Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt về tính từ trong phân môn luyện từ và câu ở trường tiểu học thị trấn, huyện lang chánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (986.91 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
TT
I
1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
II.
2.1.
2.2.
2.3.
2.4.
III.
3.1.
3.2

Nội dung
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lý luận
Thực trạng của vấn đề
Các giải pháp thực hiện
Hiệu quả
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO



Trang
2
2
3
3
3
4
4
4
6
16
17
17
18
19

MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Ở bậc Tiểu học, mơn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là
nền tảng vững chắc cho học sinh học tập tốt tất cả các môn học khác. Một trong
những mục tiêu của môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học nhằm hình thành và phát
triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói,đọc, viết) để học tập
và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và
học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy cho học sinh. Trong môn
1


Tiếng Việt, phân mơn Luyện từ và câu có vị trí quan trọng trong chương trình
Tiểu học. Trước hết, phân môn Luyện từ và câu cung cấp vốn từ và làm giàu

vốn từ cho học sinh đặc biệt là hệ thống từ ngữ cung cấp cho học sinh gắn với
chủ điểm ở từng lớp nhằm tăng cường sự hiểu biết của học sinh về nhiều lĩnh
vực của cuộc sống.
Khái niệm ngữ pháp thường mang tính trừu tượng và khái quát cao. Việc
tiếp nhận các khái niệm ngữ pháp đối với học sinh tiểu học hết sức khó khăn vì
nó địi hỏi một trình độ tư duy nhất định. Để giảm độ khó cho học sinh trong
việc lĩnh hội các khái niệm ngữ pháp, bên cạnh việc cung cấp ý nghĩa của ngữ
pháp, giáo viên cần cung cấp các dấu hiệu hình thức ngữ pháp để học sinh dễ
nhận diện.
Trong quá trình dạy học, tơi nhận thấy: Một trong những phần kiến thức
ngữ pháp mang tính trừu tượng và khái quát cao mà học sinh cịn rất lúng túng
và gặp khơng ít những khó khăn, vướng mắc trong việc xác định tính từ và vận
dụng thực hành về tính từ. Việc phân biệt tính từ trong tiếng Việt rất phức tạp, vì
nhiều khi tính từ có dạng như động từ hoặc danh từ. Giáo viên đã dành rất nhiều
thời gian cho nội dung dạy học này song chất lượng vẫn chưa đạt được như
mong muốn. Một trong những nguyên nhân đó là do hiệu quả dạy học về tính từ
chưa cao. Vì vậy, tơi chọn nghiên cứu mảng đề tài này với hi vọng giúp các em
học sinh nắm chắc hơn, ít bị lúng túng hơn khi gặp các dạng bài tập có liên quan
đến tính từ. Khi đã nắm vững khái niệm về tính từ, hiểu rõ bản chất của tính từ
và một số mẹo để nhận dạng tính từ, các em dễ dàng tìm được tính từ và vận
dụng dùng từ đặt câu và làm bài tập làm văn sinh động hơn từ đó góp phần nâng
cao chất lượng dạy học của mơn Tiếng Việt.
Từ những lí do trên tôi đã chọn đề tài :"Một số giải pháp giúp học sinh
lớp 4 học tốt về tính từ trong phân môn Luyện từ và câu ở trường Tiểu
học Thị Trấn, huyện Lang Chánh" nhằm giúp học sinh lớp 4 nắm vững
khái niệm về tính từ và biết vận dụng khái niệm để làm tốt các bài tập liên
quan đến tính từ.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm nâng cao chất lượng mơn Tiếng Việt.
- Giúp học sinh có kĩ năng xác định Tính từ.

1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Tìm hiểu nội dung, phương pháp dạy dạng bài về tính từ.
- Nghiên cứu khái niệm về tính từ, các cách để xác định tính từ
- Một số giải pháp giúp học sinh học tốt về tính từ trong phân mơn Luyện
từ và câu lớp 4.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận:
2


- Đọc tài liệu liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu nội dung chương trình mơn Tiếng Việt cấp Tiểu học, mạch
kiến thức về tính từ.
1.4.2. Phương pháp quan sát sư phạm:
Quan sát tinh thần, thái độ, ý thức học tập phân môn Luyện từ và câu của
học sinh lớp 4A (lớp tôi chủ nhiệm và trực tiếp giảng dạy) và học sinh lớp 4B,
4C trong khi đi dự giờ của đồng nghiệp.
1.4.3. Phương pháp thống kê:
Thống kê qua các bài kiểm tra của học sinh để đánh giá kiến thức về tính
từ của học sinh.
1.4.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp ngữ liệu:
Thông qua hệ thống bài tập của học sinh, giáo viên phân tích, tìm ra những
ngun nhân học sinh thường mắc trong khi làm bài tập, từ đó tìm ra những giải
pháp để khắc phục những ngun nhân đó.

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lí luận
Phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 giúp cho học sinh: Mở rộng, hệ thống
hóa vốn từ và trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu; Rèn
cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu. Từ đó giúp học

sinh có thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu và ý thức sử dụng tiếng
Việt trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hóa.

