Chính vì lẽ đó mà tôi luôn phải có sự chắt lọc kiến
thức đầu năm chính xác, để có phương pháp giáo dục thích hợp nhất với từng học
sinh.
- Kết hợp ngay trong tuần ổn định, tôi kiểm tra phần đọc và viết của học sinh
bằng các bài viết chính tả, đọc văn. Qua đó tôi thấy chữ viết của các em phần lớn
rất xấu, sai chính tả, nhiều em đọc bài rất chậm. Cụ thể như: em Phương Linh, em
Thảo, em Hải, em Vũ Linh.
Ngay trong tuần đầu, tôi đã gặp gỡ giáo viên chủ nhiệm năm lớp 3, giáo viên
bộ môn, xem lại kết quả học tập của các em qua sổ Theo dõi chất lượng , nghiên
cứu sổ bàn giao của năm học trước, đặc biệt là phần nhận xét của giáo viên trong
việc theo dõi quá trình học tập, nhằm có kế hoạch rèn luyện cho các em đạt kết quả
cao hơn. Tôi đã thống kê và phân loại như sau:
*Về phẩm chất :
Bản thân đã điều tra học sinh trong lớp xem em nào đã thực hiện đầy đủ nhiệm
vụ của người học sinh, chăm học, chăm làm. Biết tự trọng, tự tin trong giao tiếp,
trung thực, đoàn kết, thực hiện tốt kỉ luật lớp học .... Để có kế hoạch bồi dưỡng,
giáo dục cho các em.

* Về năng lực:
+ Học sinh có năng lực tốt. Tự học và giải quyết vấn đề (Bước đầu biết tự học,
hoàn thành các nhiệm vụ học tập, đặt câu hỏi và tự tìm câu trả lời: (7 em )
+ Học sinh có năng lực khá, ngoan nhưng thụ động: (13 em)
+ Học sinh tiếp thu bài chậm, thụ động : (4 em)
6


+ Học còn yếu về kĩ năng viết câu văn, bài văn, tính toán khá chậm (2 em).
Trong trường hợp này có 1 em hay nghỉ học không phép, đi học không chú ý theo
dõi bài và làm bài, gây mất trật tự trong lớp, còn nói tục; 3 em chữ viết sai lỗi chính
tả nhiều lại rất ít chuẩn bị bài ở nhà.
Biết được đặc điểm, tính cách, sức học của từng em, tôi đã tiến hành sắp xếp
chỗ ngồi cho phù hợp. Một em mắt kém ngồi phía trên gần bảng hơn những bạn
khác. Những em thấp, nhỏ ngồi trước, những em cao lớn ngồi phía sau. Tôi sắp xen
kẽ giữa những học sinh có năng lực khá, tốt và những học sinh tiếp thu chậm, yếu.
Đặc biệt là những em nghịch được tôi bố trí ở chỗ tôi dễ quan sát và ngồi cạnh
những em hiền ngoan, lễ phép, chăm học để những em này có cơ hội học ở bạn
những điều mình chưa có.
Bản thân tôi luôn xác định rằng, tìm hiểu nắm vững đối tượng giáo dục không
phải là việc làm có thời hạn, chóng vánh trong một, hai ngày, cũng không phải là
công việc chỉ được tiến hành trong giai đoạn đầu mới nhận lớp mà phải là công
việc thường xuyên, liên tục trong suốt năm học sao cho có thể hiểu học sinh một
cách cập nhật, đầy đủ, toàn diện và sâu sắc nhất.
Đặc biệt nếu sử dụng biện pháp “phạt ” hay “trừng phạt” đối với những cá
nhân học sinh còn mắc lỗi, vi phạm, không có sự tiến bộ như một số giáo viên vẫn
áp dụng chỉ mang lại sự sửa đổi tức thời nhưng lại in hằn trong tâm hồn trẻ thơ sự
tổn thương về thể xác và tinh thần. Người giáo viên cần phải thay đổi cách xử lí sai
phạm của học sinh, động viên, khuyến khích, nêu gương nhằm giúp học sinh có
hành vi, thái độ ứng xử đúng đắn. Hay nói cách khác, để làm tốt công tác chủ

nhiệm, người giáo viên cần thay đổi cách cư xử trong lớp học để đem lại hiệu quả
giáo dục tốt nhất .
2. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp:
Sau khi đã điều tra kỹ đối tượng học sinh, tôi bắt đầu xây dựng cho mình một
kế hoạch chủ nhiệm theo đặc điểm của lớp. Để đảm bảo có một kế hoạch hợp lý,
khả thi, khoa học, khi xây dựng kế hoạch chủ nhiệm tôi căn cứ vào những vấn đề
sau:
- Mục tiêu chương trình hành động chung của ngành và cấp học.
- Mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch giáo dục của trường.
- Đặc điểm của lớp chủ nhiệm (bao gồm các đặc điểm về truyền thống, tập thể,
những mặt khó khăn và thuận lợi cơ bản, hoàn cảnh, điều kiện của số đông học sinh
và gia đình học sinh, …).
- Mục tiêu, kế hoạch công tác của các tổ chức đoàn thể trong trường học.
- Đặc điểm tình hình của địa phương.
- Dự báo của giáo viên chủ nhiệm về khả năng phát triển từng mặt của lớp.
Kế hoạch chủ nhiệm phải thể hiện tính toàn diện, cụ thể, có trọng tâm, trọng
điểm của từng thời gian và từng mặt nội dung giáo dục.
Kế hoạch công tác chủ nhiệm được xây dựng theo các thời gian: kế hoạch tuần,
tháng, học kỳ và năm học. Sau khi họp đầu năm học, căn cứ vào chỉ đạo của ngành
và kế hoạch của nhà trường, tôi đề ra kế hoạch năm cho lớp mình chủ nhiệm. Từ kế
hoạch năm, tôi thực hiện phân tích và đưa ra kế hoạch từng tháng. Ở mỗi tháng, tôi
7


vạch ra kế hoạch cụ thể từng tuần học. Trong kế hoạch chủ nhiệm của từng tuần, tôi
luôn đưa ra dự kiến thời gian thực hiện từng kế hoạch cụ thể, biện pháp thực hiện
và kết quả thực hiện.
Kế hoạch chủ nhiệm càng khoa học thì khả năng thực hiện càng cao và vì vậy
mà bản kế hoạch này có khả năng quyết định to lớn đối với hiệu quả công tác chủ
nhiệm của tôi. Tôi luôn tâm đắc câu nói của Nhà giáo dục học K.Đ.Usinxki nói:

