MỤC LỤC
Tên mục
Mục lục
I
1
2
3
4
II
1
2
3
4
III
1
2
Nội dung
Mở đầu
Lí do chọn đề tài:
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
Các giải pháp
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận, kiến nghị.
Kiến nghị
Đề xuất
Trang
1
2
2
2
2
2
3
4
4
5
15
16
16
16
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Mục tiêu chủ yếu đối với môn Tiếng việt ở lớp Một là tất cả các em đều
biết đọc thông, viết thạo. Từng bước hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một
kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học. Đối với học sinh yếu,
1
việc hướng dẫn cho các em biết các kỹ năng nói trên là một việc làm đòi hỏi sự
kiên trì của cả giáo viên và học sinh. Giúp các em học tập dần dần tiến bộ hơn,
giúp các em nắm bắt kịp thời bài đã học, các em không còn chán học nữa mà tự
tin và hứng thú trong tiết học. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có
thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn
thành được năng lực giao tiếp của mình.
Với đối tượng học sinh yếu ở lớp Một - Lớp đầu cấp, việc dạy cho các em
biết đọc thật vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp Một thì khi
học các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn. Đặc
điểm của việc dạy tập đọc lớp Một chính là bước chuyển tiếp từ dạy học vần
sang dạy tập đọc. Vì vậy học vần có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình
tiểu học nói chung và trong môn Tiếng Việt nói riêng, vì nó là phần quan học mở
đầu lớp đầu tiên của cấp Tiểu học. Có học phần này, học sinh mới chiếm lĩnh
được một công cụ giao tiếp quan trọng: Chữ viết ghi âm Tiếng Việt. Đây chính
là phương tiện để các em có điều kiện học tốt các môn khác và học lên các lớp
trên.
Tiết tập đọc ở lớp Một vận dụng cả phương pháp học vần, cả phương
pháp tập đọc. Yêu cầu của tiết tập đọc lớp Một là củng cố hệ thống âm vần đã
đọc nhất là các vần khó đọc đúng tiếng, liền tiếng trong từ, trong câu, đoạn, bài.
Bước đầu biết cách ngắt hơi ở các dấu câu, biết đọc diễn cảm. Đó là việc rất khó
nhất là đối với đối tượng học sinh yếu phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên
sau, mà lại ở vùng nông thôn như xã Hà Yên. Để làm tốt được những nhiệm vụ
nêu trên tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài này chỉ ra : Các biện pháp để giúp học sinh yếu lớp Một đọc
thông, đọc không sai.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1 ở trường Tiểu học Hà Yên – Hà
Trung.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong qua trình nghiên cứu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
a. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
Là phương pháp thu thập thông tin thông qua đọc sách báo, tài liệu nhằm
mục đích tìm chọn những khái niệm và tư tưởng cơ bản là cơ sở lí luận của đề
tài, hình thành gia thuyết khoa học, dự đoán về những thuộc tính của đối tượng
nghiên cứu, xây dựng những mô hình lí thuyết hay thực nghiệm ban đầu.
b. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
Cũng như trong nghiên cứu khoa học xã hội, phương pháp điều tra trong
giáo dục được dùng thường xuyên. Khác với phương pháp quan sát phương
pháp này thể hiện qua việc tác động trực tiếp của người nghiên cứu vào đối
tượng nghiên cứu thông qua câu hỏi để có những thông tin cần thiết cho việc
nghiên cứu của mình.
2
c. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
Xử lí và phân tích số liệu hay dữ liệu nghiên cứu là một trong các bước cơ
bản của một nghiên cơus, bao gồm xác định vấn đề nghiên cứu, thu thập số liệu,
xử lí số liệu, phân tích số liệu và báo cáo kết quả. Xcas định rõ vấn đề nghiên
cứu giúp việc thu thập số liệu được nhanh chóng và chính xác hơn.Để có cơ sở
phân tích số liệu tốt thì trong quá trình thu thập phải xác định trước các yêu cầu
của phân tích để có thể thu thập đủ và đúng số liệu như mong muốn.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
3
Rèn đọc cho học sinh yếu là việc rất quan trọng và cấp bách cho học sinh
ở ngay đầu cấp tiểu học. Là giáo viên dạy lớp 1, tôi coi việc phụ đạo học sinh
yếu là khâu quan trọng hàng đầu.
Bước vào lớp Một là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của
các em. Kỹ năng đọc của học sinh lớp Một cũng là sự phản hồi của kết quả tiếp
thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết quả nhận biết các con
chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với
vần thành tiếng, và khả năng đọc từ, đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn
ngắn, một bài thơ ngắn … vv
Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc
câu còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em
phát âm chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ
hiểu được ý của tiếng, từ, câu, bài mà các em viết.
Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự
giác, cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm
tâm lý, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học
sinh. Từ đó sử dụng phương pháp dạy phù hợp sao cho các em luôn cảm thấy
nhẹ nhàng, vui tươi các em sẽ thích học.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Qua quan sát và nghiên cứu ở lớp Một tôi thấy hầu hết các em học sinh
yếu không đọc được bài là do khả năng tiếp thu của các em chậm, không nhớ
các âm hai, ba con chữ dẫn đến không ghép được tiếng, từ. Qua tìm hiểu thực tế
ở lớp và ở gia đình, tôi nhận định nguyên nhân dẫn đến tình hình trên là do:
a. Đối với học sinh.
Cùng vào lớp Một nhưng mức độ chuẩn bị tâm thế của mỗi trẻ đều khác
nhau, một số trẻ đã qua môi trường mẫu giáo đã được làm quen với môi trường
học tập, số khác đăc biệt với những gia đình khó khăn thì các em chưa được
chuẩn bị gì, hoàn toàn xa lạ với trường lớp, với hoạt động học tập.
Một số học sinh do học trước chương trình nên cảm thấy chán nản, không
hứng thú khi đến lớp. Nhưng đến lúc bạn bè bắt nhịp với mình thì các em không
theo kịp vì chủ quan, ỷ lại.
