SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
-----------o0o------------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC DẠY
HỌC TỪ LÁY CHO HỌC SINH LỚP 4
Người thực hiện: Mai Thị Hiên
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Ba Đình
Sáng kiến kinh nghiệm thuộc môn: Tiếng Việt
THANH HÓA NĂM 2017
MỤC LỤC
Trang
I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:.....................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu :............................................................................................. 2
3. Đối tượng nghiên cứu:………….………………………………………....……… 2
4. Phương pháp nghiên cứu:…………………………………………...……………..2
II: NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của vấn đề……………………………………………........................3
2. Thực trạng của vấn
đề...............................................................................................3
3. Biện pháp giải quyết vấn đề:………………………………………………...……..4
4. Kiểm nghiệm vấn đề: ………………………………………………………..…...11
III: KẾT LUẬN
1. Kết luận:………………………………………………………………………..…13
2. Kiến nghị:………………………………………………………………………...13
I/MỞ ĐẦU:
1/ Lý do chọn đề tài:
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu
học đã được các nhà nghiên cứu, cán bộ quản lí chỉ đạo cũng như giáo viên trực
tiếp giảng dạy đặc biệt quan tâm.
Đổi mới phương pháp dạy học có thể hiểu đó là con đường ngắn nhất để
đạt chất lượng và hiệu quả cao trong dạy và học. Đổi mới PPDH là sự kết hợp
nhuần nhuyễn sáng tạo giữa kinh nghiệm của giáo viên với những yếu tố mới
của PPDH hiện đại. Với cách nhìn từ phương pháp mới, giáo viên có thể thực
hiện việc cải tiến PPDH nói chung và môn Tiếng Việt lớp 4, 5 nói riêng nhằm
gây hứng thú học tập, tạo niềm tin, niềm vui bằng sự hình thành và phát triển ở
học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết. Để học sinh giao
tiếp một cách tốt nhất thì việc sử dụng từ láy trong Tiếng Việt góp phần rất lớn
trong việc gợi tả sắc thái, biểu cảm, làm bộc lộ hết cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ
nói chung và văn bản văn chương nói riêng. Việc nắm vững từ láy rất quan trọng
đối với học sinh Tiểu học. Nó giúp cho các em thêm yêu quí Tiếng Việt, góp
phần làm giàu đẹp và phong phú thêm vốn sống cho các em, giúp các em có
nhiều điều kiện để học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác ở bậc Tiểu
học...Trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học, từ láy được dạy trong phân môn
Luyện từ và câu và các phân môn khác thuộc môn Tiếng Việt. Như vậy, nội
dung dạy về từ láy trong chương trình môn Tiếng Việt nói riêng, các môn học
nói chung ở Tiểu học,chiếm một tỉ lệ đáng kể. Điều đó nói lên ý nghĩa quan
trọng của việc dạy từ láy ở bậc Tiểu học. Vốn từ là một trong những bộ phận cấu
thành của ngôn ngữ, cho nên muốn dạy cho học sinh nắm tiếng mẹ đẻ, không
thể không coi trọng việc dạy vốn từ láy cho học sinh. Trong giao tiếp thông
thường, cả người phát (nói, viết) và người nhận (nghe, đọc) đều cần nắm được
từ láy, hiểu từ láy và sử dụng từ láy một cách chính xác, thì việc giao tiếp mới
diễn ra suôn sẻ, đạt được hiệu quả cao. Nhất là đối với học sinh độ tuổi Tiểu học,
khi mà vốn Tiếng Việt nói chung, vốn từ láy nói riêng ở các em còn hạn chế, cần
phải được bổ sung, phát triển để đáp ứng các nhu cầu học tập, giao tiếp.Vì vậy,
việc dạy từ láy cho học sinh càng được coi trọng, không thể dạy lướt qua.
Trước tình hình một số học sinh đã học lớp 4, khi học xong phần từ láy mà
bản chất từ láy các em không hiểu, thậm chí còn không phân biệt được các từ
láy đơn giản và thông thường nên đây chính là mối quan tâm và lo ngại của giáo
viên chủ nhiệm. Từ thực tế kỹ năng nhận biết từ láy của học sinh còn hạn chế,
chưa đạt yêu cầu cơ bản của học sinh cuối cấp ở bậc Tiểu học. Do vậy, tôi suy
nghĩ và tìm ra “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả việc dạy học từ láy cho hs
lớp 4”
1
2/ Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nhằm nâng cao hiệu quả việc dạy học từ láy cho học sinh tiểu học,
đồng thời giúp học sinh hiểu sâu hơn về từ láy. Các em phải đạt được yêu cầu và
nắm bắt tính chất cơ bản của từ láy, không còn mắc lỗi phổ biến và có khả năng
nhận biết và vận dụng tốt từ láy vào vốn từ Tiếng Việt của mình.
3/ Đối tượng nghiên cứu:
Vấn đề tiếp thu học từ láy là học sinh lớp 4A2-Trường Tiểu học Ba Đình, TP
Thanh Hoá
4/ Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
2
II/ NỘI DUNG:
1/ Cơ sở lí luận của vấn đề:
Quan niệm về dạy từ láy ở bậc Tiểu học còn coi nhẹ, bởi vì ngay cả trong
sách giáo khoa Tiếng Việt 4 cũng nêu định nghĩa về từ láy một cách đơn giản
“Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau.