“Muốn giáo dục cho con người mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt”.
Công tác chủ nhiệm đòi hỏi giáo viên phải hiểu học sinh một cách đầy đủ, cụ thể và
toàn diện nhằm có thể lựa chọn những tác động sư phạm phù hợp, có khả năng
mang lại hiệu quả cao nhất . Hiểu học sinh còn là điều kiện cần trong việc thiết lập
quan hệ giao tiếp thuận lợi giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh. Thực tiễn giáo
dục đã cho thấy nhiều trường hợp thất bại đáng tiếc của giáo viên thậm chí gây
thương tổn nặng nề cho cả học sinh, là tiền đề cho việc hình thành tình cảm thầy trò
thông hiểu, gắn bó.
3. Tổ chức các hoạt động trên lớp học:
3.1. Xây dựng Hội đồng tự quản lớp và bồi dưỡng những học sinh tích cực
Muốn cho ngôi nhà vững vàng, chịu đựng được gió bão thì cái móng nhà phải
vững chắc. Lớp học cũng vậy, phải có ban cán sự lớp vững mạnh thì mọi hoạt
động, mọi phong trào chắc chắn sẽ thực hiện tốt. Qua một tuần tìm hiểu, ổn định,
bước tiếp theo tôi thực hiện ngay việc bình chọn học sinh vào các vị trí thích hợp
của lớp, của tổ. Đặc biệt chú trọng các chức danh: Lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng,
tổ phó. Vì đây là lực lượng nòng cốt cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở
việc thực hiện nề nếp học tập của các bạn trong năm học. Để được ban cán sự “Đầu
tàu gương mẫu”, tôi đưa ra tiêu chuẩn gợi ý và tự học sinh bình bầu : những em có
năng lực khá, tốt. phẩm chất tốt, hăng hái tham gia các hoạt động, các phong trào ở
lớp, ở trường với tinh thần tự giác, có trách nhiệm cao và điều đặc biệt là những em
này luôn được bạn bè tín nhiệm, yêu thương. Để xây dựng lớp giáo viên chủ nhiệm
tiến hành những công việc sau:
*Hướng cho học sinh trong lớp bình bầu, lựa chọn những học sinh tích cực phân
công vào các chức danh làm cán bộ trong lớp..
* Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng vị trí trong cán bộ lớp.
* Làm rõ nội dung công tác của từng chức danh: Lớp trưởng, lớp phó, tổ
trưởng, tổ phó và hướng dẫn cụ thể về phương pháp công tác. Trong đó, cần lưu ý
hướng dẫn các kỹ năng công tác cơ bản như: cách ghi chép trong sổ ghi chép công
tác, kỹ năng điều hành một buổi sinh hoạt lớp, kỹ năng trình bày thuyết phục, vận
động, kỹ năng tổ chức hoạt động tập thể, …

* Hướng dẫn cho các em biết tổng kết, khái quát kinh nghiệm qua từng thành
công hay thất bại trong hoạt động thực tiễn.
* Thường xuyên kiểm tra, đánh giá hoạt động của cán bộ lớp, giúp các em khắc
phục khó khăn, động viên kịp thời những cố gắng của các em.
* Xây dựng, củng cố và bảo vệ uy tín của cán bộ lớp trước tập thể.
8


* Không bao che khuyết điểm. Tuyệt đối tránh tạo ra sự đối lập giữa cán bộ lớp
với các thành viên trong lớp.
Việc tổ chức bình chọn được thực hiện công khai bằng cách cho các em bỏ
phiếu tín nhiệm và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng em theo đúng khả năng của
mình. Biết được nhiệm vụ cụ thể của ban cán sự, khi có thắc mắc hay trao đổi về
vấn đề gì liên quan đến hoạt động nào thì các bạn trong lớp sẽ trực tiếp gặp gỡ với
bạn phụ trách công việc đó nhanh hơn, tiện lợi hơn.
+ Lớp trưởng: ( Lê Thị Anh Thơ) chỉ đạo chung toàn lớp trong giờ học, tập
trung, sinh hoạt, kiểm diện hàng ngày, tổng hợp các báo cáo hoạt động của tổ trong
tuần nộp cho giáo viên chủ nhiệm. Chào đón, giới thiệu đại biểu đến thăm lớp, dự
giờ...thực hiện các công việc ngoại giao.
+Lớp phó học tập: (Lâm) phụ trách lớp theo quy định. Nắm tình hình chung
phần chuẩn bị bài, ôn bài đầu giờ của các tổ hàng ngày, tổng kết thi đua trong tuần.
+Lớp phó văn nghệ - thể dục: (Nga): Chịu trách nhiệm tổ chức các hoạt động
văn nghệ, vui chơi, thể dục thể thao, đọc báo đầu giờ,…tham gia các phong trào
của lớp, ...
+ Tổ trưởng tổ 1, tổ 2 và tổ 3 ( Hoài Linh, Lộc, Thuận ): Chịu trách nhiệm tổ chức
cho các bạn thực hiện các nhiêm vụ học tập, đôn đốc kiểm tra nhiệm vụ học
tập...Theo dõi chuyên cần của các thành viên trong tổ, chế độ học tập, nghỉ ngơi,..
+ Tổ phó các tổ (Trương, Đức, Đạt): Theo dõi đôn đốc các bạn trong tổ giữ gìn
vệ sinh cá nhân, thân thể, ăn mặc đúng đồng phục theo quy định, nhắc nhở các bạn
phòng chống các dịch bệnh theo mùa...