Được vào lớp Một, trẻ nhận được sự trợ giúp cũng khác nhau từ phía gia
đình, người thân.
Điều kiện phụ huynh gia đình bận công việc đồng áng hay đi làm trong
các công ty, để con cho ông bà đi làm ăn xa nên không có thời gian dạy con mà
tất cả là nhờ nhà trường.
b. Đối với giáo viên.
Trong giờ tập đọc nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý
đến học sinh yếu vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm
giảm tiến độ của tiết dạy.
Khả năng thiết kế, tổ chức các trò chơi hoặc học tập còn hạn chế.
c. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên.
Bảng khảo sát chất lượng trước khi nghiên cứu
4
Sĩ số lớp
Số HS được
đánh giá
32
32
Các lần
đánh giá
Lần 1 ngày
17/10/2016
Hoàn thành
SL
%
12
37,5
Chưa hoàn thành
SL
%
20
62,5
Trên đây là bảng khảo sát chất lượng trước khi nghiên cứu, số em hoàn
thành là 12 em, chưa hoàn thành là 20 em. Tỉ lệ học sinh hoàn thành là quá thấp,
nếu tỉ lệ như vậy sẽ không đúng với yêu cầu trường chuẩn Quốc gia mức độ 2.
Từ thực trạng tôi đã nêu trên, để giúp học sinh đọc tốt hơn, tôi đã đưa ra
một số kinh nghiệm "Biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1."
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng
những giải pháp sau:
* Giải pháp 1: Giáo viên xác định được yêu cầu chung của môn học
Mục tiêu của môn Tiếng Việt đặt ra là hoàn thành và phát triển ở học sinh
kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (Nghe - Nói - Đọc - Viết) để học sinh tập giao tiếp
trong các môi trường họat động của lứa tuổi. Ngoài ra còn hình thành và phát
triển những phẩm chất như tính chính xác, tỷ mỉ, cẩn thận, chu đáo, tính kỷ luật,
tiết kiệm, yêu lao động và tính sáng tạo... Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, biết
giữ gìn sự trong sáng giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Học hết lớp 1, các em phải đạt yêu cầu
sau:
a. Về kỹ năng đọc thành tiếng.
- Đọc thông thạo và tốc độ cần đạt là khoảng 30 tiếng/1 phút
- Biết cầm sách đọc đúng tư thế.
- Biết đọc liền từ, đọc cụm từ, đọc liền câu, ngắt, nghỉ, hỏi đúng lúc, đúng
chỗ.
b. Kỹ năng đọc hiểu
Hiểu nghĩa các từ thông thường, hiểu được ý diễn đạt trong câu đã đọc
(Độ dài cần khoảng 10 tiếng).
Học thuộc lòng một số bài văn vần (thơ, ca dao) trong sách giáo khoa.
* Giải pháp 2: Khảo sát và phân loại đối tượng học sinh.
Qua kết quả khảo sát tôi nhận thấy:
Tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái còn
thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao. Một trong những lí do dễ thấy là các
em chưa được sự quan tâm của gia đình, các em chưa chăm chỉ học tập. Nhận
biết được hoàn cảnh cụ thể của từng em tôi lựa chọn phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học phù hợp sao cho các em không cảm thấy bị gò bó mà ngược lại
trong từng tiết học các em cảm thấy hứng thú. Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành
họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị
đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học như bộ chữ thực hành,
bảng găm.
5
Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà
của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, cách phát
âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng …để phụ huynh nắm rõ cách dạy
học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà.
Xây dựng đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau.
Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu
năm
Sắp xếp học sinh yếu ngồi bàn đầu để tiện cho việc đi lại và theo dõi uốn
nắn.
Nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức giỏi, khá, trung
bình, yếu. Đối với các học sinh yếu, các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc
chưa biết đủ 29 chữ cái, tôi dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng
này, ôn và dạy lại 29 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ
bản.
* Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh nắm vững các nét cơ bản.
Tôi dạy thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho học sinh dễ
hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo các nét có tên gọi và cấu tạo gần
giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các
nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả những chữ cái có hình
dáng cấu tạo giống nhau.
VD: Các nét chữ cơ bản và tên gọi:
Nét sổ thẳng
Nét ngang
Nhóm 1
\ Nét xiên phải
/ Nét xiên trái
Nhóm 2
Nhóm 3
Nhóm 4
Nét móc trên
Nét móc dưới
Nét móc hai đầu
Nét cong hở phải
Nét cong hở trái
Nét cong kín
Nét khuyết trên
Nét khuyết dưới
* Giải pháp 4: Hướng dẫn và rèn luyện kĩ năng học âm.
Dạng bài thứ nhất làm quen với âm và chữ cái. Ở dạng bài này các tiết 3,
4, 5 là các tiết học về các thanh của tiếng. Do đặc điểm của học sinh trong lớp là
nhiều em không phân biệt được dấu hỏi và dấu ngã, vì thế giáo viên chú ý đến
rèn cho học sinh phát âm thật chính xác các tiếng có thanh hỏi, thanh ngã, kết
hợp hướng dẫn học sinh phân biệt các dấu thanh, đưa ra mẫu đọc đúng, sai để
học sinh tự nhận xét và phân biệt.
6
a. Khi dạy học về thanh
Ví dụ: Tiếng "vẽ" có thanh gì ? (thanh ngã)
Tiếng "vé" có thanh gì ? (thanh sắc)
Giáo viên cho học sinh phát âm các tiếng trên và sửa lỗi cho học sinh phát
âm lại cho thật chuẩn. Sau các tiết học này, giáo viên luôn lưu ý học sinh khi dạy
đọc, giúp các em nhớ được các dấu thanh để phân biệt. Mặt khác ngay trong mỗi
bài luyện đọc của các em, tôi luôn đưa ra các từ để giúp học sinh phân biệt, đó là
từ có chứa tiếng có dấu thanh gì, bằng cách áp dụng cách tìm các từ trong thực
tế chứa tiếng đó.