Đó là từ láy.” SGK TV 4-Tập1 [1]
Với định nghĩa này chỉ giúp học sinh nhận biết những từ láy ở mức độ đơn giản.
Có những từ thoạt nhìn ta có thể nhầm với từ láy, nhưng thực ra nó lại là từ ghép
Hán- Việt như: bao biện, bình minh, hoan hỉ…. Để nâng cao chất lượng về dạy
học từ láy cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
+ Bảo đảm được tính khoa học và tính giáo dục cho các em.
+ Bảo đảm sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn.
+ Bảo đảm tính hệ thống.
+ Bảo đảm tính vừa với khả năng tiếp nhận kiến thức của các em.
+ Đảm bảo sự thống nhất giữa tính vững chắc của kiến thức và sự linh hoạt
trong tư duy.
2/ Thực trạng của vấn đề
+ Về phía giáo viên: Trên thực tế ở các trường Tiểu học vẫn còn một số giáo
viên chưa nghiên cứu kĩ bài trước khi lên lớp, chưa làm rõ cho cho học sinh thấy
được vì sao có những từ mới đọc qua thì cho là từ láy nhưng xét về các mặt thì
lại là từ ghép. Bên cạnh đó thời gian tập trung cho việc học phần từ láy còn ít.
Do vậy, giáo viên chạy theo sự ràng buộc của phân phối chương trình, thường
dạy kiến thức cơ bản là chính. Từ đó, học sinh ít phát triển được năng lực tư duy,
tìm tòi sáng tạo trong khi học phần từ láy, không hình thành được kỹ năng khái
quát hóa, trừu tượng hóa của học sinh.
+ Về phía học sinh: Tâm lý hiện nay, việc học về từ láy đối với các em rất ngại
hay nói đúng hơn là sợ do nắm chưa vững và ít thực hành về từ láy.
Năm học 2015 – 2016, được sự thống nhất của giáo viên chủ nhiệm khối
lớp 4 và sự cho phép của Ban giám hiệu. Sau khi học xong phần từ láy,tôi thống
kê các sai lầm của học sinh trong lớp 4A2 đó là: một số học sinh chưa nắm vững
khái niệm về từ láy, còn lúng túng khi phân biệt từ láy với từ ghép. Bên cạnh đó
học sinh giải nghĩa từ láy chưa chính xác và sử dụng từ láy còn chưa thật hiệu
quả, từ đó tôi có biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học về từ láy để các em
đạt kết quả tốt hơn.
Sau khi học xong phần từ láy, tôi ra đề kiểm tra các kiến thức về từ láy.
Bài kiểm tra
Bài 1: Những từ nào là từ láy
Ngay ngắn, ngay thẳng, thẳng thắn, thẳng tuột, thẳng tắp.
Bài 2: Hãy xếp các từ sau thành 2 loại: từ ghép, từ láy
3
Sừng sững, chung quanh, lủng củng, hung dữ, mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp,
dẻo dai, vững chắc, thanh cao, giản dị, chí khí.
Bài 3: Từ láy “ xanh xao” dùng để tả màu sắc của đối tượng:
A, da người
B, lá cây còn non
C, lá cây đã già
D, trời
Bài 4: Cho đoạn văn sau:
“ Đêm về khuya lặng gió. Sương phủ trắng mặt sông. Những bày cá nhao lên
đớp sương tom tóp, lúc đầu còn loáng thoáng dần dần tiếng tũng toẵng xôn xao
quanh mạn thuyền”.
a. Tìm những từ láy có trong đoạn văn
b. Phân loại các từ láy tìm được theo các kiểu từ láy đã học.
Lớp tôi có 41 học sinh với 41 bài khảo sát, qua khảo sát, thống kê tôi nhận thấy
thực trạng những sai lầm của học sinh nhiều nhất là:
Hoàn thành tốt
Số lượng
Khái niệm về từ láy
Phân biệt TG, TL
Nghĩa của từ láy
Nhận biếtvà sử dụng TL
10 em
11 em
12 em
10 em
Tỉ lệ
24,4 %
26,8 %
29,3 %
24.4 %
Hoàn thành
Số lượng
27 em
25 em
24 em
24 em
Tỉ lệ
65,8 %
61 %
58,5 %
58,5 %
Chưa hoàn thành
Số lượng
4em
5em
5em
7em
Tỉ lệ
9,8 %
12,2 %
12,2 %
17,1 %
Qua việc kiểm tra trên cho thấy tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành còn cao. Từ lí do
trên tôi quyết định nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy
học từ láy cho học sinh lớp 4 ”.
Để dạy học phần từ láy có chất lượng, tôi đã tìm ra các nguyên nhân sau:
* Nguyên nhân 1: học sinh lung túng khi xác định từ láy:
* Nguyên nhân 2: Học sinh không phân biệt được từ láy với từ ghép:
* Nguyên nhân 3: Học sinh chưa hiểu rõ nghĩa từ láy:
* Nguyên nhân 4: Học sinh còn lúng túng khi sử dụng từ láy:
Từ thực trạng của học sinh khối lớp 4 trường tôi, sau khi tìm ra nguyên nhân để
nâng cao chất lượng về học từ láy tôi cần giải quyết những vấn đề sau:
- Giúp học sinh hiểu đầy đủ về khái niệm từ láy.
