Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số kinh nghiệm thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá môn toán ở trường THCS lâm phú, lang chánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.12 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29


30
31

NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Kiểm tra, đánh giá
2.1.2. Yêu cầu đánh giá kết quả giáo dục
2.1.3. Hình thức đánh giá
2.1.4. Phương thức đánh giá
2.1.5. Phương tiện đánh giá
2.1.6. Các tiêu chí đánh giá
2.2. Thực trạng đổi mới kiểm tra, đánh giá hiện nay
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Công tác chỉ đạo, quản lý của Hiệu trưởng
2.3.2. Công tác tổ chức và hoạt động của tổ chuyên môn
2.3.3. Công tác xây dựng đội ngũ
2.3.4. Thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Toán
2.3.5. Quy trình quản lý, tổ chức các kỳ thi, kiểm tra
Hướng dẫn thiết kế đề kiểm tra HK1, HK2 môn Toán 8
Thiết kế đề kiểm tra học kỳ 1
Ma trận đề kiểm tra
Đề bài kiểm tra
Hướng dẫn chấm và biểu điểm
Thiết kế đề kiểm tra học kỳ 2

Ma trận đề kiểm tra
Đề bài kiểm tra
Hướng dẫn chấm và biểu điểm
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. Kết luận, kiến nghị

TRANG
1
1
2
2
3
3
3
3
3
4
4
5
5
5
6
6
7
7
7
8
9
9
9

10
10
13
13
13
14
15
15
1


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Nền giáo dục Việt Nam đang đứng trước đòi hỏi “Đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”
như Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8
(khóa XI) đã nêu. Để đáp ứng được yêu cầu đó, riêng giáo dục phổ thông đã
có quá nhiều việc phải làm. Trong bối cảnh hiện nay, một mâu thuẫn, giống
như là một bài toán khó, được đặt ra: Cần đổi mới đồng bộ và toàn diện
nhưng không cào bằng, không đánh đồng tất cả.
Có nghĩa là từ thực tiễn giáo dục Việt Nam, cần phải suy nghĩ, phân tích
để xác định được một số mắt xích trọng yếu - các yếu tố chịu tải căng nhất và
có vai trò quyết định chi phối guồng quay của bộ máy giáo dục. Tác động vào
mắt xích đó sẽ làm rung chuyển toàn bộ hệ thống, tạo ra sự biến đổi lớn, phát
triển nhanh và hiệu quả cao. Với cách nhìn đó, Nghị quyết Trung ương 8 xác
định “Đổi mới thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập là khâu đột phá”.
Đã có khá nhiều tài liệu tổng kết và nêu lên những tồn tại, hạn chế về
đánh giá thi cử của các nhà trường phổ thông trong thời gian qua:
Một là, nhận thức về đánh giá kết quả học tập trên cả hai phương diện lý

luận và thực tiễn của nhà trường phổ thông chưa đầy đủ, còn nhiều thiên lệch
cần điều chỉnh, cập nhật, nâng cao. Chẳng hạn: Coi đánh giá kết quả học tập
của học sinh chỉ là cho điểm, xếp loại và cho lên lớp; giáo viên chỉ chú trọng
hoàn thành các đầu điểm kiểm tra theo văn bản của cấp trên, không coi trọng
đánh giá để cải thiện kết quả học tập; chỉ chú ý đánh giá kết quả cuối cùng, ít
chú ý sử dụng kết quả đánh giá thường xuyên, đánh giá cả quá trình vào cải
thiện chất lượng dạy học. Do quan niệm “thi gì, học nấy” nên giáo viên chỉ
tập trung vào dạy và đánh giá những gì giúp học sinh đối phó với các kỳ kiểm
tra, thi cử. Không hình thành và rèn luyện phương pháp học tập và tư duy, coi
nhẹ ứng dụng, nên kết quả dẫn đến tình trạng học tủ, học lệch, học vẹt,...
Hai là, đánh giá kết quả học tập của các nhà trường phổ thông chưa bảo
đảm tính khách quan, khoa học. Từ lý luận đến thực tiễn đều cho thấy việc
đánh giá kết quả học tập chưa được xây dựng thành một bộ tiêu chí và tính
chuyên nghiệp còn rất thấp. Cụ thể, đánh giá còn bị chi phối nhiều yếu tố chủ
quan, cảm tính, kể cả định tính lẫn định lượng, nhất là đối với các môn khoa
học xã hội. Các hình thức và phương pháp đánh giá còn đơn điệu, chủ yếu là
đánh giá tổng kết; trong đánh giá tổng kết chủ yếu là hình thức viết; coi nhẹ
các kĩ năng khác, ít chú ý đánh giá thực hành. Ngay cả thi viết thì đề bài cũng
chủ yếu yêu cầu tái hiện, sử dụng trí nhớ nhiều hơn là vận dụng và đòi hỏi
sáng tạo... Công cụ đánh giá, phương pháp và kỹ thuật xử lý kết quả còn lạc
hậu. Nguồn lực phục vụ cho kiểm tra đánh giá vừa thiếu, vừa chưa đồng bộ,
làm hạn chế việc áp dụng các hình thức kiểm tra đánh giá hiện đại.
2


