Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 5 trường tiểu học thành kim

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 30 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LỖI CHÍNH TẢ
CHO HỌC SINH LỚP 5 - TRƯỜNG TIỂU HỌC THÀNH KIM

Người thực hiện:
Chức vụ:
Đơn vị công tác:

Đinh Thị Xuyến
Giáo viên
Trường Tiểu học Thành Kim,
Thạch Thành, Thanh Hoá
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

THANH HÓA, NĂM 2017


MỤC LỤC
Nội dung
I. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm


2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1. Thống kê các bài tập chính tả cần thay thế
3.2. Xây dựng hệ thống bài tập thay thế cho những bài tập
chính tả lựa chọn và cung cấp, mở rộng các quy tắc chính tả
3.3. Rèn đọc và viết đúng ở tất cả các môn học
3.4. Xây dựng đôi bạn cùng tiến
3.5. Phối hợp với Cha mẹ học sinh
3.6. Hướng dẫn học sinh trang bị, sử dụng Sổ tay chính tả
3.7. Tạo hứng thú học tập cho học sinh
3.8. Chấm, chữa bài thường xuyên, chu đáo
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
III. Kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
2. Kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
2
2
3
8
8
8
11

11
11
12
12
14
14
15
15
15


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, mục tiêu của giáo dục Tiểu học được quy định tại
luật Giáo dục Việt Nam năm 2010 như sau: “Trang bị cho học sinh hệ thống tri
thức cơ bản ban đầu, hình thành ở học sinh những kĩ năng cơ bản nền
tảng, phát triển hứng thú học tập ở học sinh, thực hiện các mục tiêu giáo dục
toàn diện đối với học sinh Tiểu học” [4].
Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học nhằm:
Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe,
nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa
tuổi.
Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác
của tư duy.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những
hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt
Nam và nước ngoài.
- Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.

Ở Tiểu học, chính tả là một phân môn đặc biệt quan trọng nhằm thực hiện
mục tiêu của môn học “Tiếng Việt” là rèn luyện kĩ năng viết chính tả và kĩ
năng nghe cho học sinh kết hợp rèn luyện một số kĩ năng sử dụng tiếng Việt và
phát triển tư duy cho học sinh. Phân môn này có nhiệm vụ hình thành và phát
triển kĩ năng viết và kĩ năng nói cho học sinh. Phân môn chính tả giúp học
sinh:
- Trang bị một số kiến thức về quy tắc chính tả tiếng Việt; rèn luyện kĩ
năng nghe, kĩ năng viết chính tả một đoạn văn, bài văn.
- Kết hợp rèn luyện một số kĩ năng sử dụng tiếng Việt và phát triển tư duy
cho học sinh.
- Mở rộng vốn hiểu biết trong cuộc sống, con người, góp phần hình thành
nhân cách con người mới; thái độ cẩn thận và yêu cái đẹp trong giao tiếp bằng
tiếng Việt [1].
Qua nhiều năm công tác, tôi thấy học sinh viết sai chính tả hiện đang trở
thành căn bệnh phổ biến trong nhà trường. Sai chính tả là vi phạm chuẩn mực
ngôn ngữ. Nó chứng tỏ sự thiếu hụt tri thức văn hóa của người viết. Viết sai
chính tả sẽ làm giảm hiệu quả thông tin, nhiều khi làm người đọc hiểu sai ý
định của người viết và gây phản cảm tiếp nhận văn bản. Nhà trường là nơi dạy
người, dạy chữ; do đó giáo viên và học sinh không thể viết sai chính tả. Vì vậy,
dạy phân môn chính tả đóng vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là đối với HS
Tiểu học - là bậc học nền móng.
Tuy nhiên vấn đề chính tả luôn là vấn đề khá phức tạp do ảnh hưởng phát
âm của từng vùng, miền, hay do thói quen của người lớn trong gia đình phát


âm theo tiếng địa phương dẫn đến học sinh cũng nói sai theo và dẫn đến viết
cũng sai lỗi chính tả.
Là giáo viên Tiểu học nhiều năm được phân công giảng dạy học sinh lớp
5, tôi luôn bị ám ảnh bởi những bài chính tả có nhiều lỗi sai, giáo viên sửa lỗi
đỏ bài viết của học sinh. Trong từng tiết dạy, tôi luôn trăn trở, tìm cách để khắc

phục lỗi chính tả mà các em mắc phải. Chính vì vậy, tôi đã thử nghiệm và
mạnh dạn đề xuất: “Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh
lớp 5 - Trường Tiểu học Thành Kim huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hóa”.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm biện pháp khắc phục các lỗi chính tả học sinh thường mắc.
- Vận dụng các nguyên tắc dạy trong phân môn Chính tả hình thành kĩ
năng viết đúng chính tả cho học sinh.
- Lập Kế hoạch bài học theo hướng đổi mới phương pháp và nội dung bài
dạy cho sát thực với việc rèn chính tả cho học sinh.
- Xây dựng một hệ thống các bài tập chính tả thay thế cho các bài tập
chính tả lựa chọn trong chương trình Tiếng Việt lớp 5.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thành Kim huyện Thạch Thành tỉnh
Thanh Hóa.
- Chương trình phân môn Chính tả lớp 5, các tài liệu có liên quan.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Tra cứu tài liệu.
- Điều tra, quan sát.
- Thu thập thông tin.
- Áp dụng thực tế
- Thống kê, xử lí số liệu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
“Trong ngôn ngữ học, chính tả của một ngôn ngữ là một hệ thống các quy
tắc ghi chép lại lời nói được cộng đồng người sử dụng chấp nhận một cách
chính thức (qua các thể chế của nhà nước) hoặc rộng rãi” [4].
Trong phân môn Tiếng Việt lớp 5, mỗi tuần có 1 tiết chính tả. Cả năm học,
sinh được học 35 tiết chính tả. Chương trình của phân môn chính tả ở khối lớp
5 gồm các dạng sau:
* Chính tả đoạn, bài:

Nghe – viết hoặc nhớ – viết một đoạn trích từ bài tập đọc hoặc từ các văn
bản khác có nội dung phù hợp với chủ điểm học tập của mỗi tuần với độ dài
khoảng 100 chữ (tiếng)
* Chính tả âm, vần:
Nội dung các bài tập chính tả âm, vần là ôn lại quy tắc viết một số chữ
như: c/k, ng/ngh, g/gh và tiếp tục luyện viết đúng các từ có âm, vần, thanh dễ
viết sai chính tả do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương. Các cặp âm vần,
thanh dễ lẫn được luyện viết gồm:
2


Phụ âm đầu: l/n; ch/tr; s/x; r/d/gi
- Vần: an/ang, ăn/ăng, ân/âng, en/eng, uôn/uông, ơn/ơng, iên/iêng,
ăt/ăc, ât/ăc, uôt/uôc, ơt/ơc, iêt/iêc, ên/ênh, im/iêm, iu/iêu; vần chứa âm chính
o/ô.
* Chính tả viết hoa:
- Ôn luyện cách viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam và tên người, tên
địa lí nước ngoài.
- Bước đầu rèn luyện để có ý thức về cách viết hoa tên riêng tổ chức,
danh hiệu, giải thưởng, huân chương,…[1].
Chữ viết là hệ thống kí hiệu ghi lại ngôn ngữ. Đặc biệt đối với bậc Tiểu
học, chữ viết là một trong những công cụ dạy học của giáo viên. Bên cạnh việc
dạy cho học sinh viết đẹp thì yêu cầu dạy cho học sinh viết đúng rất quan
trọng. Muốn làm được điều đó, giáo viên phải nắm được những nguyên tắc
chính tả Tiếng Việt sau:
+ Nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực: Nghĩa là nội dung giảng dạy về
chính tả phải sát với phương ngữ.
+ Nguyên tắc kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không có ý thức.
Trong nhà trường, giáo viên cần sử dụng và khai thác tối đa phương pháp có ý
thức. Muốn vậy, giáo viên cần phải được trang bị những kiến thức về ngữ âm

học, về từ vựng – ngữ nghĩa học liên quan đến chính tả.
+ Nguyên tắc phối hợp giữa biện pháp tích cực với biện pháp tiêu cực
(xây dựng cái đúng, loại bỏ cái sai).
Đối với học sinh Tiểu học có ba loại lỗi cơ bản sau:
- Lỗi chính tả do không nắm được trình tự.
- Lỗi chính tả do không nắm được cấu trúc Tiếng Việt.
- Lỗi chính tả do viết theo lỗi phát âm địa phương [5].
Chính vì vậy, việc dạy cho học sinh viết đúng chính tả, đặc biệt là dạy cho
các em nắm vững nguyên tắc chính tả để thay cho cách viết theo phương ngữ là
công việc vô cùng khó, đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, cần rèn luyện cho học
sinh thường xuyên và lâu dài.
Việc rèn luyện các quy tắc chính tả sẽ hình thành kĩ năng viết đúng đơn vị
từ của học sinh, khi các em đã viết đúng, viết chính xác thì mới có điều kiện
học tốt các môn học khác và trên cơ sở đó, các em rèn luyện kĩ năng sử dụng
tiếng Việt có hiệu quả. Trong suy nghĩ và giao tiếp đặc biệt là giao tiếp bằng
ngôn ngữ viết, người xưa thường nói “Nét chữ nết người”, “Văn hay chữ
tốt”. Do đó, việc bảo vệ tiếng nói, chữ viết của dân tộc đã trở thành tư tưởng có
tính chất chính thống và mỗi người Việt Nam cần có ý thức gìn giữ sự trong
sáng của tiếng Việt.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Thực trạng về Giáo viên:
- Đa số giáo viên đều dựa vào các bài tập chính tả lựa chọn đã được soạn
ở sách giáo khoa để dạy cho học sinh mặc dù có một số bài tập luyện âm vần
học sinh không bao giờ bị mắc lỗi. Rất ít giáo viên tìm tòi, nghiên cứu để thay
3


thế các bài tập chính tả trong sách giáo khoa chưa phù hợp với đối tượng học
sinh ở địa phương mình.
- Một số giáo viên phát âm không chuẩn các tiếng có âm đầu ch/tr; s/x;

r/d. Mà việc phát âm không đúng chuẩn cũng ảnh hưởng rất lớn đến viết chính
tả.
- Vẫn còn giáo viên viết chưa đẹp, viết sai lỗi chính tả, viết bảng các môn
học khác còn cẩu thả, không đúng mẫu.
- Kết hợp với các môn học khác để rèn chữ viết cho học sinh còn hạn chế,
giáo viên chủ yếu chỉ rèn chữ ở phân môn Tập viết và Chính tả.
- Chưa kịp thời phát hiện sửa chữa các sai sót của học sinh nên lâu ngày
tạo thành thói quen trong khi viết.
2.2. Thực trạng về Học sinh:
Qua nhiều năm dạy học sinh trên địa bàn Thạch Thành tôi nhận thấy: học
sinh không hoặc nếu có cũng rất ít mắc các lỗi chính tả như: có âm đầu l/n; có
âm cuối n/ng hoặc t/c; có vần ao/au; hay thanh hỏi/ thanh ngã. Mà lỗi chính tả
cơ bản của các em thường mắc đó là những lỗi phổ biến do các em không nắm
được quy tắc chính tả như: r/ d /gi, s/x, ch/tr, c/k, g/gh, ng/ngh…
Cụ thể, đầu năm học 2016-2017, tại lớp 5B do tôi chủ nhiệm các em viết
sai lỗi như sau:
- Em Đỗ Hoàng Lâm, Lê Trần Minh Hiếu, Mai Thành Luân hay nhầm lẫn
khi viết c/k. Ví dụ : Khi viết cũ kĩ thì viết thành cũ cĩ, kiến thiết lại viết thành
ciến thiết
- Em Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Trung Đức hay viết sai ng/ngh; g/gh.
Ví dụ: Khi viết người nghèo thì em lại viết nghười ngèo
- Em Mai Thành Luân, Nguyễn Ngọc Phương Chinh, Chu mạnh Cương,
Đỗ Hoàng Lâm, Bùi Minh Đức, Lê Trần Minh Hiếu hay viết sai s/x; Ví dụ: Khi
viết sản xuất thì viết thành xản xuất; xích sắt viết thành sích xắt, xâm lược
thì viết thành sâm lược,…
- Em Nguyễn Văn Thương , Nguyễn Ngọc Phương Chinh, Trương Xuân
Quang, Trịnh Việt Dũng hay viết sai r/d/gi; Ví dụ: Khi viết mưa rào thì viết
thành mưa dào; nhà giáo viết thành nhà dáo
- Em Nguyễn Trung Đức, Lê Thị Nga, Nguyễn Văn Thương , Nguyễn
Ngọc Phương Chinh, Trương Xuân Quang, Trịnh Việt Dũng , hay viết sai

