Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Kinh nghiệm dạy học môn tiếng việt lớp 5 theo mô hình VNEN ở trường tiểu học thành tiến, năm học 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.93 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD&ĐT THẠCH THÀNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KINH NGHIỆM DẠY HỌC MÔN TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH LỚP 5B THEO MÔ HÌNH VNEN
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC THÀNH TIẾN
NĂM HỌC 2016-2017

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hài
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Thành Tiến
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt

THANH HÓA, NĂM 2017


Mục lục
Mục
1.1. Lí do chọn đề tài

Số trang
1

1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu

2
2



1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Kết luận

3
4
14

Kiến nghị

15

14

2


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài

Mục tiêu của giáo dục tiểu học hiện nay là giáo dục cho các em về đạo đực và
nhân cách. Trong giai đoạn ở bậc Tiểu học trẻ bắt đầu bước vào môi trường học tập
thực thụ. Chính vì vậy, Giáo viên cần giáo dục cho trẻ biết yêu thương, quan tâm
giúp đỡ cha mẹ, bạn bè và những người xung quanh. Biết cách cảm ơn và xin lỗi và
biết chia sẻ với những người không may mắn. Định hướng nhân cách là gian đoạn
quan trọng nhất hiện nay. Sau giáo dục nhân cách thì kiến thức là mục tiêu quan
trọng thứ hai. Đối với kiến thức ở bậc Tiểu học các em cần luyện tập khả năng đọc,
viết, làm toán, tìm hiểu về tự nhiên - xã hội và thế giới xung quanh. Mục tiêu tiếp
theo là giáo dục cho các em kĩ năng sống. Bên cạnh giáo dục về nhân cách, kiến
thức thì giáo dục kĩ năng sống cho các em còn là một mục tiêu quan trọng trong
nhà trường hiện nay. Đó là các kĩ năng về giao tiếp, tính tự giác, biết giúp đỡ gia
đình với những công việc phù hợp, tích cực tham gia các hoạt động tập thể, khả
năng bảo vệ bản thân…
Để đạt được mục tiêu đó, môn Tiếng Việt ở tiểu học góp phần giáo dục cho
học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Từ đó, các em có kĩ năng sử dụng Tiếng
Việt để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua
dạy và học Tiếng Việt còn góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy. Môn Tiếng
Việt cũng cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu
biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và
nước ngoài. Học Tiếng Việt các em sẽ được giáo dục về tình yêu con người, tình
yêu quê hương đất nước.
Đối với lớp 5, môn Tiếng Việt giúp học sinh nắm vững cách đọc - hiểu nội
dung, ý nghĩa văn bản; nhận biết một số chi tiết nghệ thuật của văn bản. học sinh
nắm vững cách viết đoạn văn, bài văn kể chuyện, miêu tả, viết thư. Các kiến thức,
kĩ năng, thái độ được hình thành qua việc học tập môn Tiếng Việt cho học sinh lớp
5 góp phần vô cùng quan trọng trong giáo dục tiểu học.[1].
Trường Tiểu học Thành Tiến tham gia dạy theo mô hình VNEN từ năm học
2012-2013. Tuy nhiên, đến năm 2014-2015, lớp 5 mới dạy học theo mô hình này.
Dạy học Tiếng Việt theo mô hình VNEN học sinh sẽ được tự tin, chủ động trong
học tập. Các em được rèn nhiều hơn về kĩ năng nghe tích cực và kĩ năng nói. Hơn

hết, các em được học tập trong môi trường tương tác, từ đó các em biết thừa nhận
người khác, học hỏi người khác để điều chỉnh bản thân.
Tuy nhiên, việc dạy học môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN những
năm qua giáo viên vẫn chưa quen nên cảm thấy khá vất vả, vẫn còn cần được tích
lũy kinh nghiệm, cần có những thay đổi, điều chỉnh sao cho phù hợp với đối tượng
học sinh để đem lại hiệu quả cao nhất. Việc tìm các biện pháp để rèn cho học sinh
kĩ năng viết, kĩ năng đọc tốt nhất phù hợp với khả năng của các em là vấn đề mà tôi

3


rất quan tâm. Làm thế nào để áp dụng mô hình tiên tiến, hiện đại này hiệu quả tại
trường ?
Vậy nên trong quá trình dạy học tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và mạnh dạn đưa ra
một số kinh nghiệm của bản thân nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng
Việt lớp 5 theo mô hình VNEN. Tôi xin chia sẻ “Kinh nghiệm dạy học môn Tiếng
Việt lớp 5 theo mô hình VNEN ở Trường Tiểu học Thành Tiến, năm học 20162017 ”
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đưa ra các các giải pháp để dạy học môn Tiếng Việt lớp 5 một cách hợp lý,
hiệu quả.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng, nghiên cứu, điều tra, tổng kết các biện pháp, giải pháp để
dạy học môn Tiếng Việt phù hợp với học sinh lớp 5B trường Tiểu học Thành Tiến
nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn tiếng Việt lớp 5 ở Trường Tiểu học Thành
Tiến năm học 2016-2017.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp thống kê.
-Phương pháp phỏng vấn
-Phương pháp điều tra khảo sát điều tra thực tế, thu thập thông tin;
-Phương pháp phân tích;