Đánh giá, thi cử là khâu cuối cùng của quá trình dạy và học, nhưng là
khâu hết sức quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng nhất trong quá
trình ấy. Ở Việt Nam và các nước có nền giáo dục nặng về “ ứng thí” khoa cử,
bằng cấp, thì vấn đề đánh giá, thi cử càng cần tập trung chú ý, xem xét. Thực
tế giáo dục các nước cho thấy, nhìn vào nội dung, quy trình và công cụ đánh

giá, có thể hiểu và hình dung được chất lượng giáo dục của nước đó. Coi
trọng nghiên cứu, đổi mới và đầu tư vào đánh giá là một trong những giải
pháp chủ chốt tạo nên thương hiệu của một cơ sở giáo dục, một nền giáo dục.
Hiện trạng đánh giá trong các nhà trường phổ thông vừa nêu, dẫn đến
những hệ quả rất xấu: Giáo dục chạy theo bệnh thành tích, không rèn luyện
được tính trung thực cho cả giáo viên và học sinh; nhiều học sinh phổ thông
còn thụ động trong việc học tập; khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri
thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế;
chưa đáp ứng đầy đủ mục tiêu đặt ra của Luật Giáo dục là "Giúp học sinh
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ
bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo,...”.
Có thể nói, nếu không đổi mới đánh giá thì mọi cố gắng thay đổi mục
tiêu, nội dung và phương pháp dạy học đều không có hiệu quả. Đây chính là
lý do tại sao coi đánh giá là một mắt xích trọng yếu. Thay đổi đánh giá sẽ có
tác động hết sức lớn vào việc dạy và học trong nhà trường phổ thông.
Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng vừa nêu là do chúng
ta chưa thực sự mạnh dạn đổi mới đánh giá, kiểm tra, thi cử. Nói đúng hơn
những định hướng tốt đẹp về đổi mới đánh giá vừa qua vẫn mới chỉ là lý
thuyết. Mặc dù mấy năm qua, trong thực tiễn việc đổi mới đánh giá đã bắt đầu
có những thay đổi theo chiều hướng tích cực, nhưng về cơ bản vẫn nằm trong
hệ hình cũ. So với các thành tố mục tiêu, nội dung và phương pháp, phương
tiện dạy học; thì kiểm tra, đánh giá là phương diện ít đổi mới và còn nhiều bất
cập hơn cả. Không những thế nó còn là vật cản của việc đổi mới phương
pháp, nội dung và làm sai lệch cả mục tiêu đề ra ban đầu.
Thế nên, đổi mới thi, kiểm tra, đánh giá chính là một mắt xích trọng yếu
cần phải đột phá của đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay.
Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại trà nói chung, chất lượng dạy
học môn Toán nói riêng tôi chọn đề tài: "Một số kinh nghiệm thực hiện đổi mới
kiểm tra, đánh giá môn Toán ở trường THCS Lâm Phú, Lang Chánh”.
1.2. Mục đích nghiên cứu

Hướng dẫn, giúp đỡ giáo viên Toán của Trường THCS Lâm Phú trong
việc thực hiện kiểm tra 1 tiết, kiểm tra học kỳ và đánh giá kết quả học tập của
học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Toán.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu, khảo sát thực tế về việc thực hiện đổi mới kiểm
tra, đánh giá môn Toán tại Trường THCS Lâm Phú, huyện Lang Chánh.
3


1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu: điều tra khảo sát thực tế; thu thập thông tin; thống kê, xử lý số liệu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận
Có thể khẳng định: đổi mới phương pháp dạy học là điều kiện quan
trọng nhất để đổi mới đánh giá và ngược lại, đổi mới đánh giá tạo động lực để
đổi mới phương pháp dạy học. Việc đổi mới giờ dạy của giáo viên, đánh giá
kết quả học tập của học sinh trong những năm qua có nhiều chuyển biến tích
cực, nhưng chắc chắn còn phải tiếp tục kiểm nghiệm để rút kinh nghiệm và
điều chỉnh cho thực sự đổi mới và phù hợp với thực tế. Yêu cầu của đánh giá,
xếp loại học sinh phải căn cứ và bám sát vào mục tiêu đào tạo, nội dung,
chương trình môn học. Hình thức ra đề kiểm tra, thi cũng phải thực sự đổi
mới; có yêu cầu cao vào khả năng vận dụng và kỹ năng thực hành và đặc biệt
là quan tâm đến khả năng độc lập tư duy, sáng tạo của học sinh, khả năng vận
dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Chỉ đạo và thực hiện tốt việc đổi mới
hình thức tổ chức và nội dung kiểm tra, thi sẽ tác động tích cực cho việc đổi
mới phương pháp dạy học của giáo viên và cách học tập của học sinh.
2.1.1. Kiểm tra, đánh giá là công cụ quan trọng để điều chỉnh hoạt động
dạy và học, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng con người theo mục tiêu:
Đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học

có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả giáo dục học sinh. Phải cụ
thể mục tiêu đào tạo thành mục tiêu, yêu cầu của từng hoạt động giáo dục,
từng môn học, từng bài học, từng bài kiểm tra.
Thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp dạy học theo hướng phát
triển các năng lực của học sinh, thì cũng phải đổi mới kiểm tra đánh giá theo
hướng phát triển các năng lực của học sinh. Trong quá trình thực hiện việc đổi
mới kiểm tra đánh giá phải thu thập và xử lý thông tin để đánh giá đúng quá
trình học tập của học sinh trong mối tương quan với các mục tiêu đề ra.
2.1.2. Yêu cầu đánh giá kết quả giáo dục
Căn cứ vào chuẩn kiến thức và kĩ năng của từng môn học ở từng lớp để
đưa ra yêu cầu cơ bản cần đạt được về kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh
sau mỗi lớp, mỗi giai đoạn, mỗi cấp học.
Thực hiện hợp lý, đúng quy định việc đánh giá thường xuyên và đánh
giá định kỳ, giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, giữa
đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng đồng.
Đánh giá thành tích học tập của học sinh nhằm cải tiến quá trình dạy học
và ngược lại: Chú trọng kiểm tra, đánh giá hành động, tình cảm của học sinh.
Năng lực vận dụng vào thực tiễn của học sinh, thể hiện qua ứng xử, giao tiếp
và những thông tin phản hồi từ học sinh để đánh giá quá trình dạy học.
4