ch/tr; Ví dụ: Khi viết trung thành thì viết thành chung thành; trông mong
viết thành chông mong
- Em Hà Gia Huy do mới chuyển từ miền Nam ra nên em hay phát âm và
viết các tiếng (chữ) có thanh ngã thành thanh hỏi.
Một số bài viết của các em ở đầu năm học:

4


(Bài viết của em: Nguyễn Ngọc Phương Chinh - Lớp 5B)

(Bài viết của em: Mai Thành Luân - Lớp 5B)
5


Sau khai giảng 3 tuần, tôi đã tiến hành làm một bài khảo sát với 93 học
sinh khối lớp 5, mỗi em làm 2 bài tập sau trong thời gian 30 phút:
Bài 1:
a, Điền vào chỗ trống t hay c?
Tuổi thơ chở đầy cổ tích
Dòng sông lời mẹ ngọ… ngào
Đưa con đi cùng đất nướ…
Chòng chành nhịp võng ca dao
Trương Nam Hương
b, Điền vào chỗ trống ao hoặc au để hoàn chỉnh đoạn thơ:
Thời gian chạy qua tóc mẹ
Một m… trắng đến nôn n…
Lưng mẹ cứ còng dần xuống
Cho con ngày một thêm c…
Trương Nam Hương

c, Điền vào chỗ trống l hoặc n để hoàn chỉnh đoạn thơ:
Còn …úi …on Cao Bằng
Đo …àm sao cho hết
Như tình yêu đất nước
Sâu sắc người Cao Bằng
Trúc Thông
d, Điền vào chỗ trống n hoặc ng để hoàn chỉnh đoạn thơ:
Rồi đế... chị rất thươ...
Rồi đế... em rất thảo
Ông lành như hạt gạo
Bà hiề... như suối tro...
Trúc Thông
e, Đặt thanh hỏi hoặc thanh ngã thích hợp trên các chữ in đậm để hoàn chỉnh
đoạn thơ:
Dù giáp mặt cùng biên rộng
Cưa sông chăng dứt cội nguồn
Lá xanh môi lần trôi xuống
Bông… nhớ một vùng núi non…
Quang Huy
Bài 2:
a, Điền vào chỗ trống s hoặc x để hoàn chỉnh đoạn thơ:
Nơi những dòng ...ông cần mẫn
Gửi lại phù ...a bãi bồi
Để nước ngọt ùa ra biển
Sau cuộc hành trình ...a ...ôi.
Quang Huy
b, Điền vào chỗ trống ch hoặc tr để hoàn chỉnh đoạn thơ:
Hà Nội có ...ong ...óng
6



Cứ tự quay ...ong nhà
Không cần ...ời nổi gió
Không cần bạn ...ạy xa.
Trần Đăng Khoa
c, Điền vào chỗ trống r, d hay gi để hoàn chỉnh đoạn thơ:
Bầm ơi có …ét không Bầm
Heo heo …ó núi lâm thâm mưa phùn
Bầm …a …uộng cấy Bầm …un
Chân lội …ưới bùn tay cấy mạ non.
Tố Hữu
d, Điền vào chỗ trống c hay k để hoàn chỉnh đoạn văn sau
Sau 80 năm giời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta …
ần phải xây dựng lại …ơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho
chúng ta theo …ịp các nước khác trên hoàn cầu.Trong công cuộc …iến thiết
đó, nước nhà trông mong chờ đợi ở …ác em rất nhiều.
Hồ Chí Minh
Kết quả khảo sát như sau:
Bài 1:
Tổng
Các lỗi chính tả thường mắc
Ghi
số
thanh hỏi/ chú
t/c
ao/au
l/n
n/ng
HS
thanh ngã

93
SL TL
SL TL
SL TL
SL TL
SL TL
em
3
3,2% 2
2,2% 2
2,2% 3
3,2% 2
2,2%
Bài 2:
Tổng
số
HS
93em

Các lỗi chính tả thường mắc
s/x
SL
25

TL
SL
26,9% 22

ch/tr


r/d/gi

TL
SL
23,7% 27

TL
29%

c/k
SL
8

Ghi chú

TL
8,6%

Nhìn vào bảng trên ta thấy học sinh lớp 5, trường Tiểu học Thành Kim
viết sai cặp âm, vần: t/c, ao/au, l/n, n/ng, thanh hỏi/ thanh ngã rất ít, chỉ có 2
hoặc 3/93 em, có thể là do các em suy nghĩ chưa kĩ khi làm bài, bởi vì khi tôi
hỏi các em lại đưa ra đáp án đúng và cách phát âm của các em đối với các tiếng
có âm vần trên đều chính xác.
Tuy nhiên, đối với các cặp phụ âm: s/x, ch/tr, r/d/gi, c/k học sinh còn sai
rất nhiều.
Ngoài ra trong quá trình giảng dạy, tôi còn thống kê thêm một số lỗi chính
tả các em hay nhầm lẫn như: ng/ngh, g/gh.
Bên cạnh đó, kết quả giữ vở sạch – viết chữ đẹp của các em trong năm
học 2015-2016 như sau:
- Khối 4: A: 68/93 em = 73,1%, xếp loại B: 25/93 em = 26,9%.