Sau mỗi tuần, giáo viên đều cho các em nhận xét các hoạt động vào giờ sinh
hoạt lớp và đưa ra các tiêu chí thi đua khen thưởng cá nhân, tập thể tổ theo tuần,
tháng để các em cố gắng hơn.
Giáo viên chủ nhiệm chỉ đóng vai trò cố vấn cho các em, định hướng cho các
em hoạt động cùng các em tháo gỡ những vướng mắc khi thực hiện công việc.
3.2. Xây dựng nề nếp lớp học
Trong học tập không những chỉ chú trọng rèn luyện cho học sinh bằng nhiều
hình thức khác nhau mà còn chú trọng khâu nề nếp ngay từ đầu năm như hoạt động
đầu giờ, trật tự nghe giảng trong giờ học, trong lớp tổ tự quản kiểm tra bài tập về
nhà của các bạn trong tổ ... Vì nề nếp tốt là cực kì quan trọng, nó góp một phần lớn
quyết định kết quả học tập của học sinh. Chính vì thế ngay từ đầu năm học giáo
viên phải quán triệt nề nếp bằng cách:
- Cho cả lớp học nội quy lớp học, và mọi quy định của giáo viên. Nội quy của
nhà trường.
- Giáo viên hướng dẫn các em làm quen với kí hiệu của giáo viên để tập trung
sự chú ý của học sinh trong khi nghe giảng bài.

9


Ví dụ: Phía trên tay trái góc bảng ghi rõ lớp, sĩ số học sinh, dưới sĩ số là các kí
hiệu ở góc bảng: +, B, V, S
Chỉ vào + là cả lớp trật tự lắng nghe giáo viên giảng bài.
Khi viết kí hiệu B là cả lớp lấy bảng con cá nhân làm bài.
Khi viết kí hiệu S là học sinh mở sách, kí hiệu V là lấy vở ra để ghi hoặc làm
bài tập tại lớp. Sau khi học sinh làm xong thì giáo viên xoá các kí hiệu đó đi, học
sinh sẽ cất sách hoặc vở đi.
- Thường xuyên giáo dục các em có nề nếp tốt trong mọi hoạt động, sinh hoạt
ngoài giờ.
Ví dụ: Bắt đầu có trống báo là các em có mặt đầy đủ ở lớp để các cán bộ kiểm

tra việc chuẩn bị bài ở nhà sau đó các em ngồi vào ôn bài dưới sự chỉ đạo của lớp
phó học tập, tổ chức cho các em đi vào nề nếp học bài, tuy giáo viên không có mặt
ở lớp các em vẫn làm tốt.
- Không phó mặc cho học sinh, giáo viên phải kiểm tra đột xuất một số học
sinh trong mỗi tổ. Áp dụng biện pháp này đỡ tốn thời gian, không chiếm mất giờ
dạy mà còn rèn cho học sinh tính tự giác cao, đồng thời hạn chế việc mất trật tự của
các em khi chưa vào học.
- Giao quyền tự quản cho học sinh trong những hoạt động mà các em đã được
hướng dẫn để phát huy tính năng động cho học sinh (thể dục giữa giờ, sinh hoạt
đội, nhặt rác, …).
- Tuyên dương, nhắc nhở kịp thời với những cá nhân tiến bộ và chưa tiến bộ
trong việc thực hiện nề nếp chung của lớp. Ví dụ: Đi học đúng giờ, nghỉ học phải
xin phép. Các em đi học mặc đồng phục, vệ sinh cá nhân, để mũ, nón đúng nơi quy
định, … Từ đó tạo cho các em sự tự giác biết tự lo cho bản thân, tự giác học tập, thi
đua để tạo thành tích giữa các thành viên trong lớp và thi đua giữa các khối lớp
trong toàn trường.
Khi kết hợp chặt chẽ những hoạt động trên thì nề nếp lớp học sẽ đi vào khuôn khổ
và điều đó sẽ là một phần quan trọng giúp giáo viên tiến hành các hoạt động học
tập dễ dàng hơn.
3.3. Xây dựng nề nếp xếp hàng lúc tập trung, lúc tập thể dục và khi chào cờ.
Nề nếp này phải được tiến hành thường xuyên. Đây là nề nếp mang tính trật tự,
kỉ luật cần được duy trì suốt năm học. Để làm tốt công tác này, tôi đã tiến hành
từng bước như sau:
- Tôi quy định khi các em xếp hàng các em đứng thành 2 hàng. Tôi cho các em
đánh số thứ tự cho mình trong buổi xếp hàng đầu tiên và yêu cầu học sinh phải nhớ
số thứ tự.
- Mỗi khi xếp hàng các em chỉ cần nhớ số thứ tự và vị trí của mình mà vào
ngay hàng ngũ. Lớp trưởng quán xuyến nhắc nhở các bạn nghiêm túc tập trung
10