Đánh giá phải đảm bảo tính chính xác, khách quan, công bằng, kịp thời
và không bỏ sót, phải có tác dụng giáo dục và động viên học sinh, giúp học
sinh sửa chữa những hạn chế, thiếu sót kịp thời. Cần có nhiều hình thức và độ
phân hóa trong đánh giá; bộ công cụ đánh giá cần được bổ sung các hình thức
đánh giá khác như đưa thêm nhiều dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm; chú ý
hơn tới đánh giá cả quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh, quan tâm tới mức
độ hoạt động tích cực, tính chủ động, tự giác của học sinh trong từng tiết học,
kể cả tiếp thu tri thức mới lẫn trong các tiết thực hành, thí nghiệm.

Đánh giá kết quả học tập của học sinh không nên đánh giá kết quả cuối
cùng mà chú ý cả quá trình học tập. Tạo điều kiện cho học sinh cùng tham gia
xác định tiêu chí đánh giá kết quả học tập. Trong đó cần chú ý: không tập
trung vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức
trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp. Căn cứ vào đặc điểm của từng
môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi cấp học, cần có qui định đánh giá bằng
điểm kết hợp với nhận xét của giáo viên hoặc đánh giá chỉ bằng nhận xét của
giáo viên cho từng môn học và hoạt động giáo dục.
Nội dung đánh giá có thể hơi "cao" so với trình độ của học sinh, nhưng
không được quá khó, để kích thích sự tìm tòi, sáng tạo và hứng thú trong học
tập của học sinh. Hướng dẫn học sinh phương pháp học tập bộ môn để hiểu
được bản chất nội dung, không thuộc một cách máy móc. Chú trọng theo
hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng
động, thích nghi với đời sống xã hội, do đó, việc kiểm tra, đánh giá không
dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kỹ năng đã học mà phải
khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình
huống thực tế. Hệ thống câu hỏi kiểm tra cũng cần thể hiện sự phân hóa, đảm
bảo 70% câu hỏi bài tập đo được mức độ đạt trình độ chuẩn - mặt bằng về nội
dung học vấn dành cho học sinh phổ thông và 30% còn lại phản ánh mức độ
nâng cao, dành cho học sinh có năng lực trí tuệ và thực hành cao hơn.
2.1.3. Hình thức đánh giá
Sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác
nhau, kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Giáo viên
cần được tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng xây dựng trắc nghiệm khách quan,
nắm vững quy trình biên soạn đề theo hình thức trắc nghiệm.
2.1.4. Phương thức đánh giá
Tăng cường các phương thức đánh giá: Trong giờ, ngoài giờ, chính thức
và không chính thức. Đánh giá qua quan sát, trao đổi - thảo luận, qua tự học,
chuẩn bị, tìm thêm tư liệu, sáng tạo đồ dùng học tập. Tạo sự kết hợp linh hoạt
giữa kiểm tra, lượng giá, đánh giá, định tính và định lượng.

Chú trọng hướng dẫn học sinh phát triển khả năng và thói quen tự đánh
giá kết quả học tập của bản thân và biết đánh giá lẫn nhau (Giữa học sinh với
học sinh). Kết hợp giữa đánh giá của thầy, cô giáo với đánh giá của trò.
5


Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều
kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trong
phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kỹ năng
tự đánh giá để điều chỉnh cách học. Liên quan tới điều này, giáo viên cần phải
tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh
giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt
trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.
2.1.5. Phương tiện đánh giá
Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin để đảm bảo đánh giá khách
quan, chính xác và kịp thời. Với sự trợ giúp của các thiết bị kỹ thuật, kiểm tra
đánh giá không còn là việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều
kênh thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy và học.
2.1.6. Các tiêu chí đánh giá
a. Đánh giá được toàn diện (nhiều mặt) kiến thức, kĩ năng, năng lực, thái
độ, hành vi của học sinh.
b. Đảm bảo độ tin cậy: Tính chính xác, trung thực, khách quan, công
bằng trong đánh giá, phản ánh được chất lượng thực của học sinh.
c. Đảm bảo khả thi: Nội dung, hình thức, phương tiện tổ chức đánh giá phù
hợp với điều kiện học sinh, đặc biệt phải phù hợp với mục tiêu từng môn học.
d. Đảm bảo tính phân hóa: Phân loại được chính xác trình độ, năng lực
học sinh. Dải phân hóa càng rộng càng tốt.
e. Đảm bảo giá trị, hiệu quả cao: Đánh giá được, đúng tất cả các lĩnh vực
cần đánh giá học sinh, thực hiện đầy đủ các mục tiêu đề ra.