7


- Lớp 4B: A: 17/24 em = 70,8%, xếp loại B: 7/24em = 29,2%.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
3.1. Thống kê các bài tập chính tả lựa chọn cần thay thế:
Trong chương trình phân môn Chính tả hiện nay của bậc học Tiểu học,
phần bài tập chính tả đã được các nhà nghiên cứu giáo dục đã xây dựng chương
trình theo hướng mở để giáo viên có thể vận dụng linh hoạt vào thực trạng học
sinh của địa phương mà soạn những bài tập thay thế phù hợp. Chính vì vậy tôi
đã chủ động thay thế các bài tập cho phù hợp với đối tượng học sinh, cụ thể
như sau:
STT Tuần
Nội dung bài tập lựa
Nội dung thay thế
chọn
1

Tuần 9

2

Tuần 11

3
4

Tuần 14
Tuần 16


5

Tuần 19

phân biệt âm đầu l/n, âm
cuối n/ng
phân biệt âm đầu l/n, âm
cuối n/ng
phân biệt vần ao/au
phân biệt các vần iêm/im,
iêp/ip
phân biệt âm chính o/ô

phân biệt s/x
phân biệt ch/tr
phân biệt g/gh, ng/ngh
phân biệt r/d/gi
phân biệt c/k

3.2. Xây dựng hệ thống bài tập thay thế cho những bài tập chính tả lựa
chọn và cung cấp, mở rộng các quy tắc chính tả:
Sau khi đã thống kê được các bài tập chính tả lựa chọn chưa phù hợp, tôi
đã xây dựng hệ thống bài tập cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình như
sau:
* Tuần 9:
Bài tập1: Điền vào chỗ trống s hoặc x để hoàn chỉnh đoạn văn:
Biển luôn thay đổi tùy theo …ắc mây trời. Trời …anh thẳm, biển cũng
thẳm …anh, như dâng cao lên, chắc nịch. Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ
màng dịu hơi …ương. Trời âm u mây mưa, biển …ám …ịt, nặng nề. Trời ầm
ầm dông gió, biển đục ngầu giận dữ.

Vũ Tú Nam
Bài tập2: Tìm và viết lại:
a) Các từ láy âm đầu s: Ví dụ: suồng sã
b) Các từ láy âm đầu x: Ví dụ: xanh xao
Sau hai bài tập, tôi cung cấp cho học sinh cách phân biệt s/x:
- Chữ s không đứng đầu các tiếng có âm đệm (oa, oă, oe, uê, uâ) ngoại
trừ các trường hợp: soát, soạt, soạng, soạn, suất. Do đó gặp các tiếng dạng này
thì ta chọn x để viết, không chọn s.
Ví dụ:
- Xoa tay, cây xoan, xoắn lại, tóc xoăn, xòe tay, xuyên qua, xoắn ốc, xập
xòe, tròn xoe, du xuân, xuất bản, trục xuất,…[2]
* Tuần 11:
Bài tập1: Điền vào chỗ trống tr hoặc ch để hoàn chỉnh đoạn văn:
8


Sự sống cứ tiếp tục …ong âm thầm, hoa thảo quả nảy dưới gốc cây kín
đáo và lặng lẽ. Ngày qua, …ong sương thu ẩm ướt và mưa rây bụi mùa đông,
những …ùm hoa khép miệng bắt đầu kết …ái. Thảo quả …ín dần. Dưới đáy
rừng, tựa như đột ngột, bỗng rực lên những …ùm thảo quả đỏ …on …ót, như
…ứa lửa, …ứa nắng.
Ma Văn Kháng
Bài tập2: Tìm và viết lại:
a) Các từ láy âm đầu tr: Ví dụ: trong trẻo
b) Các từ láy âm đầu ch: Ví dụ: chống chọi
Sau hai bài tập này, tôi cung cấp thêm cho học sinh mẹo về cách phân biệt
ch/tr khi viết như sau:
+ Chữ tr không đứng trước các tiếng có âm đệm ( oa, oă, oe, uê, oo). Do
đó nếu gặp các dạng này ta chọn ch để viết, không chọn tr.
Ví dụ:

- choàng tỉnh, choáng váng, chếnh choáng, vàng chóe
+ Những từ Hán Việt có thanh nặng hoặc thanh huyền thường có âm đầu
tr. Do đó nếu gặp các từ này ta chọn tr để viết, không chọn ch.
Ví dụ:
– tr đi với dấu nặng: Trịnh trọng, trị giá, trụy lạc, trục lợi, trụ sở, vũ trụ,
trạm xá, hỗ trợ, triệu phú, trận mạc…
– tr đi với dấu huyền: Truyền thống, từ trường, trần thế, trù bị, trùng hợp,
phong trào, lập trường, trừng trị…
+ Những từ chỉ đồ vật trong nhà, chỉ tên các loại quả, chỉ tên các món ăn,
chỉ tên các hoạt động, chỉ quan hệ của những người trong gia đình và những từ
mang ý nghĩa phủ định thường có âm đầu ch.
Ví dụ:
- chổi, chiếu, chén, chạn, chảo,…
- chuối, chanh, chôm chôm, …
- cháo, chè, chả,…
- chặt, chẻ,chém,…
- cha, chú, chị, cháu, chắt, chồng, chút, chít,…
- chớ, chưa,chẳng,…
+ Một số từ có thể thay âm đầu tr bằng âm đầu gi.
Ví dụ:
- trời - giời, trầu - giầu, nhà tranh – nhà gianh, …
+ Một số từ chỉ vị trí thường viết là tr.
Ví dụ: trong, trên, trước [2]
* Tuần 14:
Bài tập2: Điền vào chỗ trống g/gh hoặc ng/ngh để hoàn chỉnh đoạn thơ:
Gió bấc thật đáng …ét
Cái thân …ầy khô đét
Chân tay dài …êu …ao
Chỉ …ây toàn chuyện dữ
9