nhanh chóng. Khi việc xếp hàng đã đi vào nề nếp thì thời gian tiến hành sẽ rất
nhanh, tốn ít thời gian và không gây mất trật tự.
3.4. Xây dựng nề nếp chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập:
Thường ngày các em thường phải mang tất cả đồ dùng học tập mà các em có
đến lớp, đôi lúc cặp không còn chỗ chứa, rất nặng nề so với thể trạng của các em.
Nhưng bên cạnh đó còn một số em lại quên mang sách vở đã gây khó khăn cho
việc dạy – học. Vì thế tôi từng bước hướng dẫn các em mang sách, vở đúng theo
quy định phân môn và thời khóa biểu.
- Giáo viên phát thời khóa biểu cho học sinh để các em dán ngay ở góc học tập
ở nhà.
- Sách vở học để ngay ngắn, không vứt bừa bãi. Bọc bìa và ghi nhãn vở đầy đủ.
- Cuối mỗi buổi học trước khi về nhà tôi dành vài phút để hướng dẫn các em đem
theo sách, vở gì cho ngày mai và gọi học sinh nhắc lại.
- Dặn học sinh tối học bài xong phải chuẩn bị sách, vở và đồ dùng học tập cho
ngày mai. Tránh việc đến giờ đi học các em thường vội, lúng túng nên soạn không
đầy đủ .
- Vào đầu buổi học, Lớp phó học tập kiểm tra lại, nếu em nào thực hiện không
đúng tôi sẽ hướng dẫn lại, sai phạm nhiều lần sẽ báo phụ huynh nhờ sự giúp đỡ.
Với các bước thực hiện như trên chỉ hết tháng thứ nhất thì các em đã có thói
quen chuẩn bị sách vở đúng theo quy định, các em cảm thấy thoải mái không còn lo
sợ khi đến lớp mà quên mang sách, vở nên việc học tập diễn ra nhẹ nhàng hơn.
3.5. Xây dựng nề nếp học tập
Tổ chức có kế hoạch hoạt động học tập cho học sinh nhằm nâng cao kết quả
học tập là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của giáo viên chủ nhiệm.
Kết quả hoạt động học tập không những thể hiện ở kết quả nắm tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo mà còn thể hiện ở kết quả phát triển năng lực của trí tuệ, năng lực tư duy
sáng tạo ở học sinh.
Ví dụ: - Mỗi ngày tôi đều đến lớp sớm (15 phút) dành thời gian để quan tâm tới các
em, tạo cho các em sự gần gũi, tin cậy, hướng dẫn các em truy bài. Khi tôi gần gũi

với các em thì các em không còn e dè, các em đã biết hoạt động học tập ở trường là
thích hơn là vì nghĩa vụ.
- Tôi yêu cầu các em viết cụ thể thời gian biểu ở nhà của mình
- Kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh qua việc kiểm tra bài cũ.
- Hướng dẫn cha mẹ học sinh quản lý học sinh học tập ở nhà (có góc học tập ở
nhà và thời gian biểu cho học sinh)
Tôi tích cực đổi mới phương pháp dạy và học phù hợp với đối tượng học sinh
mình phụ trách, để tăng cường tính tự học của học sinh, thường xuyên sử dụng
tranh ảnh, đồ dùng học tập mang tính minh họa cao để tạo hứng thú học tập cho các
em.
11


Tạo cho học sinh có thói quen tự lực, không dựa dẫm vào bạn khi làm bài ở lớp,
khi kiểm tra. Trong các kì kiểm tra học sinh làm bài nghiêm túc, không có hiện
tượng quay cóp, gian lận.
Phân loại học sinh để có kế hoạch phụ đạo và bồi dưỡng:
*Đối với học sinh có năng lực khá, tốt : Trong các tiết dạy, tôi đưa ra từ 1 đến 2
câu hỏi với yêu cầu cao hơn, dạng các câu hỏi sao ( * ) hoặc các bài tập nâng cao.
Để ra các câu hỏi này, tôi luôn nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy, tìm hiểu ở các tài
liệu có liên quan nhằm mục đích hướng dẫn, kích thích học sinh tự tìm ra kiến thức
mới, mở rộng tầm hiểu biết của học sinh.
*Đối với học sinh có năng lực yếu: Các em chán học do bị mất căn bản ở lớp
dưới. Học sinh cảm thấy việc học rất nặng nề. Qua tìm hiểu theo dõi trong quá trình
giảng dạy tôi nắm được những kiến thức do học sinh bị hổng. Tôi đưa ra bài tập dễ,
sử dụng câu hỏi nhỏ, đơn giản, phù hợp với sức học của mỗi em, gọi các em trả lời
hoặc giải bài tập, đồng thời tuyên dương kịp thời cũng như động viên giúp đỡ các
em trong quá trình thực hiện các bài tập. Từ các bài tập dễ tôi nâng dần lên theo sự
tiến bộ của học sinh. Bên cạnh đó, thành lập các đôi bạn cùng tiến, xếp cho học
sinh hoàn thành tốt nội dung các môn học ngồi gần bạn chưa hoàn thành. Qua một