-Phương pháp so sánh, tổng hợp.
2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Mỗi bài học trong tài liệu hướng dẫn học Tiếng Việt 5 được nhóm lại theo
mạch kiến thức, kĩ năng. Mỗi bài( được đánh dấu theo số thứ tự từ 1 đến 35 kèm
theo một chữ cái A, B, C) được thực hiện trong 2-3 tiết; 3 bài A, B, C được học
trong một tuần gồm 8 tiết. trừ bài ôn tập, thời gian cho từng bài được phân chia như
sau:
+ Bài A: 3 tiết, gồm các nội dung đọc, viết chính tả, luyện từ và câu
+ Bài B: 3 tiết, gồm các nội dung đọc, kể chuyện, viết đoạn văn.
+ Bài C: 2 tiết, gồm các nội dung luyện từ và câu, viết đoạn, bài.
Các bài ôn tập gồm các nội dung: tập đọc, viết chính tả, luyện từ và câu, viết
đoạn, bà văn.
Căn cứ tài liệu hướng dẫn học môn Tiếng Việt lớp 5 được chia thành 4
tập(mỗi học kì có 2 tập) gồm 10 chủ điểm cụ thể như sau:
Tập 1A: gồm 3 chủ điểm được học trong 10 tuần, bao gồm:
Việt Nam - Tổ quốc em, gồm các bài 1,2,3.
Cánh chim hòa bình, gồm các bài 4,5,6.

4


Con người với thiên nhiên, gồm các bài 7,8,9.
Ôn tập: bài 10
Tập 1B: gồm 2 chủ điểm được học trong 8 tuần, bao gồm :
Giữ lấy màu xanh, gồm các bài 11,12,13.
Vì hạnh phúc con người, gồm các bài 14, 15, 16, 17.
Ôn tập: Bài 18.
Tập 2A: gồm 3 chủ điểm được học trong 10 tuần, bao gồm:
Người công dân, gồm các baif19, 20, 21.

Vì cuộc sống thanh bình, gồm các bài 22, 23, 24.
Nhớ nguồn gồm các bài 25, 26, 27.
Ôn tập: bài 28.
Tập 2B: gồm 2 chủ điểm được học trong 7 tuần, ban gồm:
Nam và nữ, gồm các bài 29, 30, 31.
Những chủ nhân trương lai, gồm các bài 32, 33, 34.
Ôn tập: bài 35.
Theo tài liệu tập huấn dạy học lớp 5 mô hình trường học mới Việt Nam có
nêu rõ: Việc điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học Tiếng Việt cần phải làm khi:
Một hoặc một số hoạt động trong hướng dẫn học tiếng việt không phù hợp
với đặc điểm tâm lí, vốn sống của học sinh trong lớp do giáo viên phụ trách.
Một hoặc một số hoạt động trong dạy học Tiếng Việt không phù hợp với điều
kiện trang bị của lớp học.
Một hoạt động trong hướng dẫn học không phù hợp với văn hóa, phong tục
địa phương.[2].
Theo tài liệu Hướng dẫn tổ chức sinh hoạt chuyên môn tại các trường thực
hiện mô hình Trường học mới Việt Nam, nhóm học tập là thành tố đặc trưng, quan
trọng của trường học mới. có thể nói, mọi hoạt động của học sinh diễn ra trong
nhóm học tập. Học sinh chủ yếu làm việc theo nhóm.
Nhóm trưởng là linh hồn của nhóm học tập, là người điều hành, giám sát hoạt
động học của mỗi học sinh trong nhóm. Nhóm trưởng là người hỗ trợ tích cực giáo
viên trong việc tổ chức, điều hành các hoạt động học vầ báo cáo giáo viên kết quả
học tập hay những vướng mắc trong học tập của nhóm cần hỗ trợ.
Một nhóm trưởng tốt là phải tạo cơ hội để mọi thành viên tự giác trong tự học,
tích cực tham gia hoạt động nhóm. Đối với các bạn nhút nhát thiếu tự tin cần được
nói nhiều, trao đổi nhiều, thể hiện nhiều trong hoạt động nhóm. [3].
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trường Tiểu học Thành Tiến là trường nằm ở vùng ven của huyện Thạch
Thành, địa bàn dân cư kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Học sinh có trên 50% là con
em dân tộc thiểu số, còn lại là con em các vùng khác định cư đến. Gia đình các em

100% là thuần nông do đó phụ huynh hầu như không có tác động gì đến việc học
của các em. Việc áp dụng mô hình VNEN được gia đình, học sinh, giáo viên ủng

5


hộ. Chất lượng giáo dục cũng ngày được nâng lên. Ban giám hiệu nhà trường luôn
chỉ đạo sát sao, giúp đỡ, tư vấn, chia sẻ khó khăn với giáo viên trong công tác giảng
dạy.
Trong hai năm thực hiện dạy học môn Tiếng Việt theo mô hình VNEN, đội
ngũ giáo viên nhà trường đã có nhiều cố gắng tiếp cận, học hỏi và tích lũy kinh
nghiệm để dạy học tốt môn học này. Nhưng là những năm đầu thực hiện, nên còn
nhiều bỡ ngỡ, khó khăn, chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt chưa cao.
Trong năm học 2016 – 2017, tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp
5B, tổng số 24 em. Các em phần lớn ở thôn 4,5 chỉ có 3 em ở thôn 2; 1 em ở thôn 1
. Tất cả các em đều sinh sống tại xã Thành Tiến. Gia đình các em đa phần làm nông
nghiệp, có 7 em có bố hoặc mẹ ngoài làm nông nghiệp còn làm thêm phụ hồ hoặc
thợ xây để kiếm thêm thu nhập.
Đầu năm học, tôi đã thống kê kết quả học tập môn Tiếng Việt học sinh lớp 5B
do tôi phụ trách như sau:
Lớ
p