- Giúp học sinh phân biệt giữa từ láy và từ ghép.
- Giúp học sinh hiểu rõ nghĩa từ láy.
- Giúp học sinh có kỹ năng về nhận biết và sử dụng từ láy.
3/ Biện pháp giải quyết vấn đề :
* Làm rõ về khái niệm từ láy:
4
Đặc trưng về nghĩa của từ láy là được hình thành từ nghĩa của tiếng gốc. Cụ
thể, từ láy có nhiều sắc thái ý nghĩa, sắc thái biểu cảm tinh tế khác với tiếng
gốc. Khi nhận biết, nhận diện từ láy, học sinh rất dễ bị hình thức chữ viết của từ
đánh lừa. Để làm rõ khái niệm về từ láy thì khi dạy bài ‘ Từ ghép và từ láy’ giáo
viên đi kĩ phần nhận xét từ đó, giáo viên cho học sinh đọc ghi nhớ và tìm thêm
ví dụ.
Ví dụ : Cho các từ: cong queo, cuống quýt, cồng kềnh, cập kênh...
Ta mới nhìn vào thì sẽ thấy không phải là từ láy, vì trong hình thức ngữ âm - chữ
viết của từ không có bộ phận nào được láy lại. Sự thực chúng lại là những từ láy
âm( phụ âm đầu ‘cờ’ được lặp lại láy lại, được ghi bằng những chữ cái khác
nhau- c ; k ;q).
Khi hướng dẫn học sinh nhận biết các từ láy trên, giáo viên có thể diễn giải
như sau : Ta biết phụ âm đầu ‘cờ’ được ghi bằng 3 chữ cái : c - k - q, các tiếng
trong từng từ nói trên mở đầu bằng k - c - q như vậy có thể kết luận ; đây là
những từ láy phụ âm đầu ‘cờ’
Chính vì vậy khi dạy phần khái niệm từ láy, giáo viên cần giúp học sinh
hiểu rõ:
- Đối với những từ láy có tiếng gốc rõ nghĩa như:
xinh
xinh xắn;cũ
cũ kĩ; ...
- Còn có những từ láy trong đó không xác định được tiếng gốc như: bâng
khuâng, man mác, hời hợt.
- Có một số từ mà các tiếng trong từ được biểu hiện trên chữ viết không có
phụ âm đầu.
VD: ao ước, yên ả, ấm ức, ấm áp, ít ỏi; óng ả;…(những từ này xác định
được tiếng gốc)
+ Ấp úng; ẽo ợt, ỉ eo, oái oăm, ỏn ẻn, ọc ạch; õng ẹo; ậm oẹ; ... (những từ
này không xác định được tiếng gốc) ( Sách Ngữ pháp TV – NXB Đại học quốc
gia Hà Nội) [2]
Thoạt nhìn và đối chiếu với định nghĩa về từ láy ta có thể nghĩ rằng các từ
trên không phải là từ láy, nhưng nếu quan sát kĩ ta thấy các từ trên đều giống
nhau về hình thức ngữ âm ( các tiếng đều vắng phụ âm đầu). Bên cạnh đó đặc
trưng ngữ nghĩa của những từ ngữ này cũng gần giống với đặc trưng ngữ nghĩa
nói chung của từ láy.
Chính vì vậy mà giáo viên cần nói rõ cho học sinh thấy được các từ láy trên
là từ láy đặc biệt vì chúng cùng vắng khuyết phụ âm đầu, nó không giống các từ
láy bình thường về hình thức ngữ âm.
* Phân biệt từ láy với từ ghép:
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 định nghĩa từ láy: “Phối hợp những tiếng có âm
đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau. Đó là từ láy.”
5
Định nghĩa trên chủ yếu nhấn mạnh các dấu hiệu hình thức của từ láy. Cho
nên, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ thêm các
trường hợp sau:
- Có một số từ trong đó có một bộ phận được lặp lại nhưng không phải là từ
láy mà là từ ghép :
VD: ban bố, hoan hỉ ; bình minh; tươi tốt; tham lam; nhỏ nhẹ; buôn bán;...
Các tiếng trong từ trên đều có nghĩa như :
.Ban bố : ban có nghĩa là ban hành ; bố có nghĩa công bố
.Hoan hỉ : hoan(vui) ; hỉ (mừng)
Quan hệ giữa hai tiếng trong từng từ chủ yếu là quan hệ về nghĩa (nghĩa
tổng hợp). Các từ ghép này có hình thức âm thanh ngẫu nhiên giống từ láy.
- Ngoài ra, có một số từ trong đó có một bộ phận được lặp lại nhưng không
phải là từ láy mà là từ ghép gốc Hán như :
Các từ trên là từ ghép gốc Hán có hình thức âm thanh ngẫu nhiên giống từ
láy. Các tiếng trong từ này đều có nghĩa. Có thể liệt kê khá nhiều các từ ghép
Hán - Việt có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống từ láy, như : bài bản, bộ binh,
chuyên chính, châm chước, chân chính, công cán, khẩn khoản, thành thực...