3


Việc dạy luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong phú
vốn từ của học sinh, củng cố cho học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và câu,
rèn cho học sinh kỹ năng dùng từ đặt câu. Phân mơn Luyện từ và câu có vai trò
hướng dẫn học sinh trong việc phát triển học sinh bốn kỹ năng nghe, nói, đọc,
viết, phát triển ngơn ngữ và trí tuệ của các em [1].
Mơn Tiếng Việt lớp 4 gồm các phân môn: Tập đọc, kể chuyện, tập làm
văn, chính tả, luyện từ và câu. Theo quan điểm tích hợp, các phân mơn được tập
hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức
và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau.
Một trong những nội dung của phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 về từ loại
đó là tính từ. Tính từ các em đã học từ lớp 2 nhưng mới ở mức độ nhận biết ban
đầu sơ giản thơng qua các bài tập như dạng tìm từ tả hình dáng của người, đức
tính của học sinh, màu sắc của các loài hoa,… lên đến lớp 3 các em được học
tính từ cũng thơng qua hệ thống bài tập, qua các bài tập đọc nhưng ở mức độ
cao hơn lớp 2 đó là tìm tìm các từ miêu tả hoạt động, trạng thái của sự vật. Đến
chương trình lớp 4, tính từ được cung cấp cho học sinh dưới dạng khái niệm,
bao quát một cách tổng thể hoàn chỉnh.
2.2. Thực trạng vấn đề
Qua hai năm học được nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng dạy ở
khối lớp 4, tôi nhận thấy: Nội dung dạy học phần tính từ trong phân mơn Luyện
từ và câu trong sách Tiếng Việt lớp 4 thường được đánh giá là rất khô khan và
trừu tượng; học sinh rất “ngại” khi hộc phần này. Nhiều học sinh gặp khơng ít
những khó khăn và lúng túng khi xác định tính từ và vận dụng làm các bài tập
về tính từ. Học sinh chưa nắm vững khái niệm về tính từ nên chưa làm chủ được

mạch kiến thức về tính từ; từ đó,việc xác định các tính từ từ những từ cho sẵn
hoặc trong một đoạn văn, khổ thơ hầu như các em chỉ tìm được một số tính từ đễ
nhận biết, cịn một số tính từ dễ nhầm lẫn như động từ chỉ trạng thái với tính từ;
một số từ mà dấu hiệu phân biệt rất mờ nhạt dễ nhầm lẫn khi xác định tính từ
với động từ hoặc học sinh dễ nhầm các từ như: Niềm vui, nỗi buồn, cuộc kháng
chiến,… là các tính từ.
Mặt khác, qua trao đổi với đồng nghiệp, tôi nhận thấy: Học sinh khi thực
hành về các bài tập về tính từ thường ít hào hứng, khơng khí lớp học trầm lắng;
học sinh thường sử dụng tính từ là một từ đơn để đặt câu mà chưa biết sử dụng
một số cách thể hiện mức độ của đặc điểm, tính chất của tính từ vào đặt câu và
viết văn có hình ảnh sinh động.
Qua q trình dạy học và trao đổi với đồng nghiệp, tìm hiểu qua học sinh,
tơi đã tìm ra một số ngun nhân mà giáo viên và học sinh còn hạn chế khi dạy
học phần kiển thức về tính từ là:
* Về phía giáo viên:

4


Nhiều giáo viên “ngán” khi dạy đến phần này nên thường tổ chức bài dạy
một cách đơn điệu, phương pháp áp đặt.
Mặt khác, khi dạy đến nội dung này, giáo viên ít sử dụng đồ dùng trực quan
và các hình thức tổ chức dạy học phát huy tính tích cực của học sinh để tạo ra
các tiết học sinh động không gây nhàm chán cho học sinh.
Khi dạy phần bài tập, một số giáo viên cho các em xác định yêu cầu đề sau
đó cho học sinh làm mẫu và các em làm tương tự các trường hợp còn lại, sau khi
hồn thành bài tập ít chú trọng nhấn mạnh để học sinh đạt được mục tiêu về kiến
thức và kĩ năng. Khâu kiểm tra, đánh giá là một việc làm quan trọng mà người
giáo viên thường bỏ qua hoặc không chú ý đúng mức.
*Đối với học sinh:

Một số học sinh rất “sợ” khi học nội dung này nhất là những học sinh có
năng lực trung bình và yếu.
Các em thường tiếp thu bài học một cách thụ động, máy móc dẫn đến vốn
từ của các em rất nghèo nàn, việc dùng từ khi viết văn chưa hay ảnh hưởng
chung đến chất lượng môn Tiếng Việt.
Một số học sinh chưa nhớ chính xác khái niệm tính từ.
Việc phân định ranh giới các từ chưa đúng cũng là một yếu tố dẫn đến kết
quả chưa đạt yêu cầu.
Trường hợp những tính từ khi xác định phải dựa vào văn cảnh nhưng học
sinh thường xác định từ một cách độc lập chưa đưa vào văn cảnh để xác định.
Bên cạnh đó, các em cịn rất lúng túng khi phân định tính từ dựa vào khả năng
kết hợp với các phụ từ, các bài tập chưa được nắm một cách hệ thống, do đó
việc thực hành về tính từ chưa cao; các em chưa thực sự hứng thú khi học các
bài tập này.
Khi xác định chức vụ ngữ pháp của tính từ, học sinh cịn hay nhầm lẫn cho
rằng tính từ là vị ngữ trong câu mà chưa biết được trong một số văn cảnh, tính từ
cịn làm chủ ngữ hoặc các thành phần phụ khác.
Cuối năm học 2015 – 2016, tôi khảo sát 32 học sinh lớp 4A, trường Tiểu
học Thị trấn Lang Chánh: Sau khi khảo sát, tôi thu được kết quả như sau:
Tổng số HS

