Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Hướng dẫn học sinh giỏi làm tốt bài văn nghị luận xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.86 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Trang
I MỞ ĐẦU

1

1..Lý do chọn đề tài

1

2.Mục đích nghiên cứu

1

3. Đối tượng nghiên cứu

1

4. Phương pháp nghiên cứu

1

II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

1

1.Cơ sở lý luận

1

2. Thực trạng về việc ôn tập thi vào lớp 10 hiện nay



2

3. Các giải pháp đã sử dụng khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

2

3.1. Hệ thống, củng cố kiến thức ôn tập

2

3.2 Rèn kỹ năng thực hành qua các dạng bài

4

3.3. Luyện tập các dạng đề kiểm tra

10

3.4 Kinh nghiệm ôn tập qua các bộ đề thi của các năm trước

11

3.5. Phương pháp làm bài thi

11

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

12


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

13

1. Kết luận

13

2. Kiến nghị

13

Tài liệu tham khảo


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Ôn thi vào lớp 10 THPT là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các
trường THCS .Nhưng vấn đề đó hiện nay ở các trường còn gặp nhiều khó khăn
về phương pháp, kỹ năng ôn luyện, cách lựa chọn tài liệu ôn thi.. Đặc biệt là
môn Ngữ văn, những năm gần đây các em học sinh có xu hướng học thiên về
các môn tự nhiên như toán, hoá, lý, không có hứng thú học môn Ngữ văn cũng
là một thử thách đối với thầy cô. Là giáo viên đã trực tiếp dạy lớp 9 và ôn thi
vào lớp 10 nhiều năm nên bản thân tôi cũng rất trăn trở làm thế nào để có
phương pháp dạy cho các em vừa mang lại kết quả cao vừa tạo hứng thú cho
các em trong giờ ôn tập. Học chính các em đã ngại nói gì đến học ôn. Dạy cái gì,
dạy như thế nào? Đó là một vấn đề. Dạy lại kiến thức các em sẽ nhàm chán,
không luyện được kỹ năng, không có phương pháp làm bài, các em sẽ lúng
túng , hướng dẫn các em viết thì các em ngại viết, đọc chép thì không được đẫn

đến chất lượng không cao. Trong quá trình dạy ôn tôi cũng đã tích góp và học
hỏi đồng nghiệp được một số kinh nghiệm. Chính vì vậy tôi đã đưa ra:"Một số
kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn "để các đồng chí tham
khảo.
1.2.Mục đích nghiên cứu:
- Tìm ra giải pháp tối ưu nhất trong phương pháp ôn thi vào 10 cho học
sinh lớp 9, môn Ngữ văn.
- Hình thành cho các em biện pháp tự học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh khối 9 - trường THCS Lê Quang Trường - Hoằng Tiến
- Nội dung chương trình môn Ngữ văn 9.
- Các tài liệu ôn thi vào lớp 10.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
1.4.1 Phương pháp phân tích, tổng hợp.
1.4.2 Phương pháp thống kê.
1.4.3 Phương pháp điều tra.
1.4.4 Phương pháp thực nghiệm.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận:
Kiến thức môn văn ôn thi vào lớp l0 rất rộng , làm thế nào để hệ thống hoá
được những kiến thức cơ bản vừa trọng tâm, cơ bản lại không bỏ sót. Thời gian
ôn thi có hạn, số học sinh đăng ký tham gia thi vào lớp 10 nhiều, chất lượng học
không đồng đều và việc lực chọn , tìm tòi phương pháp, biện pháp ôn thi khả
quan đem lại chất lượng cao, đạt chỉ tiêu nhà trường giao là một vấn đề nan giải
đối với những giáo viên dạy lớp 9. Qua nhiều năm dạy lớp 9, ôn thi vào lớp 10
2


môn văn tôi cũng đã nhìn thấy thực trạng của vấn đề và tìm ra được một số kinh
nghiệm giảng dạy và tôi đã hệ thống nó thành những nội dung cơ bản sau.