Vặt trụi xoan trước …õ
Rồi lại …é vào vườn
Xoay luống rau …iêng …ả
Gió bấc toàn …ịch ác
Nên ai cũng …ại chơi
Đỗ Xuân Thanh
Sau bài tập, tôi giúp cho học sinh nắm được các quy tắc chính tả:
+ g, ng luôn đứng trước các nguyên âm: a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.
+ gh, ngh luôn đứng trước các nguyên âm: i, e, ê.
* Tuần 16:
Bài Tập2: Điền vào chỗ trông r, d hoặc gi để hoàn chỉnh đoạn thơ sau:
Em bé thuyền ai …a …ỡn nước
Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm
Biển bằng không có …òng xuôi ngược
Cơm …ữa ngày mưa gạo trắng thơm.
Huy Cận
Sau bài tập này, tôi cung cấp cho học sinh mẹo để phân biệt r/d/gi như
sau:
- Chữ r và gi không đứng đầu các tiếng có vần có âm đệm oa, uê, oe, uy.
Do đó gặp các tiếng dạng này thì chọn d để viết.
Ví dụ: Dọa nạt, hậu duệ, kiểm duyệt, duy trì, duy nhất…
- Trong từ Hán Việt:
+ Các tiếng có thanh ngã hoặc thanh nặng thường viết với âm đầu d.
Ví dụ: diễn viên, hấp dẫn, mậu dịch, kỳ diệu,…
+ Các tiếng có thanh sắc, thanh hỏi thường viết với gi.
Ví dụ: giám sát, giới thiệu, giá cả, tam giác, giảng giải, giải thích,…
+ Các tiếng có thanh huyền hoặc thanh ngang thường viết với âm đầu gi
khi vần có âm đầu a, và viết với âm đầu d khi vần có âm đầu khác a.

Ví dụ: gian xảo, giao chiến, giai nhân, tăng gia,…du dương, do thám, dư
dật,.. [2]
* Tuần 19:
Bài tập1: Điền vào chỗ chấm c hoặc k để hoàn chỉnh đoạn thơ:
Thuyền đậu, thuyền đi hạ …ín mui
Lưa thưa mưa biển ấm chân trời
Chiếc tàu chở …á về bến …ảng
Khói lẫn màu mây tưởng đảo khơi.
Huy Cận
Sau bài tập, tôi giúp cho học sinh nắm được các quy tắc chính tả:
+ c luôn đứng trước các nguyên âm: a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.
+ k luôn đứng trước các nguyên âm: i, e, ê.
Sau khi xây dựng được hệ thống bài tập trên, tôi đã đưa ra buổi sinh hoạt
chuyên môn để cả khối cùng tham khảo, góp ý. Ý kiến của tôi đã được cả khối

10


tán thành và thống nhất đưa hệ thống bài tập trên vào dạy cho cả khối trong
năm học 2016-2017.
3.3. Rèn đọc và viết đúng ở tất cả các môn học:
Không những khi viết chính tả mới rèn cho học sinh mà trong tất cả các
môn học tôi đều chú ý sửa lỗi phát âm và chữ viết cho các em, quan tâm sát sao
đến những em hay đọc và viết sai. Yêu cầu học sinh luôn có ý thức đọc đúng
và viết đúng theo chuẩn phổ thông và các quy tắc chính tả, không được đọc và
viết tùy tiện theo thói quen của mình.
Ngoài ra, tôi luôn phối hợp với giáo viên bộ môn, đặc biệt đối với những
giáo viên hay phát âm theo tiếng địa phương để họ chú ý phát âm đúng theo
tiếng phổ thông khi dạy học sinh để các em nắm được cách phát âm đúng và tự
sửa dần tiếng địa phương.