Ví dụ: Vẽ trong từ "tập vẽ, vẽ chuyện..." còn vé trong từ "vé gửi xe, vé
xem phim, vé xem ca nhạc..."
b. Khi dạy học về âm và chữ cái
- Sau khi cho học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ
bản và thanh một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái. Giai đoạn
này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới có thể ghép các
được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại
với nhau tạo thành từ, thành câu.
Ví dụ: Học bài ê, v
Giáo viên hướng dẫn học từng thao tác.
- Thao tác 1: Đọc phân tích tiếng có thanh ngang.
bê
b ê
Muốn đánh vần được tiếng đó, phải tách tiếng ra 2 phần (giáo viên vẽ
mũi tên xuống, vạch ở giữa để chia 2 phần mô hình)
Nhập lại và phát âm thành tiếng (vẽ mũi tên ngược lại)
Hướng dẫn cho học sinh: Để đọc được tiếng trong mô hình các em tưởng
tượng trong đầu là tách nó ra hai phần, sau đó ghép hai phần lại thì được cả tiếng
(chỉ trên mô hình cho học sinh nhìn thấy). Chỉ vào mô hình đánh vần bờ - ê - bê.
Thao tác hai: Đọc thành tiếng có các thanh khác.
+ Giáo viên vẽ mô hình:
+ Hướng dẫn cho học sinh: Các em tách tiếng có thanh ngang và dấu
thanh ra, sau đó thực hiện các thao tác tương tự, khi tổng hợp lại nhập dấu thanh
để tạo thành tiếng, nếu không sẽ trở thành tiếng có thanh ngang.
+ Giáo viên ghi vào mô hình một số tiếng cho học sinh đọc.
T: bà
HS: ba huyền bà
T: Bán
HS: ban sắc
bán
T: kẽ
HS: ke ngã
kẽ
Tóm lại giáo viên phải giúp học sinh khắc sâu ba thao tác:
- Em nhìn cả chữ đó (Chỉ vào chữ trên mô hình)
- Em tách tiếng ra hai phần (lưu ý học sinh phân tích thầm trong đầu)
7
- Em nhập hai phần lại (tổng hợp trong đầu). Vậy chữ bé đọc là bé (một
tiếng liền). Với ba thao tác trên giáo viên luyện cho học sinh làm thành thục và
thật nhớ để sao cho trở thành kỹ năng không thể thiếu khi các em luyện đọc,
nhằm giúp các em có thể đọc trơn, đọc nhanh bài theo yêu cầu. Từ những thao
tác đó, hình thành cho học sinh thói quen làm việc trong đầu và nhẩm thầm để
đọc trơn, chứ không phải đánh vần bằng miệng, vừa tốn thời gian vừa không
phát triển được khả năng đọc của các em.
c. Khi dạy những âm đễ lẫn lộn
Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con
chữ để học sinh dễ phân biệt các con chữ và cách đọc, giúp các em không bị
nhầm lẫn và đọc sai đặc biệt là các âm l - n , x- s.
Ví dụ: Các âm mà các em hay đọc sai là: Âm s và âm x
+ Âm x: Gồm nét cong hở trái và cong hở phải . Đọc là “xờ”
+ Âm s: Gồm 1 nét xiên phải, nét thắt, nét cong hở - trái thẳng. Đọc là
“sờ”
Với 2 âm trên tôi hướng dẫn cách phát âm, đồng thời cho một số học sinh
khá, giỏi đọc mẫu cho đối tượng học sinh yếu nghe và cho các em này đọc nhiều
lần .
Ví dụ: Khi đọc âm “xờ”: khe hẹp giữa đầu lưỡi và răng – lợi, hơi thoát ra
xát nhẹ, không có tiếng thanh.
Khi đọc âm “sờ”: uốn đầu lưỡi về phía vòm, hơi thoát ra xát mạnh, không
có thanh.
Ví dụ: Các âm hay bị nhầm lẫn là: Âm d và âm b
+ Âm d : Gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng ở bên
phải.
Đọc là : “ dờ”
Khi đọc “ dờ”: đầu lưỡi gần chạm lợi, hơi thoát ra xát, có tiếng thanh.
Học sinh tìm thêm những tiếng phát âm có “ dờ” rồi tôi hướng dẫn các em đọc
những vừa tìm được như: dê, dì, dẻ..
+ Âm b: Gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên phải, nét sổ thẳng nằm ở
bên trái
Đọc là : “bờ”.
Khi đọc “bờ”: môi ngậm lại, bật hơi ra, có tiếng thanh.
Học sinh tìm thêm những tiếng phát âm có “ bờ” rồi tôi hướng dẫn các em đọc
những tiếng vừa tìm được như: bê, bò, bẻ..
Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau). Tôi cho học sinh
sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống nhau
và khác nhau của các âm đó.
Ví dụ:
+ Các âm ghép: ch, nh, th, kh, gh, ph, ngh.
+ Còn lại các âm : gi, tr, qu, ng tôi cho học kỹ về cấu tạo của từng âm.
+ Đọc: cờ-ê-kê (tiếng kê)/viết ka-ê-kê (chữ kê), nhắc HS: âm cờ được
ghi bằng con chữ ka
8
+ Đọc: cờ-oa- qua (tiếng qua)/viết cu-ua- qua (chữ qua), nhắc HS: âm cờ
được ghi bằng con chữ cu.
Kết hợp với các dấu thanh để có các tiếng tương tự.
Khi đọc các câu, từ (trong phần đọc ứng dụng) phải đọc trơn (Mẹ à, Dì
Hà chả kể gì cả), không đánh vần từng tiếng, nếu học sinh không đọc được là do
học phần trước không kỹ, phải quay về các thao tác như những bài đầu.