Tôi xin được trình bày để các anh chị em tham khảo.
2.2. Thực trạng về việc ôn tập thi vào lớp 10 hiện nay:
2.2.1. Thuận lợi
- Về tài liệu: Hiện nay, tài liệu phục vụ cho việc giảng dạy, ôn tập môn ngữ
văn THCS nói chung, môn ngữ văn lớp 9 nói riêng về cơ bản nhà trường đã
cung cấp tương đối đầy đủ như: SGK, SGV, thiết kế bài soạn, em tự đánh giá
kiến thức ngữ văn, tài liệu ôn thi vào lớp 10 của sở giáo dục ...giúp cho người
giáo viên tham khảo, chọn lọc sắp sếp nội dung, phương pháp ôn tập phong phú,
hợp lí.
- Giáo viên có năng lực, nhiệt tình, trách nhiệm cao trong chuyên môn.
- Học sinh có ý thức học, lo học, có ý chí phấn đấu.
- Sự quan tâm của BGH nhà trường, của các bậc phụ huynh đến con em.
2.2.2.Khó khăn:
- Kỹ năng viết của các em kém, học văn nhưng nhác viết.
- Học sinh ngại học môn văn thiên về các môn tự nhiên nhiều hơn.
- Sự phân luồng chưa chính xác, dẫn đến chất lượng học sinh chưa đồng
đều.
- Tình hình chất lượng thi vào lớp 10 những năm gần đây ở nhà
trường:
+ Đội ngũ giáo viên dạy lớp 9 được nhà trường tuyển chọn có tinh
thần trách nhiệm cao, cố gắng tìm tòi sáng tạo các biện pháp dạy học tốt hơn , có
kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10.
+ Tuy nhiên kết quả thi ở các năm gần đây vào lớp 10 chưa cao đều,
năm thấp ( 53%), năm cao chênh lệch quá nhiều về số lượng nhất là kết quả vào
trường công lập.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.:
2.3.1. Hệ thống, củng cố kiến thức ôn tập:
- Để ôn tập tốt người giáo viên trước hết phải có vốn kiến thức tốt, đầy đủ
chắc chắn, vững vàng về môn Ngữ văn từ lớp 6 đến lớp 9. Đề thi vào lớp 10
nhằm kiểm tra kiến thức của học sinh một cách toàn diện về kiến thức, kỹ năng.

Trước khi ôn tập giáo viên phải hệ thống hoá kiến thức của chương trình lớp 9,
đặc biệt là bám vào nội dung chương trình ôn thi môn Ngữ văn của Sở giáo dục
Thanh Hoá hàng năm gửi cho các nhà trường. Sau đó sắp xếp kế hoạch giảng
3


dạy theo từng phân môn phù hợp với khối lượng kiến thức : Tiếng Việt, Văn
học, Tập làm văn.
- Giáo viên truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản đi sâu vào
trọng tâm, những phần quan trọng kết hợp với thực hành luyện tập kỹ năng nhận
biết, thông hiểu, vận dụng. Tránh dạy lan man, dạy tủ, dạy lệch, ôn lý thuyết mà
không thực hành. Khi thực hành cần luyện nhiều đề, nhiều dạng khác nhau. Để
đạt kết quả cao, các em cần nắm vững những kiến thức cơ bản, có kiến thức và
kỹ năng mới làm bài tốt. Cụ thể:
2.3.1.1. Tiếng Việt:
* Về phần từ ngữ: Sự phát triển nghĩa của từ, phương thức chuyển nghĩa
từ, nghĩa gốc, nghiã chuyển.
* Về phần Ngữ pháp: Các biện pháp tu từ; phương châm hội thoại; lời dẫn
trực tiếp, lời dẫn gián tiếp; khởi ngữ; các thành phần biệt lập; các phép liên kết
câu; nghĩa tường minh, nghĩa hàm ý, các biện pháp tu từ.
2.3.1.2. Phần văn học:
* Văn học Việt Nam:
- Văn học trung đại: hai tác phẩm lớn là: Chuyện người con gái Nam
Xương (Nguyễn Dữ ), Truyện Kiều ( Nguyễn Du ).
- Văn học hiện đại:
Tác phẩm truyện: Truyện ngắn "Làng" (Kim Lân); "Lặng lẽ Sa Pa"
(Nguyễn Thành Long) "Chiếc lược ngà" (Nguyễn Quang Sáng); (Nguyễn Minh
"Những ngôi sao xa xôi" (Lê Minh Khuê)
Tác phẩm thơ:
- Học kỳ I "Đồng chí" (Chính Hữu); "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"

( Phạm Tiến Duật); "Đoàn thuyền đánh cá" (Huy Cận); "Bếp lửa" (Bằng Việt) ;
"Ánh trăng" (Nguyễn Duy).
- Học kỳ II: "Mùa xuân nho nhỏ" (Thanh Hải); "Viếng lăng Bác" (Viễn
Phương); "Sang thu" (Hữu Thỉnh); "Nói với con" (Y Phương).
* Văn học nước ngoài: hai tác phẩm tiêu biểu là: Rô-bin-xơn ngoài đảo
hoang-(Đi-phô),Bố của Xi- mông (Mô-pat-xăng).
2.3.1.3. Tập làm văn:
Kiến thức: Ôn tập lý thuyết và rèn kỹ năng làm các dạng bài nghị luận đặc
biệt là nghị luận xã hội.
- Nghị luận xã hội về sự việc, hiện tượng đời sống
- Nghị luận xã hội về tư tưởng, đạo lý
4