32

Điểm

Số lượng

9 - 10
7-8


10

Tỉ lệ
31,3
37,5

12
5


5-6
Dưới 5

8
2

25
6,2

2.3. Các giải pháp thực hiện
Từ những nguyên nhân trên, tơi đã tiến hành phân tích và áp dụng một số
giải pháp cải tiến trong khi dạy học sinh lớp 4 thực hành về tính từ ở năm học
2016 - 2017. Với cách làm này, kiến thức mang đến cho các em có hệ thống
hơn, khi thực hành các em hiểu rõ bản chất từng dạng bài tập, do vậy bài tập
được các em giải quyết nhẹ nhàng hơn, vận dụng linh hoạt các tính từ vào những
dạng bài khác nhau. Tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cụ thể mà tôi đã áp
dụng thành công dạy học tính từ như sau:
Giải pháp 1: Giúp học sinh nắm chắc khái niệm về tính từ qua phân
tích ngữ liệu, lấy ví dụ minh hoạ, làm bài tập thực hành.
Sau khi phân tích ngữ liệu, giúp học sinh rút ra khái niệm: “Tính từ là những

từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của sự vật, hoạt động, trạng thái …” [2]; tôi
đã giúp học sinh nắm vững khái niệm tính từ bằng cách mơ tả chi tiết từ
chỉ đặc điểm, từ chỉ tính chất, chỉ trạng thái:
-Từ chỉ đặc điểm: Đặc điểm là nét riêng biệt, là vẻ riêng của một sự vật nào
đó (có thể là người, đồ vật, con vật, cây cối,…). Đặc điểm của một vật chủ yếu
là đặc điểm bên ngồi mà ta có thể nhận biết trực tiếp qua mắt nhìn, tai nghe, tay
sờ, mũi ngửi,.. Đó là các nét riêng, vẻ riêng về màu sắc, hình khối, hình dáng,
âm thanh… của sự vật. Đặc điểm của một vật cũng có thể là đặc điểm bên trong
mà qua quan sát, suy luận, khái quát,…ta mới có thể nhận biết được. Đó là các
đặc điểm về tính tình, tâm lý, tính cách của một người, độ bền, giá trị của một
đồ vật…
Từ chỉ đặc điểm là từ biểu thị các đặc điểm của sự vật, hiện tương như đã
nêu ở trên.
Ví dụ :
+Từ chỉ đặc điểm bên ngồi: Vng, trịn, rộng, xanh, vàng,…
+Từ chỉ đặc điểm bên trong: Cần cù, hiền lành,…
-Từ chỉ tính chất: Tính chất cũng là đặc điểm riêng của sự vật, hiện tượng
(bao gồm cả những hiện tượng xã hội, hiện tượng trong cuộc sống,…) nhưng
thiên về đặc điểm bên trong, ta khơng quan sát trực tiếp được. Do đó, từ chỉ tính
chất cũng là từ biểu thị những đặc điểm bên trong của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Tốt, xấu, ngoan, hư,…

6


-Từ chỉ trạng thái: Trạng thái là tình trạng của một sự vật hoặc một con
người, tồn tại trong một thời gian nào đó. Từ chỉ trạng thái là từ chỉ trạng thái
tồn tại của sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan.
Ví dụ: Bơng hoa tỏa hương ngào ngạt.
Người bệnh đang hấp hối.

Cảnh vật yên tĩnh quá.
Có hai loại tính từ đáng chú ý là:
*Tính từ chỉ tính chất chung, khơng có xác định mức độ. Ví dụ: dài, ngắn,
đỏ, xanh, ...
* Tính từ chỉ tính chất chung, có mức độ hoặc có tác dụng gợi tả hình ảnh,
cảm xúc. Ví dụ: ngọt lịm, xanh lè, tím biếc, đỏ ối, ....
Sau khi học sinh nắm được khái niệm về tính từ, tơi đã tổ chức cho các em
chơi trị chơi “Họa sỹ nhí” để giúp các em nắm vững khái niệm về tính từ: “Em
hãy vẽ những hình ảnh trong đó có miêu tả đặc điểm, tính chất, hoạt động trạng
thái …của sự vât.
Với trò chơi này, các họa sỹ nhí của chúng ta sẽ rất hứng thú học tập, giảm
bớt căng thẳng cho học sinh, các em vơ cùng hào hứng khi tham gia trị chơi;
lớp học trở nên sinh động; các em đã vẽ được rất nhiều những hình ảnh miêu tả
như đã yêu cầu ở trên như:

Đỏ

Xanh

7


Cao

Thấp

Từ đó biến những kiến thức khơ khan, trừu tượng về tính từ thành những từ
ngữ gần gũi, sinh động và hấp dẫn học sinh và mở rộng vốn từ cho học sinh.
Giải pháp 2: Giúp học sinh xác định đúng ranh giới giữa các từ dựa
vào cấu tạo từ qua một số mẹo:

Ví dụ 1: Tìm tính từ trong khổ thơ sau:
Việt Nam đẹp khắp trăm miền,
Bốn mùa một sắc trời riêng đất này.
Xóm làng, đồng ruộng, rừng cây,
Non cao gió dựng, sơng đầy nắng chang.
Xum x xồi biếc, cam vàng,
Dừa nghiêng, cau thẳng hàng hàng nắng soi.
Đối với dạng bài tập này, học sinh chưa phân biệt được các kết hợp từ xoài
biếc, cam vàng, nắng chang là một từ hay hai từ dẫn đến các em xác định từ
loại sai. Vì thế, giáo viên phải cho các em dựa vào cấu tạo từ hoặc chêm xen,
thêm bớt từ để xác định ranh giới từ và chỉ rõ cho các em thấy được đây là các
kết hợp từ gồm 2 từ đơn. Ví dụ: cam màu vàng, nắng chói chang hoặc "cam" và
"vàng" cả hai tiếng này có nghĩa rất cụ thể nên nó phải là hai từ đơn. Từ đó, các
em sẽ tách từ một cách dễ dàng.
Ở dạng bài tập này cần hướng dẫn các em thực hiện qua hai bước đó là:
Bước 1: Xác định ranh giới từ ( có 2 mẹo để xác định là dựa vào cấu tạo và
chêm xen vào giữa hai từ)
Bước 2: Xác định các tính từ trong khổ thơ.
Học sinh dựa vào hai bước để làm bài tập sau
Việt Nam/ đẹp /khắp/ trăm/ miền,
Bốn/ mùa/ một/ săc/ trời/ riêng /đất /này.
8


Xóm làng/, đồng ruộng/, rừng cây,
Non/ cao/ gió/ dựng/, sơng /đầy /nắng/ chang.
Xum xuê /xoài /biếc/, cam/ vàng,
Dừa/ nghiêng/, cau/ thẳng/ hàng hàng/ nắng/ soi.
Sau khi xác định được ranh giới từ, các em căn cứ vào khái niệm của tính
từ để tìm ra các theo u cầu bài tập đó là:

Tính từ: đẹp, riêng, cao, đầy, xum x, biếc, vàng, nghiêng, thẳng.
Ví dụ 2: Đọc đoạn thơ:
Bên này là núi uy nghiêm
Bên kia là cánh đồng liền chân mây
Xóm làng xanh mát bóng cây
Sơng xa, trắng cánh buồm bay lưng trời.
Em hãy chỉ ra 5 tính từ có trong bài thơ.
Đây là một bài tập có yêu cầu rất cụ thể, trước hết cho các em thấy cần phải
xác định ranh giới giữa các từ.
Bên /này/ là /núi /uy nghiêm
Bên/ kia/ là/ cánh đồng/ liền/ chân mây
Xóm làng/ xanh/ mát/bóng/ cây
Sơng/ xa/, trắng/ cánh buồm/ bay/ lưng trời.
Sau khi phân định ranh giới các từ thì hướng dẫn các em lựa chọn tính từ
theo yêu cầu bài tập (dựa vào khái niệm tính từ).
Đáp án: Các tính từ trong đoạn thơ là: uy nghiêm, xanh, mát, xa, trắng.
Ví dụ 3: “Sầu riêng thơm mùi thơm của mít chín quện với hương bưởi, béo
cái béo của trứng gà, ngọt cái ngọt của mật ong già hạn.”
a) Hãy tìm các tính từ có trong câu văn.
b) Nhận xét các từ loại: cái béo, mùi thơm.
Bây giờ học sinh sẽ bắt tay ngay vào việc phân ranh giới từ và xét khả năng
kết hợp để xác định từ loại.
“Sầu riêng/ thơm/ mùi thơm/của/ mít/ chín/ quện/ với/ hương/ bưởi/, béo/
cái béo/ của/ trứng gà/, ngọt/ cái ngọt/ của/ mật ong/ già/ hạn”.
Từ đó học sinh dựa vào khái niệm để xét các từ: “thơm”, "chín" “béo”,
“ngọt”, "già" là các tính từ; dựa vào khả năng kết hợp để thấy ngay “cái béo”,
“mùi thơm” là những danh từ đã được chuyển loại từ tính từ.

9



Giải pháp 3. Tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan sinh động, các
hình thức dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Dựa vào văn cảnh cụ
thể để xác định tính từ.
Khi dạy các kiến thức về tính từ, tơi thường sử dụng các đồ dùng trực quan,
vật thật hoặc đưa các từ vào trong một văn cảnh cụ thể để học sinh dễ dàng xác
định được tính từ.
3.1.Con đường nhận thức của học sinh Tiểu học từ trực quan sinh động đến
tư duy trừu tượng, để giúp học sinh khỏi nhàm chán và giờ học thêm sinh động,
tôi thường sử dụng đồ dùng trực quan hoặc các vật thật để giúp học sinh tiếp
nhận tri thức một cách dễ dàng.
Ví dụ: Khi dạy đến bài tập: Đặt 3 câu kể Ai thế nào?, mỗi câu tả một cây
hoa mà em u thích [3], tơi cảm thấy học sinh có phần uể oải do vậy, tơi u
cầu các em không phải làm bài tập này vào vở mà cô cùng các em sẽ tới tham
quan vườn hoa của lớp mình; lớp học sơi động hẳn lên, một số học sinh reo lên
A! thích q! Thích q!
Tơi cùng các em học sinh đến với vườn hoa nhỏ của lớp mình.