2.2. Thực trạng đổi mới kiểm tra, đánh giá hiện nay
Thứ nhất, Lãnh đạo nhà trường và các tổ chuyên môn chưa thực sự coi
trọng công tác đổi mới kiểm tra tra đánh, chưa đưa vào tiêu chí đánh giá, xếp
loại giáo viên; việc triển khai thực hiện nhiều lúc chỉ mang tính hình thức, đối
phó với các các cấp quản lý giáo dục, hiệu quả đem lại không cao.
Thứ hai, về phía giáo viên, không ít giáo viên còn coi khâu kiểm tra đánh
giá là một khâu phụ, chỉ nhằm mục đích lấy điểm cho đủ con số. Có những
giáo viên dạy nhiều lớp nhưng chỉ sử dụng một đề chung, nên lớp kiểm tra
sau đã biết đề trước, dẫn đến những tiêu cực. Một số giáo viên còn qua loa sơ
sài trong khâu chấm bài, cho điểm nhiều khi không chính xác. Học sinh khá
giỏi có cố gắng nhưng không được khuyến khích, học sinh yếu kém không
được uốn nắn kịp thời, có những học sinh chép tài liệu vẫn được điểm cao.
Kết quả kiểm tra nhiều khi không phản ánh được chất lượng học tập, không
mạnh dạn cho điểm thấp hoặc cao. Nhiều giáo viên ít hỏi bài cũ, có một số
giáo viên lại hỏi bài cũ quá nhiều, một số giáo viên lạm dụng phương pháp
trắc nghiệm, coi trắc nghiệm là một bước đột phá trong kiểm tra.
6


Thứ ba, trình độ tin học, kỹ năng soạn thảo văn bản, ra đề kiểm tra của
nhiều giáo viên chưa được thành thạo, dẫn đến việc đổi mới phương pháp dạy
học, đổi mới việc ra đề kiểm tra còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Thứ tư, cơ sở vật chất còn thiếu dẫn tới việc tổ chức thi, kiểm tra, đánh
giá kết quả học sinh chưa thực sự chính xác, công bằng, dân chủ. Tình trạng
khi làm những bài kiểm tra định kỳ các em vẫn phải ngồi ghép 2 học sinh một
bàn dẫn đến việc nhìn bài, quay cóp vẫn thường xuyên xảy ra.
Thứ năm, nhà trường có số lớp ít (8 lớp), chỉ có 02 giáo viên dạy Toán,
nên việc trao đổi kinh nghiệm trong sinh hoạt tổ chuyên môn, công tác ra đề
thi, kiểm tra đánh giá học sinh chủ yếu mang tính cá nhân.
Thứ sáu, giáo viên coi thi chưa nghiêm túc nên học sinh chép tài liệu còn

nhiều. Một số đề quá khó hoặc quá dễ, không phù hợp với trình độ, khả năng
của học sinh, không phù hợp với sự phân bố thời gian nên học sinh bị ức chế.
Thứ bảy, công tác chấm, trả bài, nhận xét kết quả đúng, sai cho học sinh
chưa được giáo viên chưa chú trọng. Kết quả bài kiểm tra đôi lúc chưa được
công khai và thông báo rộng rãi cho học sinh, cha mẹ học sinh biết.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Công tác chỉ đạo, quản lý của Hiệu trưởng
Thứ nhất: Triển khai toàn bộ các công văn hướng dẫn về việc thực hiện
nhiệm vụ năm học, các văn bản hướng dẫn về công tác chuyên môn của Bộ,
Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo tới toàn thể cán bộ, giáo viên nhà trường.
Thứ hai: Thực hiện đồng bộ các biện pháp chuyên môn để nâng cao hiệu
quả thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá, để
thúc đẩy và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục đại trà, như:
Xây dựng kế hoạch thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới
kiểm tra đánh giá của nhà trường; hướng dẫn các tổ chuyên môn và giáo viên
thực hiện đổi mới phù hợp với thực tế của nhà trường và địa phương.
Tập trung chỉ đạo công tác đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm
tra đánh giá, để tạo ra sự chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục của nhà
trường; nâng cao chất lượng hoạt động và sinh hoạt của các tổ chuyên môn.
Tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng
nâng cao trình độ; tổ chức cho giáo viên giao lưu học hỏi kinh nghiệm với các
đơn vị bạn thông qua các đợt sinh hoạt chuyên đề, hội thảo chuyên môn.
Tăng cường các trang thiết bị dạy học hiện đại phù hợp với tiến trình đổi
mới đổi mới kiểm tra, đánh giá; quản lí, hướng dẫn giáo viên khai thác và sử
dụng có hiệu quả trang thiết bị dạy học hiện có và các phòng thực hành bộ môn.
Khuyến khích giáo viên ứng dụng công nghệ tin học vào giảng dạy, ra đề
thi và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh; thông qua sổ liên lạc điện
tử công khai điểm kiểm tra để phụ huynh biết được kết quả học tập của con em
mình, từ đó, có biện pháp để điều chỉnh kế hoạch học tập cho phù hợp.
7



2.3.2. Công tác tổ chức và hoạt động của tổ chuyên môn
Tổ chức các hoạt động của tổ chuyên môn theo đúng quy định; xây dựng
các chuyên đề thiết thực phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi
mới kiểm tra đánh giá để bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên.
Thực hiện sinh hoạt tổ chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học hoặc
tổ chức sinh hoạt của tổ chuyên môn theo từng chuyên đề cụ thể có tác dụng
nâng cao chất lượng dạy của giáo viên và học tập của học sinh.
Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác dự giờ
thăm lớp hàng tháng, hàng tuần theo đúng quy định, tạo điều kiện để giáo
viên được giao lưu học hỏi kinh nghiệm giảng dạy của đồng nghiệp.
Chỉ đạo giáo viên thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá phải thể hiện một
cách đa dạng về kiến thức và kỹ năng, khi chấm bài phải chỉ rõ đúng, sai, ghi
nhận xét cụ thể để giúp học sinh đánh giá đúng năng lực của bản thân.
Hướng dẫn giáo viên ra đề kiểm tra phù hợp với năng lực của học sinh,
đồng thời phải đánh giá được chuẩn kiến thức của bộ môn; đề kiểm tra phải
nộp cho tổ trưởng duyệt trước ít nhất 3 ngày trước khi kiểm tra.
2.3.3. Công tác xây dựng đội ngũ
Thực hiện phân cấp quản lý theo năng lực công tác hoặc phân cấp theo
mảng công tác được giao phụ trách để tạo ra sự chủ động, sáng tạo và nâng cao
tinh thần trách nhiệm của phó hiệu trưởng và các tổ trưởng chuyên môn.
Hướng dẫn giáo viên tích cực tự học, tự bồi dưỡng thường xuyên giáo
viên để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân, đáp ứng yêu
cầu của công tác đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo.
Xác định được những nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu và vai trò
trách nhiệm của các tổ chuyên môn, giáo viên trong công tác đổi mới kiểm tra
đánh giá để thúc đẩy và nâng cao nhận thức, hiệu quả thực hiện.
Hướng dẫn, chỉ đạo các tổ chuyên môn và giáo viên xây dựng ma trận
đề, nội dung kiến thức cần kiểm tra và đáp án phù hợp với trình độ nhận thức