- Nghị luận về tác phẩm truyện, đoạn trích
- Nghị luận về tác phẩm thơ, đoạn thơ
2.3.2 Rèn kỹ năng thực hành qua các dạng bài:
2.3.2.1. Đối với phân môn văn học:
- Khi học các văn bản, rèn cho các em kỹ năng cần nắm các ý cơ bản: tên
tác giả, những nét chính về tác giả như đề tài, phong cách, sở trường, tên tác
phẩm, năm sáng tác, hoàn cảnh ra đời, đoạn trích học, tóm tắt tác phẩm, ý nghĩa
nhan đề của tác phẩm.
- Với tác phẩm truyện học sinh phải nhớ các chi tiết cụ thể, tóm tắt nội
dung tác phẩm dưới dạng viết đoạn văn, nắm tình huống truyện, đặc điểm nhân
vật, chủ đề tác phẩm, cảm nhận, phân tích được chi tiết nghệ thuật độc đáo trong
tác phẩm. Để phục vụ cho các dạng câu hỏi sau:
- Với câu hỏi thuộc dạng bài viết bài giới thiệu tác giả, tác phẩm hoặc tóm
tắt tác phẩm truyện. Khi làm các câu hỏi thuộc dạng này các em phải nắm được
kiến thức về tác giả.
Về tiểu sử tác giả nên theo các bước sau

- Tên thật, tên hiệu, tên chữ, các bút danh khác (nếu có)
- Năm sinh, năm mất (nếu có)
- Khái quát sự nghiệp văn chương theo từng chặng
- Khái quát phong cách nghệ thuật độc đáo hoặc nét riêng đặc sắc
- Các tác phẩm chính (kể tên ít nhất 2 tác phẩm)
Ví dụ :
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Thành Long (1925-1991) quê huyện Duy
Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Viết văn từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các tác
phẩm tiêu biểu
- Chuyên viết truyện ngắn và bút ký thành công hơn cả là những truyện
ngắn và bút ký viết về công cuộc xây dựng ở miền Bắc.
- Phong cách văn xuôi nhẹ nhàng, tình cảm, giàu chất thơ và ánh lên vẻ đẹp
con người mang ý nghĩa sâu sắc.
- Các tác phẩm tiêu biểu như "Bát cơm cụ Hồ"(1955); "Giữa trong xanh"
(1972); "Lý sơn mùa tỏi" (1980 ); "Lặng lẽ Sa Pa" (1970)
- Phục vụ cho dạng bài yêu cầu tóm tắt tác phẩm văn xuôi, các em phải
nắm được cốt truyện tóm tắt theo nhân vật chính với các chi tiết quan trọng
(tránh sa vào những chi tiết vụn vặt, tản mạn).
5


Ví dụ: nhân vật kể chuyện trong Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn
Quang Sáng là ông Ba nhưng khi tóm tắt nên theo nhân vật chính là anh Sáu,
cha bé Thu.
Ngoài ra còn dạng viết bài giới thiệu tác giả, tác phẩm, nêu chủ đề: khi viết
dạng này các em cần giới thiệu được tiểu sử tác giả, tên thật, bút danh, năm sinh,
mất(nếu có), sở trường, phong cách nghệ thuật, thành công trong sự nghiệp. Với
tác phẩm phải giới thiệu được các tác phẩm tiêu biểu, năm sáng tác, giới thiệu
tác phẩm theo yêu cầu đề bài, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật.
Với tác phẩm thơ, giáo viên yêu cầu học sinh đọc thuộc lòng bài thơ, năm

sáng tác, hoàn cảnh sáng tác, chủ đề bài thơ phục vụ cho dạng đề: chép bài thơ,
đoạn thơ, khổ thơ theo trí nhớ, điền vào chỗ trống của câu thơ, nêu chủ đề , giải
thích nhan đề bài thơ.
Ví dụ: Hãy chép thuộc lòng bốn câu thơ đầu của bài thơ Đoàn thuyền
đánh cá của Huy Cận.
Với câu hỏi dạng này đòi hỏi các em phải thuộc các bài thơ:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”…
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)
Giúp các em hiểu được mạch cảm xúc chính, các biện pháp tu từ nổi bật,
giá trị của các biện pháp tu từ đó, nghệ thuật độc đáo của từng bài thơ, đoạn thơ,
hệ thống nội dung, nghệ thuật của tác phẩm thành những luận điểm. Rèn luyện
khả năng cảm thụ tác phẩm văn học dưới dạng đoạn văn, bài văn. Tích hợp với
phần Tập làm văn để rèn kỹ năng nghị luận về tác phẩm thơ, đoạn thơ.Với kiến
thức này phục vụ cho các dạng đề như:
Ví dụ: Chỉ ra biện pháp tu từ và phân tích giá trị của nó trong đoạn thơ sau:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
(Sang thu - Hữu Thỉnh)
Tích hợp với dạng nghị luận thơ giúp các em làm dạng bài như: Cảm nhận về
vẻ đẹp của câu thơ, khổ thơ như:
6