Những cây hoa do bàn tay bé nhỏ của 29 học sinh lớp 4A trồng và chăm sóc.
10


Tơi hỏi học sinh: Em u thích những cây hoa nào? Em hãy đặt câu kể Ai thế
nào? để miêu tả những cây hoa đó. Tơi vừa dứt lời đã thấy rất nhiều cánh tay giơ
lên, tôi gọi em Lê Ngọc Quân– một học sinh gái nhút nhát nhất của lớp trả lời. Câu
của em là: Hoa cúc nở vàng. Một tràng pháo tay dành cho em. Tiếp theo là một
loạt các câu trả lời tương tự. Tơi khuyến khích: bạn nào có câu hay hơn nào? Lại
một loạt cánh tay giơ lên với những câu trả lời: Hoa cúc nở vàng rực; Cây hồng
nhung chúm chím những nụ hoa nhỏ xinh tươi,… và thật bất ngờ, đây là một đoạn
văn của cơ học trị Nguyễn Đình Gia Linh:

“Những cây hoa trong vườn hoa của lớp em đang đua nhau khoe sắc. Những
bơng hoa cúc vàng cam đang nghiêng mình đung đưa trước gió. Bên cạnh đó,
những khóm hoa dừa khiêm tốn, nhẹ nhàng nở rộ một màu tím ngan ngát, dễ
chịu. Cây hồng nhung với những nụ hoa bé nhỏ phớt hồng chúm chím. Tất cả tạo
nên một khoảng vườn thật đẹp.”
Một tràng pháo tay lại vang lên giòn giã, cũng là lúc trống báo hiệu giờ ra
chơi; các em hịa mình vào khơng khí ồn ào, náo nhiệt cùng các bạn trong sân
trường.
3.2. Để giúp học sinh củng cố về tính từ, tơi thường tổ chức một số trị chơi
để tạo hứng thú học tập cho các em.
Ví dụ 1: Trò chơi: Ai – thế nào?
Luật chơi: Hai đội cùng chơi: Một bạn ở đội này gọi tên một nhân vật trong
truyện em đã được đọc hoặc trong phim ảnh, một bạn ở đội kia nói ngay từ chỉ
đặc điểm của nhân vật đó rồi đổi lượt. Đội nào bị dừng lại hoặc nói sai sẽ bị thua
cuộc.
M: Anh Kim Đồng – rất gan dạ.
Từ đó giúp học sinh sử dụng tốt tính từ trong việc dùng từ đặt câu viết bài
văn tả người thêm sinh động, hấp dẫn.
Ví dụ 2: Trị chơi: Ai nhanh hơn?
Điền tính từ thích hợp vào ….
Tuyết rơi ...... một màu
Vườn chim chiều xế ..... cánh cị
Da
.... , người ốm o
Bé khoẻ đơi má non tơ .... .
Sợi len .....
như bông
Làn mây
.....
bồng bềnh trời xanh.

a. Chuẩn bị: Giáo viên ghi các tính từ chỉ màu trắng ra các băng giấy: trắng
phau, trắng bệch, trắng xoá, trắng hồng, trắng nõn, trắng bạc.
- Viết các câu có chỗ trống trên bảng phụ. Giáo viên gắn các từ nhưng sai ý
nghĩa vào chỗ trống ( 2 bảng gắn các từ khác nhau)
11


b. Cách tiến hành: Chọn 2 đội chơi, mỗi đội có 6 em, mỗi em lên sửa lại
một câu. Nếu còn thời gian các em vẫn liên tiếp lên sửa lại cho đến khi hết giờ.
Đội nào nhanh hơn, đúng hơn là đội thắng cuộc.
Đáp án:
Tuyết rơi trắng xoá một màu
Vườn chim chiều xế trắng phau cánh cò
Da trắng bệch, người ốm o
Bé khoẻ đôi má non tơ trắng hồng
Sợi len trắng nõn như bơng
Làn mây trắng xố bồng bềnh trời xanh.
Với trò chơi này, học sinh được luyện cách dùng tính từ chỉ màu trắng với
các sắc độ khác nhau có tác dụng gợi tả. Làm giàu vốn từ chỉ màu trắng thường
dùng trong các đoạn văn miêu tả của các em.
3.3.Một trong những khó khăn trong việc xác định tính từ thấy rõ nhất là
các trường hợp dấu hiệu hình thức tính từ khơng rõ ràng, phải dựa vào văn cảnh.
Ví dụ : Xác định tính từ trong các câu thành ngữ sau:
Nước chảy, đá mòn.
Đi ngược, về xi.
Nhìn xa, trơng rộng.
Các từ: xa, rộng các em dễ dàng xác định chính xác đây là các tính từ;
Song các từ ngược, xi, mịn các em lúng túng thường cho là các tính từ. Do
đó, giáo viên cần phân tích cho học sinh thấy được các từ: ngược, xi là chỉ
vùng miền: ngược chỉ miền núi, xuôi - chỉ miền đồng bằng (trường hợp này

