Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 6 làm tốt bài văn tả cảnh góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn ngữ văn ở trường TH THCS thiệu minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.15 KB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Cùng với các môn học khác trong nhà trường môn Ngữ văn có một vai trò
quan trọng giáo dục tư tưởng tình cảm cho học sinh. Nhà văn hào Nga Mácxim
Gor-ki nói: “Học văn là học làm người” học sinh học tốt môn Ngữ văn sẽ có tác
động tốt đến việc học các môn khác và ngược lại. Chương trình đã nêu rất rõ mục
tiêu tổng quát của môn Ngữ văn: “ Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong
việc thực hiện mục tiêu chung của trường THCS, góp phần hình thành những con
người có trình độ học vấn phổ thông cơ sở. Môn Ngữ văn luôn luôn là phương tiện,
là người bạn tốt trên đường đời của mỗi học sinh, giúp các em sống tốt hơn, đẹp
hơn.
Để đảm nhận được vai trò đó phân môn Tập làm văn đóng vai trò quan trọng
trong việc cung cấp các tri thức cơ bản về các kiểu văn bản như: văn tự sự, văn bản
miêu tả, nghị luận, thuyết minh, biểu cảm để học sinh có vốn kiến thức có phương
tiện cần thiết để bộc lộ những tư tưởng tình cảm của bản thân, hình thành các kĩ
năng nghe, nói ,đọc viết. Hai kiểu văn bản được chú trọng trong chương trình lớp 6
và đi sâu đó chính là tự sự và miêu tả. Rèn tốt hai kiểu văn này vừa giúp các em
cảm nhận được thế giới quan vừa rèn luyên được năng lực viết văn. Là cơ sơ để
học tốt các kiểu văn bản khác. Tuy nhiêu trong quá trình rèn luyện học sinh vẫn
thấy khó nhất đó là văn miêu tả đặc biệt là văn tả cảnh và cho đến nay vẫn chưa có
một cách thức, con đường để giúp học sinh thực hành. Học sinh còn loay hoay
trong cách viết, trình bày thành bài văn.
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy lớp 6 phân môn Tập làm văn dạy văn
tự sự thì các em hào hứng say mê, dễ viết nhưng đến văn miêu tả đặc biệt là
văn tả cảnh thì năng lực của các em hạn chế. Tại sao học sinh làm tốt văn tả
cảnh ít như vậy, trong khi Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của chúng ta, các em khi
lên một tuổi đã biết nói, năm sáu tuổi đã biết đọc, đã biết viết Tiếng Việt.
Chúng ta đã tự hào Tiếng Việt ta phong phú, giàu hình ảnh, đa dạng về nghĩa,
có sức biểu cảm sâu sắc. Nhưng một thực tế làm người dạy học trăn trở vì học
sinh làm tốt bài văn nói chung, tả cảnh nói riêng còn quá khiêm tốn. Khi chấm
bài văn, tôi thấy đa số học sinh đã biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt


kê một cách khô khan, nghèo nàn về từ, diễn đạt rườm rà tối nghĩa. Vậy làm
thế nào để nâng cao chất lượng dạy - học Tập làm văn nhất là văn tả cảnh cho
học sinh lớp 6? Trên thực tế tôi đã đọc nhiều tài liệu, tham khảo nhiều đồng
nghiệp nhưng không thấy có tài liệu nào, ý kiến nào bàn sâu vấn đề này. Sách
giáo viên cũng chưa có những biện pháp cụ thể để hướng dẫn thực hiện quá
trình dạy tả cảnh cho học sinh. Cũng đã có một số sáng kiến đề cập đến các
biện pháp tuy nhiên khi ứng dụng vào thực tế còn rất nhiều những vướng
mắc. Đây là tồn tại chung trong quá trình dạy- học các tiết tập làm văn tả
cảnh. Tạo nên rất nhiều mâu thuẫn trong việc cung cấp lý thuyết và thực hành
ở học sinh. Xuất phát từ những lí do đó tôi thực hiện sáng kiến: “Một số biện
1