Dạng 1: Con là mây và mẹ sẽ là trăng
Hai bàn tay con ôm lấy mẹ, và mái nhà ta là bầu trời xanh

(Mây và sóng- Ta-R.go )
Dạng 2:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật)

Khi làm đề này chúng ta cần luyện cho các em:
- Đọc kĩ đoạn thơ đó, nhớ, và ghi vào bài làm: Đoạn thơ đó năm ở bài thơ
nào? của tác giả nảo? nội dung của bài thơ đó nói về vấn đề gì? Nghệ thuật chủ
đạo của bài thơ là gì?
- Ghi ra nháp các tín hiệu nghệ thuật sử dụng trong các câu thơ đó, xác định
xem phép tu từ hoặc từ loại nào là chủ ch ính làm toát lên nội dung của đoạn thơ
đó.
- Ghi ra các từ ngữ biểu hiện các phép tu từ đó.
- Tác dụng của các phép tu từ, từ loại, cách hiệp vần trong các câu thơ đó là
gì đối với cảnh, nhân vật trữ trình và với toàn bộ bài thơ và trong việc thể hiện
cảm xúc của tác giả.
2.3.2.2. Đối với phân môn tiếng Việt:
Về phân môn này thì luyện kỹ các dạng nhận diện, thông hiểu cho các em
qua hệ thống bài tập, đặc biệt là dạng nhận diện cho các em làm càng nhiều càng
tốt thành kỹ năng, kỹ xảo, nhìn vào đề là các em làm đựoc ngay. Đây là câu dễ
nhất trong đề, giúp các em ghi được điểm tối đa (hai điểm). Đối với dạng này thì
tôi chú ý đến học sinh trung bình cho các em luyện nhiều hơn, còn với học sinh

khá thì các em thừa sức.
Với phần này phục vụ cho các dạng đề như điền khuyết để thuộc các khái
niệm, nhận diện kiến thức, gọi tên kiến thức hoặc chuyển từ hình thức này sang
hình thức khác.
7


Ví dụ như:
Dạng 1: Điền từ ngữ còn thiếu vào chỗ trống: Dẫn gián tiếp là.....lời nói
hay ý nghĩ của người hay nhân vật, có điều chỉnh cho thích hợp.
Hay dạng khác như
Dạng 2: Hãy viết lại câu sau bằng cách chuyển phần in đậm thành khởi
ngữ
Cô ấy ngồi học rất nghiêm túc.
Dạng 3: Xác định thành phần biệt lập và gọi tên tthành phần biệt lập đó:
- Thưa ông, chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ.
Dạng 4: Từ "Đầu" trong câu sau được dùng theo nghĩa gốc hay nghĩa
chuyển:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Và còn nhiều dạng khác nữa
2.3.2.3. Đối với phân môn Tập làm văn:
Luyện kỹ năng tìm ý, nhận diện đề, viết đoạn văn diễn dịch, quy nạp, đoạn
văn mở bài, triển khai các đoạn thân bài, đoạn kết bài.
Dạng nghị luận xã hội về sự việc, hiện tượng đời sống: (câu 3đ) Đối với
dạng bài này phải luyện cho các em thành thạo kỹ năng tìm ý, đó là những ý
chính sẽ triển khai trong bài văn. Nếu làm tốt thì mỗi khi gặp dạng này các em
sễ dễ dàng tìm được ý và viết bài lập luận chặt chẽ. Đề bài này thường yêu cầu
là nêu suy nghĩ của em về các hiện tượng có thật trong cuộc sống hàng ngày,
mang tính cấp thiết và các em thường nhìn thấy nhưng ít có dịp quan sát, phân

tích như vấn đề an toàn giao thông, hiện tượng quay cóp trong thi cử, bạo lực
học đường, hiện tượng nói tục, thói ăn chơi đua đòi...Đối với dạng bài này luyện
cho các em kỹ năng tìm ý theo các bước sau:
Cụ thể:
- Gọi tên được sự việc hiện tượng cần nghị luận ( giải thích khái niệm)
- Chỉ ra được biểu hiện cụ thể của sự việc, hiện tượng.
- Phân tích nguyên nhân của sự việc, hiện tượng
- Chỉ ra hậu quả hoặc lợi ích
- Đề xuất các biện pháp, cách khắc phục. Bày tỏ các ý kến các nhân
Ví dụ:
8