Khi dạy, bắt buộc giáo viên phải phát âm chuẩn, dùng từ chuẩn, khi nói:
các em đọc âm…, vần…, tiếng…/ các em viết con chữ…, viết
chữ…; âm cờ được ghi bằng con chữ cờ (c),con chữ ka (k), con chữ cu (q); đánh
vần: cờ -a-ca; cờ- e- ke; cờ- ua- cua; cờ-oa- qua…
+ Phân từng cặp: ch - tr, ng - ngh, c - k, g - gh để học sinh phát âm chính
xác.
Hầu hết số học sinh yếu trong lớp không nhớ được cách đọc của những
âm hai con chữ ghép lại với nhau, các âm này rất khó nhớ nó là nguyên nhân
dẫn đến học sinh yếu khó khăn trong việc ghép tiếng. Nên trong các bài ôn tập
tôi luôn cho học sinh đọc, ghép, viết, nhiều giúp các em ghi nhớ tên âm, đồng
thời tôi giao bài về nhà hôm sau kiểm tra sửa sai và động viên dù các em có tiến
bộ rất nhỏ.
Ngoài ra khi dạy những âm khó này tôi thường cho các em tìm những vật,
đồ vật có tên gọi bắt đầu bằng những âm đang học. Tôi còn cung cấp thêm cho
các em biết và đọc cho các em nghe để các em quen dần với cách phát âm.
Ví dụ: khi học âm “nhờ” thì tôi cho các em biết những tiếng như: nhà,
nhu, nhe… và đọc cho các em nghe, qua đó các em đọc theo.
Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn vận dụng linh hoạt các phương
pháp để các em tiến bộ một cách nhanh nhất, ưu tiên đối tượng học sinh yếu
được lên bảng nhiều hơn so với những học sinh khác.
* Giải pháp 5: Hướng dẫn và rèn luyện kĩ năng học vần.
Dạy bài học âm vần mới và ôn tập âm vần (dạng bài thứ 2 và thứ 3):
Ở dạng bài này yêu cầu học sinh nhận biết thuộc các chữ cái, các vần
ghép được, vì vậy ngay bài đầu tiên giáo viên giúp học sinh cách đọc phân tích
một tiếng (đọc đánh vần). Nắm chắc được bài này sẽ giúp các em phân tích tiếng
được nhanh hơn, đọc trơn được bài và đọc thông thạo. Để giúp các em học tốt
phần vần, tôi tập cho các em thói quen: Nhận diện, phân tích cấu tạo của vần,
nhận biết vị trí các âm trong vần để các em nắm vững.
Sang phần học vần, chương trình được sắp xếp theo kiểu các vần được kết
thúc bằng các âm i, n , u, m, nh .... Chính vì vậy mà học sinh rất khó nhớ và hay
nhầm lẫn giữa các vần, hạn chế và không giúp các em phát triển năng lực cảm
nhận về ngữ âm, khả năng phân tích tổng hộp ngữ âm để tạo ra những vần mới.
Để khắc phục được hạn chế trên, tôi sắp xếp theo kiểu vần có âm chính: Ví dụ:
Tiếng la có a làm phần vần; kiểu vần có âm đệm và âm chính: Ví dụ như vần ua;
kiểu vần có âm chính và âm cuối: Ví dụ vần an; kiểu vần có âm đệm, âm chính,
âm cuối: Ví dụ: Như vần oan.
9
Khi dạy các vần đầu tiên có liên quan đến cách sắp xếp này; giáo viên
giới thiệu và luyện cho học sinh nhận biết các vần theo kiểu nguyên âm tròn môi
(o; u;ơ) và không tròn môi (i; e; ê; ơ; ư; a) như vậy học sinh nắm bắt được: đọc
những tiếng chứa vần có âm đệm phải đọc tròn môi. Những kiến thức cơ bản ấy
giúp cho các em biết được từ các vần không có âm đệm, nếu chỉ đọc tròn môi
vần đó sẽ (thêm âm đệm) tạo ra từ mới.
Ví dụ: i (không tròn môi); đọc tròn môi ta được vần mới: uy.
Hay an (không tròn môi) - Đọc tròn môi ta được vần mới: oan.
Cứ tiếp tục làm theo mẫu trên học sinh sẽ tự mình tạo các vần mới một
cách chính xác và thành thạo. Từ đó, giúp các em phát âm cũng chính xác các
tiếng có vần vừa đưa ra.
Sang kiểu vần có nguyên âm đôi; chương trình mới không đề cập tới việc
giới thiệu các vần này nhưng tôi nghĩ rằng giới thiệu cho các em biết các nguyên
âm đôi là rất cần thiết và cũng phù hợp với khả năng tiếp thu của các em. Qua
các bài học vần có liên quan đến các nguyên âm đôi, tôi đã giới thiệu cho học
sinh nhận biết ba nguyên âm đôi (iê; uơ; ươ) là: mỗi nguyên âm đều mang tính
chất của hai âm đơn.
Ví dụ: Nguyên âm đôi sẽ mang tính chất của i và ê.
Chính vì các nguyên âm đôi này mang tính chất của cả hai con chữ nên
khi đọc các em đọc liền nhau không tách rời, độ cao của hai con chữ trong
nguyên âm bằng nhau; ta không nhấn mạnh con chữ nào, vì nếu nhấn mạnh thì
đọc các tiếng sẽ bị sai.
Ví dụ: Tiếng hiên nếu đọc nhấn mạnh i thì sẽ trở thành tiếng hin, nếu
nhấn mạnh ê thì sẽ trở thành tiếng hên.
Để giúp các em đọc đúng hơn, việc chú ý đến cách phân biệt vần là việc
mà mỗi giáo viên nên làm ngay trong mỗi tiết dạy.