Hoàn thành
tốt
S
TL


số
L
5B

2
4

Hoàn thành
S

T

2

L
83,4%

L
2

8,3
%

Chưa hoàn thành
S

TL

2


8,3

L
%

Nhận thức được thực trạng nhà trường như vậy, tôi đã tiến hành các giải pháp
để nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 5B như sau:
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Phân loại đối tượng học sinh- Thành lập nhóm tương trợ.
Căn cứ kết quả khảo sát đầu năm, tôi thấy học sinh của lớp 5B tôi phụ trách
đọc đúng chỉ có 12 em. Tôi sẽ dùng em này thành lập các nhóm tương trợ.
Còn lại, tôi chia lớp ngồi thành các nhóm như sau:
+ Các em đọc sai các tiếng có dấu ?/~ và các tiếng có âm đầu ch/tr nên tôi
chia thành 1 nhóm ngồi gần nhau, đặt tên nhóm là Hoa Cẩm Chướng
+ Các em đọc sai các tiếng có dấu ?/~ và các tiếng có âm đầu r/d/gi nên tôi
chia thành 1 nhóm ngồi gần nhau, đặt tên nhóm là Giỏ Phượng Vĩ
+ Các em đọc sai các tiếng có âm đầu r/d/gi và các tiếng có âm đầu ch/tr
nên tôi chia thành 1 nhóm ngồi gần nhau, đặt tên nhóm là Hoa Trinh Nữ.
Việc đặt tên cho nhóm luôn gắn với lỗi phát âm của nhóm để mỗi lần nhắc
đến tên nhóm, các em có ý thức nhẫn ra lỗi và ý thức sửa lỗi phát âm cho bản thân.
Trong khi tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh trong giờ Tiếng Việt,
tôi sắp xếp nhóm và dặn các em hợp tác trong nhóm của mình để nhận ra lỗi mà

6


mình đang mắc. Từ việc nhận ra lỗi phát âm của mình, các em sẽ có ý thức sửa lỗi
và biết luyện đọc cho đúng.
Cũng dựa và kết quả khảo sát, tôi sắp xếp mỗi nhóm có ít nhất một em có
khả năng viết tốt, là nòng cốt giúp nhóm nhận lỗi, sửa lỗi trong các bài học về viết

chính tả, viết đoạn, bài.
Để các nhóm hoạt động có hiệu quả, tôi đã tập huấn cho nhóm trưởng.
hướng dẫn nhóm trưởng để các em có kĩ năng trợ giúp cho các bạn để giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ.
2.3.2. Chọn vị trí bao quát lớp- kịp thời hỗ trợ học sinh.
Để kiểm soát tốt quá trình học tập của học sinh, giáo viên cần đứng ở vị trí
thuận lợi nhất để quan sát được toàn thể các em. vị trí quan sát có thể di chuyển
linh hoạt, dễ dàng. Giáo viên cũng cần kích thích học sinh chủ động, kịp thời phát
tín hiệu yêu cầu trợ giúp.
Muốn tổ chức tốt hình thức hoạt động cá nhân trong giờ học tiếng việt lớp 5,
theo tôi giáo viên cần giao nhiệm vụ vừa sức với học sinh để các em có thể hoàn
thành được nhiệm vụ từ đó kích thích hứng thú và duy trì quá trình học tập của
từng em.
Đối với những em học còn chậm hơn so với các bạn, giáo viên nên hỗ trợ các
em này bằng cách gợi ý hoặc dẫn dắt bằng câu hỏi phụ hoặc tách câu hỏi thành hai,
ba câu hỏi nhỏ để những em học sinh này có thể thực hiện được.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 6B: Đoàn kết đấu tranh vì hòa bình [4].
HĐ 5: (Cùng nhau hỏi - đáp theo các câu hỏi dưới đây).
- Câu hỏi 4 trong sách hướng dẫn: Em hiểu thái độ của ông cụ đối với người
Đức và tiếng Đức như thế nào?
* Câu hỏi gợi ý, dẫn dắt của giáo viên: Ông cụ không đáp lời tên sĩ quan phát
xít có phải ông ghét tiếng Đức không? Ông cụ có căm ghét người Đức không?
Ví dụ 2: Bài 8A: Giang sơn tươi đẹp- HĐ5.[4].
- Câu hỏi trong sách hướng dẫn: Những cây nấm rừng đã khiến các bạn trẻ có
những liên tưởng thú vị gì?
- Câu hỏi gợi ý của giáo viên: Khi nhìn thấy những chiếc nấm các bạn trẻ đã
so sánh với những gì?
- Câu hỏi trong sách hướng dẫn: Vì sao các bạn lại có những liên tưởng ấy?
* Câu hỏi gợi ý của giáo viên: Vì sao các bạn lại so sánh như vậy?
Trong quá trình học sinh hoạt động cá nhân, giáo viên cần bao quát lớp để

thúc đẩy hoạt động của những em có nhịp học tốt. Có thể giáo viên cử những em
này đến để hỗ trợ các bạn còn chưa hoàn thành, cũng có thể giáo viên đưa thêm các
bài tập cho học sinh thực hiện.
Cần lưu ý, khi tổ chức cho học sinh hoạt động cá nhân. Giáo viên không để
tình trạng học sinh học tốt phải ngồi chờ những học sinh học kém hơn để tiếp tục
hoạt động nhóm hoặc cả lớp tiếp theo.