của học sinh, đảm bảo vẫn đánh giá được chuẩn kiến thức của bộ môn.
Thực hiện đánh giá, xếp loại giáo viên cuối học kỳ, cuối năm học khách
quan, công bằng, phản ánh đúng năng lực công tác của từng người, để tạo ra
sự thi đua phấn đấu trong thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, giáo viên.
2.3.4. Thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá đối với môn Toán
a) Quy trình biên soạn đề kiểm tra:
Bước 1. Xác định mục đích của đề kiểm tra:
Căn cứ vào chuẩn kiến thức kỹ năng của chương trình, thực tế học tập
của học sinh nhà trường và yêu cầu của việc kiểm tra (nhằm thu thập thông
tin cho loại hình đánh giá nào) để xác định mục đích kiểm tra.
Bước 2. Xác định hình thức đề kiểm tra: Tự luận.
8


Bước 3. Thiết lập ma trận đề kiểm tra.
Để đảm bảo kiểm tra được một phạm vi rộng các kiến thức, kỹ năng
đồng thời kiểm tra được các mức độ nhận thức (Nhận biết, thông hiểu, vận
dụng cấp độ thấp, cấp độ cao) cần thiết lập ma trận hai chiều.
Việc lựa chọn số lượng câu hỏi, số điểm cho từng mục tiêu (Chủ đề kiểm
tra) tuỳ thuộc vào mức độ quan trọng, vào thời gian dành cho học sinh đạt
được mục tiêu đó, vào thời gian dự kiến cho học sinh làm bài kiểm tra.
Bước 4. Biên soạn câu hỏi theo ma trận.
Căn cứ vào ma trận đề kiểm tra để biên soạn nội dung câu hỏi theo từng
chủ đề kiểm tra cho phù hợp với các mức độ nhận thức cần đánh giá.
Bước 5. Xây dựng hướng dẫn chấm (đáp án) và thang điểm: Nội dung
đáp án phải đảm bảo khoa học và chính xác; trình bày cụ thể, chi tiết nhưng
ngắn gọn và dễ hiểu; hướng dẫn chấm phù hợp với ma trận đề kiểm tra.
Bước 6. Xem xét lại việc biên soạn đề kiểm tra:
Phát hiện những sai xót của đề và đáp án; sửa các từ ngữ, nội dung nếu
thấy cần thiết; xem xét câu hỏi có phù hợp với chuẩn hay cấp độ nhận thức

không? Số điểm và thời gian có phù hợp không? Hoàn thiện đề, đáp án.
b) Đánh giá xếp loại học sinh:
Thực hiện đánh giá, xếp loại học sinh theo Quy chế đánh giá, xếp loại học
sinh THCS và học sinh THCS (Ban hành kèm theo Thông tư số: 58/2011/TTBGDĐT ngày 12/12/2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
2.3.5. Quy trình quản lý, tổ chức các kỳ thi hoặc kiểm tra 1 tiết, kiểm tra
học kỳ, khảo sát chất lượng học sinh được thực hiện theo các trình tự sau:
Thứ nhất, xây dựng ngân hàng đề thi của tất cả các môn học.
Thứ hai, thành lập Hội đồng coi thi, chấm thi (Khâu này chủ yếu được
thực hiện ở các kỳ thi, kiểm tra học kỳ hoặc khảo sát chất lượng học sinh).
Thứ ba, mỗi lần kiểm tra, yêu cầu giáo viên phải ra 2 đề kiểm tra (chẵn,
lẽ) có mức độ nhận thức tương đương nhau. Hiệu trưởng hoặc phó hiệu trưởng
và tổ trưởng chuyên môn phải kiểm tra và duyệt đề trước khi thực hiện.
Thứ tư, thực hiện đánh số báo danh theo từng phòng thi, hai học sinh ngồi
gần nhau không được làm chung một đề; coi thi nghiêm túc, giáo viên không
được coi thi môn mình dạy; cắt phách trước khi giao bài cho giáo viên chấm.
Thứ năm, thực hiện chấm chéo đối với những môn có từ 2 giáo viên trở
lên; kết quả chấm thi phải được tổ trưởng, Hiệu trưởng phê duyệt.
Thứ sáu, Lãnh đạo nhà trường, các tổ trưởng chuyên môn sau khi duyệt
xong yêu cầu giáo viên thông báo kết quả đến từng học sinh và gia đình.
Thứ bảy, xử lý kết quả: làm tốt được khâu này sẽ giúp Hiệu trưởng có cơ
sở để xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh yếu kém, bồi dưỡng học sinh
giỏi và xét lên lớp, ở lại lớp đảm bảo chính xác, công bằng, khách quan.
9


Ví dụ: Hướng dẫn thiết kế đề kiểm tra học kỳ 1, học kỳ 2 môn Toán lớp
8 để đánh giá kết quả học tập của học sinh lớp 8 năm học 2015-2016:
ĐỀ KIỂM TRA HỌC KỲ 1, MÔN TOÁN 8, NĂM HỌC 2015-2016
I. MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA
Cấp độ

Nhận biết

Cấp độ thấp

Chủ đề
- Dùng hằng
đẳng thức khai
triển rút gọn
các biểu thức
dạng đơn giản.
2
1
Hiểu và biết
điều kiện của
biến để giá trị
của một phân
thức xác định.