thời gian tôi thấy các em chưa hoàn thành tiến bộ hẳn lên.
*Đối với học sinh thường xuyên nghịch phá, không tập trung trong giờ học :
Thay bằng sử dụng các biện pháp “ phạt’’hay “trừng phạt” thì tôi tìm hiểu
nguyên nhân và tìm biện pháp giúp đỡ các em dần dần.
Ví dụ :Trong lớp tôi, các em hay nghịch phá trong lớp: Em Hải, em Trang. Qua
tìm hiểu tôi hiểu rõ các em đang sống trong những môi trường thiếu sự quan tâm
của bố mẹ (các em thường xuyên bị cha mẹ đánh phạt và các em có biểu hiện bạo
lực với bạn trong lớp ). Đối với các em, hằng ngày tôi thường nhẹ nhàng giải thích,
chỉ ra những sai phạm của các em. Có lúc tôi cần tỏ ra cảm thông, chia sẻ, tha thứ
cho các em. Đặc biệt thái độ không khắt khe, khó chịu khi không may các em phạm
lỗi. Và sau một thời gian ngắn các em này đã sửa đổi và có tiến bộ rõ rệt về năng
lực học tập và phẩm chất. Các em hòa nhập và luôn sôi nổi trong mọi hoạt động.
Thường xuyên trao đổi học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp để bổ sung
phương pháp phụ đạo và bồi dưỡng cho bản thân nhằm nâng cao hiệu quả bồi
dưỡng và phụ đạo mà mình đã đặt ra.
Tạo cho học sinh thói quen và sự say mê đọc sách bằng cách khuyến khích các
em đọc sách báo ở thư viện lớp hằng ngày và thư viện trường mỗi tuần 1 đến 2 lần
vào giờ ra chơi .
Tôi cố gắng xây dựng ở các em những động cơ học tập, khích lệ các em vượt
mọi trở ngại bằng sự quan tâm, nhắc nhở có sự khen thưởng kịp thời, vì vậy:
* Kết quả đạt được qua kiểm tra định kì học kì I môn Toán, Tiếng Việt như
sau:
Môn
12

Tổng
số HS

HHT


Số bài hoàn
thành

Số bài chưa hoàn
thành


Tiếng Việt

24

6 em = 25%

14 em =
58,3%

4 em = 16,7%

Toán

24

6 em = 25%

14 em =
58,3%

4 em = 16,7%

Với kết quả trên, tôi thấy sự nỗ lực rèn luyện của tôi cho các em đã dần có kết quả

tốt. Tập thể lớp trong học kỳ một được thầy cô bộ môn cũng như nhà trường đánh
giá ngoan và nề nếp.
4. Giáo dục phẩm chất :
Trong quá trình giáo dục, công tác trọng tâm được đặt ra đó là giáo dục cho
học sinh những phẩm chất đạo đức theo mục tiêu giáo dục đã đề ra. Cụ thể, phải
hình thành ở học sinh niềm tin, sự tự tin, ý thức chấp hành kỉ luật, động cơ học tập
tích cực, thái độ ứng xử đúng đắn, hệ thống xu hướng và tính cách tốt đẹp, … Kết
quả giáo dục cần đạt được là học sinh tự giác biến những yêu cầu của xã hội thành
hành vi và thói quen tương ứng. Vì vậy, việc rèn luyện hành vi và đặc biệt rèn thói
quen đạo đức cho học sinh là không thể thiếu trong công tác giáo dục học sinh mà
giáo viên chủ nhiệm chính là người chịu trách nhiệm trước nhà trường.
Ví dụ:
- Giáo dục học sinh chấp hành nội quy trường, lớp, nghỉ học phải xin phép (thực
hiện trong các giờ sinh hoạt lớp, phối hợp sinh hoạt dưới cờ của Đội, ngay trong
tiết học có liên quan).
- Giáo dục học sinh hiểu ý nghĩa các ngày lễ lớn trong tháng, trong năm, có
thái độ lễ phép với thầy cô, người lớn, gần gũi yêu mến bạn bè qua các buổi sinh
hoạt tập thể, nghe kể chuyện (phối hợp với Đội, trong tiết dạy hàng ngày, hoạt động
ngoài giờ lên lớp).
- Xây dựng một tập thể đoàn kết, sẵn sàng giúp đỡ bạn bè trong lớp khi gặp
khó khăn như tham gia phong trào “Lá lành đùm lá rách”.
- Phát huy năng lực của lớp trưởng xây dựng lớp tự quản bằng cách giao việc
cho học sinh tự quản lý một số hoạt động của tổ mình dưới sự theo dõi của giáo
viên.
- Giáo dục học sinh biết thăm hỏi bạn bè trong lớp, trong trường khi gặp khó
khăn hoạn nạn.
- Vận động học sinh tham gia ủng hộ các hoạt động nhân đạo từ thiện như:
Giúp đỡ người khuyết tật, mua tăm tre ủng hộ người mù, chia khó vùng cao ...
- Quan tâm giúp đỡ đến thành phần học sinh trong lớp đặc biệt là đối tượng
học sinh ít được gia đình quan tâm, học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Giáo viên

luôn theo dõi, động viên kịp thời để các em phấn đấu vươn lên.
Tóm lại, để việc giáo dục đạo đức cho các em không phải là giáo viên chỉ
hướng dẫn, yêu cầu các em thực hiện mà chính bản thân giáo viên phải là tấm
gương sáng cho các em noi theo. Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm còn phải biết phối
hợp chặt chẽ với đồng nghiệp, với Đội, với công tác đoàn, … để có kết quả giáo
dục tốt hơn.
13


5. Hoạt động ngoài giờ lên lớp:
Căn cứ vào kế hoạch chung của nhà trường và dựa vào tình hình cụ thể của
lớp, giáo viên chủ nhiệm cần xây dựng kế hoạch lao động cụ thể như: lao động vệ
sinh làm sạch đẹp trường lớp, lao động sản xuất, lao động công ích, … Bên cạnh
hoạt động học tập, giáo viên chủ nhiệm còn phải quan tâm tổ chức cho học sinh vui
chơi, giải trí, rèn luyện thể lực, bảo vệ sức khỏe nhằm giúp học sinh mở mang trí
tuệ, phát triển thể chất, tăng cường sức khỏe, sảng khoái tinh thần nhằm bảo đảm
thực hiện yêu cầu phát triển toàn diện cho học sinh đồng thời tạo ra những điều
kiện thuận lợi để học tập, rèn luyện và tu dưỡng tốt. Tôi luôn tạo ra những khoảng
không gian thư giãn, giải trí đó là những hoạt động ngoài giờ lên lớp như: sinh hoạt
tập thể, tìm hiểu truyền thống nhà trường, chương trình văn nghệ, …
- Giáo dục học sinh có ý thức xây dựng trường lớp “Xanh – Sạch – Đẹp”
thường xuyên chăm sóc cây xanh trong trường học.
- Giáo dục học sinh biết lao động tự phục vụ.
- Giáo dục học sinh có ý thức rèn luyện thể dục thể thao như tập thể dục mỗi
buổi sáng, thể dục giữa giờ ở trường.
- Tham gia các hoạt động y tế để bảo vệ sức khỏe như uống thuốc tẩy giun,
phòng chống sốt xuất huyết, cúm, khám sức khỏe định kỳ, …
- Giáo dục học sinh giữ vệ sinh thân thể, trang phục đến lớp luôn gọn gàng
sạch sẽ (rửa tay trước khi ăn trưa, đánh răng sau khi ăn ở trường, …).
- Động viên các em tham gia những phong trào đoàn thể, phong trào do trường