7


2.3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm, vai trò của nhóm trưởng.
Dạy học theo VNEN là dạy học tương tác. Vì thế, hình thức hoạt động trong
nhóm chiếm nhiều trong các tiết học. Chính vì thế, giáo viên cần tập luyện và tổ
chức cho các em hoạt động nhóm hiệu quả sẽ góp phần thực hiện mục tiêu của tiết
học.
Để dạy học theo nhom hiệu quả, giáo viên cần làm tốt công tác bồi dưỡng
nhóm trưởng. tôi đã bồi dưỡng nhóm trưởng như sau:
- Trong khi các nhóm hoạt động tôi đi đến các nhóm quan sát các nhóm làm
việc, nếu thấy nhóm trưởng lúng túng trong việc điều hành nhóm tôi đã hướng dẫn
nhóm trưởng cách điều hành nhóm Ví dụ: cách phân công nhiệm vụ, nhắc nhở các
bạn thực hiện nhiệm vụ, kiểm tra các thành viên trong nhóm đã hoàn thành nhiện
vụ hay chưa, tổng kết báo cáo.
- Bồi dưỡng nhóm trưởng vào các tiết sinh hoạt đầu giờ hoặc trong các giờ
ra chơi. Giáo viên tập mẫu cho nhóm trưởng trong cách thực hiện các hoạt động
học tập trong từng môn học một cách cụ thể.
Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc phần tìm hiểu bài, nhóm trưởng yêu cầu: Các bạn
hãy đọc thầm bài và suy nghĩ để trả lời các câu hỏi ở sách hướng dẫn. Sau khi các
thành viên trong nhóm thực hiện yêu cầu đó, nhóm trưởng mời lần lượt các thành
viên trả lời và nhận xét. Nhóm thống nhất kết quả cuối cùng.
Tuy nhiên, để hoạt động nhóm đem lại hiệu quả thiết thực, giáo viên cần tính

toán thời gian làm việc của nhóm sao cho hợp lí, thiết thực. Nhóm học sinh cần
nắm rõ mục đích, nhiệm vụ cụ thể của nhóm cũng như nhiệm vụ của mỗi cá nhân
khi hợp tác hoạt động.
Ví dụ: Khi dạy bài 12A, phần luyện đọc bài Mùa thảo quả.[4]
Nhóm trưởng phân công nhiệm vụ cho các thành viên như sau:
- Bạn Nam đọc đoạn 1, bạn Đại đọc đoạn 2, bạn Thiện đọc đoạn 3, tôi đọc cả
bài. Sau đó, đọc lượt 2 ta sẽ bắt đầu từ bạn Đại nhé!
Để nhóm làm việc hiệu quả, giáo viên cần hình thành thói quen tự giác làm
việc và ý thức kỉ luật cho học sinh. muốn vậy, giáo viên cần thường xuyên giám
sát, động viên hay giúp đỡ học sinh trong quá trình học, đánh giá đúng kết quả học
tập của học sinh.
Lưu ý, khi tổ chức hoạt động trong nhóm, giáo viên cần nhắc nhở học sinh
ngoài việc luyện đọc tích cực, luyện đọc thành tiếng với mức độ vừa phải, tránh để
học sinh đọc thành tiếng quá to, ảnh hưởng đến nhóm khác.
Ngôn ngữ trao đổi của học sinh trong nhóm cũng cần lịch sự, nhẹ nhàng, tôn
trọng ý kiến của bạn. Để đạt được điều này, giáo viên cần tổ chức tập cho học sinh
cách trao đổi với bạn để học sinh làm theo.
Ví dụ:
- Tôi mời bạn đọc bài!

8


- Tôi mời bạn nhận xét.
* Khi nhận xét bạn cần nói:
- Bạn trả lời có ý đúng nhưng tôi muốn bổ sung thêm...
- Bạn đọc bài rõ ràng nhưng cần cố gắng đọc trôi chảy, lưu loát hơn...
2.3.4. Điều chỉnh tài liệu học hợp lý, phù hợp với học sinh.
Thực hiện theo công văn 86- GPE/VNEN, để được phép thay thế ngữ liệu dạy
học, cá nhân phải trao đổi với tổ chuyên môn. Vì vậy, trong các buổi họp chuyên

môn, tôi luôn chủ động lên sẵn kế hoạch thay đổi ngữ liệu luyện đọc để trình bày
cho các đồng nghiệp cùng lắng nghe, trao đổi, góp ý để việc thay đổi ngữ liệu trong
giờ Tiếng Việt phần luyện đọc của tôi đạt hiệu quả cao hơn. Những bài tập đọc có
nội dung không phù hợp với học sinh của lớp tôi phụ trách, tôi đã quan sát, nghiên
cứu, suy nghĩ và thực hiện thay đổi ngữ liệu luyện đọc như sau:
TT
1

2

3
4
5

6

Bài

Ngữ liệu
Ngữ liệu
trong sách không chọn để thay thế
phù hợp
Bài 5A: Tình hữu lần lượt, quay ra,
rải, giản dị, đã mở
nghị
công nhân, thân đầu,
mật
Bài 6A: Tự do và nặng nhọc, công lí,
công lí
thắng lợi, nhân

loại, phân biệt,
hành tinh,
Bài 7A: Côn người là cất tiếng hát, vây
bạn của thiên nhiên
quanh tàu
Bài 7B: Âm thanh nối liền, ngón tay,
cuộc sống
Bài 23 B: Giữ cho hun hút, mền bông,
giấc ngủ bình yên
nép mình, lạnh
buốt.
Bài 15B: Những công cái bay, nồng hăng
trình mới

Ghi
chú

bẩn thỉu, da trắng,
chữa bệnh, dân
chủ, đấu tranh,
xấu xa
mê say, say sưa,
trị tội
thủy điện, bỡ ngỡ
ngủ say,
xuống
đường,
cổng trường, giấc
ngủ, giữ mãi
bức tranh, trát

vữa, xây dở, trẻ
nhỏ.