1. Đa thức
Số câu:
Số điểm - Tỉ lệ %

2. Phân thức đại
số

Số câu:
Số điểm - Tỉ lệ %

1
0,5


3. Tứ giác

Số câu:
Số điểm - Tỉ lệ %
4. Diện tích đa
giác

Số câu:
Số điểm - Tỉ lệ %
Tổng

Vận dụng

Thông hiểu

Biết công thức
tính diện tích
hình chữ nhật,
tính được diện
tích hình chữ
nhật đơn giản.
1
1
1

3

- Vận dụng các
phương pháp

cơ bản để phân
tích đa thức
thành nhân tử.
2
2
- Vận dụng
tính chất cơ
bản của phân
thức để rút gọn
phân thức.
- Tính được giá
trị của biểu thức
tại những giá trị
cho trước của
biến và ngược
lại.
3
2,5
Vận dụng các
dấu hiệu nhận
biết các hình
bình hành,
hình thoi, hình
chữ nhật để
chứng minh.

Tổng

Cấp độ cao


4
3 = 30%

4
3 = 30%

3
2

Vận dụng các
dấu hiệu
nhận biết
hình vuông
để tìm điều
kiện cho một
tứ giác trở
thành hình
vuông
1
4
1
3 = 30%

8

1
1 = 10%
13

1


10


1=10%

1,5 =15%

6,5 = 65%

1 = 10%

10=100%

II. ĐỀ BÀI KIỂM TRA
Câu 1 (1 điểm):
Tính nhanh
a) 3012
b) 1052 - 52
Câu 2 (1 điểm):
Phát biểu công thức tính diện tích hình chữ nhật, viết công thức tổng
quát. Tính diện tích hình chữ nhật có chiều rộng bằng 5 cm, chiều dài 8 cm.
Câu 3 (2 điểm):
Phân tích đa thức thành nhân tử
a) x2 + 2xy + y2 + 2x + 2y.
b) x2 + 5x + 4
Câu 4 (3 điểm):
Cho phân thức:

x 2 +4 x +4

x 2 −4

a) Với giá trị nào của x thì giá trị của phân thức xác định?
b) Rút gọn phân thức.
c) Tính giá trị của phân thức tại x = 5 và tại x = 2.
d) Tìm x để giá trị của biểu thức bằng 3.
Câu 5 (3 điểm):
Cho hình bình hành ABCD có AB = 2AD. Gọi E và F lần lượt là trung điểm
của AB và CD. M là giao điểm của AF và DE. N là giao điểm của BF và CE.
a) Tứ giác AECF là hình gì? Vì sao?
b) Chứng minh tứ giác AEFD là hình thoi.
c) Chứng minh tứ giác EMFN là hình chữ nhật, biết ED // BF.
d) Hình bình hành ABCD có thêm điều kiện gì thì tứ giác EMFN là hình
vuông.
III. HƯỚNG DẪN CHẤM VÀ BIỂU ĐIỂM
Câu

ý

Câu 1
(1 điểm)

a.

Nội dung

Điểm

3012 = (300 + 1)2 = 3002 + 2.300 + 1 = 90000 + 600 + 1 =
90601


0,5đ
11


b.

Câu 2
(1 điểm)

1052 - 52 = (105 - 5). (105 + 5) = 100 . 110 = 11000

0,5đ

Diện tích hình chữ nhật bằng tích hai kích thước của nó:

0,25đ

S = a.b

0,25đ

Trong đó:
a: Chiều dài
b: Chiều rộng
0,5đ

Áp dụng: S = 5 . 8 = 40 cm2
x2 + 2xy + y2 + 2x + 2y
a

Câu 3
(2 điểm)

0,25đ

= (x + y)2 + 2(x + y)

0,25đ

= (x + y)(x + y + 2)

0,5đ

x2 + 5x + 4
b

Câu 4
(3 điểm)

= (x2 + 2xy + y2) + (2x + 2y)

a
b

= x2 + 4x + x + 4

0,25đ

= (x2 + 4x) + (x + 4)


0,25đ

= x(x + 4) + (x + 4)

0,25đ

= (x + 4)(x + 1)

0,25đ

đk: x 2 − 4

≠ 0

=>

(x – 2 )( x+2 )

≠ 0 => x ≠

±2

0,5đ

x 2 +4 x +4
( x +2) 2
( x +2)
=
=
x 2 −4

( x −2)( x +2)
( x −2)

0,5đ

- Thay x = 5 vào biểu thức ta được:
5+2 7
=
5−2 3

c

0,5đ

- Với x = 2 không thoả mãn điều kiện nên giá trị biểu thức
không xác định
d

0,5đ

Giá trị của biểu thức bằng 3 tức là:
x+2
=3
x−2

=> x + 2 = 3(x – 2)