Ví dụ: Dạy vần oan thì giáo viên đưa ra vần an để học sinh so sánh; giáo
viên yêu cầu học sinh nêu cấu tạo vần oan và so sánh sự khác và giống nhau
giữa hai vần để học sinh nhận biết được và không nhầm lẫn khi các âm các tiếng
có chưa hai vần đó. Trong hệ thống các tiết dạy vần trong chương trình có rất
nhiều tiết đưa các vần so sánh với nhau không giúp được học sinh khắc sâu
được sự khác nhau của hai vần đó như so sánh vần uân với vần uyên, uât với
vần uyêt...
Vì thế, tôi áp dụng các so sánh vần của chương trình công nghệ giáo dục
giúp học sinh dễ phân biệt hơn. Ví dụ: So sánh vần yên và vần uyên, vần yêt uyêt. Cách so sánh như vậy nhằm mục đích giúp học sinh phân biệt được vần đã
học một cách chắc chắn và củng cố cách tạo vần mới từ các nguyên âm tròn môi
ở trên.
Ví dụ: Học vần ao
+ Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần ao: vần ao gồm 2 âm: âm a và
âm o .Vị trí âm trong vần: âm a đứng trước, âm o đứng sau.
+ Đánh vần vần ao: Hướng dẫn học sinh: Âm a đứng trước, ta đọc a trước,
âm o đứng sau ta đọc o sau : a - o- ao. Đọc trơn vần: ao
10
+ Kết hợp dùng bộ chữ học vần dành cho học sinh sử dụng bộ thực hành
ghép chữ để học sinh tìm và ghép âm, thanh, tiếng mới trong mỗi bài Học vần
Ví dụ : Yêu cầu các em chọn đúng hai âm : a và o
Ghép đúng vị trí : a trước o sau
Nếu các em đã ghép đúng tôi hướng dẫn cách đánh vần và đọc trơn vần
như trên các em sẽ nhận biết và đọc được vần ao
Với cách dạy phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài học sinh như
thế, nếu được áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho
các em kỹ năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần, đọc trơn
vần một cách dễ dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt.
Trong các bài dạy vần, sách giáo khoa Tiếng Việt 1 có kèm theo các từ khóa, từ
ứng dụng và các câu thơ, câu văn ngắn để học sinh luyện đọc.
Ngoài ra trong mỗi tiết học tôi luôn cho học sinh so sánh vần đã học với
vần hôm nay học để củng cố thêm .
Ví dụ: Dạy vần “ao” cho học sinh so sánh với vần au, từ đây học sinh tìm
ra âm giống nhau âm nào, khác nhau âm nào? Rồi so sánh cả hai vần trong bài
học : ao / au. Từ đây giúp các em có kỹ năng so sánh đối chiếu và khắc sâu các
vần trong phân môn Học vần .
* Giải pháp 6: Hướng dẫn và rèn luyện kĩ năng đọc tiếng trong phần tập
đọc.
Sau khi học xong phần học vần, các em chuyển sang một giai đoạn mới
đó là việc luyện đọc các bài văn, bài thơ dài hơn và với yêu cầu kỹ năng đọc
cũng cao hơn đó là đọc đúng, nhanh và đọc hiểu, bước đầu đọc diễn cảm. Ở giai
đoạn này việc rèn cho học sinh đọc đúng cũng rất quan trọng, bởi vì các em đọc
sai thì không hiểu rõ được ý của câu, đoạn và cả bài văn, bài thơ như thế nào để
trả lời câu hỏi tìm hiểu bài. Để phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh
tôi cho các em tiếp cận văn bản và tự tìm được các tiếng, từ mà mình hay nhầm
lẫn hoặc sai khi đọc để gạch chân các tiếng. Từ đó ngay trong bài đọc (thay cho
việc ghi sẵn các từ đã cho trong sách giáo khoa), giáo viên chép lên bảng cho
học sinh đọc phân tích (nếu cần) và luyện đọc nhiều lần các tiếng từ đó. Làm
như vậy sẽ giúp học sinh khắc sâu, ghi nhớ cách đọc và đọc đúng toàn bộ bài
đọc. Việc luyện đọc đóng góp phần không nhỏ trong việc rèn đọc cho học sinh.
Đây là giai đoạn giúp các em củng cố và phát triển những năng lực về ngôn ngữ,
tư duy, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo để các em đọc nhanh hơn, tốt hơn. Đồng thời
qua những bài văn bài thơ này, các em sẽ có thêm những hiểu biết về cuộc sống
xung quanh, thiên nhiên, đất nước, con người có thêm những cảm xúc để đọc
hay một bài văn
Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh yếu các em nhận biết còn
chậm, chưa nhìn chính xác vần nên ghép tiếng rất chậm dẫn đến đọc từ và đọc
câu rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập đọc tôi dành
nhiều cơ hội cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. Tôi
cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc trơn lại
tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó đánh vần và đọc trơn tiếng kế tiếp.
11
Ví dụ: Dạy bài tập đọc: Trường Em
+ Học sinh yếu không đọc được tiếng “trường” tôi cho học sinh ôn lại cấu
tạo vần “ương ” trong tiếng “trường”.Thêm âm “tr” vào trước vần “ương” và
dấu huyền trên vần “ương”.Ta đánh vần, đọc trơn tiếng thế nào?
HS: Trờ - ương – trương - huyền - trường. Đọc trơn : Trường
+ Và sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đành vần
nhiều lần để khắc sâu vào trí nhớ học sinh.