Các từ trên, quan hệ giữa hai tiếng trong từng từ cũng là quan hệ về nghĩa
(nghĩa tổng hợp).
- Có những từ được kết hợp hai từ đơn. Hai từ đơn ngẫu nhiên có điểm
giống nhau về hình thức âm thanh (giống nhau phụ âm đầu hoặc vần).
VD: đi đứng; sáng sớm; lên lớp; học đọc; ...
Nói tóm lại, khi dạy đến phần này, giáo viên cần nhấn mạnh với học sinh:
Khi gặp từ có hình thức âm thanh giống nhau mà không xác định được đó là từ
ghép hay từ láy thì các em xác định nghĩa của từng tiếng trong từ. Nếu cả hai
tiếng trong từ đều có nghĩa thì đó là từ ghép, còn trong từ một tiếng có nghĩa và
một tiếng mờ nghĩa hoặc không có nghĩa hoặc cả hai tiếng đều không có nghĩa
thì đó là từ láy.
Với bài tập 1 trong bài “ Từ ghép và từ láy” trong chương trình Tiếng việt
lớp 4- tập 1, giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề bài để xác định yêu cầu. Sau đó,
giáo viên cho học sinh thảo luận theo nhóm và làm vào phiếu học tập, giáo viên
yêu cầu học sinh giải thích từng từ láy mà các em tìm được. Nếu học sinh xếp từ
“dẻo dai, bờ bãi” vào từ láy thì giáo viên phải giải thích cho học sinh, tiếng
“dẻo” là dễ uốn cong, “dai” có khả năng chịu lực, khó bị làm đứt, cho rời ra từng
mảnh. Hai tiếng này bổ sung cho nhau tạo thành nghĩa chung dẻo dai có khả
năng hoạt động trong thời gian dài nên nó là từ ghép.[3]
* Giúp học sinh hiểu rõ nghĩa từ láy:
So với nghĩa của tiếng gốc , nghĩa của từ láy xác định hơn, gợi tả hơn, có
giá trị biểu hiện , biểu cảm cao hơn.
6
Để hiểu rõ nghĩa của từ láy giáo viên cho học sinh làm bài tập 2 trang 40
( SGKTV4-tập 1). Từ các tiếng cho trước giáo viên cho học sinh tìm các từ láy,
sau đó yêu cầu học sinh giải thích từng từ mà các em tìm được.
Từ một tiếng gốc là ‘ngay, thẳng, thật’ ta có thể tạo ra một số từ láy với
những sắc thái ý nghĩa , sắc thái biểu cảm rất khác nhau
Khi dạy về nghĩa của từ láy cho học sinh, giáo viên cần nói rõ: Nghĩa của
từ láy rất phong phú, đa dạng mà dạng giảm nhẹ hoặc mạnh hơn (so với nghĩa từ
gốc) chỉ là hai dạng cơ bản trong sự phong phú, đa dạng ấy. Nói cách khác ngoài
hai dạng giảm nhẹ và mạnh hơn (so với nghĩa của tiếng gốc), nghĩa của từ láy
còn có những dạng khác được hình thành từ những hướng khác, từ nghĩa của
tiếng. Vì vậy , khi dạy về nghĩa của từ láy cho học sinh, nếu giáo viên cứ quy
nghĩa của tất cả các từ láy vào một trong hai dạng ấy thì khó tránh được sự máy
móc cứng nhắc và vô tình đã hình thành cho học sinh một nhận thức không đầy
đủ rằng: Nghĩa của từ láy chỉ có hai dạng ấy mà thôi.
VD:
+ Ngay :
ngay ngắn
+ Thẳng : thẳng thắn
+Thật :
thật thà
- Khi cho học sinh xác định từ láy nào có nghĩa giảm nhẹ hoặc mạnh hơn so
với nghĩa từ gốc thì trước hết giáo viên gợi ý để học sinh tìm ra từ đơn là từ gốc
trong từ láy. Sau đó, hướng dẫn học sinh đối chiếu nghĩa của từ láy với nghĩa
của từ đơn là từ gốc.
Riêng đối với từ láy có nghĩa giảm nhẹ chẳng hạn, nếu nghĩa từ láy thay
đổi theo hướng giảm nhẹ về mức độ thì ta kết luận ngay từ láy ấy có nghĩa giảm
nhẹ so với nghĩa từ gốc.
VD: Xanh xanh = hơi xanh; xa xa = hơi xa; mằn mặn = hơi mặn; ...
Còn đối với từ láy có nghĩa mạnh hơn, nếu nghĩa của từ láy thay đổi theo
hướng mạnh hơn về mức độ thì ta kết luận từ láy ấy có nghĩa mạnh hơn.
VD: Bực:
bực bội; sạch
sạch sành sanh
Đối với các từ láy không xác định được tiếng gốc, (ví dụ: lững thững, thướt
tha, nhí nhảnh, đủng đỉnh, bâng khuâng, thì thào, khúc khích…), đặc trưng
chung về nghĩa của những từ này cũng vẫn là tính chất cụ thể, xác định, gợi tả
và gợi cảm.