0,25đ

=> 3x – x = 6 + 2


0,25đ

=> 2x = 8

0,25đ
12


=> x = 4

0,25đ

Vậy x = 4 thì giá trị biểu thức bằng 3.
Vẽ hình và viết GT, KL

A

E

0,25đ

N

M

D

B


F

C

Tứ giác AECF là hình bình hành vì:
0,25đ

AB // CD => AE // CF
a

AE = CF (Vì =

1
1
AB = CD)
2
2

0,25đ

Nên Tứ giác AECF là hình bình hành.
Câu 5
(3 điểm)

Ta có: AE = DF và AE // DF
=> Tứ giác AEFD là hình bình hành
b

Mặt khác ta lại có: AD = AE (Vì =


1
AB )
2

0,25đ
0,25đ

=> Tứ giác AEFD là hình thoi
Do Tứ giác AECF là hình bình hành nên

c

d

AF // EC => MF // EN

0,25đ

Vì ED // BF (gt) nên => ME // NF

0,25đ

=> Tứ giác EMFN là hình bình hành.
Mặt khác:
Do Tứ giác AEFD là hình thoi nên AF ⊥ DE.

0,25đ

=> Hình bình hành EMFN có EMF = 900 nên là HCN.


0,25đ

Hình chữ nhật EMFN là hình vuông
⇔ ME = MF

0,25đ

⇔ DE = AF (Vì DE = 2 ME, AF = 2MF).
⇔ Hình thoi AEFD có hai đường chéo bằng nhau

0,25đ

⇔ AEFD là hình vuông
⇔ Â = 900

0,25đ
13


⇔ Hình bình hành ABCD là hình chữ nhật

0,25đ

Vậy hình chữ nhật EMFN là hình vuông nếu ABCD là hình
chữ nhật (AB = 2CD).
ĐỀ KIỂM TRA HỌC KỲ 2, MÔN TOÁN 8, NĂM HỌC 2015-2016
I. MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA
Cấp độ
Nhận biết


Thông hiểu

Chủ đề
1. Phương trình
bậc nhất một ẩn
Số câu:
Số điểm - Tỉ lệ %
2. Bất phương trình
bậc nhất một ẩn
Số câu:
Số điểm - Tỉ lệ %
3. Tam giác đồng
dạng
Số câu:
Số điểm - Tỉ lệ %
Tổng

Biết giải phương
trình bậc nhất
một ẩn.
2
2
Định nghĩa bất
phương trình.
1
2

3
4 = 40%


Vận dụng
Cấp độ thấp Cấp độ cao

Cộng

Giải bài toán
bằng cách lập
phương trình.
1
3
1
3 = 30%
Giải bất
phương trình.
4
2

5
4 = 40%
Giải bài toán tam
giác đồng dạng.
3
3
3
1
3 = 30%
1 = 10%

4
2 = 20%


3
3 = 30%
11
10 = 100%

II. ĐỀ BÀI KIỂM TRA
Câu 1 (2 điểm):
Định nghĩa bất phương trình bậc nhất một ẩn? Cho ví dụ.
Câu 2 (2 điểm):
Giải các phương trình sau:
b) 2x2 – 4x = 0.

a) 4x - 7 = 0;
Câu 3 (2 điểm):

Giải các bất phương trình sau:
a) 3x - 7 > 0;

b) 4x + 9 < 0;

c) 3x – 4 ≤ 2x + 3;

d) 4x + 3 ≥ 3x + 8

Câu 4 (1 điểm): Giải bài toán sau bằng cách lập phương trình:
Hai lớp 8A và 8B có 70 học sinh. Trong đợt phát động trồng cây mỗi em
lớp 8A trồng được 2 cây và mỗi em lớp 8B trồng được 3 cây nên cả hai lớp
trồng được 170 cây. Tìm số học sinh của mỗi lớp.
Câu 5 (3 điểm): Cho tam giác ABC vuông tại A, có AB = 6cm, AC =

8cm, BC = 10cm, đường cao AH (H ∈ BC).
14


a) Chứng minh ∆HAC đồng dạng ∆ABC
b) Chứng minh rằng AC2 = HC.BC
c) Cho AD là đường phân giác của tam giác ABC ( D ∈ BC ). Tính độ dài
BD và DC.
III. HƯỚNG DẪN CHẤM VÀ BIỂU ĐIỂM
Câu
Câu 1
(2 điểm)

Câu 2
(2 điểm)

Câu 3
(2 điểm)

Câu 4
(1 điểm)

Nội dung

Điểm

- Định nghĩa Bất phương trình một ẩn.
- Ví dụ:
3x - 7 > 0;
b) 5x + 9 < 0.

a) 4x –7 = 0
⇔ 4x = 7
⇔ x = 7/4
b) 2x2 – 4x = 0
⇔ 2x(x - 2) = 0 ⇔ 2x = 0 hoặc x – 2 = 0
⇔ x = 0 hoặc x = 2
Giải và biểu diễn được đúng tập nghiệm
a) 3x – 7 > 0 ⇔ x > 7/3
b) 4x + 9 < 0 ⇔ x < - 9/4
c) 3x – 4 ≤ 2x + 3 ⇔ x ≤ 7
d) 4x + 3 ≥ 3x + 8 ⇔ x ≥ 5
Gọi số học sinh lớp 8A là x ĐK: x ∈ N * và x < 70. Số học sinh lớp
8B là 70 - x.
Số cây trồng được của lớp 8A là 2x (cây). Số cây trồng được của
lớp 8B là 3(70 - x)
(cây)
Theo bài ta có phương trình: 2x + 3(70 - x) = 170
Giải phương trình tìm được x = 40 (thoả mãn điều kiện)
Vậy số học sing lớp 8A là 40 học sinh. Số học sing lớp 8B là 70 40 = 30 học sinh.