phải cho học sinh dựa vào nghĩa của từ trong văn cảnh).
Từ “mòn” trong trường hợp này là động từ vì nó chỉ trạng thái của “đá”. Vì
vậy trong ví dụ này, 2 câu đầu khơng có tính từ; câu 3 có tính từ: xa, rộng.
Giải pháp 4: Giúp học sinh xác định tính từ dựa vào khả năng kết hợp
của từ:
Qua một số bài tập về tìm tính từ trong các từ hoặc đoạn văn cho sẵn, tôi
thấy học sinh hay bị nhầm lẫn tính từ với danh từ, tính từ với động từ; để giúp
các em phân biệt các danh từ, động từ, tính từ dễ lẫn lộn tơi đã hướng dẫn các
em trước hết, đọc kỹ các từ hoặc các đoạn văn đã cho xem những từ nào mà chỉ
sự vật thì đó là danh từ; những từ chỉ hoạt động hoặc trạng thái của người, vật ,
chỉ cảm xúc; Những từ nào trả lời được cho câu hỏi “ làm gì” là động từ. Từ nào
chỉ màu sắc, hình dạng, kích thước, tính chất của sự vật và trả lời được cho câu
hỏi “ như thế nào?” là tính từ; Sau đó, nếu học sinh cịn phân vân, tơi hướng dẫn
các em dùng phép liên kết với các phụ từ để xác định.
- Danh từ:

12


Một số tính từ đi kèm: nỗi, sự, niềm, cuộc, cái,…ở phía trước thì đó là
danh từ (niềm vui, nỗi buồn, sự đau khổ,…);
-Động từ có khả năng kết hợp với các phụ từ mệnh lệnh: Hãy, đừng, chớ,
không, chưa, chẳng ở phía trước ( Hãy đi, đừng khóc, chưa ăn, …).
- Có thể tạo câu hỏi bằng cách đặt sau chúng từ bao giờ hoặc bao lâu (tính
từ khơng có khả năng này).
- Tính từ có khả năng kết hợp được với các từ chỉ mưc độ như: rất, hơi,
khá, q lắm , cực kì, vơ cùng…(rất trắng, đẹp cực kì,…)
Tuy nhiên, các động từ chỉ cảm xúc ( trạng thái) như: yêu, ghét, xúc động,
…cũng kết hợp được với các từ: Rất, hơi, lắm,..Vì vậy, khi cịn băn khoăn một
từ nào đó là động từ hay tính từ thì nên cho chúng kết hợp với các phụ từ hãy,

đừng, chớ,… Nếu kết hợp được thì những từ đó là động từ.
Ví dụ : Em hãy xác định từ loại của những từ sau:
Nỗi buồn, vui tươi, vui chơi, tình yêu, yêu thương, đáng yêu.
Đáp án:
-Danh từ: Nỗi buồn, tình u.
-Động từ: Vui chơi, u thương
-Tính từ: Vui tươi, đáng yêu.
Giải pháp 5: Giúp học sinh xác định tính từ dựa vào chức năng ngữ
pháp của chúng.
Một vấn đề cần lưu ý học sinh là tính từ khi đứng ở những vị trí khác nhau
thì chức năng ngữ pháp cũng có thể khác nhau.
Ví dụ : Xác định từ loại của các từ gạch chân và chức vụ ngữ pháp của từ
loại đó trong các câu sau:
a. Chị Loan rất thật thà.
b. Thật thà là phẩm chất đẹp đẽ của chị Loan.
Trước hết gợi ý cho học sinh xác định từ loại của các từ gạch chân dựa vào
khái niệm, nghĩa, khả năng kết hợp của chúng trong văn cảnh, sau đó mới xét
xem nó là bộ phận ngữ pháp nào trong câu?
Chẳng hạn:- Từ “thật thà” trong bài tập này khi xác định thì nên dựa vào
khái niệm và nghĩa của từ, bản chất của nó chính là tính từ.
Đáp án:
- “thật thà” trong các câu a,b đều là tính từ.
- “thật thà” trong câu a giữ chức vụ vị ngữ.
- “thật thà” trong câu b giữ chức vụ chủ ngữ.
13


Khi làm dạng bài tập này, giáo viên cho học sinh thấy được trong câu, tính
từ cũng có thể đảm nhận chức vụ chủ ngữ trong câu như danh từ.
* Sau khi đã áp dụng biện pháp cải tiến trong dạy học sinh thực hành về

tính từ, tơi nhận thấy học sinh tự tin hơn, làm chủ được kiến thức hơn, cịn giáo
viên thì khai thác bài sâu hơn, trọng tâm hơn và các kiến thức có hệ thống hơn.
Giải pháp 6. Kiểm tra, đánh giá.
Đây là một việc làm quan trọng mà người giáo viên thường bỏ qua hoặc
không chú ý đúng mức. Việc kiểm tra, đánh giá vừa kích thích học sinh hứng
thú học tập, vừa cho học sinh một mẫu sản phẩm tốt nhất; giáo viên phải có mẫu
lời giải đúng và dùng nó đối chiếu với bài làm của học sinh. Với những bài làm
sai, giáo viên khơng nhận xét chung chung và nói “ Em làm sai rồi” mà phải dựa
vào bài làm của học sinh, chia ra từng bước nhỏ để thực hiện, từ đó chỉ rõ chỗ
sai cho học sinh một cách chi tiết, cụ thể để học sinh tự sửa chữa được chỗ sai
của mình.
Ví dụ:
Bài tập 1. Tìm tính từ trong đoạn văn sau:
Sáng sớm, trời quang hẵn ra. Đêm qua, một bàn tay nào đã giội, rửa vịm
trời sạch bóng. Màu mây xám đã nhường chỗ cho một màu trắng phớt xanh như
màu men sứ. Đằng đơng, phía trên dải đê chạy dài rạc ngang tầm mắt, ngăn
không cho thấy biển khơi, ai đã ném lên bốn năm mảng mây hồng to tướng, lại
điểm xuyết thêm ít nét mây mỡ gà vút dài thanh mảnh.
Bùi Hiển [2]
Dựa vào khái niệm về tính từ, các em dễ dàng xác định được các tính từ
trong đoạn văn (các từ in đậm và gạch dưới) là:
Sáng sớm, trời quang hẵn ra. Đêm qua, một bàn tay nào đã giội, rửa vịm
trời sạch bóng. Màu mây xám đã nhường chỗ cho một màu trắng phớt xanh
như màu men sứ. Đằng đơng, phía trên dải đê chạy dài rạc ngang tầm mắt, ngăn
không cho thấy biển khơi, ai đã ném lên bốn năm mảng mây hồng to tướng, lại
điểm xuyết thêm ít nét mây mỡ gà vút dài thanh mảnh.
Kết quả: 29/29 học sinh hoàn thành bài tập; trong đó có 15 em hồn thành
tốt bài tập.
Một số học sinh xác định sạch, to là tính từ; qua tìm hiểu tơi thấy các em
xác định các từ sạch, bóng, to, tướng là các từ đơn chứ khơng phải là từ ghép,