tổ chức để rèn luyện thêm sự nhanh nhẹn, bạo dạn như: Giao lưu văn nghệ chào
mừng các ngày lễ lớn của trường, giao lưu cờ vua của trường, của huyện, giao lưu
bóng đá nhi đồng cấp Thành Phố…
- Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, phòng chống các tệ nạn xã hội
xâm nhập vào nhà trường .
6. Công tác xã hội hóa giáo dục kết hợp với các lực lượng giáo dục:
Đây là công tác mà bản thân tôi cảm thấy vô cùng quan trọng. Nó quan trọng
bởi lẽ, nếu chỉ có một mình tôi ảnh hưởng, giáo dục, chỉ bảo,… các em thì kết quả
giáo dục của tôi không chắc mang lại kết quả cao. Do đó trong suốt những năm làm
công tác chủ nhiệm, tôi luôn có sự phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục
như: tổ chức Đoàn, Đội, với giáo viên bộ môn, Ban giám hiệu nhà trường, phụ
huynh học sinh, …
6.1.Phối hợp với tổ chức Đoàn, Đội:
Trong trường luôn có rất nhiều hoạt động vui chơi, giải trí nhằm bổ trợ cho
hoạt động học tập của học sinh. Ví dụ: Tổ chức Vui trung thu (do tổ chức Đoàn +
Đội phối hợp tổ chức); Áo ấm tình thương, Áo lụa tặng bà (Đội tổ chức); … Khi
chi đội 4A của tôi tham gia, tôi luôn là người hướng dẫn tổ chức, tôi ủng hộ tất cả
những ý tưởng của chi đội, gợi ý để các em tự giác tham gia một cách có hiệu quả.
Tôi luôn coi tổ chức Đội là lực lượng nòng cốt hỗ trợ trong việc giáo dục học sinh.
14


Phối hợp với Đoàn, Đội để giáo dục học sinh, khuyến khích các em tích cực học
tập và làm theo 5 điều Bác Hồ dạy.
6.2 Phối hợp với các giáo viên bộ môn
Hàng ngày lên lớp, tôi luôn có sự trao đổi cùng các giáo viên bộ môn, giáo viên
của các năm học trước để tạo thành một tập thể sư phạm có tác động đồng bộ tới
từng học sinh và tập thể học sinh. Tôi luôn lắng nghe và tiếp thu ý kiến của giáo
viên bộ môn về tình hình của lớp, đặc biệt là những học sinh có hoàn cảnh khó
khăn, những em còn rụt rè trong giờ học cũng như những học sinh chưa ngoan

trong giờ học bộ môn. Ví dụ: Với tiết âm nhạc, tôi thường xuyên trao đổi với giáo
viên để nắm được những em học tốt, đặc biệt những em học chưa tốt, tìm hiểu
nguyên nhân để giúp học sinh đó tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn.
Qua việc làm đó tôi đã giúp những em này mạnh dạn hơn rất nhiều trong tiết
Âm nhạc. Trong các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp, tôi thường xuyên cho những
tiết mục văn nghệ xen kẽ, để tạo cho các em sự tự tin hơn trong môn Âm nhạc. Kết
quả là lớp tôi đã có rất nhiều em hát hay, múa đẹp, đội văn nghệ của lớp tham gia
thi cấp thị được giải cao.
6.3. Phối hợp với Ban giám hiệu của trường và các lực lượng giáo dục khác.
Tôi là người được thừa lệnh của hiệu trưởng giao quyền quản lý học sinh lớp
4A. Trên tinh thần đó, tôi vẫn thường xuyên báo cáo, tâm sự cùng Ban giám hiệu
về tình hình học tập, kết quả học tập, nguyện vọng của học sinh để tìm ra những
biện pháp thích hợp để giáo dục các em một cách tốt hơn.
Ngoài ra, tôi còn có sự phối hợp cùng với giáo viên thư viện, bảo vệ, phục vụ, …
để nắm được tinh thần chấp hành kỷ luật, nội quy của nhà trường như thế nào? Đặc
biệt với những học sinh quá hiếu động. Ví dụ: Lớp tôi có một học sinh rất hay đi
muộn, em luôn có lý do rất hợp lý khiến tôi không thể trách em. Bên cạnh việc
nhắc nhở em, tôi trao đổi với bảo vệ, nhờ bảo vệ quan sát giúp xem mỗi lần em đi
muộn vì lí do gì, do ai chở đi. Từ đó, giúp tôi tìm được nguyên nhân chính xác hơn
để giáo dục em.
Những sự phối hợp trên đã cho tôi rất nhiều sự thành công trong quá trình giáo
dục nề nếp, học tập của học sinh.
6.4.Phối hợp với gia đình học sinh.
Nếu như ở trường các em là học sinh của giáo viên chủ nhiệm thì ở nhà các em
là thành viên của một gia đình là con của cha mẹ. Cả giáo viên chủ nhiệm và cha
mẹ các em đều là những người chịu trách nhiệm về kết quả giáo dục của học sinh.
Tôi thiết nghĩ, để công tác giáo dục đạt hiệu quả thì phụ huynh và giáo viên chủ
nhiệm phải đồng cảm, hiểu nhau. Nếu như ở nhà, cha mẹ nhắc nhở, dạy bảo động
viên con em mình, ở trường thầy cô tận tình chỉ dạy thì chắc chắn học sinh ấy sẽ
tiến bộ, vâng lời.