pháp giúp học sinh lớp 6 làm tốt bài văn tả cảnh góp phần nâng cao chất lượng
dạy - học văn tả cảnh ở Trường TH &THCS Thiệu Minh” .
1.2. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này bản thân tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm dạy tiết
tập làm văn tả cảnh nhằm mục đích giúp giáo viên có những phương pháp hiệu quả
trong việc tổ chức giờ làm văn cho học sinh. Học sinh hứng thú học tiết tả cảnh.
biết huy động kiến thức về nhiều mặt như hiểu biết cuộc sống, biết sử dụng các kĩ
năng viết bài như kĩ năng định hướng giao tiếp (nhận diện đặc điểm bài văn, phân
tích đề bài); xác định yêu cầu kĩ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp (quan
sát đối tượng, xác định đối tượng, tìm ý, sắp xếp ý); Kĩ năng thực hiện hoạt động
giao tiếp (chọn từ, tạo câu dựng đoạn liên kết đoạn thành bài văn); Kĩ năng sử dụng
các biện pháp nghệ thuật. Qua đó, giúp các em mở rộng vốn sống rèn luyện tư duy,
bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẫm mỹ, từ đó hình thành và phát triển nhân cách cho
các em.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Sáng kiến tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
- Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt văn tả cảnh góp phần nâng cao chất

lượng dạy học văn tả cảnh ở Trường TH & THCS Thiệu Minh.
- Đối tượng áp dụng đề tài: Học sinh lớp 6 Trường TH &THCS Thiệu Minh.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài bản thân tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết về văn tả cảnh.
- Điều tra, vấn đáp khảo sát tình hình thực tế về viết văn tả cảnh ở học sinh.
- Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, số liệu.
- Phương pháp thực nghiệm.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Văn tả cảnh
Văn miêu tả là loại văn giúp người đọc người nghe hình dung những đặc
điểm tình cảm nổi bật sự vật, con người, phong cảnh làm cho đối tượng hiển hiện
trước mắt người đọc người nghe. Tả cảnh là gợi tả những bức tranh về thiên nhiên
hay cảnh sinh hoạt gợi ra trước mắt người đọc về đặc điểm riêng của cảnh [1].
2.1.2. Phương pháp tả cảnh.
Phương pháp tả cảnh chính là biết chọn vị trí quan sát, lựa chọn đối tượng tả
và biết sử dụng các kỹ năng dùng từ tạo câu, lập ý, lập dàn ý sử dụng các biện pháp
nghệ thuật làm sinh động nổi bật đối tượng được tả [2].
Văn tả cảnh có thể xem là một văn bản nghệ thuật có sử dụng ngôn ngữ văn
chương để miêu tả sự vật hiện tượng một cách cụ thể sinh động “Vẽ lại một bức
tranh phong cảnh bằng lời.” Bất kể hiện tượng nào trong thực tế đời sống cũng có
thể miêu tả được, tuy nhiên bằng những cảm xúc khác nhau của mỗi người, mỗi
hiện tượng lại được miêu tả với cách thể hiện riêng qua việc quan sát, sử dụng từ
ngữ và cách diễn đạt khác nhau. Văn không thể hay nếu học sinh chưa có hứng thú
học văn, chưa có phương pháp làm bài, chưa có động lực học tốt. Để làm một bài