từ đó tơi phân tích và giúp các em hiểu được sạch bóng, to tướng là hai từ ghép
và qua đó các em dễ dàng sửa lại được các tính từ: Sạch bóng, to tướng.
Bài tập 2. Từ nào khơng phải là tính từ trong mỗi dãy từ sau:
A. thơm thơm, suy nghĩ, thân thương, đỏ, buồn, xanh lè, xuất sắc.
B. phăng phắc, lo lắng, bừa bộn, trìu mến, vui, xa, gập ghềnh.
14


Đáp án: a. Suy nghĩ, buồn.
b. Lo lắng, vui.
Kết quả: 29/29 học sinh hồn thành bài tập; trong đó có 12 em hoàn thành
tốt bài tập.
Với dạng bài tập này địi hỏi các em phải tập trung phân tích và tư duy để
tìm ra các từ khơng phải là tính từ bởi vì các từ suy nghĩ, lo lắng đều có dấu hiệu
phân biệt rất mờ nhạt, nên nhiều học sinh nhầm lẫn chúng là tính từ. Tơi đã
hướng dẫn các em dùng phụ từ để kết hợp, từ đó các em xác định được chúng
khơng phải là tính từ một cách dễ dàng.
Bài tập 3.
a. Đặt một câu trong đó có vị ngữ là một tính từ.
b. Đặt một câu trong đó có chủ ngữ là một tính từ.
Đáp án:
Bạn Lan học rất giỏi
Thật thà là đức tính tốt của con người.
Kết quả: 100% hoàn thành bài tập.
Qua các ví dụ trên, tơi thấy học sinh thực hành về tính từ tự tin hơn nhiều,
các em làm chủ được kiến thức, hiểu rõ bản chất của tính từ, do vậy việc thực
hành đối với các em thuận tiện hơn.
Đối chiếu với chất lượng trước khi áp dụng đổi mới phương pháp dạy học
về từ loại này, số lượng học sinh hồn thành và hồn thành tốt mơn học tăng rõ
rệt, khơng cịn học sinh chưa hồn thành các bài tập về tính từ.

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua một năm thực hiện các giải pháp nêu trên trong dạy học phân mơn
Luyện từ và câu phần tính từ cho học sinh lớp 4, tôi thấy học sinh rất hứng thú
và yêu thích học phần kiến thức về tính từ. Các em đã mạnh dạn và tự tin hơn
trong học tập; biết xác định đúng các loại tính từ; dễ dàng phân biệt tính từ với
danh từ và tính từ với động từ, biết sử dụng tốt tính từ trong việc dùng từ đặt
câu, biết cách dùng các tính từ với các sắc độ khác nhau có tác dụng gợi tả viết
văn thêm sinh động, hấp dẫn; các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh được
phát huy tối đa, tỷ lệ học sinh dùng từ chính xác, từ hay tăng lên, kỹ năng viết
văn có tiến bộ rất nhiều.Tỉ lệ học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt bài tập được
cải thiện,khơng cịn học sinh khơng hồn thành bai. Từ đó, góp phần nâng cao
chất lượng dạy học phân mơn Luyện từ và câu nói riêng và mơn Tiếng Việt nói

15


chung. Cụ thể qua kết quả đạt được giữa học kỳ 2 năm học 2016 - 2017 của 29
học sinh lớp 4A, trường Tiểu học Thị Trấn như sau:
Tổng số HS