Đề bài: Suy nghĩ của em về hiện tượng vứt rác thải bừa bãi ra đường hoặc
nơi công cộng.
- Các biểu hện cụ thể như : Bất cứ có rác là vứt, tiện đâu vứt đó không kể
thời gian, địa điểm, không biết chỗ mình vứt là chỗ nào, vứt ra ngoài hay vào
thùng rác....
- Nguyên nhân: Do thiếu ý thức củai môĩ người, thùng đựng rác còn thiếu,
hoặc đặt ở vị trí không thuận tiện, việc xử phạt còn nhẹ, không nghiêm khắc...
- Hậu quả: Môi trường bị ô nhiễm, mất thẩm mĩ quan, để lại ấn tượng xấu
với mọi người. Để khắc phục gây lãng phí thời gian, tốn kém tiền bạc.
- Bày tỏ ý kiến, biện pháp khắc phục: Đây là hiện tượng đáng lên án, đáng
chê. Để có môi trường xanh sạch đẹp mỗi người chúng ta phải có ý thức chấp
hành tốt luôn bỏ rác đúng nơi quy định, nhắc nhở mọi người cùng thực hiện, sắp
xếp bố trí thùng rác đúng nơi quy định, xử phạt nghiêm các hành vi xả rác bừa
bãi.
Dạng nghị luận xã hội về tư tưởng,đạo lý: (câu 3đ) cũng có thể ra dạng
bài này hoặc dạng nghị luận về sự việc hiện tượng.Đề bài này thường thường ra
những câu tục ngữ hoặc danh ngôn hoặc câu thơ, câu ca dao như suy nghĩ về

câu tục ngữ “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “ Không thầy đố mày làm nên”, “Không
có việc gì khó – Chỉ sợ lòng không bền – Đào núi và lấp biển – Quyết chí ắt làm
nên”; hay dạng cho hai câu thơ suy nghĩ về tình mẹ, gia đình, quê hương trong
cuộc đời mỗi con người. Đối với dạng này luyện cho các em thực hiện những
bước sau:
- Giải thích khái niệm (Trả lời câu hỏi là gì)
- Bàn luận.
- Bài học nhận thức và hành động.
Đối với dạng bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc tác phẩm thơ thì
luyện kỹ năng viết bài phải có bố cục ba phần: mở bài, thân bài, kết bài.
* Đối với phần mở bài hướng dẫn cho các em hai cách viết: mở bài trực
tiếp, gián tiếp, đi từ nhà văn đến tác phẩm.
Mở bài gián tiếp thông thường nhất là giới thiệu tác gả, tác phẩm, đánh giá
khái quát về tác phẩm. Đây là cách mở bài đơn giản, dễ viết nhất. Để viết được
mở bài này các em phải nhớ được kiến thức về tác giả, tác phẩm mà các em đã
ôn ở phần văn học. Đối với phần tác giả các em chỉ cần viết được các ý chính
như sở trường, phong cách nghệ thuật, đề tài. Hay về phần tác phẩm thì viết
được các ý như năm sáng tác, hoàn cảnh ra đời. Phần đánh giá khái quát thì nhớ
được chủ đề tác phẩm.
9


Ví dụ viết mở bài cho đề bài sau: Cảm nhận về vẻ đẹp của tình cha trong
tác phẩm "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng.
Các em viết được các ý sau:
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn Nam Bộ nổi tiếng. Ông thường viết truyện
ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người
Nam Bộ. Lối viết của ông giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc. Các tác phẩm nổi
tiếng của ông như: "Cánh đồng hoang"; "Mùa gió chướng"; ''Đất lửa" và tiêu
biểu là truyện ngắn "Chiếc lược ngà". Truyện sáng tác năm 1966, tại chiến

trường Nam Bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt.
Truyện ca ngợi tình cha con thiêng liêng sâu nặng trong hoàn cảnh éo le của
chiến tranh.
Hay cách viết mở bài trực tiếp là đi từ đề tài, nội dung của tác phẩm. Ví dụ
như:
Đề bài: Phân tích bài thơ "Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương
Viết mở bài trực tiếp: Đề tài Bác Hồ đã trở thành phổ biến đối với thơ ca
Việt Nam hiện đại. Tố Hữu nhiều lần viết về Bác rất hay từ trong kháng chiến
chống Pháp đã đến thăm nhà Bác, khi Bác qua đời lại dắt em vào cõi Bác xưa để
theo chân Bác. Minh Huệ dựng lại một đêm Bác không ngủ ở chiến trường Việt
Bắc cách đây hơn nửa thế kỷ. Chế Lan Viên viết "Hoa trước Lăng Người" và
Viễn Phương cũng góp vào đề tài ấy bài thơ “Viếng Lăng Bác". Dù ra đời muộn
nhưng Viếng lăng Bác được đánh giá là một trong những tác phẩm thành công
xuất sắc viết về Bác.
* Đối với phần thân bài luyện cho các em kỹ năng triển khai thành những
luận điểm, ý lớn, ý khái quát đứng đầu đoạn văn đó là đoạn văn diễn dịch hay
quy nạp. Đối với tác phẩm truyện các em phải khái quát đặc điểm nhân vật
thành những luận điểm cơ bản như đối với nhân vật anh thanh niên thì các em
phải triển khai được các luận điểm sau:
- Nhân vật anh thanh niên đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần
trách nhiệm cao với công việc.
- Anh thanh niên đáng yêu ở nỗi thèm người, lòng hiếu khách, ở sự quan
tâm đén người khác một cách chu đáo.
- Anh thanh niên là một người rất khiêm tốn.
Đối với các tác phẩm thơ thì hướng khai thác đi theo trình tự của các khổ
thơ hoặc theo nguồn cảm xúc của nhà thơ, bài thơ.
Từ các luận điểm đó cấc em dùng luận cứ, lập luận để làm sáng tỏ các luận
điểm trên thành những đoạn văn, giữa các đoạn có sự liên kết chặt chẽ.
10