văn hay đòi hỏi học sinh phải biết vận dụng các kiến thức đã học và vốn sống để có
tư liệu viết văn. Bài văn tả cảnh hay có giá trị không phải chỉ ở chỗ trình bày mạch
lạc, đủ ý mà cái quan trọng hơn đó là sức truyền cảm, sự truyền cảm này có được là
do tính chân thực, tính nhân bản, sự tinh tế cao hơn nữa là cái mới, cái riêng, là chất
văn, hơi văn. Vì vậy để viết được bài văn hay, học sinh cần rèn luyện sao cho có
được năng lực quan sát, nhận thấy được cái đặc trưng, cái riêng biệt của cảnh vật.
Nói về vấn đề này nhà văn Phạm Hổ nhận xét “Miêu tả một cảnh mà ai cũng miêu
tả giống ai thì không ai thích đọc. Vì vậy ngay trong quan sát để miêu tả, người viết
phải tìm ra cái mới, cái riêng. Nhìn một bầu trời đầy sao mà Huy-gô thấy như một
cánh đồng lúa chín, ở đó người gặt đã bỏ quên lại một cái liềm con là vầng trăng
non. Mai-a-cốp-xki thì lại thấy những ngôi sao kia như những giọt nước mắt của
người da đen. Còn Ga-ga-rin thì những vì sao là những hạt giống mới mà loài
người vừa gieo vào vũ trụ. Ba hình ảnh cánh đồng lúa chín, những giọt nước mắt,
những hạt giống mới rất khác nhau nhưng đều đúng và đều hay và rất riêng, rất mới
[3].
2.1.3. Cách làm văn tả cảnh.
Bài văn tả cảnh hay giàu cảm xúc, các em phải có được năng lực cảm thụ,
để cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh vật khi quan sát, năng lực thu thập thông tin,
tưởng tượng liên tưởng để nhân hóa, so sánh sự vật với những gì gần gũi thân thuộc
và các năng lực biểu đạt bố cục, tạo lập phong cách viết văn độc đáo làm rung động
tâm hồn người đọc.Văn tả cảnh thường có bố cục 3 phần: Mở bài (Giới thiệu cảnh
3


được tả).Thân bài (Tập trung tả cảnh vật theo một thứ tự. Kết bài (Thường phát
biểu cảm nghĩ về cảnh được tả)[1].
2.1.4. Các bước làm văn tả cảnh
Được rèn kĩ năng qua 4 bước: Tìm hiểu đề, tìm ý. Lập dàn bài. Viết bài. Đọc
và sửa chữa. Phải nắm được mục tiêu, vai trò của từng bước để rèn luyện kĩ năng
khác cho học sinh.

Văn tả cảnh là một dạng văn khó đặc biệt với đối tượng là học sinh lớp 6 và
đặc điểm của học sinh lớp 6 là ham chơi hơn ham học nhanh nhớ nhưng cũng
chóng quên. Khi dạy giáo viên áp đặt hoặc bắt buộc học sinh làm theo mẫu, miêu tả
theo lời văn mẫu của thầy cô các em sẽ nhàm chán, không thích học mà có thể
chúng ta làm mất đi ở các em sự cảm nhận riêng, cảm xúc riêng, biến tất cả các bài
văn của các em thành một loạt giống nhau rập khuôn, máy móc. Do vậy giáo viên
cần tìm tòi, học hỏi để có phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lý lứa tuổi, phù hợp với đặc điểm môn học giúp các em học tập tích
cực sáng tạo và chủ động nhằm đạt kết quả tốt nhất.
2.2 Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Năm 2016-2017 được BGH nhà trường phân công dạy Ngữ văn lớp 6, trước
khi áp dụng sáng kiến king nghiệm tôi đã tiến hành khảo sát việc làm văn tả cảnh
của học sinh với đề bài: Em hãy tả cơn mưa rào đầu mùa hạ.
Tôi đã thu được kết quả như sau:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
Lớp/ss
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%

6/38
0
0
6
15.8 15
39.5 14
36.8 3
7.9
Qua kết quả khảo sát thể hiện ở bảng số liệu trên tôi không khỏi không trăn
trở về khả năng làm văn tả cảnh ở các em. Hầu như các em chưa làm tốt bài văn tả
cảnh, đa số các em đã biến bài văn tả cảnh thành bài văn kể, liệt kê các sự vật hiện
tượng, nhớ đến đâu viết đến đó, học sinh chưa có kĩ năng làm văn dẫn đến chất
lượng học tập thấp.
Từ kết quả đó đã cho thấy một thực trạng về chất lượng các tiết học làm văn
tả cảnh đó là:
Việc dạy của giáo viên: Trong nhận thức của giáo viên cũng xem các tiết Tập
làm văn đặc biệt dạy văn tả cảnh là dạy theo khô khan, khó dạy. Tâm lý như vậy
nên đến dạy cũng chỉ dạy qua loa, chiếu lệ với những hoạt động tẻ nhạt. Không đầu
tư các dạng bài tập phát huy năng lực viết cho học sinh Giáo viên chưa chú trọng
đến việc rèn luyện các kĩ năng làm văn cho học sinh nên còn lúng túng trong khâu
soạn bài cũng như thực hiện các quy trình lên lớp. Giờ học thường không gây được
ấn tượng, học sinh hầu như không hứng thú trong việc học.
Việc học của học sinh: Chính cách dạy như thế của giáo viên dẫn đến cách
học của học sinh cũng qua loa chiếu lệ. Các em cũng chỉ thực hành theo khuôn mẫu
có sẵn. Học sinh chưa phát huy được các kĩ năng làm văn như quan sát. Năng lực
liên tưởng tượng chưa cao, vốn sống nghèo nàn. Khi học chưa có ý thức tích lũy
4