* Giải pháp 7: Sửa lỗi cho học sinh khi đọc bài:
Song song với việc rèn kỹ năng đọc đúng, đọc nhanh, việc sửa lỗi cho học
sinh đọc bài cũng rất quan trọng, vì nếu đọc nhanh mà còn đọc sai lỗi thì việc
rèn đọc chưa có kết quả. Ở mỗi bài đọc mà học sinh gặp đều có những lỗi khác
nhau, do những nguyên nhân khác nhau, việc phân loại lỗi cũng chỉ là tương đối,
không thể đáp ứng được toàn bộ chương trình học tập của các em. Những lỗi tôi
đưa ra sau đây chỉ là những lỗi phổ biến mà nhiều học sinh trong lớp tôi hay
mắc phải.
a. Sửa lỗi do phát âm sai (do nói ngọng)
Phần lớn các em mắc phải lỗi này là do tật nói ngọng khó sửa nên đọc sai
(Như em: Dũng, Khang, Đăng, Hải,…). Các em phát âm tiếng có vần ong thành
ông, tiếng có vần anh thành ăn, tiếng có vần inh thành ân, tiếng có vần ach
thành ăt... Việc sửa được lỗi này cho các em không phải là dễ, vì vậy đòi hỏi
giáo viên thật tỷ mỉ và kiên trì, giáo viên phải luôn phát âm thật chuẩn cho học
sinh nghe, đồng thời yêu cầu học sinh nhìn vào miệng cô để làm theo, sau đó
cho các em phát âm lại nhiều lần. Nếu trong giờ học các em phát âm chưa đúng,
giáo viên tận dụng thời gian rảnh rỗi như khi ra chơi, khi trò chuyện với các em
để khuyến khích các em tập phát âm cho đúng. Ngoài ra ở các tiết học khác,
giáo viên kết hợp cả biện pháp này, có như vậy hiệu quả của việc sửa lỗi cho học
sinh mới đạt hiệu quả.
Mặt khác, việc kết hợp với phụ huynh học sinh để sửa lỗi cho các em là
rất cần thiết như: Thông báo và hướng dẫn phụ huynh cách sửa lỗi phát âm cho
các em thường xuyên để các em nhanh tiến bộ. Với cách làm này, dần dần các
em mắc lỗi này trong lớp đã tiến bộ rõ rệt.
b. Sửa lỗi do tiếng địa phương
Hà Yên là vùng nông thôn, vì vậy phụ huynh học sinh của lớp là những
người nói tiếng địa phương. Đó cũng chính là một phần nguyên nhân học sịnh
phát âm sai lỗi do tiếng địa phương, vì các em nói theo bố mẹ (Như em Dũng,
Hải, Đăng).
Nhiều người cho rằng: lỗi do tiếng địa phương rất khó sửa, nhưng qua
nhiều năm giảng dạy và tiếp xúc với học sinh hằng ngày, tôi thấy rằng việc sửa
lỗi này cho các em không phải là khó, mà cái khó nhất là hình thành cho các em
thói quen dùng đúng tiếng phổ thông ngay từ khi vào lớp 1. Nếu các em nói sai
thì việc viết sai lỗi chính tả là điều khó tránh khỏi. Hầu hết học sinh trong lớp tôi
phát âm sai s - x; ch - tr; r - d. Vậy làm thế nào để học sinh phân biệt dược khi
gặp các âm này? Ngay từ ngày đầu tiên dạy các âm mới tôi chú trọng luyện cho
12
các phát âm thật chuẩn và có sự so sánh phân biệt giữa các âm, các tiếng từ
trong khi sử dụng thông thường.
Ví dụ: Âm s khi phát âm lưỡi hơi cong lên và cuộn vào trong, âm x phát
âm lưỡi thẳng và đẩy hơi ra ngoài. Hay trong từ xinh - sinh thì các em phải phân
biệt khi nào thì dùng từ sinh (sinh nở, sinh sôi, học sinh...); khi nào thì dùng từ
xinh (xinh xắn, xinh xinh, xinh xẻo...). Để giúp các em phát âm đúng hơn, giáo
viên thường xuyên cho học sinh luyện đọc các tiếng có các chữ cái khác mà các
em hay đọc sai ở giờ tập đọc, cho học sinh khác nhận xét cách đọc và phát âm
của bạn để tất cả các em có thể nhận ra những lời mà mình còn mắc phải. Đồng
thời sửa cho các em ngay trong giao tiếp và trong các môn học khác. Việc giảng
cho học sinh hiểu nghĩa các từ cũng rất quan trọng, vì như vậy giúp các em nhớ
lâu hơn và dễ dàng phân biệt các tiếng có phụ âm đầu các em đọc còn sai.
Nói chung giáo viên phải biết tận dụng mọi lúc, mọi nơi và mọi điều kiện
mới giúp học sinh sửa được lỗi, bởi vì sau giờ học trên lớp, về nhà các em lại
tiếp xúc với những người xung quanh đang còn phát âm sai thành một cố tật,
hay còn gọi là thói quen khó sửa. Nhờ kiên trì và kịp thời sửa chữa mà đa số học
sinh trong lớp dần có thói quen nói đúng, viết đúng, không còn hiện tượng hỏi:
"Thưa cô: sờ nặng hay sờ nhẹ, chờ nặng hay chờ nhẹ" khi viết bài.