Đối với nghị luận tác phẩm thơ và nghị luận về tác phẩm truyện khác nhau:
khi nghị luận thơ thì ta phải bám vào ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu, biện pháp
tu từ, cảm hứng, bức tranh tâm trạng của nhân vật trữ tình. Đối với tác phẩm
truyện để khai thác tác phẩm ta lại bám vào tình huống truyện, ngôn ngữ kể
chuyện, cử chỉ, hành động nhân vật...
* Với phần kết bài luyện cho các em kỹ năng viết kết bài: bắt đầu đi từ
nghệ thuật để dẫn đến khẳng định giá trị nội dung. Hoặc đánh giá giá trị của tác
phẩm đối với sự nghiệp sáng tác của tác giả, đối với cuộc đời, đối với bạn đọc,
đối với đề tài. Đây là cách viết dễ nhất học sinh trung bình dễ dàng viết. Còn
cách viết kết bài hay hơn ,cách kết mở dành cho học sinh khá trở lên.
Ví dụ: viết kết bài cho đề bài: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện
ngắn "Làng" của Kim Lân.
Ta có thể viết như sau: Bằng tình huống, chi tiết chân thực, thú vị, bằng
nghệ thuật miêu tả tâm lý sinh động, Km Lân đã đem đến cho chúng ta một hình
tượng hấp dẫn về người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
Pháp.Tình yêu tha thiết, sự gắn bó sâu nặng với làng quê, đất nưôc của nhân vật
ông Hai luôn có ý nghĩa giáo dục thấm thía đối với các thế hệ bạn đọc.
Đối với học sinh khá thì tôi chú ý hơn cho các em luyện dạng cảm thụ về
vẻ đẹp của câu văn, câu thơ.Về dạng chỉ ra biện pháp tu từ và chỉ ra giá trị của
nó trong đoạn văn để các em thi vào lớp chuyên, lớp chọn..
2.3.3. Luyện tập các dạng đề kiểm tra:
Việc đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp dạy học dẫn đến việc
thay đổi nội dung và phương pháp kiểm tra đánh giá. Học sinh được làm quen
với các hình thức kiểm tra đánh giá ngay trong quá trình học tập bộ môn chính
khoá, bộ môn tự chọn, học thêm ở thầy, trong các tài liệu học tập.
Khi ôn tập vào lớp 10 giáo viên cần củng cố kỹ năng làm bài thi, kiểm tra
dưới đầy đủ các dạng đề
2.3.3.1..Hình thức trắc nghiệm: Đúng sai, điền khuyết, đối chiếu cặp đôi,
trác nghiệm nhiều lựa chọn. Trắc nghiệm độc lập, trắc nghiệm theo các bài học

của từng phân môn, trắc nghiệm theo các bài học của từng phân môn, trắc
nghiệm theo phạm vi giới hạn nội dung của chương, thể loại của từng phân môn
tổng hợp.
2.3.3.2.Hình thức tự luận: Tự luận dưới dạng đoạn văn ngắn hoặc một bài
văn theo các dạng bài làm văn đã học.Trong các bài tự luận có thể tích hợp ba
phân môn. Các bài tập tự luận thường xoay quanh các dạng: Tóm tắt văn bản,
giới thiệu tác giả, tác phẩm, thể loại, chép đoạn thơ, phân tích, cảm nhận, phân
11