Thông qua phiên họp phụ huynh học sinh đầu năm. Tôi đã làm các công việc
sau:
• Thông qua nội quy nhà trường.
15


• Thông qua nội quy của lớp học, xin ý kiến của phụ huynh học sinh.
• Thông báo về các khoản thu đầu năm (Tránh việc học sinh lợi dụng lấy
tiền của cha mẹ để đi chơi ).
• Bầu ban đại diện phụ huynh học sinh: Nhiệt tình - có thời gian để giúp
giáo viên chủ nhiệm trong suốt năm học.
• Động viên 100% phụ huynh đăng kí tham gia sổ liên lạc điện tử và lấy
chữ kí mẫu để tránh các trường hợp học sinh thay mặt cha mẹ tự tiện làm đơn nghỉ
học.
Gia đình là trường học đầu tiên của trẻ. Ảnh hưởng giáo dục của gia đình là rất
lớn. Là giáo viên chủ nhiệm, tôi thiết nghĩ, nếu việc liên lạc với phụ huynh học sinh
chỉ đơn thuần là để thông tin một chiều, về những sai phạm của học sinh thì sẽ làm
giảm sút hiệu quả giáo dục. Cho nên, ngay sau khi khảo sát chất lượng đầu năm học
tôi tiến hành họp phụ huynh học sinh. Trước tiên tôi phải giúp cho phụ huynh học
sinh hiểu được mục đích và yêu cầu giáo dục cần đạt của lớp 4 là gì? Từ đó tôi
cùng phụ huynh trao đổi, bàn bạc để tìm ra biện pháp, hình thức giáo dục cho học
sinh.
Đặc biệt hàng tuần hàng tháng tôi đều cố gắng thông báo rõ về ưu điểm và
khuyết điểm của các em một cách cụ thể qua sổ liên lạc điện tử. Giúp phụ huynh
học sinh biết được ưu, khuyết điểm của con mình. Từ đó, họ cảm thấy mỗi buổi học
thật sự cần thiết và nhận thức được rằng tương lai của con em mình muốn rạng rỡ
thì phải tập trung vào việc học tập. Có lẽ vì thế mà cha mẹ các em đã tạo điều kiện
rất nhiều cho các em trong việc học tập, họ không còn có ý nghĩ việc dạy học và
giáo dục trẻ là trách nhiệm của riêng nhà trường và thầy cô mà họ đã luôn liên hệ
với thầy cô để có biện pháp giúp con em mình học tiến bộ.

Thường xuyên thăm hỏi gia đình học sinh cá biệt, học sinh có hoàn cảnh khó
khăn để kịp thời động viên, giúp đỡ tạo điều kiện cho các em đến lớp học đều đặn.
Ví dụ: Trong lớp tôi chủ nhiệm, có một học sinh học rất tốt nhưng trong thời
gian cuối kì I vừa qua, kết quả kiểm tra của em không được như tôi mong đợi. Để
tìm hiểu lý do, tôi phải cùng tâm sự với em, tìm hiểu em từ nhiều nguồn thông tin.
Tôi được biết là bố mẹ em vừa ly dị. Tôi tìm đến gia đình thì thấy mẹ em không
còn tinh thần để làm việc. Tôi hiểu được vì sao học sinh của tôi lại như thế. Tôi đã
cố gắng trở thành một người chị thân thiết của em để giúp em vượt qua. Sau một
thời gian ngắn, tôi liên lạc với mẹ em cùng trao đổi về việc học của em. Mẹ em có
lời nhận lỗi trong việc giáo dục em và từ đó tinh thần của em đã tốt hơn. Em đã học
tốt trở lại. Điều đấy khiến tôi cảm thấy việc liên lạc cùng gia đình học sinh là vô
cùng quan trọng.
Để sĩ số không bị giảm tôi thường động viên các em đến lớp đều, nếu thấy em
nào vắng mặt 1- 2 ngày là tôi liên lạc đến gia đình tìm hiểu nguyên nhân và thường
xuyên tạo không khí vui vẻ, hòa nhập cho các em trong giờ học.

16


IV: HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC, VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG.
Sau khi áp dụng một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm lớp như trên, tôi
nhận thấy học trò lớp tôi chủ nhiệm có những chuyển biến tích cực. Nhiều năm các
lớp do tôi chủ nhiệm đều đạt được danh hiệu lớp tiên tiến và chất lượng học tập đạt
được cũng rất khả quan. Điển hình là các lớp vài năm gần đây do tôi phụ trách học
sinh đều có năng lực, phẩm chất được đánh giá thực hiện đầy đủ. Đặc biệt trong
năm học 2016-2017, cho đến giai đoạn nửa cuối học kì 2 này thì học sinh lớp tôi
chủ nhiệm đạt được chỉ tiêu đề ra và kết quả như sau :
Môn


Tổng
số HS

HHT

Số bài hoàn
thành

Số bài chưa hoàn
thành

Tiếng Việt

24

11 em =
45,8%

13 em =
54,2%

0

Toán

24

11 em =
45,8%


13 em =
54,2%

0

Từ kết quả khảo sát trên có thể thấy rằng:
* Về năng lực : 100% Học sinh có năng lực tốt. Tự học và giải quyết vấn đề (Bước
đầu biết tự học, tự hoàn thành các nhiệm vụ học tập, biết đặt câu hỏi và tự tìm câu
trả lời…)
*Về phẩm chất :
- 100% học sinh trong lớp ngoan ngoãn ,chăm học, tự tin tham gia các hoạt động
giáo dục.
- 100% các em biết đoàn kết, thương yêu bạn bè, kính trọng lễ phép với ông bà, cha
mẹ và người trên.
- Thực hiện tốt các nội qui trường, lớp .
- Thực hiện kỉ luật tốt; biết chịu trách nhiệm với những việc mình đã làm ,...