* Rèn luyện học sinh có kỹ năng nhận biết và sử dụng từ láy:
* Để giúp các em có được kĩ năng nhận biết và sử dụng các từ láy một cách
thông thạo thì yêu cầu các em phải thực hành các bài tập. Bài tập về nhận biết từ
láy có hai dạng.
+ Dạng 1: Cho sẵn các từ ngữ thuộc nhiều loại như: Từ ghép bình thường (như:
ăn ở, gia đình, đất nước,...), từ ghép có hình thức âm thanh dễ lẫn lộn với từ láy
như: đi đứng, mặt mũi, ...), từ láy bình thường (như: đẹp đẽ, xinh xắn, ...), từ láy
khó nhận biết (như: cong queo, cuống quýt, ấm áp, ...), và cả cụm từ có hình
7
thức âm thanh giống từ láy (như: trên trời, đả đành, ...) rồi yêu cầu học sinh nhận
biết từ láy.
VD: Gạch dưới từ láy trong các từ ngữ sau đây: gia giảm, gia đình, bôí rối, xinh
xẻo, đi đứng, bao bọc, quanh co, cáu kỉnh, cuống quýt, êm ái, ít ỏi, ao ước, vỡ
bờ, giã giò.
Dạng bài tập này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh như sau:
- Trước hết cần loại bỏ những trường hợp không phải là từ mà là cụm từ, gồm
hai từ đơn như:, giã giò.
- Dựa vào những đặc trưng của từ láy loại bỏ tiếp những từ mà hai tiếng không
có hình thức âm thanh giống nhau như: gia đình, vỡ bờ những từ mà hai tiếng có
quan hệ về âm thanh nhưng cả hai tiếng đều có nghĩa như: đi đứng, bao bọc, gia
giảm.
-Cuối cùng, cần chú ý tới những từ láy khó nhận biết, dễ nhầm lẫn như: quanh
co, cuống quýt, êm ái, ít ỏi.
-Bằng cách hướng dẫn trên, học sinh dễ dàng tìm ra các từ láy sau: bối rối, xinh
xẻo, quanh co, cáu kỉnh, cuống quýt, êm ái, ít ỏi, ao ước.
+ Dạng 2: Cho một đoạn văn, câu văn... trong đó có từ láy, yêu cầu học sinh
nhận biết từ láy trong câu văn, đoạn văn ấy.
VD: Xếp các từ láy có trong đoạn văn sau vào nhóm thích hợp:
CÂY NHÚT NHÁT
Gió rào rào nổi lên. Có một tiếng động gì lạ lắm. Những chiếc lá khô lạt xạt
lướt trên cỏ. Cây xấu hổ co rúm mình lại. Nó bỗng thấy xung quanh lao xao. He
hé mắt nhìn: không có gì lạ cả. Lúc bấy giờ nó mới mở bừng những con mắt lá
và quả nhiên không có gì lạ thật.
(Theo Trần Hoài Dương)
a, Từ láy có 2 tiếng giống nhau ở âm đầu.
b, Từ láy có 2 tiếng giống nhau ở vần.
c, Từ láy có 2 tiếng giống nhau ở cả âm đầu và vần.
(Tiếng Việt 4- tập 1)
Đối với dạng bài tập này giáo viên nên cho học sinh kẻ thành bảng để dễ dàng
tìm và liệt kê, tránh nhầm lẫn.
Từ láy có 2 tiếng Từ láy có 2 tiếng giống Từ láy có 2 tiếng giống
giống nhau ở âm đầu nhau ở vần
nhau ở âm đầu và vần
He hé
lạt xạt, lao xao
rào rào
Khi dạy xong phần từ láy, tôi cho học sinh thực hành thêm một số bài tập vào
tiết thứ 5 sáng thứ 6 để học sinh củng cố và khắc sâu thêm. Sau đây là một số
bài tập.
8
* Bài tập về phân biệt từ láy với từ ghép:
Để giúp các em hiểu sâu hơn về từ ghép ,thì vấn đề phân biệt từ ghép với từ láy
không hề đơn giản chút nào. Chính vì vậy mà việc học sinh phải thực hành các
dạng bài tập này là không thể thiếu được.
Với bài tập 1 trang 39 SGK Tiếng Việt 4, yêu cầu như sau:
Hãy sắp xếp những từ phức được in nghiêng trong các câu dưới đây thành 2
loại: từ ghép, từ láy. Biết rằng những tiếng in đậm là tiếng có nghĩa:
a. Nhân dân ghi nhớ công ơn Chử Đồng Tử, lập đền thờ ở nhiều nơi bên sông
Hồng. Cũng từ đó hằng năm, suốt mấy tháng mùa xuân, cả một vùng bờ bãi
sông Hồng lại nô nức làm lễ, mở hội để tưởng nhớ ông.
(Theo Hoàng Lê)
b. Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên, cứng cáp,
dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao , giản dị , chí khí như người.
Giáo viên hướng dẫn học sinh liệt kê tất cả các từ in nghiêng và đậm , dựa vào
hình thức và cấu tạo từ láy để liệt kê các từ láy sau:
a. bờ bãi, nô nức.
b. Nhũn nhặn, mộc mạc, cứng cáp, dẻo dai.