2.3.5. Khai thác triệt để các góc học tập.

9


Trong lớp học VNEN, giáo viên, học sinh nên xây dựng, đóng góp các tài liệu
để xây dựng nguồn tài liệu cho các góc học tập, góc thư viện, ... được đa dạng,
phong phú.
Đối với các tiết học Tiếng Việt lớp 5, học sinh có thể tham khảo thêm kiến
thức từ các tài liệu này. Việc rèn cho học sinh chủ động đi tìm sự hỗ trợ từ các tài
liệu trong góc học tập sẽ giúp các em tự tin, mạnh dạn và hoàn thành nhiệm vụ học
tập tốt hơn.
Ví dụ 1: Khi dạy học bài 1C: Buổi sáng ở làng quê. [4].
HĐ3: Tìm và ghi vào bảng nhóm các từ đồng nghĩa:
a, Chỉ màu xanh M: xanh, xanh ngắt
b, Chỉ màu trắng
c, Chỉ màu đổ
d, Chỉ màu đen
Bài 2A: Văn hiến nghìn năm.[4].
HĐTH – HĐ3: Trò chơi: Thi tìm nhanh các từ có tiếng quốc ( với nghĩa là
nước)
Bài 3A: Tấm lòng người dân [4].
HĐTH – HĐ2b: Tìm và ghi vào vở các tiếng bắt đầu bằng tiếng đồng ( đồng
có nghĩa là “ cùng”)
Để học sinh hoàn thành các bài tập này các em có thể đến thư viện lớp lấy từ
điển để tìm hiểu, tham khảo.
2.3.6. Tổ chức hoạt động đọc- hiểu linh hoạt, sáng tạo.

Để tổ chức tốt hoạt động đọc- hiểu, giáo viên cần chuẩn bị đồ dùng phục vụ
cho hoạt động này đầy đủ. Đồ dùng có thể là tranh, ảnh, các thẻ từ, phiếu học,....
Giáo viên cần khai thác triệt để đồ dùng để tổ chức cho học sinh hiểu được nghĩa
của từ, hiểu bài đọc, cung cấp cho học sinh kinh nghiệm sống.
Khi tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội dung văn bản, giáo viên có thể tổ chức
linh hoạt theo hình thức nhóm hoặc cặp. Chú ý, khi tổ chức theo cặp, mỗi em đều
cần đọc thầm và tự trả lời câu hỏi. Sau đó , thực hành đóng vai: 1 học sinh đọc- 1
học sinh trả lời rồi đổi vai. Giáo viên cần kiểm soát việc học sinh nói đủ câu hay
không. Tránh tình trạng học sinh nói cộc lốc, quá ngắn gọn.
Ví dụ 1: Bài 21B: Những công dân dũng cảm.[4].
Học sinh có thể hỏi đáp theo các câu hỏi trong bài tập đọc Tiếng rao đêm –
HĐ3: ( cặp đôi) Chọn lời giải nghĩa ở cột B phù hợp với từ ngữ ở cột A được thực
hiện như sau:
Học sinh 1: Té quỵ
Học sinh 2: Nghĩa là ngã khụy xuống, không gượng dậy được.
Học sinh 2: Thất thần
Học sinh 1: Nghĩa là sắc mặt nhợt nhạt vì quá sợ hãi.
Ví dụ 2: Bài 11A: Đất lành chim đậu. [4].

10


HĐCB –HĐ5: (Thảo luận, trả lời câu hỏi) được thực hiện như sau:
Bước 1: Học sinh làm cá nhân: Học sinh đọc thầm, đoạn, bài để trả lời các câu
hỏi.
Bước 2: Học sinh trao đổi cặp đôi.
Học sinh 1: Bé Thu thích ra ban công để làm gi?
Học sinh 2: Thu thích ra ban công để được ngắm nhìn cậy cối; nghe ông kể
chuyện về từng loại cây trồng ở ban công.
Học sinh 2:Mỗi loài cây trên ban công nhà Thu có những đặc điểm gì nổi bật?