Trong lớp, tôi còn yêu cầu các em tự giám sát nhau, nếu bạn nói sai cho
bạn nhắc lại ngay đến khi đúng mới thôi.
Nhờ kiên trì mà những em thường phát âm sai như: Em Mai Thành Luân,
Nguyễn Ngọc Phương Chinh, Chu mạnh Cương, Đỗ Hoàng Lâm, Bùi Minh
Đức, Lê Trần Minh Hiếu phát âm sai ch/tr, s/x; Em Hà Gia Huy phát âm sai
thanh hỏi/ thanh ngã, hoặc các em Nguyễn Văn Thương , Nguyễn Ngọc
Phương Chinh, Trương Xuân Quang, Trịnh Việt Dũng phát âm sai r/d đến nay
cơ bản đã phát âm đúng tiếng phổ thông.
3.4. Xây dựng “Đôi bạn cùng tiến”:
Sau khi nhận lớp một thời gian ngắn, tôi tìm hiểu, theo dõi để nắm bắt
được những học sinh hay viết sai chính tả. Từ đó, tôi sắp xếp những học sinh
này ngồi cạnh những học sinh viết đúng – viết đẹp và giao nhiệm vụ cho những
em viết đúng – viết đẹp theo dõi để phát hiện lỗi và sửa lỗi chính tả cho bạn.
Cụ thể: Em Hoàng Thùy Linh kèm cặp em Mai Thành Luân; em Lê Thùy
Trang kèm cặp em Đỗ Hoàng Lâm; em Đinh Thị Nhung kèm cặp em Hà Gia
Huy; em Nguyễn Phương Nga kèm cặp em Nguyễn Văn Thương; em Phạm Thị
Hương kèm cặp em Nguyễn Trung Đức; em Nguyễn Khánh Ly kèm cặp em
Chu Mạnh Cương, ….
Khi tiến hành việc này, tôi nhận thấy những em được phân kèm cặp bạn
có ý thức trách nhiệm rất cao, có tinh thần cố gắng hơn trước và dường như rất
hãnh diện với nhiệm vụ này nên thực hiện rất tốt nhiệm vụ được phân công.
Còn những em được bạn giúp đỡ thì không còn mặc cảm, tự ti và có thể cùng
bạn được sửa sai cả lúc học cũng như lúc chơi.
3.5. Phối hợp với Cha mẹ học sinh:
- Hướng dẫn Cha mẹ học sinh cách kiểm tra đọc của học sinh: Tôi thường
xuyên trao đổi với Cha mẹ học sinh cách kiểm tra đọc của các em là vào mỗi
buổi tối khi các em chuẩn bị bài ngày mai, thì họ cần giám sát và yêu cầu các
em đọc trước bài ngày mai, nếu các em đọc sai thì cần sửa ngay và yêu cầu các
em đọc lại cho đúng chuẩn.
- Hướng dẫn Cha mẹ học sinh đôn đốc nhắc nhở các em chuẩn bị trước

bài chính tả bằng cách: Cho các em đọc trước bài chính tả ngày mai viết (trong
11


SGK) và cha mẹ đọc các tiếng, từ khó và dễ viết sai trong bài chính tả, yêu cầu
các em viết ra nháp (thường là các tiếng, từ có âm đầu tr/ch, tr/ch, s/x, r/d/gi).
Cha mẹ học sinh kiểm tra, nếu thấy các em viết sai so với bài chính tả thì yêu
cầu viết lại cho đúng. Chẳng hạn, thứ ba,ngày 15 tháng 11 năm 2016, học bài
chính tả Nghe – viết: Luật Bảo vệ môi trường, Cha mẹ học sinh đọc cho các em
viết ra nháp các tiếng, từ như: môi trường, giữ, trong lành, sạch đẹp, tác động
xấu, sự cố, suy thoái, sử dụng, đa dạng sinh học.
3.6. Hướng dẫn học sinh trang bị, sử dụng Sổ tay Chính tả:
Giáo viên yêu cầu mỗi em tự làm một cuốn Sổ tay Chính tả, hướng dẫn
các em ghi chép đầy đủ các quy tắc chính tả và các mẹo để viết đúng chính tả
để những khi gặp những từ khó hay từ dễ nhầm lẫn thì các em có thể xem lại
trong Sổ tay chính tả và viết cho đúng. Như thế, mỗi khi các em đọc lại Sổ tay
chính tả không những giúp các em viết đúng chính tả mà còn giúp các em nhớ
được các quy tắc chính tả hay các mẹo để viết đúng chính tả.
Chẳng hạn:
* Khi các em làm xong Bài tập 2- Tuần 14, cần cho các em ghi vào Sổ tay
Chính tả quy tắc:
+ g, ng luôn đứng trước các nguyên âm: a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.
+ gh, ngh luôn đứng trước các nguyên âm: i, e, ê.
* Khi các em làm xong Bài tập 2- Tuần 16, cần cho các em ghi vào Sổ tay
Chính tả một số mẹo để phân biệt d/r/gi như sau:
- Chữ r và gi không đứng đầu các tiếng có vần có âm đệm oa, uê, oe, uy.
Do đó gặp các tiếng dạng này thì chọn d để viết.
Ví dụ: Dọa nạt, hậu duệ, kiểm duyệt, duy trì, duy nhất…
- Trong từ Hán Việt:
+ Các tiếng có thanh ngã hoặc thanh nặng thường viết với âm đầu d.

Ví dụ: diễn viên, hấp dẫn, mậu dịch, kỳ diệu,…
+ Các tiếng có thanh sắc, thanh hỏi thường viết với gi.
Ví dụ: giám sát, giới thiệu, giá cả, tam giác, giảng giải, giải thích,…
+ Các tiếng có thanh huyền hoặc thanh ngang thường viết với âm đầu gi
khi vần có âm đầu a, và viết với âm đầu d khi vần có âm đầu khác a.
Ví dụ: gian xảo, giao chiến, giai nhân, tăng gia,…du dương, do thám, dư
dật,..
* Khi các em làm xong Bài tập 1- Tuần 19, cần cho các em ghi vào Sổ tay
Chính tả quy tắc:
+ c luôn đứng trước các nguyên âm: a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.
+ k luôn đứng trước các nguyên âm: i, e, ê.
3.7. Tạo hứng thú học tập cho học sinh:
- Tổ chức trò chơi học tập: Để tạo hứng thú học tập cho học sinh trong khi
làm các bài tập chính tả, tôi đã giúp các em hoàn thành bài tập bằng cách cho
các em tham gia trò chơi.
Ví dụ: Khi gặp bài tập 2a) – SGK TV5- tập 1 – trang 125, tôi chuyển
thành dạng bài tập như sau: Chọn s hay x điền vào chỗ trống:
12


Nhân …âm, …âm lược, …ương đêm, …ương xẩu, say …ưa, xa …ưa, …
iêu nhân, …iêu vẹo, lao …ao, ngôi …ao.
Tôi sẽ tổ chức cho các em chơi trò chơi Tiếp sức (Thời gian: 3 phút).
Tôi sẽ viết các từ trên lên bảng theo 3 cột; gọi 3 đội lên chơi (mỗi đội 5
em)
Luật chơi: Các em đứng thành 3 hàng dọc, em đầu hàng cầm sẵn viên
phấn. Khi cô hô: “Thời gian bắt đầu” thì các em đầu hàng nhanh chóng chạy
lên bảng ghi s hay x vào chỗ trống của từ thứ nhất, viết xong các em chạy
nhanh về hàng đưa phấn cho bạn tiếp theo và về đứng ở cuối hàng, bạn thứ hai
cầm được phấn rồi thì chạy nhanh lên điền s hay x vào chỗ trống của từ thứ hai,