Đối với từ: “bờ bãi” cả 2 tiếng “bờ” và “ bãi” đều có nghĩa, từ “ dẻo dai” cả 2
tiếng đều có nghĩa. Chính vì vậy mà đây là những từ ghép.
Đối với các từ như: ghi nhớ, đền thờ, tưởng nhớ, vững chắc dễ dàng nhận thấy
đây là những từ ghép. Các từ còn lại là từ láy
* Bài tập về sử dụng từ láy:
Có 2 dạng:
+ Dạng 1: Điền từ láy thích hợp vào đoạn văn.
Dạng bài tập này là đoạn văn, trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh đọc
kỹ đoạn văn để sơ bộ nắm nội dung đoạn văn, tìm câu chủ đề trong đoạn văn
(câu chủ đề của đoạn văn là câu mang nội dung thông tin chính, lời lẽ ngắn gọn,
thường đủ chủ ngữ, vị ngữ và phần lớn trường hợp đều đứng ở vị trí đầu đoạn
văn). Đối với các đoạn văn mà chủ đề của đoạn được đặt thành tên riêng, học
sinh cần đặc biệt quan tâm tới tên chủ đề, vì trong tên chủ đề bao hàm nội dung
khái quát của đoạn văn.
Sau đó giáo viên cho học sinh lần lượt đọc từng câu trong đoạn. Ở từng
chỗ trống trong câu, dựa vào ngữ cảnh, thể loại, phong cách ngôn ngữ của đoạn
văn để hiểu nội dung từng câu văn. Học sinh tiếp tục đọc các từ láy cho sẵn để
hiểu nghĩa từng từ, cho các từ láy thích hợp để điền vào chỗ trống. Điền xong,
cần đọc lại đoạn văn đã điền từ, dựa vào ngữ cảm, xem đã hợp lý, thoả đáng hay
chưa.
VD: Chọn từ láy thích hợp điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau:
PHONG CẢNH ĐỀN HÙNG
Trước đền, những khóm hải đường đâm bông........, những cánh bướm nhiều
màu sắc bay....... như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền, dòng chữ vàng Nam
9
quốc sơn hà uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa. Bên phải là đỉnh Ba
Vì.......... , nơi Mị Nương- con gái Vua Hùng thứ 18- theo Sơn Tinh về trấn giữ
núi cao. Dãy Tam Đảo như bức tường xanh.......... chắn ngang bên trái đỡ lấy
mây trời ............. Phía.......là núi Sóc Sơn,nơi in dấu chân ngựa sắt Phù Đổng,
người có công giúp Hùng Vương đánh thắng giặc Ân xâm lược. Trước mặt là
ngã Ba Hạc , nơi gặp gỡ giữa ba dòng sông lớn tháng năm .............. đắp bồi phù
sa cho đồng bằng xanh mát.
(Các từ cần điền: sừng sững, mải miết, cuồn cuộn, vòi vọi, dập dờn, xa xa
, chót vót, rực rỡ)
(Tiếng Việt 5 tập 2 trang 68)
Bài tập trên là một đoạn văn có chủ đề (Phong cảnh đền Hùng), học sinh
cần bám sát vào chủ đề, đọc kĩ đoạn văn để nắm nội dung từng câu và đoạn văn.
Sau đó, học sinh đọc các từ cần điền để hiểu nghĩa từng từ.
VD:Câu: Trước đền, những khóm hải đường đâm bông........., những
cánh bướm nhiều màu sắc bay........... như đang múa quạt xoè hoa. (câu này diễn
tả màu sắc của cây cối nên học sinh cần tìm từ láy diễn tả màu sắc của hoa Hải
Đường, của cánh bướm để điền vào chỗ trống).
Trong các từ láy cần điền, sau khi đọc kỹ và hiểu nghĩa các từ, học sinh sẽ
tìm ra được từ láy có nghĩa diễn tả màu sắc như dập dờn,rực rỡ để điền vào chỗ
trống câu trên.
Hiểu nghĩa câu và từ như vậy, các em sẽ dễ dàng tìm được từ hợp nghĩa
để điền vào câu.
Tương tự như vậy, học sinh sẽ dễ dàng chọn đúng các từ láy thích hợp để
điền vào chỗ trống.
PHONG CẢNH ĐỀN HÙNG
Trước đền, những khóm hải đường đâm bông rực rỡ., những cánh bướm nhiều
màu sắc bay rập rờn như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền, dòng chữ vàng
Nam quốc sơn hà uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa. Bên phải là
đỉnh Ba Vì vòi vọi , nơi Mị Nương- con gái Vua Hùng thứ 18- theo Sơn Tinh về
trấn giữ núi cao. Dãy Tam Đảo như bức tường xanh.. sừng sững. chắn ngang bên
trái đỡ lấy mây trời cuồn cuộn. Phía xa xa là núi Sóc Sơn,nơi in dấu chân ngựa
sắt Phù Đổng, người có công giúp Hùng Vương đánh thắng giặc Ân xâm lược.
Trước mặt là ngã Ba Hạc , nơi gặp gỡ giữa ba dòng sông lớn tháng năm mải
miết đắp bồi phù sa cho đồng bằng xanh mát.