Học sinh 1: Nói về đặc điểm của từng cây. ( HS 2 có thể bổ sung thêm nếu
HS 1 nêu chưa đầy đủ).
Cặp đôi trao đổi như vậy cho đến hết các câu hỏi trong hoạt động.
Bước 3: Trao đổi trong nhóm.
Nhóm trưởng điều hành cho các bạn phát biểu trước nhóm, các bạn trong
nhóm nhận xét và bổ sung để hoàn thành tốt nhiện vụ.
Khi học sinh trao đổi trong nhóm, giáo viên cần lắng nghe để biết khả năng
hiểu bài của mỗi em. Giáo viên cần linh hoạt việc tổ chức cho học sinh hỏi- đáp
trước lớp. Khi thấy học sinh các nhóm trả lời còn có nhóm chưa chính xác, giáo
viên nên cho 1-2 cặp( nhóm) thực hành hỏi đáp trước lớp để khẳng định và khắc
sâu đáp án.
Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức tìm hiểu nội dung bài đọc theo hình thức
nhóm lớn hơn. Giáo viên cũng cần dành thời gian và lưu ý học sinh phải đọc thầm
bài và tự trả lời các câu hỏi trước dựa vào bài đọc, sau đó mới trao đổi , chia sẻ ý
kiến với các bạn trong nhóm.
Khi học sinh trao đổi trong nhóm, giáo viên cần lắng nghe để biết khả năng
hiểu bài của mỗi em. Giáo viên cần linh hoạt việc tổ chức cho học sinh hỏi- đáp
trước lớp. Khi thấy học sinh các nhóm trả lời chưa chính xác, giáo viên nên cho 1-2
cặp( nhóm) thực hành hỏi đáp trước lớp để khẳng định và khắc sâu đáp án.
2.3.7. Chú trọng rèn kĩ năng viết cho học sinh.
Để rèn cho học sinh kĩ năng viết tốt, giáo viên cần chú trọng rèn cả khi viết
chính tả và cả khi luyện cho học sinh viết đoạn, bài.
* Khi tổ chức cho học sinh viết chính tả, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
chuẩn bị viết chính tả đầy đủ theo các bước: Hướng dẫn học sinh đọc và nắm nội
dung bài, nhận xét những hiện tượng chính tả trong bài, cách trình bày văn bản,
luyện viết tiếng khó hoặc dễ nhầm lẫn.
Hầu hết các bài có phần nội dung chính tả thường có hoạt động yêu cầu học
sinh đổi vở để sửa lỗi, giáo viên cần tổ chức tốt hoạt động này để tránh làm bẩn vở
của học sinh cũng như làm học sinh mất đi sự đoàn kết. Vì thế, tôi đã yêu cầu học
sinh chỉ lỗi và sửa lỗi ra nháp cho bạn, chứ không yêu cầu học sinh sửa lỗi trên vở

của bạn. Điều này, giúp cho giáo viên xử lý được tình huống học sinh nhận xét, sửa
lỗi chưa chính xác vào vở bạn cũng như giữ được vở của học sinh sạch, đẹp. Qua

11


việc kiểm soát chữa bài cho bạn, giáo viên có điều kiện rút ra nhận xét, tuyên
dương những học sinh có nhiều tiến bộ, phát hiện những lỗi học sinh thường mắc
để các em chú ý sửa chữa.
* Khi tổ chức cho học sinh viết đoạn văn, bài văn, giáo viên cần rèn cho học
sinh xác định đúng yêu cầu của đề bài. Việc này sẽ giúp học sinh đi đúng hướng
trong các thao tác tiếp theo.
Kĩ năng viết câu để diễn đạt một ý trọn vẹn được học sinh luyện từ các lớp
2,3,4 nhưng tới lớp 5, giáo viên vẫn nên chú ý để luyện, sửa cho học sinh viết câu
đúng và hay, sửa câu sai cho học sinh. Vì viết câu là cơ sở để viết được đoạn, bài.
Ví dụ: Bài 3C Cảnh vật sau cơn mưa.[4].
Khi học sinh viết đoạn văn thực hành bài tập 3 phần hoạt động thực hành của
bài 3C Cảnh vật sau cơn mưa, có học sinh viết câu sai như sau:
+ Học sinh 1: Trong các màu sắc, em thích màu vàng nhất.( Lỗi dùng từ màu
sắc)
+ Học sinh 2: Em thích màu đỏ, em thích màu vàng, em thích cả màu xanh
nhưng em thích nhất là màu vàng.( Lỗi lặp từ “ em thích”)
+ Học sinh 3: Khi lúa đồng chín rộ. Cả cánh đồng như một tấm thảm khổng lồ
màu vàng rực. ( Lỗi câu chỉ có trạng ngữ, thiếu chủ ngữ, vị ngữ)
+ Học sinh 4: Màu vàng rực của hoa cúc trong những ngày Tết, màu vàng
hoe của nắng trời mùa thu.( Lỗi hai vế câu ghép không có mỗi quan hệ gì với nhau)
Tôi đã giúp học sinh nhận ra lỗi và tổ chức cho các em sửa lỗi. Các em đã viết
đúng như sau:
+ Học sinh 1: Trong các màu mà em biết, em thích màu vàng nhất.
+ Học sinh 2: Trong các màu, em thích nhất là màu vàng.

+ Học sinh 3: Khi lúa đồng chín rộ, cả cánh đồng như một tấm thảm khổng lồ
màu vàng rực.
+ Học sinh 4: Màu vàng rực của hoa cúc trong những ngày Tết, màu vàng
hoe của nắng trời mùa thu đều thật đẹp.
Để tổ chức cho học sinh viết đoạn, bài hiệu quả, giáo viên cần chuẩn bị chu
đáo như sau:
* Để tổ chức cho học sinh viết đoạn, bài hiệu quả, giáo viên cần chuẩn bị:
- Đọc kĩ từng hoạt động và xác định mục đích của mỗi hoạt động, mục đích
của từng HĐ nhỏ ( HĐ, nhiệm vụ nhỏ đó nhằm hình thành ở học sinh các kiến
thức, kĩ năng gì?
- Thực hiện từng HĐ để hình dung được những khó khăn của học sinh.
- Xác định thiết bị, đồ dùng dạy học cần chuẩn bị và làm đồ dùng.
- Rà soát lại từng nhiện vụ, từng hình thức HĐ và có điều chỉnh cho phù hợp
nếu cần.
- Dự kiến cách tổ chức cho học sinh thực hiện các HĐ.