…cứ như thế cho đến khi hết thời gian thì dừng lại. Đội nào làm nhanh hơn và
điền được nhiều từ đúng hơn thì đội đó thắng cuộc.
- Tổ chức hoạt động Câu lạc bộ Tiếng Việt:
+ Giải Tiếng Việt thông qua báo bảng: Hàng tháng, tôi đều khuyến khích
các em tham gia Sân chơi trí tuệ bằng cách: Tôi ra đề Tiếng Việt và ghi đề lên
bảng chung của Nhà trường, khuyến khích cả lớp tham gia làm bài và nộp lại
bài cho tôi chấm. Cuối tháng sẽ tổng hợp em nào được điểm cao và nộp bài
sớm thì sẽ đề nghị nhà trường trao thưởng, những em nào làm đúng nhưng viết
sai chính tả sẽ bị trừ điểm (giải thưởng là một quyển vở ô li 60 trang).
+ Giải Tiếng Việt qua báo Văn học và tuổi trẻ:
Tôi sưu tầm các bài tập luyện Chính tả (với những bài tập luyện các lỗi
mà học sinh thường sai) trong báo Văn học và Tuổi trẻ dành cho cấp Tiểu học,
phô tô phát cho học sinh tự làm rồi nộp lại cho cô giáo chấm.
Ví dụ:
1) Điền vào chỗ trống xa hay sa để hoàn chỉnh bài thơ sau:
Nghỉ hè … cách bạn bè
Trời mưa đất lún nên xe … lầy
Nói năng … sả chẳng hay
Học tập … sút cha rầy mẹ la
Chớ nên lãng phí … hoa
Đại dương … thẳm bao la chân trời
Bắc cực vạn dặm … vời
… mạc biển cát, bầu trời nóng khô.
Bạn bè … lánh buồn phiền
Hư hỏng … ngã chẳng nên con người
Lính thủy hoạt động … khơi
… đà hàng quán, buông lơi học hành
… xôi luôn nhớ gia đình
Đến vùng … khoáng đi tìm tài nguyên
Ăn tiêu … xỉ phí tiền

Chơi bời … đọa trở nên hư người.[3]
2) Chọn trí hay chí?

13


…hướng; …thân; …lí; lí….; ý….; mưu….; …thú; …..tình;
tâm…; ……phải; quyết….; …thức; …công; ….tuệ; …khí; .[3]
Sau mỗi bài tập đó, tôi đều tranh thủ 15 phút đầu giờ chữa trước lớp, kịp
thời tuyên dương, khen thưởng và nhắc nhở học sinh.
Qua các hoạt động trên, tôi thấy các em đều hào hứng, tích cực tham gia
với thái độ nghiêm túc đúng với tinh thần “Học mà chơi, chơi mà học”. Qua đó
giúp các em bổ sung thêm kiến thức chính tả cho bản thân và rèn kĩ năng tự tin,
mạnh dạn trước đám đông.
3.8. Chấm chữa bài thường xuyên, chu đáo:
Tôi thường xuyên chấm, chữa bài cho học sinh và soát lỗi cẩn thận để chỉ
ra từng lỗi cụ thể cả về chính tả và chữ viết. Khi chấm bài nếu gặp lỗi sai, tôi
gọi ngay em học sinh đó lên bảng viết lại từ đã viết sai, nếu vẫn sai như trong
vở, tôi hướng dẫn - giảng giải lại cho các em biết viết đúng.
Khi trả bài cho các em, tôi yêu cầu học sinh đọc lời nhận xét của cô và
viết lại những từ mình viết sai, sau đó sửa lại vào Sổ tay chính tả của từng em.
Khi viết lời nhận xét trong vở của học sinh, tôi luôn chú ý viết cẩn thận
từng nét, từng chữ đúng chính tả và đúng kích cỡ của từng con chữ để làm
gương cho các em.
Khi chấm bài tôi thấy em nào viết đẹp, không sai lỗi chính tả hay những
em tiến bộ về chữ viết ( viết đẹp hơn, ít sai lỗi chính tả hơn so với những bài
trước đó) tôi kịp thời khen ngợi và tuyên dương các em trước lớp để các em
phấn khởi và tiếp tục cố gắng ở những bài sau.
Bên cạnh đó, đối với các bài tập chính tả tôi cũng chấm, chữa bài thường
xuyên để sửa lỗi cho các em và cung cấp thêm cho các em những quy tắc chính

tả cơ bản. Việc làm này, tôi đưa ra thảo luận trong buổi sinh hoạt chuyên môn
của tổ khối và được thống nhất ngay từ đầu năm học để các bạn đồng nghiệp
cùng áp dụng.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau khi áp dụng những biện pháp trên tại khối 5 của nhà trường, đến tuần
28, tôi đã khảo sát lại với những bài tập phân biệt: s/x, ch/tr, r/d/gi, c/k, g/ghng/ngh thì nhận được kết quả rất khả quan, mặt khác đa số học sinh đều tiến bộ
về chữ viết, cách trình bày. Đây quả là niềm động viên khích lệ rất lớn đối với
tôi cũng như các đồng chí giáo viên dạy cùng khối. Cụ thể:
* Lỗi chính tả:
Các lỗi chính tả thường mắc
Tổng
số
g/gh
s/x
ch/tr
r/d/gi
c/k
HS
ng/ngh
93 SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
em
3 3,2% 4 4,3% 3 3,2% 2 2,2% 0
0