tích một chi tiết nghệ thuật, một phần tác phẩm, phân tích nhân vật, phân tích
các biện pháp tu từ, giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm, so sánh các tác phẩm.
Với hai hình thức kiểm tra và các dạng đề kể trên, người ra đề có thể kết
hợp sáng tạo ra các đề thi khác nhau.Vì vậy giáo viên cần cung cấp đầy đủ kiến
thức và rèn luyện kỹ năng thì chẳng khác nào các em có chìa khoá vạn năng
trong tay có thể giải được các dạng đề một cách chắc chắn.
2.3.4 Kinh nghiệm ôn tập qua các bộ đề thi của các năm trước:
Ngoài việc chuẩn bị và truyền thụ kiến thức cơ bản, kỹ năng thành thạo cho
người học sinh, người giáo viên cần phải sưu tầm những bộ đề thi vào lớp 10
của các năm học trước kề cận. Cách ra đề thường dựa trên cơ sở của những bộ
đề trước và người ra đề sáng tạo, đổi mới thêm. Nội dung đề chủ yếu xoay
quanh các kiến thức cơ bản của chương trình.
Khi ôn thi vào lớp 10 năm học 2015 - 2016 tôi đã dùng bốn bộ đề của năm
học trước kề cận từ năm 2011 - 2012; 2012- 2013; 2013 - 20154 2014 - 2015 để
luyện cho các em. Ngoài ra còn sưu tầm đáp án chấm thi của các bộ đề hướng
dẫn học sinh nắm chắc kiến thức và làm quen với các dạng đề thông dùng. Từ
mỗi dạng của bộ đề, ta có thể liên hệ mở rộng ra thêm đề bài khác tương tự với
đơn vị kiến thức đựoc giới hạn, để học sinh có kỹ năng thành thạo và linh hoạt
tránh tình trạng bỡ ngỡ, bối rối trước kiểu đề khác.
Ngoài việc ôn tập để học sinh nắm vững kiến thức cơ bản toàn diện trình

tự hệ thống đầy đủ của môn ngữ văn, giáo viên cần tổ cức cho các em luyện bộ
đề, làm nhiều bài tập có liên quan đến kiến thức các bài học thì khi đi thi học
sinh sẽ làm bài một cách tự tin, vững vàng.
2.3.5. Phương pháp làm bài thi:
Trước khi đi thi tôi thường nhắc nhở học sinh thêm một vấn đề cần lưu ý
khi làm bài. Trước hết đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu đề, nháp vào giấy
trước, sửa sai. Nếu là bài viết thì lập dàn ý, viết mở bài, tìm các ý chính của thân
bài, viết kết bài. Khi viết tránh tẩy xoá, sai chính tả, câu văn, đoạn văn phải rõ
ràng.
Trước khi nạp bài, học sinh cần lưu ý đọc soát lại bài thi phát hiện sai sót,
thiếu ý chưa làm cần bổ sung kịp thời tránh mất điểm. Thực tế có nhiều em làm
bài xong còn thời gian nhưng chủ quan ngại kiểm tra.Khi chấm bài giáo viên
mới thấy lỗi sai, những câu bỏ sót.
Trong kinh nghiệm chấm bài của mình có những em khi ra đề tóm tắt nội
dung tác phẩm nào đó (1đ) nhưng các em lại viết phần tóm tắt rất dài như lượng
một bài văn dài. Khi hết thời gian, đến phần viết bài văn phân tích tác phẩm (412


6đ) thì các em lại viết rất ngắn như tóm tắt tác phẩm. Đây cũng là kinh nghiệm
không nhỏ ảnh hưởng lớn đến chất lượng bài thi mà học sinh từng bị thất bại.
Lỗi đọc không kỹ đề, làm bài thiếu ý dẫn đến mất điểm.Ví dụ đề yêu cầu
xác định thành phần biệt lập và gọi tên thành phần đó nhưng các em chỉ nêu là
thành phần biệt lập không nêu rõ đó là thầnh phần tình thái hay gọi đáp.
Giáo viên cho các em nhận diện các dạng đề để khỏi nhầm lẫn dẫn tới lạc
đề, sai thể loại.
Ví dụ: Đề là Cảm nhận của em về nhân vật bé Thu trong truyện ngắn
"Chiếc lược ngà" ( Nguyễn Quang Sáng)
Nhưng khi làm bài các em lại viết cảm nhận về tác phẩm. Hay khi chỉ phân
tích một khổ thơ đầu của bài thơ thì có em phân tích cả bài..
Tóm lại yêu cầu bắt buộc là trước khi thi, các em phải đọc kỹ SGK.