c. Sửa lỗi cho học sinh chưa thuộc hết âm
Tiết học vần ở lớp 1 rất quan trọng vì các âm trong Tiếng việt như một
chuỗi mắt xích liên quan đến nhau, âm nọ liên quan đến âm kia. Vì vậy muốn
cho học sinh hoàn thành tốt yêu cầu thì phải thuộc tất cả các âm thì mới đọc
tiếng, đọc vần, đọc từ, đọc câu chính xác được. Xác định được tầm quan trọng
của dạy các âm như vậy nên tôi rất chú trọng đến biện pháp rèn luyện theo mẫu
bằng cách: Giáo viên phát âm mẫu thật chuẩn, yêu cầu học sinh nghe, quan sát
miệng cô khi cô phát âm. Giáo viên cho phát âm lần lượt theo bàn, theo dãy,
theo tổ, cả lớp. Đồng thời cho luyện đọc theo thao tác to, nhỏ, nhẩm thầm mà
chương trình công nghệ giáo dục đã áp dụng. Khi đã phát âm chuẩn, cho học
sinh tự tìm và cài tiếng, từ mới có âm đang học. Các việc cần làm như dặn học
sinh học bài cũ, ôn luyện cách phát âm, chữ, bài đã học để các em nhớ lâu. Đồng
thời kiểm tra bài cũ để kiểm tra cách phát âm, ghi nhớ âm (vần) của các em ở
bài trước. Cuối mỗi tiết học để củng cố việc nhận biết của các em về âm (vần)
đã học, giáo viên thường cho học sinh tiếp cận với một đoạn văn bản để các em
tìm tiếng có chứa âm (vần) đã học hoặc các em thi đua giữa các tổ tìm tiếng có
âm (vần) vừa học cài vào bảng cài. Việc làm đó giúp các em hứng thú trong học
tập và nhớ bài lâu hơn. Việc sửa lỗi không thuộc hết âm, không phải hoàn toàn
phụ thuộc vào giáo viên mà còn phụ thuộc vào khả năng tri giác của các em. Có
những em như em Thắng, Tiến, Long việc dạy cho các em nhận và nhớ được các
âm (vần) quả không phải là việc làm đơn giản mà yêu cầu giáo viên phải để ý
đến các em trong mọi tiết học trên lớp, gần gũi, động viên các em tập trung học
tập. Trên lớp phân công học sinh khá giỏi kèm cặp và kết hợp với chia nhóm học
tập, giao nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm giúp đỡ, thi đua nhau học tập
tiến bộ. Làm như vậy giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập.
13
Cũng như sửa lỗi chưa thuộc hết âm, giáo viên kết hợp với phụ huynh học
sinh dạy các em học thuộc các âm bằng cách thường xuyên liên lạc, trao đổi với
phụ huynh về tình hình học tập của em đó, đồng thời hướng dẫn, đề nghị phụ
huynh kèm con em mình ở nhà để các em không quên âm đã học.
Từ những cố gắng, sự tủ mỉ và công phu của giáo viên, đến nay số học
sinh đọc chậm, hay quên các âm, vần (Thắng, Tiến, Long) đã tiến bộ rõ rêt, các
em đọc bài đã đúng, nhanh và có diễn cảm.
* Giải pháp 8: Rèn đọc ở các môn học khác và ở sách báo ngoài chương
trình
a. Rèn đọc ở các môn học khác
Kỹ năng đọc của các em được hình thành, rèn luyện trước tiên là trong tiết
học vần, tập đọc. Song cũng được củng cố và hoàn thiện trong nhiều giờ học của
các môn học khác. Vì vậy giáo viên cần tận dụng việc yêu cầu học sinh đọc đề
bài, đọc yêu cầu của các bài tập để hướng dẫn khuyến khích các em đọc thông
thạo hơn. Ví dụ: Đọc đề bài của bài toán giải, tôi yêu cầu đọc thầm, sau đó cho
các em khá đọc -> học sinh trung bình -> học sinh yếu đọc, đồng thời nêu yêu
cầu các em trả lời câu hỏi. Việc làm trên không chỉ thực hiện ở môn toán mà trên
tất cả các môn học. Như vậy, việc kết hợp dạy đọc không ảnh hưởng đến giờ dạy
các môn khác mà còn giúp học sinh tốt hơn các môn học khác. Đây cũng chính
là rèn cho mỗi học sinh thói quen tự học, tự tìm hiểu không chờ người khác
đọc...
b. Rèn đọc cho các bài đọc ngoài chương trình
Trong các tiết tự học, sau khi các em hoàn thành bài trong ngày, còn thời
gian giáo viên đưa đoạn văn, bài thơ hoặc cả bài văn ngắn đã sưu tầm ở báo chí,
ở sách Tiếng Việt chương trình công nghệ giáo dục, chương trình cải cách giáo
dục... cho các em luyện đọc. Khi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, bước đầu tôi khuyến
khích các em lên thay nhau đọc báo cho nhau nghe. Dần dần, tôi chỉ cho các em
đọc báo mới ở trên lớp, còn những báo nhi đồng cũ mà tôi sưu tầm được cho các
em mang về nhà đọc hoặc đọc trong giờ ra chơi, đọc vào thời gian rảnh rỗi. Tuy
giao cho các em về nhà đọc, hay đọc ở lớp thì tôi đều quan tâm, hướng dẫn chỉ
bảo cho các em.
Ví dụ: Khi các em khác đang hoàn thành bài tập trong 15 phút đầu giờ,
nếu em xong bài trước em có thể tự mình đọc báo (đọc thầm để khỏi ảnh hưởng
đến các bạn khác)
Đối với học sinh lớp Một nói riêng, bậc Tiểu học nói chung việc rèn cho
học sinh đọc trong tất cả các môn học là không thể thiếu và rất cần thiết, vì
chính các môn học làm phong phú hình thức luyện đọc và cũng giúp học sinh
phát triển toàn diện qua các môn học. Cũng từ đây các em luôn có ý thức rèn
đọc tốt để đáp ứng được yêu cầu trong việc học của các em.
* Giải pháp 9: Kết hợp chặt chẽ với gia đình trong việc rèn đọc cho học sinh
yếu.
Yêu cầu gia đình trang bị đủ sách giáo khoa Tiếng việt.
14
Thường xuyên quan tâm đến gia đình phụ huynh, đối với học sinh yếu
bản thân các em hay nghỉ vào những ngày lễ, tết của địa phương đặc biệt là vùng
công giáo (Học sinh ở xã Hà Bắc) trong năm có nhiều ngày lễ.
Việc kết hợp giữa giáo viên và phụ huynh là điều cần thiết góp phần tạo
điều kiện cho các em học tốt hơn. Để làm được điều đó qua các cuộc họp phụ
huynh tôi trao đổi tình hình học tập của học sinh, ngoài ra tôi hướng dẫn phụ
huynh cách dạy thêm cho con ở nhà, mặt khác thường xuyên trao đổi qua điện
thoại để phụ huynh nắm bắt được sự tiến bộ của con em qua từng tháng, từng
học kỳ.