Ghi chú

* Kết quả xếp loại Giữ vở sạch - viết chữ đẹp như sau:
14



Tuần 27 Ban giám hiệu kiểm tra và xếp loại như sau:
- Khối 5: A: 76/93 em = 81,7%, xếp loại B: 17/93 em = 18,3%.
- Lớp 5B do tôi chủ nhiệm: A: 27/31 em = 87,1%, xếp loại B: 4/31 em =
12,9%.
Mặt khác, thông qua cách tổ chức thực hiện các bài tập chính tả, bồi
dưỡng cho học sinh một số đức tính và thái độ cần thiết trong công việc như:
cẩn thận, chính xác, có óc thẩm mĩ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm,…
III. Kết luận, kiến nghị:
1. Kết luận:
Bằng các biện pháp, các hình thức tổ chức phù hợp nói trên, tôi đã từng
bước hình thành ở học sinh năng lực và thói quen viết đúng chính tả; các em
viết chính tả một cách có ý thức chứ không tùy tiện như trước. Điểu đó chứng
tỏ rèn cho học sinh Tiểu học viết đúng chính tả là một việc làm khó khăn và lâu
dài nhưng không phải là không thể làm được.
Chính vì vậy, tôi thiết nghĩ rằng muốn rèn cho học sinh kĩ năng viết đúng
chính tả thì người giáo viên cần phải:
- Viết chữ đúng mẫu hiện hành và luôn viết đúng chính tả.
- Phát hiện lỗi chính tả, đưa ra các biện pháp khắc phục kịp thời.
- Tạo ra sự hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ học bằng nhiều hình thức
thi đua.
- Thay thế một số bài tập trong sách giáo khoa phù hợp với yêu cầu “Dạy
chính tả theo khu vực”.
- Xây dựng các qui tắc chính tả, các “mẹo” chính tả, giúp học sinh ghi nhớ
cách viết một cách khái quát, có hệ thống.
- Thường xuyên chấm, chữa bài và kiểm tra vở, nhắc nhở các em cách
trình bày, cách sửa lỗi trong vở; động viên, tuyên dương và khen thưởng những
học sinh có nhiều tiến bộ.
- Phối hợp với Cha mẹ học sinh kèm cặp các em ở nhà trong việc đọc –
nói – viết đúng chính tả.

- Xây dựng “Đôi bạn cùng tiến” trong học tập
- Giáo viên không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao
trình độ, chuyên môn nghiệp vụ. Bời vì, có nắm chắc kiến thức, giáo viên mới
có thể giúp học sinh học tập một cách có hiệu quả.
- Tổ khối thường xuyên sinh hoạt chuyên môn, thảo luận, trao đổi, học hỏi
kinh nghiệm lẫn nhau, thống nhất để cùng nhau áp dụng những biện pháp tối
ưu vào giảng dạy để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
2. Kiến nghị:
- Nhà trường, chuyên môn cần bổ sung thêm các tài liệu về Nghiên cứu
Tiếng Việt, từ điển Tiếng Việt để giáo viên tham khảo nhằm phục vụ tốt cho
công tác giảng dạy Tiếng Việt nói chung và phân môn Chính tả nói riêng.
Thường xuyên tổ chức thi ''Vở sạch, chữ đẹp” theo định kì, hàng tháng có phần
thưởng xứng đáng động viên giáo viên và học sinh đạt giải.
15


- Tổ chuyên môn cùng nhà trường thường xuyên tổ chức các chuyên đề đổi
mới phương pháp dạy môn Tiếng việt trong đó có phân môn Chính tả lớp 5.
- Cung cấp kịp thời các phương tiện dạy học phục vụ cho môn học.
Sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thành với những tích luỹ kinh nghiệm
của bản thân trong nhiều năm giảng dạy cùng với sự góp ý của đồng nghiệp
trường Tiểu học Thành Kim. Rất mong tiếp tục nhận được sự góp ý của các
đồng nghiệp và Hội đồng khoa học cấp ngành để sáng kiến của tôi được hoàn
thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Thạch Thành, ngày 08 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.


Đinh Thị Xuyến

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Sách GV Tiếng Việt 5- tập 1, Chủ biên: Nguyễn Minh Thuyết, Nhà xuất
bản Giáo dục, Xuất bản năm 2010
[2]. Một số quy tắc chính tả trong Tiếng Việt, trang Website của trường Tiểu
học Chiềng Sinh – Tuần Giáo – Điện Biên
[3]. Văn học và Tuổi trẻ, Nhà xuất bản Giáo dục Số 332+334 năm 2015;
Số tháng 3 năm 2017
[4]. Nguồn Internet
[5]. SKKN: Lê Thị Luyến, giáo viên Trường Tiểu học Thành Kim, Thạch
Thành, Thanh Hóa.
“Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 4 - Trường Tiểu
học Thành Kim huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hóa”.

17


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Đinh Thị Xuyến
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, trường Tiểu học Thành Kim

TT


1.

2.

Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp khắc phục tình
trạng học sinh lớp 4 yếu kém môn
Toán
Một số biện pháp khắc phục tình
trạng học sinh lớp 5 yếu kém môn
Toán

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

Cấp phòng

C


2008-2009

Cấp phòng

B

2010-2011

18


PHỤ LỤC SKKN
Giáo viên: Đinh Thị Xuyến
Trường Tiểu học Thành Kim – Thạch Thành – Thanh Hóa
Dưới đây là một số bài viết tiêu biểu của học sinh lớp 5B, trường Tiểu học
Thành Kim.

( Bài viết của em: Nguyễn Phương Nga)

19


(Bài viết của em: Phạm Thanh Hương)

20


(Bài viết của em: Hoàng Thùy Linh)


21


( Bài viết của em: Nguyễn An Khánh)

22


( Bài viết của em: Nguyễn Thanh Lam)

23


×