Đối với những câu đã cho sẵn thì học sinh dễ dàng tìm được các từ láy thích
hợp để điền vào.
+ Dạng 2: Học sinh tìm từ láy và đặt câu với từ tìm được:
Dạng bài tập này,học sinh cần đọc kỹ yêu cầu đề bài để nắm được phải
tìm từ và đặt câu theo chủ đề nào? Sau đó tìm từ láy thích hợp theo chủ đề, phải
hiểu nghĩa từ láy của mình tìm. Rồi tìm mô hình câu thích hợp tương ứng với
từng từ đã tìm, phù hợp với nội dung chủ đề.
10
VD: Tìm 4 từ láy âm, láy vần, láy cả âm vần dùng để tả cảnh thiên nhiên.
Đặt câu có nội dung miêu tả cảnh vật thiên nhiên với mỗi từ láy đó.
Bài tập này, học sinh tìm từ láy âm, láy vần, láy cả âm vần chủ đề tả cảnh
thiên nhiên.
Các em tìm từ láy âm , láy vần, láy cả âm vần tả cảnh thiên nhiên như:
xum xuê, lộp độp,rung rinh, xinh xinh, mơn mởn, rực rỡ.......rồi tìm mô hình câu
thích hợp tương ứng với từng từ vừa tìm. Cần dựa vào nghĩa của từ vừa tìm để
đặt câu có nội dung phù hợp với nội dung của chủ đề. Cuối cùng, học sinh điền
từ láy vào mô hình câu ấy rồi xem lại câu có đủ bộ phận chính hay chưa? Nghĩa
của câu phù hợp với chủ đề hay không? Ý các câu không nhất thiết phải gắn với
nhau)
Với bài tập trên, các em cần tìm từ láy đôi tả cảnh thiên nhiên và từ đó các
em phải hiểu nghĩa, ví dụ: lộp độp (mô phỏng tiếng của vật nhỏ, mưa rơi từ trên
xuống, nghe thưa, không đều, như giọt mưa rơi). Sau đó, học sinh tìm mô hình
câu thích hợp với nghĩa của từ láy trên, ví dụ: Những giọt nước mưa rơi...trên
mái nhà.
Cuối cùng, học sinh điền từ láy vào mô hình câu đã tìm và dùng bút chì
phân tích bộ phận chính của câu. Nếu có đủ 2 bộ phận chính thì các em sẽ được
câu hoàn chỉnh, phù hợp với chủ đề.
Những giọt nước mưa rơi lộp độp trên mái nhà.
Tương tự như vậy, các em sẽ thực hiện tốt phần còn lại của bài tập.
Hoặc dạng bài tập sau:
- Tìm 3 từ láy trong đó có tiếng “xinh” rồi đặt câu với các từ đó.
Học sinh có thể tìm các từ sau: xinh xắn , xinh xinh, xinh xẻo…
Dựa vào ý nghĩa của từng từ để đặt câu. VD như:
Trong lớp 4a2 của chúng tôi các bạn nữ không những xinh xắn mà còn học giỏi.
4 Kiểm nghiệm vấn đề:
Để nắm được sự chuyển biến của học sinh, đến cuối năm, sau khi áp dụng
đề tài này, tôi cho cả lớp 4A2 làm kiểm tra ở phần từ láy
Bài kiểm tra
Bài 1: Trong các từ láy sau, từ láy nào có nghĩa giảm nhẹ so với từ gốc, từ láy
nào có nghĩa mạnh hơn so với từ gốc:
Xanh xanh, buồn buồn, thăm thẳm, tim tím, đo đỏ, bực bội.
Bài 2:Trong các từ sau, từ nào là từ láy, từ nào là từ ghép:
Bâng khuâng, chán chê, phũ phàng, tươi tốt, học hành, bối rối.
Bài 3: Xác định từ láy trong dòng thơ sau và cho biết chúng thuộc từ láy nào?
Gió nâng tiếng hát chối chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời
Tay nhè nhẹ chút, người ơi
Trông đôi hạt rụng hạt rơi xót lòng.
Mảnh sân trăng lúa chất đầy
11
Vàng tuôi trong tiếng máy quay xập xình
Nắng già hạt gạo thơm ngon
Bưng lưng cơm trắng nắng còn thơm tho.
Bài 4: Chọn từ láy thích hợp điền vào chỗ trống trong các câu sau:
a. Cái mặt thì đen mà rất....., hai mắt .... trông gớm chết
b. Một buổi sớm cả nhà nghe thấy tiếng gì .... đằng sau nhà.
c. Nước to lên tình hình đê điều rất…..