- Đối với dạng bài phân tích một đoạn thơ hoặc một đoạn trích thì phải
nhắc lại vị trí của đoạn, khi phân tích phải đặt trong chỉnh thể tác phẩm để hiểu
hơn đoạn trích.
- Khi đề bài yêu cầu phân tích nhân vật hoặc những vấn đề liên quan đến
nội dung, các em cũng phải nhắc đến những yếu tố nghệ thuật mà tác giả sử
dụng để chuyển tải nội dung (nghệ thuật xây dựng tình huống truyện, nghệ thuật
miêu tả nhân vật…)
- Về thời gian làm bài, các em cần phân bố thời gian hợp lý cho các câu.
Không nên mất qúa nhiểu thời gian cho câu ít điểm, đến khi làm câu nhiều điểm
hơn lại không còn thời gian.
- Tránh tình trạng làm bài “đầu voi, đuôi chuột” sự phân bố thời gian không
hợp lý.
- Sự cẩu thả trong một bài văn rất dễ đem lại sự phản cảm cho người chấm,
dù bài làm tốt. Vì vậy, chữ các em có thể không đẹp nhưng phải dễ nhìn và trình
bày sạch sẽ
- Nên làm dàn ý trước khi viết bài để bài làm không bị lộn xộn, thiếu ý.
- Hãy viết văn giản dị, trong sáng. Tránh diễn đạt quá cầu kỳ, hoa mỹ bởi
rất dễ sa vào sáo rỗng.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Với 20 năm trong nghề, nhiều năm dạy môn ngữ văn 9 và ôn thi vào lớp 10
THPT, tôi đã cố gắng tìm tòi, vận dụng tích luỹ được nhiều kinh nghiệm ôn thi
vào lớp 10.

13


Kết quả thực tế đã có nhiều thành công nhất định. Chưa năm nào có học
sinh bị điểm không môn văn. Học sinh làm bài tương đối tốt, điểm thi môn văn
rất cao hầu hết từ điểm 5 trở lên, có nhiều điểm cao từ 7 điểm đến 9 điểm lại là
môn hệ số hai nên góp phần làm tăng tỉ lệ đậu vào cấp III công lập của nhà

trường lên cao xếp thứ tư, thứ nhất của tám xã vùng biển.Đặc biệt có những năm
lớp thường nhưng tỉ lệ đậu môn Ngữ văn lên tới 82%( Từ điểm 5 trở lên ). Cụ
thể:
Năm học 2012-2013

Năm học 2013-2014

Năm học 2016-2017

Đạt 53 %

Đạt 70 %

Đạt 82%

Xếp thứ 5

Xếp thứ tư

Xếp thứ nhất

Trong đó có nhiều em đạt điểm 8, 9 như em Tuấn Anh, Hồng, em Hợp, em
Tuyết....Một số em đạt điểm khá cao 42, 43 điểm( tổng ba môn).
Đó là một thành tích không nhỏ đã đóng góp vào thành tích chung của
trường, địa phương, của ngành. Quan trọng hơn đó là niềm vui của người giáo
viên đứng trên bục giảng, là nhân tố chấp cánh cho tương lai của các em được
bay cao bay xa mà trách nhiệm của người giáo viên cần phải làm.
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3.1. Kết luận:
Trên đây là một số kinh nghiệm ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn mà tôi đã

tìm tòi, vận dụng và sáng tạo vào thực tế giảng dạy trong những năm học qua và
đã cho những kết quả khả quan. Biết rằng đó là công việc mà giáo viên dạy Ngữ
văn 9 đều làm thường xuyên. Nhưng không phải ai cũng làm tốt được. Bởi vì
thực tế đã cho thấy rõ điều đó. Cũng có năm chất lượng vào lớp 10 rất thấp. Đó
là sự kết hợp tổng hợp các kinh nghiệm, kỹ năng cần thiết. Nếu ta không làm tốt
các kỹ năng trên thì khó đạt được kết quả cao.
Đây chỉ là một kinh nghiệm nhỏ mà tôi tích luỹ được, trong đồng nghiệp
chúng ta còn có nhiều người có sáng kiến kinh nghiệm hay hơn mà họ gặt hái
được nhiều thành công cao hơn mà tôi cũng cần tìm hiểu, sưu tầm, học hỏi kinh
nghiệm để chúng ta ngày một nâng cao chất lượng ôn thi vào lớp 10 hơn nữa.
Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục huyện nhà. Rất mong được sự đóng
góp, chỉ bảo thêm của các đồng nghiệp.
3.2. Kiến nghị:
- Phòng GD&ĐT cần tổ chức các buổi chuyên đề, tập huấn về ôn thi vào
lớp 10 THPT.
14


XÁC NHẬN CỦA

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 4 năm 2017

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Hiệu trưởng


Người viết

Đỗ Đăng Sơn

Nguyễn Thị Hằng

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa văn 9 Tập 1,2 NXB GD
2. Sách giáo viên văn 9 Tập1,2 NXB GD
3. Sách thiết kế bài giảng lớp 9 Tập 1,2 NXB GD
4. Tài liệu ôn thi vào lớp 10 THPT của các năm học.
5. Các đề thi vào lớp 10 của các năm học trước do Sở GD Thanh Hóa ra đề.

16


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HOẰNG HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM ÔN THI
VÀO LỚP 10 THP MÔN NGỮ VĂN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hằng
Chức vụ: Giáo viên

Đơn vị công tác: Trường THCS Lê Quang Trường
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2017
17



×