C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Để trở thành một người chủ nhiệm lớp có đầy đủ khả năng thì mỗi giáo viên
chủ nhiệm lớp cần được bồi dưỡng và tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ,
thường xuyên cập nhật thông tin để phục vụ cho giảng dạy và điều cần thiết hơn cả
là mỗi giáo viên chúng ta cần có lòng nhân ái lòng vị tha, tấm lòng yêu trẻ, tâm
huyết với nghề. Vâng! Chúng ta hãy cởi mở tâm hồn mình với mọi người, với các
em. Hãy yêu thương các em bằng chính trái tim của người anh, người chị, người
cha, người mẹ, lúc đó ta hiểu được các em cần gì? Ước mơ gì?

17



Người giáo viên phải thực sự mẫu mực, phải là tấm gương sáng toàn vẹn từ
nhận thức đến hành động thực tiễn, từ lời nói cử chỉ điệu bộ đến thái độ ứng xử
hằng ngày, để trở thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Thành công của người giáo viên chủ nhiệm lớp phần lớn đòi hỏi người giáo
viên phải tìm hiểu để biết được một cách toàn diện, sâu sắc về từng học sinh. Hiểu
rõ hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lí, tính cách, sở thích, thói quen,...của từng học
sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp. Chú trọng xây dựng và bồi dưỡng ban cán
sự của lớp, huấn luyện để các em trở thành những “người lãnh đạo nhỏ” tài ba.
Luôn giữ được sự bình tĩnh trước lỗi lầm của học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo
nguyên nhân của mỗi tình huống xảy ra để có cách xử lí đúng đắn, hợp tình, hợp lí;
tránh trách nhầm, trách oan học sinh làm các em hoang mang, thiếu niềm tin vào
người thầy. Luôn biết khích lệ biểu dương các em kịp thời. Hãy khen ngợi những
ưu điểm sở trường của các em để các em thấy giá trị của mình được nâng cao, có
niềm tin và hứng thú học tập hơn. Luôn thể hiện cho học sinh thấy tình cảm yêu
thương của một người thầy đối với học sinh. Duy trì và sáng tạo trong công tác xây
dựng “lớp học thân thiện học sinh tích cực”, làm sao để tất cả các em luôn cảm thấy
“mỗi ngày đến trường là một niểm vui. Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh;
kiên trì vận động phụ huynh tích cực tham gia vào công tác giáo dục học sinh.
II. KIẾN NGHỊ:
Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp và phổ biến các kinh nghiệm rộng khắp cho
đồng nghiệp, tôi xin có một số kiến nghị và đề xuất sau:
- Phòng giáo dục và nhà trường thường xuyên tổ chức trao đổi kinh nghiệm làm
công tác chủ nhiệm trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của trường và trong cụm
để giáo viên học hỏi kinh nghiệm của nhau nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản
lí lớp học và giáo dục toàn diện cho học sinh .
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đã rút ra được sau những năm làm công
tác chủ nhiệm lớp. Rất mong được sự góp ý của các cấp lãnh đạo và các anh chị
đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG


Hoằng Đại, ngày 28 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Oanh

18


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI..............................................................................................................1
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU....................................................................................................2
III. ĐỐI TƯƠNG NGHIÊN CỨU................................................................................................2
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...........................................................................................2

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.....................................................2
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN......................................................................................................................2
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM............4
1. Thuận lợi:.............................................................................................................................4
2. Khó khăn:.............................................................................................................................4
3. Khảo sát chất lượng học sinh:.........................................................................................5
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ............................................5
1. Khảo sát thực trạng đầu năm học:........................................................................................5
1.1 Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh...........................................................................5
1.2 Tình hình học tập:..........................................................................................................6
2. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp:......................................................................................7
3. Tổ chức các hoạt động trên lớp học:....................................................................................8
3.1. Xây dựng Hội đồng tự quản lớp và bồi dưỡng những học sinh tích cực......................8
3.2. Xây dựng nề nếp lớp học...............................................................................................9

3.3. Xây dựng nề nếp xếp hàng lúc tập trung, lúc tập thể dục và khi chào cờ...................10
3.4. Xây dựng nề nếp chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập:.................................................11
3.5. Xây dựng nề nếp học tập.............................................................................................11
4. Giáo dục phẩm chất :..........................................................................................................13
5. Hoạt động ngoài giờ lên lớp:..............................................................................................14
6. Công tác xã hội hóa giáo dục kết hợp với các lực lượng giáo dục:....................................14
6.1.Phối hợp với tổ chức Đoàn, Đội:.................................................................................14
6.2 Phối hợp với các giáo viên bộ môn..............................................................................15
6.3. Phối hợp với Ban giám hiệu của trường và các lực lượng giáo dục khác..................15
6.4.Phối hợp với gia đình học sinh....................................................................................15
IV: HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC,
VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG........................................................17

..................................................................................................................................17
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ...............................................................................17
I. KẾT LUẬN.............................................................................................................................17
II. KIẾN NGHỊ:..........................................................................................................................18

1



×