1,5

Câu 5
(3 điểm)

0,5
0,5
0,5
0,5
0,5

0,5
0,5
0,5
0,5
0,25
0,25
0,25
0,25

C

10
8

H
D

0,5
a) Xét ∆HAC và ∆ABC có:
∠ AHC = ∠ BAC = 900, ∠ C là góc chung
Do đó ∆HAC ∽ ∆ABC
b) Do ∆HAC ∽ ∆ABC nên ta có :

A

6

AC HC
⇒ AC2 = HC.BC
=

BC AC

B

0,25
0,5
0,5

15


c) Vì AD là tia phân giác của ∆ABC nên ta có

0,25

AB BD
=
AC DC

6
x
⇒ 6.(10 – x) = 8x ⇒ 60 – 6x = 8x
=
8 10 − x
⇒ 14x = 60 ⇒ x = 4,28 cm

0,5




0,25
Vậy: DB = 4,28 cm, DC = 10 – 4,28 = 5,72 cm
0,25
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau hai năm chỉ đạo thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá tại trường
THCS Lâm Phú, huyện Lang Chánh nói chung, công tác đổi mới kiểm tra
đánh giá môn Toán nói riêng đã thu được những kết quả đáng khích lệ:
Đa số giáo viên đã xác định được tính cấp thiết của việc đổi mới kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh, chủ động, tự giác tự bồi dưỡng để
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới.
Công tác kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh đảm bảo tính
khách quan, công bằng, công khai và đúng quy chế. Tạo động lực cho công
tác giảng dạy của giáo viên và hứng thú, say mê trong học tập của học sinh.
BẢNG THỐNG KÊ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
Năm học
2014-2015
2015-2016
So sánh (+,-)

Kết quả môn Toán
Giỏi(%) Khá(%)

3,2
6,5
+3,3

25,3
37,4
+12,1


Kết quả xếp loại học lực

TB(%)

Y, K(%)

56,3
48,3
-8,0

15,2
7,8
-7,4

Giỏi(%) Khá(%)

1,1
2,7
+1,6

17,5
24,9
+7,4

TB(%)

Y, K(%)

64,2
64,8

+0,6

17,2
7,6
-9,6

3. Kết luận, kiến nghị
Từ thực tiễn thực tế dạy và học trong các nhà trường phổ thông hiện nay,
khó có thể cùng một lúc thay đổi toàn bộ tất cả mọi phương diện của vấn đề
kiểm tra, đánh giá, vì thế, cần biết đột phá vào một vài khâu trọng yếu. Trước
mắt, theo tôi cần chú trọng khắc phục hai phương diện sau:
Một là, khắc phục và hạn chế vai trò của cảm tính trong đánh giá. Hiện
nay, đánh giá quá trình và đánh giá trên lớp học chưa được coi trọng, cần phải
điều chỉnh. Nhưng các hình thức này rất dễ bị chi phối cảm tính vì hoàn toàn
phụ thuộc vào cá nhân giáo viên. Trước thực trạng đời sống khó khăn của
giáo viên, các tiêu cực xã hội dễ chi phối tình cảm yêu ghét, khinh trọng trong
công tác nhận xét, đánh giá. Đây là một thực tế, không thể không nhìn thấy.
Giải pháp ở đây chỉ có thể là một mặt nâng cao đời sống cho giáo viên, mặt
khác đề cao tính trách nhiệm, giáo dục lòng tự trọng trong đạo đức làm thầy
cùng với việc đổi mới công tác quản lý để nâng cao hiệu quả thực hiện.
Hai là, đổi mới thi cử, mà trước hết là đổi mới việc ra đề thi, phương
pháp xử lí kết quả và sử dụng kết quả. Đây là biện pháp nằm trong tay các cơ
quan chuyên môn, quản lý và chỉ đạo dạy học; có nghĩa là hoàn toàn có thể
làm được, có tính khả thi. Cần làm rõ cho giáo viên, học sinh, phụ huynh và
16


xã hội biết: Đánh giá, thi cử không chỉ tập trung vào kiểm tra xem học sinh
học cái gì (nội dung) mà quan trọng hơn là kiểm tra học sinh đó học như thế
nào, có biết vận dụng không (phương pháp học, cách học, năng lực). Định

hướng này buộc đề thi không thể chỉ kiểm tra trí nhớ (kiến thức) mà phải yêu
cầu vận dụng tổng hợp các tri thức và kỹ năng; coi trọng thực hành, kiểm tra
được năng lực sáng tạo, khả năng áp dụng vào thực tiễn của học sinh.
Đi đôi với việc đổi mới cách ra đề thi - kiểm tra, cần có biện pháp ngăn
chặn sự can thiệp thô bạo của các cá nhân hoặc cơ quan hành chính, địa
phương vào công tác đánh giá và điều chỉnh kết quả đánh giá, thi cử của nhà
trường. Theo tôi, trước mắt hãy cứ làm tốt hai khâu vừa nêu trên. Đề ra nhiều
mà thiếu tính khả thi, không thực hiện được hoặc thực hiện không tốt, hệ quả
sẽ rơi vào tình trạng chỉ là nói suông, dẫn tới mất nhiều hơn được.
Trên đây là một số kinh nghiệm tôi đã đúc rút trong quá trình công tác. Bản
thân cũng chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, cho nên những
điều rút ra chưa hẳn đã phù hợp với mọi người, mọi nơi. Rất mong được sự đóng
góp ý kiến bổ sung của các đồng nghiệp để đề tài này được hoàn thiện hơn./.
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ

Lang Chánh, ngày 28 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
NGƯỜI THỰC HIỆN

Trịnh Quốc Việt

17



×