Qua kiểm tra kết quả đạt được như sau:
Hoàn thành tốt
Số lượng
Khái niệm về từ láy
Phân biệt TG, TL
Nghĩa của từ láy
Nhận biếtvà sử dụng TL
22 em
20 em
20 em
18 em
Tỉ lệ
53,6 %
48,7 %
48,7%
43,9 %
Hoàn thành
Số lượng
19 em
21 em
21 em
23 em
Tỉ lệ
Chưa hoàn thành
Số lượng
Tỉ lệ
46,4%
51,3%
51,3 %
46,1%
Qua kết quả khảo sát, so sánh giữa học kì 1 và cuối năm học 2016-2017 tôi thấy
số học sinh chưa hoàn thành đã không còn. Số học sinh hoàn thành tốt đã tăng
lên rất cao. Như vậy qua kết quả khảo sát tôi thấy những biện pháp mà bản thân
đã hướng dẫn cho học sinh hoàn toàn có chất lượng và đạt hiệu quả cao để từ đó
góp phần nâng cao hơn nữa cách sử dụng từ láy cho các em trong khi viết và
nói.
12
III/ KẾT LUẬN:
1/ Kết luận:
Từ kết quả thu được, qua sự chuyển biến của học sinh, cho phép tôi khẳng
định rằng:
Muốn nâng cao chất lượng giúp học sinh học tốt phần từ láy, giúp cho tiết
Tiếng Việt đạt kết quả tốt, đòi hỏi người giáo viên phải thật sự kiên trì, phải thật
sự có tâm huyết với nghề và áp dụng qua các bước sau:
- Bước 1: Tìm ra, thống kê những sai lầm của học sinh khi học phần từ láy.
- Bước 2: Tìm biện pháp nâng cao, tức là biết áp dụng các phương pháp
dạy khoa học phù hợp với các sai lầm của học sinh khi học phần từ láy.
Đối với học sinh chưa nhanh, giáo viên cần củng cố sâu hơn về khái niệm
của từ láy, nghĩa từ láy. Tăng cường luyện tập với các dạng bài tập khác nhau tạo
thành kỹ năng học từ láy Tiếng Việt.
Ban đầu đối với giáo viên và học sinh rất khó khăn do còn mới lạ, nhưng từ
cái mới lạ có cơ sở khoa học sẽ tạo cho học sinh có thói quen tốt và trở thành kỹ
năng học Tiếng Việt.
- Bước 3: Tiếp tục rút kinh nghiệm cho năm học tới.
2/ Kiến nghị
Vấn đề “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả việc dạy học từ láy cho học sinh
lớp 4” ở trường chúng tôi đã và đang được nhà trường cũng như các giáo viên
đặc biệt quan tâm. Đối với lớp 4 là lớp giai đoạn cuối bậc Tiểu học, đây là nền
tảng, là cơ sở cho các em học tiếp lên lớp 5 ngày càng tốt hơn. Khi các em được
trang bị một hành trang kiến thức, sự am hiểu về từ láy trong Tiếng Việt, giúp
các em tự tin hơn khi giao tiếp cũng như giúp các em học tập tốt hơn trong môn
tiếng việt lớp 5. Vì vậy tôi có một số đề xuất sau:
* Đối với giáo viên:
-Vì một thế hệ học sinh, nên tôi mong rằng vấn đề này được các thầy cô áp
dụng vào với đối tượng học sinh lớp mình một cách linh hoạt và có hiệu quả
cao hơn.
- Tập trung nghiên cứu bài dạy, tìm tòi các tài liệu bổ sung cho bài dạy hoàn
thiện hơn.
- Mỗi người thầy, cô phải là người gìn giữ sự trong sáng của Tiếng Việt
thông qua các bài giảng, thông qua sự giao tiếp hằng ngày.
* Đối với nhà trường: Thường xuyên có những chuyên đề, những bài giảng rút
kinh nghiệm từ các bài học thực tế đối với trường mình.
Tôi hi vọng rằng, cùng với việc thực hiện những đổi mới trong dạy học, những
bước cải tiến nhỏ trong công tác giảng dạy của mình sẽ góp phần làm cho chất
lượng giáo dục ngày một nâng cao. Với phạm vi thực hiện còn hạn hẹp, tôi nghĩ
rằng nội dung đề tài của tôi vẫn còn có những thiếu sót, rất mong được đón nhận
những ý kiến góp ý chân thành của các cấp quản lí và hội đồng khoa học cấp
trên, để đề tài được hoàn thiện hơn.
13
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
NHÀ TRƯỜNG
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác
Mai Thị Hiên
14
1/ Tài liệu tham khảo gồm:
[1] - Sách Tiếng việt lớp 4- tập 1
[2] Sách Ngữ pháp Tiếng việt của tác giả Nguyễn Tài Cẩn (NXB Đại học
quốc gia Hà Nội)
[3] Sách Thiết kế bài giảng Tiếng việt lớp 4- tập 1( NXB Hà Nội)
- SKKN “Những biện pháp nâng cao hiệu quả việc dạy học từ láy cho hs
lớp 5.” đã được giải cấp Thành phố.
2/ Danh mục các đề tài SKKN đã đạt giải:
- Đề tài: Một số kinh nghiệm dạy số thập phân cho học sinh lớp 5
Đề tài được HĐKH ngành xếp loại A cấp thành phố năm học 2010 –
2011
- Đề tài: Một vài kinh nghiệm trong việc giáo dục Sức khoẻ giới tính – Vệ sinh
tuổi dậy thì cho học sinh lớp 5A2 trường Tiểu học Ba Đình, TP Thanh Hoá”
Đề tài được HĐKH ngành xếp loại B cấp thành phố năm học 2015 – 2016
15