cũng không biết tích lũy thông tin ở đâu. Khi dựng đoạn, học sinh không biết bắt

đầu từ đâu kết thúc thế nào, viết các đoạn không đúng cấu trúc. Rất ít học sinh tìm
đựơc những từ miêu tả đúng, hay, chính xác, dùng từ miêu tả không hợp lí, viết câu
không diễn tả được cảm xúc. Nhiều học sinh chưa tìm được điểm nhấn cho bài viết,
chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả khiến đối tượng miêu
tả không được nổi bật. Năng lực tưởng tượng, liên tưởng chưa cao, bài viết chủ yếu
là bắt chước, thiếu hình ảnh sinh động, xa vào kể mà thiếu sự gợi cảm, gợi tả.
Vì vậy, văn của các em thiếu cảm xúc riêng, thiếu sự chân thực. Bài làm văn
đa số là rập khuôn theo trình tự giống nhau, thiếu vắng những bài văn phá cách cấu
trúc, mang nét riêng độc đáo.
Để khắc phục tình trạng trên, tôi mạnh dạn đổi mới, lựa chọn một số biện
pháp giúp học sinh làm tốt văn miêu tả.
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Biện pháp 1: Củng cố và khắc sâu lý thuyết về kiểu bài văn tả
cảnh.
Trọng tâm của chương trình học kỳ 2 lớp 6 là văn miêu tả trong đó tả cảnh
được xem là khó nhất. Mặc dù các em đã được làm quen ở lớp 6 được nhưng thời
gian sẽ làm các em nhanh chóng lãng quên nên muốn học sinh làm tốt trước hết
phải cho học sinh nắm vững kiến thức lý thuyết về văn tả cảnh đặc biệt là phương
pháp tả cảnh. Khắc sâu cho học sinh từ tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý và viết bài
hoàn chỉnh
Tìm hiểu đề chính là phải đọc kĩ đề bài, gạch chân những từ quan trọng. Sau
đó xác định đối tượng miêu tả, phạm vi giới hạn. Xác định và phân biệt từ dạng đề
dễ đến khó.
Tìm ý: Tức là xác định các vị trí tả cảnh.Những nhận xét đánh giá khái quát
về nội dung của cảnh đó. Sắp xếp theo một trình tự. Miêu tả chi tiết các cảnh nổi
bật theo trình tự đó.
Lập dàn bài: sẽ là phần dự kiến các ý trong phần mở bài (Nêu đối tượng),
thân bài (Tả chi tiết theo trình tự) kết bài (Cảm xúc của em về cảnh được tả).
2.3.2. Biện pháp 2: Rèn các kỹ năng để làm tốt văn tả cảnh
2.3.2.1. Rèn kỹ năng quan sát.

Quan sát cảnh vật là bước quyết định thành công của bài văn tả cảnh.Việc
quan sát trực tiếp lại càng cần thiết hơn đối với học sinh đầu cấp như lớp 6 vì đặc
điểm tư duy của các em là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Để quan
sát có hiệu quả, người giáo viên cần giúp các em chọn ra một điểm nhìn, một góc
nhìn hợp lý. Mặt khác, cách nhìn, cách tưởng tượng của trẻ thơ khác với người lớn
và của mỗi em là khác nhau. Tuy nhiên trong quá trình dạy giáo viên nếu giáo viên
chỉ nhắc nhở chung chung là muốn miêu tả tốt cần phải quan sát tốt và chỉ ra một
số vị trí quan sát gắn với các đề cụ thể nên học sinh cũng có hiểu nhưng trừu tượng.
Chính vì vậy thay vì cho học sinh quan sát trên sách vở, máy chiếu tôi luôn sắp xếp
cho học sinh quan sát thực tế. Việc quan sát thực tế được tiến hành theo các bước
sau:
5