12


- Trao đổi với đồng nghiệp để có cách tổ chức cho HS thực hiện các nhiệm vụ
học tập sao cho tối ưu nhất.
* Tổ chức cho HS thực hiện hoạt động tìm hiểu kiến thức lí thuyết, cách
viết đoạn, bài như sau:
+ Đọc nội dung HĐ, nắm nhiệm vụ phải thực hiện.
+ Đọc ngữ liệu.
+ Suy nghĩ, tìm hiểu ngữ liệu theo các câu hỏi, yêu cầu định hướng theo mục
tiêu bài học.
+ Trình bày trao đổi, thống nhất trong nhóm.
+ Rút ra kiến thức cách viết đoạn văn, bài văn.
Cách thực hiện cụ thể như sau:

Nhóm trưởng lấy đồ dùng học tập, phân công một bạn đọc nhiệm vụ, cả
nhóm đọc thầm.
Mỗi HS đọc ngữ liệu, suy nghĩ tìm câu trả lời.
Trình bày trước nhóm và trao đổi, thống nhất ý kiến.
Giơ thẻ tín hiệu để trình bày kết quả với thầy cô.
Trong khi học sinh hoạt động giáo viên quan sát các nhóm, trợ giúp nhóm
khó khăn. Nếu HS yếu giáo viên hướng dẫn nhóm trưởng phân công một bạn đọc
ngữ liệu, các bạn khác theo dõi đọc thầm. Chỉ định bạn học vững hơn trình bày ý
kiến trước, các bạn khác trình bày sau và thảo luận. Nhóm trưởng tổng kết, thống
nhất ý kiến.
Ví dụ: Khi dạy bài 12B.[4].
+ Giáo viên xác đinh đồ dùng dạy học cần chuẩn bị để thực hiện bài 12B Nối
những mùa hoa gồm: Phiếu học tập như sau:
Nối tên mỗi phần của bài văn ở cột A với nội dung tương ứng ở cột B trong
phiếu bài tập để trả lời.

Phần

Nội dung

Phần 1

A. Tả ngoại hình, tính tình, hoạt động của người được tả.

Phần 2

B. Nêu cảm nghĩ của người được tả.
C. giới thiệu người sẽ tả.

Phần 3


13


2.3.8. Linh hoạt tổ chức hoạt động học tập giúp học sinh gắn kiến thức
với cuộc sống thực tế.
Để giúp học sinh có kiến thức thực tế trong dạy học Tiếng Việt là vô cùng cần
thiết. Vì thế, trong năm học, tôi đã linh hoạt tổ chức các hoạt động học cho học sinh
cũng như các hoạt động ngoài giờ hỗ trợ cho học sinh trước khi vào tiết học phù
hợp với điều kiện thực tế của địa phương xã Thành Tiến.
Ví dụ khi tổ chức dạy học sinh bài 31B: Lời tâm tình của người chiến sĩ[4].
Để giúp học sinh có thêm những quan sát thực tế, đầy đủ, tôi đã tổ chức cho học
sinh quan sát cảnh trường học trước giờ vào học:

Ảnh học sinh quan sát cảnh trường trước giờ vào học.
Do tại địa phương là vùng nông thôn, rất hiếm khi các em được tiếp xúc với
các nghệ sỹ, nhất là nghệ sỹ lớn. Vì thế, khi dạy bài 15B: Những công trình mới.
Khi học sinh lựa chọn viết đoạn văn tả hoạt động người mà em yêu mến là một ca
sỹ mà em yêu mến, tôi đã trao đổi trước với các em này, tìm tư liệu và cho các em
xem đoạn tư liệu vầ ca sỹ đó để cho các em biết được thêm thông tin về ca sỹ mà
mình yêu thích. Từ đó giúp tăng thêm hiểu biết của em về ca sỹ mà em yêu thích,
em viết đoạn văn hay hơn.

14


Hay khi dạy bài 6C: Sông, suối, biển, hồ[4] , để giúp học sinh lập được dàn ý
bài văn miêu tả một cảnh sông nước. Tại địa phương Thành Tiến không có sông
suối, biển, hồ nên để tự học sinh có kiến thức để lập dàn ý sẽ có nhiều em gặp khó
khăn. Vì thế, tôi đã tổ chức chiếu cho các em xem đoạn tư liệu về sông suối biển

hồ.

Ảnh học sinh xem các đoạn tư liệu về sông, suối, biển hồ
2.3.9. Thường xuyên liên lạc với gia đình học sinh để kiểm soát việc thực
hiện hoạt động ứng dụng.
Môn Viếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN, phần hoạt động ứng dụng thường
yêu cầu học sinh, về nhà đọc lại bài thơ, bài văn, kể lại câu chuyện vừa học cho
người thân, hỏi người thân về những vấn đề liên quan đến bài học. Đây là hoạt
động cần thiết để học sinh ứng dụng những điều đã học và thực tế cuộc sống và
người thân sẽ thoe dõi, giúp đỡ các em học tập.
Ngay từ buổi học với cha mẹ học sinh đầu năm, tôi đã tuyên truyền cho gia
đình học sinh thấy rõ việc thực hiện hoạt động ứng dụng của học sinh cần sự phối
hợp của gia đình. Đại diện gia đình học sinh đều cam kết sẽ phối hợp để giúp học
sinh thực hiện tốt hoạt động này.