Kèm cặp tăng buổi, khen thưởng, động viên kịp thời dù là tiến bộ nhỏ
nhất nhằm tạo hứng thú cho các em trong học tập.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua thời gian nghiên cứu và thực hiện những kinh nghiệm trên tại lớp 1A
tôi nhận thấy bản thân đã có một số kinh nghiệm thật bổ ích, áp dụng tốt trong
việc dạy học của tôi nói riêng và của giáo viên dạy lớp 1 nói chung. Đồng thời
kết quả đó đã góp phần nâng cao chất dạy và học của nhà trường. Giúp các em
tự tin hơn trong học tập và giao tiếp đặc biệt là giúp các em học tốt được các
môn học khác. Hầu hết các em đã đọc đúng, đọc lưu loát các từ, câu văn dài và
đọc thông viết thạo đạt mục tiêu đề ra. Kết quả khảo sát đạt được như sau:
32
Số HS được
đánh giá
32
32
32
32
32
Sĩ số lớp
Các lần
đánh giá
Lần 1 ngày
19/12/2016
Lần 2 ngày
17/2/1017
Lần 3ngày
15/3/2017
Hoàn thành
SL
%
Chưa hoàn thành
SL
%
17
53,1
15
46,9
23
71,9
9
28,1
32
100%
Không chỉ dừng lại ở kết quả các lần kiểm tra đọc bài của học sinh mà tôi
nhận thấy ở mỗi giờ học Tiếng Việt học sinh không thấy nhàm chán, đơn điệu
mà trở nên hứng thú, sôi nổi, bởi các em được hoạt động, được chủ động, được
phát huy khả năng học tập, được thi đua cùng bạn bè qua các trò chơi học tập,
các em hiểu được nội dung các đoạn văn, có em hiểu được nội dung cả một câu
chuyện nên các em thấy hứng thú và thích đọc nhiều hơn.
15
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Căn cứ vào những kết quả thu được ở trên tôi nhận thấy việc áp dụng một
số biện pháp tôi đã trình bày vào việc rèn đọc cho đối tượng học sinh yếu thực
sự mang lại hiệu quả. Tôi mong muốn rằng sáng kiến kinh nghiệm này sẽ được
ứng dụng trong nhà trường và trong toàn huyện để góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học cho học sinh lớp Một.
2. Kiến nghị:
a) Đối với giáo viên :
Để thực hiện có hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm này yêu cầu giáo viên
cần nắm vững những nguyên nhân học sinh còn đọc yếu, giúp học sinh ôn tập
củng cố, nắm chắc cấu trúc âm, vần Tiếng Việt và phụ đạo ngay từ đầu năm.
Tạo điều kiện để học sinh yếu được đọc nhiều hơn so với các học sinh
khác, kết hợp vận dụng một số phương pháp và hình thức phù hợp với từng học
sinh, sửa sai tỉ mỉ và kịp thời, động viên khuyến khích các em dù là tiến bộ rất
nhỏ.
Một điều không thể thiếu là giáo viên phải chịu khó, kiên trì, quan tâm
đến từng đối tượng học sinh, thực sự yêu thương học sinh, sự quyết tâm rèn
luyện của giáo viên là yếu tố quyết định sự thành công.
b) Đối với nhà trường
Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn, bồi dưỡng thường
xuyên hàng tuần, hàng tháng để bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ tay nghề cho
giáo viên.
Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi dự giờ góp ý rút kinh nghiệm, hội thảo
đổi mới phương pháp dạy học để tạo điều kiện, cơ hội cho giáo viên cùng nhau
trao đổi thảo luận tìm ra những phương pháp hay, những kinh nghiệm quý trong
dạy học Tiếng Việt nói riêng cũng như các môn học nói chung.
Bổ sung thêm một số tài liệu tham khảo vào thư viện nhà trường đặc biệt
là đổi mới về phương pháp dạy học, tổ chức trò chơi học tập trong các môn học
để giáo viên mượn nghiên cứu.
c) Đối với phòng GD-ĐT
Tiếp tục duy trì, mở các lớp tập huấn, triển khai chuyên đề, trao đổi về
ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm trong dạy học… để giáo viên tiểu học có thể
học hỏi tiếp cận những phương pháp dạy học đổi mới, tích cực những sáng kiến
nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cũng như các môn
học khác trong nhà trường.
Trên đây là một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng khi dạy tập đọc cho
học sinh lớp1của bản thân. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong khi viết sáng kiến
nhưng với bản thân vẫn còn nhiều hạn chế nên sẽ không tránh khỏi những thiếu
sót. Rất mong được sự tham gia góp ý kiến của các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp
để sáng kiến của tôi hoàn thiện hơn!
Tôi xin chân thành cảm ơn!
16
Xác nhận của Hiệu trưởng
Hà Yên, ngày 20 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép của người
khác
Người viết :
Đi
nh Thị Thương
17
Tài liệu tham khảo:
Trong quá trình nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã sử dụng một số tài
liệu sau:
- Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 tập 1, và tập 2.
- Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 1.
- Tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng lớp 1.
- Một số thông tin trên thông tin đại chúng.
18
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Đinh Thị Thương
Chức vụ và đơn vị công tác:
Giáo viên
Trường Tiểu học Hà Yên – Hà Trung – Thanh Hóa
TT
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh giá
xếp loại
Kết quả
đánh giá
xếp loại
Năm học
đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)
(A, B, hoặc C)
Huyện
C
1996 - 1997
1.
Rèn kĩ năng viết chính tả cho
2.
học sinh lớp 3
Rèn chữ viết cho học sinh lớp Huyện
C
2002- 2003
3.
1
Nâng cao chất lượng giải toán Huyện
C
2013-2014
4.
cho học sinh lớp 4
Giáo dục kĩ năng sống cho
Huyện
C
2014-2015
5.
học sinh lớp 3
Biện pháp rèn kĩ năng đọc
Huyện
A
2016-2017
cho học sinh yếu lớp 1
----------------------------------------------------
19
20