29

Điểm
9 - 10
7-8
5-6
Dưới 5

Số lượng
12

12
5
0

Tỉ lệ
41,4
41,4
17,2
0

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Việc tạo hứng thú học tập, yêu thích phân môn Luyện từ và câu và rèn kĩ
năng học tốt môn này là một việc tất cả giáo viên khối 4, 5 cần phải kiên trì, bền
16


bỉ, khơng được nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần
nhưng cũng có những học sinh thì sự tiến bộ diễn ra rất chậm, khơng phải vài
tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kỳ, một năm học. Nếu giáo viên
không biết chờ đợi, kiên trì giúp đỡ học sinh mà nơn nóng thì chắc chắn sẽ thất
bại. Giáo viên cần thường xuyên học hỏi đồng nghiệp, tự bồi dưỡng, đọc sách
báo, truy cập Internet để nắm vững, để tìm hiểu thêm về nội dung dạy học mạch
kiến thức về tính từ trong phân môn Luyện từ và câu; các phương pháp dạy học
tích cực để nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Luyện từ và câu.
Mặt khác, để nâng cao chất lượng dạy học mảng kiến thức về tính từ, trước
hết giáo viên cần xác định đúng mục tiêu, hệ thống kiến thức, kỹ năng cần cung
cấp cho học sinh, giúp các em ghi nhớ khái niệm một cách chính xác. Khi lập
Kế hoạch bài học, giáo viên cần chú ý sử dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy
học tích cực để thu hút học sinh vào bài học đồng thờigiúp học sinh tích cực,

chủ động tìm ra kiến thức mới. Phải luôn tôn trọng và thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc dạy học từ đơn giản đến nâng cao, khắc sâu kiến thức cho học sinh.
Phải yêu thương và thực sự quan tâm tới tất cả các đối tượng học sinh. Khi dạy
các em thực hành về tính từ, giáo viên cần lựa chọn các kiến thức cần thiết để áp
dụng cho từng bài tập cụ thể, từ dạng bài tập này liên hệ đến các dạng bài tập
khác có liên quan trong mảng kiến thức đó. Nếu hình thức khơng rõ ràng thì cần
cho các em xem xét đến nghĩa của từ trong văn cảnh để các em xác định đúng
các tính từ theo yêu cầu.
Một trong những kinh nghiệm để học sinh tháo gỡ những vướng mắc khi
thực hành về tính từ nữa đó là xét khả năng kết hợp của chúng. Giáo viên cần
cho học sinh thấy khi xác định tính từ mà cịn phân vân, nghi ngờ thì phải dựa
vào khả năng kết hợp của nó.
Đối với dạng bài tập xác định chức vụ ngữ pháp của tính từ là dạng bài
tổng hợp hơn, vì vậy giáo viên hướng dẫn học sinh phải xem xét cả khái niệm,
khả năng kết hợp của tính từ trong văn cảnh cụ thể, dựa vào nghĩa của từ và vị
trí đứng trong câu để xác định chức vụ ngữ pháp của tính từ hay đặt câu cho phù
hợp với yêu cầu đề bài
Nhìn chung trong quá trình thực hiện, tuy đã đạt hiệu quả đáng kể song với
một số cách phân biệt tính từ dễ lẫn ở trên phần nào giúp giáo viên và học sinh
nắm được một số cách cơ bản trong việc xác định tính từ. Tuy nhiên, để học sinh
phân biệt được tốt thì cần sự trải nghiệm nhiều qua các bài tập. Do vậy, giáo
viên cần thường xuyên hướng dẫn và nhắc lại các kiến thức và bài tập vận dụng,
có thể tích hợp ở các phân môn Tiếng Việt khác để giúp học sinh làm được tốt
dạng bài tập này.

17


3.2. Kiến nghị.
Từ những bài học kinh nghiệm trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số đề xuất

như sau:
3.2.1. Đối với giáo viên
- Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp
giảng dạy để giờ học sinh động, hấp dẫn học sinh hơn.
- Thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp về thực trạng của học sinh qua
các giờ lên lớp, từ đó thống nhất rút kinh nghiệm vào thực hành ở lớp mình.
- Sử dụng đồ dùng một cách có hiệu quả trong tiết học Luyện và câu
3.2.2. Đối với nhà trường
- Thường xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên môn, các đợt hội thảo về dạy học
mạch kiến thức về tính từ một cách có hiệu quả.
- Trong mỗi đợt thao giảng, yêu cầu tất cả các giáo viên tham gia dự giờ,
góp ý rút kinh nghiệm.
- Động viên kịp thời các đồng chí giáo viên làm tốt công tác tự học, tự bồi
dưỡng; tự làm và sử dụng đồ dùng dạy học một cách hiệu quả.
3.2.3. Đối với Phòng Giáo dục
- Tiếp tục tổ chức các buổi hội thảo về phần kiến thức này cho cán bộ và
giáo viên các nhà trường; triển khai rộng rãi những sáng kiến kinh nghiệm hay
để các đồng nghiệp cùng áp dụng trong quá trình dạy học.
Trong phạm vi đề tài này tôi chỉ xin được giới thiệu một số giải pháp nhỏ
của bản thân đã áp dụng thành công trong giảng dạy học sinh phần kiến thức về
tính từ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4. Do điều kiện cơng tác và thời
gian có hạn nên sáng kiến kinh nghiệm này không tránh khỏi những thiếu sót,
tơi rất mong nhận được sự đóng góp của các anh chị và bạn bè đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thị Trấn, ngày 15 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người khác.

Người viết
Trịnh Thị Liên
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học - Lê Phương Nga, Đặng
Kim Nga – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2008.

18


2. Tiếng Việt 4, tập 1 – Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), Nguyễn Thị
Hạnh, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán, Nguyễn Trại – Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam, 2005.
3. Tiếng Việt 4, tập 2 – Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), Hoàng Cao
Cương, Đỗ Việt Hùng, Trần Thị Minh Phương, Lê Hữu Tỉnh, Bùi Minh Toán –
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2010.

19



×