15


Trong năm học, tôi đã liên lạc với gia đình học sinh bằng nhiều cách để kiểm
tra tính trung thực của học sinh khi báo cáo về việc thực hiện hoạt động ứng dụng
tại gia đình. Có lần thì tôi gọi điện , có lần tôi đến tận gia đình để trao đổi trực
tiếp, ...
Việc tôi sát sao với học sinh và gia đình đã thúc đẩy ý thức thực hiện hoạt
động ứng dụng của học sinh, góp phần thực hiện tốt mục tiêu dạy học môn Tiếng
Việt.
2.3.10. Tham mưu cho chuyên môn tổ chức tham quan, các hoạt động
ngoại khóa như Rung chuông vàng, Em yêu Tiếng Việt,....
Hoạt động tham quan đem lại nhiều kiến thức thực tế, cung cấp cho học sinh
thêm nhiều kiến thức để các em viết bài. Ngoài ra, được trực tiếp tham quan cảnh
đẹp của địa phương sẽ bồi đắp thêm tình cảm của các em đối với quê hương. Nhờ

đó, bài văn các em viết sẽ có nhiều cảm xúc hơn.
Đối với bài 8B: Ấm áp rừng chiều[4] , để giúp học sinh viết được văn về cảnh
đẹp của địa phương. Tôi đã tham mưu với ban giám hiệu nhà trường, đề xuất với
hội cha mẹ học sinh để tổ chức cho học sinh tham quan di tích Thành nhà Hồ - di
sản văn hóa thế giới. Di sản này cách trường 11km đi về phía Tây Nam. Được
chuyên môn ủng hộ, hội cha mẹ học sinh hỗ trợ kinh phí, tôi đã đưa học sinh đi
tham quan Thành nhà Hồ. Tôi nhận thấy, các em viết bài văn tả cảnh Thành nhà Hồ
- di sản văn hóa thế giới có chất lượng rất tốt.

Ảnh học sinh tham quan cảnh đẹp địa phương

16


Mỗi năm, nhà trường thường tổ chức các hoạt động ngoại khóa như Rung
chuông vàng, Em yêu Tiếng Việt,... Tôi nhận thấy việc lồng ghép kiến thức tiếng
Việt mà các em đã học vào các hoạt động này sẽ thúc đẩy việc học của các em,
động viên, khích lệ các em học sinh thêm yêu môn Tiếng Việt.
Vì thế, tôi tham mưu cho chuyên môn tổ chức các hoạt động ngoại khóa trong
đó lồng ghép nhiều câu hỏi về kiến thức đã học môn tiếng Việt. tôi đã chuẩn bị một
số câu hỏi hay cho chuyên môn, liên Đội lựa chọn, tổ chức các hoạt động ngoại
khóa thật hay và bổ ích..

Ảnh học sinh trong buổi hoạt động ngoại khóa Rung chuông vàng
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Trong năm học, tôi đã áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy
học môn Tiếng Việt tại lớp 5B, cuối học kì I, kết quả đánh giá như sau:
Lớp Sĩ
số


Hoàn thành tốt
SL

TL

Hoàn thành
SL

TL

Chưa hoàn
thành
SL
TL

17


5B 24
7
29,2%
17
71,8%
0
Như vậy, học sinh lớp tôi phụ trách sau khi tôi áp dụng các biện pháp dạy học
nhằm nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt đã có kết quả khác biệt. Tỉ lệ học sinh
hoàn thành tốt môn học cao hơn hẳn. Không còn học sinh chưa hoàn thành môn
học.


18


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Muốn nâng các chất lượng dạy học môn tiếng Việt lớp 5, giáo viên cần chịu
khó, tận tâm với học sinh. Giáo viên nên tự học tự bồi dưỡng thường xuyên nâng
cao trình độ chuyên môn cho bản thân.
Ngoài ra, cần chuẩn bị đồ dùng, tài liệu chu đáo cho các tiết học. Đồ dùng có
thể do giáo viên tự làm cũng có thể từ học sinh và cộng đồng.
Muốn dạy cho học sinh đọc tốt cần điều chỉnh tài liệu học cho phù hợp với
đối tượng học sinh.
Tăng cường công tác luyện viết cho học sinh. Kĩ năng viết đoạn bài cần được
chú trọng. Giáo viên cần luyện cho học sinh từ căn bản như luyện câu rồi mới
luyện viết đoạn, viết bài.
Giáo viên tăng cường khuyến khích động viên học sinh trong các tiết học để
thúc đầy quá trình học của học sinh.
Cần linh hoạt các hình thức tổ chức các hoạt động học của học sinh găn kiến
thức với thực tế.
3.2. Kiến nghị.
+ Nhà trường cần hỗ trợ thêm giáo viên về công tác chuẩn bị đồ dùng dạy
học.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
HIỆU TRƯỞNG

Phạm Thị Điệp

Thạch Thành, ngày 12 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của

người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Hài

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học do Nhà xuất bản Giáo
dục tại Hà Nội xuất bản năm 2006.( Ban hành kèm theo QĐ số 16/2006 ngày
5/5//2006 của Bộ GD& ĐT)
[2]. Tài liệu tập huấn dạy học lớp 5 theo mô hình trường học mới Việt Nam
[3]. Hướng dẫn tổ chức sinh hoạt chuyên môn tại các trường thực hiện mô
hình Trường học mới Việt Nam.
[4]. Sách hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình trường học mới Việt
Nam.

20



×