Bước 1 : Công tác chuẩn bị:
Chuẩn bị mọi điều kiện cho việc tổ chức quan sát trực tiếp như cảnh sẽ được
quan sát, dụng cụ hỗ trợ cho quan sát, hệ thống câu hỏi gợi ý cho học sinh quan sát,
giấy bút để ghi chép những điều quan sát được.
.
Bước 2 : Tiến hành quan sát
Cách làm mới của tôi là thay vì những câu hỏi thông thường tôi phân nhóm
và cho học sinh thi tìm đặc điểm của cảnh. Với câu hỏi đó sẽ kích thích được trí
tưởng tượng của các em. Các em sẽ huy động được toàn bộ giác quan để tìm ra cái
thần của cảnh và mỗi đặc điểm tìm được sẽ là dấu ấn vừa của cá nhân vừa của tập
thể chứ không bị áp đặt.
Bước 3: Cho học sinh báo cáo kết quả sau khi quan sát:
Sau khi quan sát giáo viên cho học sinh báo cáo kết quả quan sát được.
Ví dụ: Để chuẩn bị làm bài văn: “Cảnh khu vườn vào một buổi sáng mùa thu”:
Sau khi làm tốt công tác chuẩn bị đó là dẫn học sinh đến vị trí quan sát. Tôi
phân nhóm đưa câu hỏi: Các nhóm hãy tìm các đặc điểm nổi bật của khu vườn

vào mùa thu.
Kết quả thu được sẽ là: Nhóm khái quát được cảnh khu vườn tươi tốt, đầy
hoa thơm trái ngọt, thanh bình, dân giã. Nhóm thu được: cảnh giàn thiên lý ngào
ngạt dậy hương thơm buổi sớm, hình ảnh cây cau với những tàu lá già dang rộng,
đọt lá non cao vút, vườn hoa đua sắc vàng thu cùng ong bướm. Nhóm lại cho kết
quả: Hàng cây ăn quả thơm lựng chuối tiêu trứng quốc đốm vàng, Trái na mở mắt
nhìn nắng thu, cây hồng trái chín như chấm son trên nền trời thu.
Với biện pháp tổ chức cho học sinh quan sát trực tiếp cảnh sẽ tả như trên, tôi
thấy học sinh rất hứng thú tham gia quá trình quan sát, thu thập được nhiều ý, có
nhiều ý độc đáo riêng biệt đó là nguồn tư liệu quý trong học văn. Sau cho học sinh
quan sát trực tiếp dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh làm văn tảnh cảnh
thành công hơn nhiều, bài viết có nhiều hình ảnh chân thực và có cảm xúc.
2.3.2.2 Rèn kỹ năng tạo từ, đặt câu.
Để làm bài văn tả cảnh hay, giàu hình ảnh giàu cảm xúc, học sinh phải có
một vốn từ phong phú và quan trọng hơn là phải biết lựa chọn tinh tường, sao cho
giữa một hệ thống các từ đồng nghĩa, gần nghĩa, chọn được từ ngữ đúng, hay, có
sức gợi tả, gợi cảm, học sinh phải biết dùng những từ ngữ đó viết những câu văn
miêu tả giàu hình ảnh, giàu cảm xúc thì sức gợi cảm của bài văn mới tốt. Nhưng
thực tế, đại đa số học sinh khi làm bài văn tả cảnh còn nghèo nàn về vốn từ, không
biết sử dụng các từ ngữ đặc sắc, không biết viết câu có hình ảnh, không biết cách
dùng các kiểu câu phù hợp, còn đặt câu sai, không biết diễn đạt mạch lạc nên bài
văn thường khô khan cảm xúc, diễn đạt lủng củng, không thoát ý. Vì vậy tôi đưa ra
biện pháp này để giúp học sinh giàu hơn về vốn từ, đặt câu đúng và có sức gợi tả,
gợi cảm.
Bước 1: Làm cho học sinh hiểu nghĩa của từ, sức biểu cảm của các từ
tượng thanh, tượng hình.
6


Phân tích cho học sinh biết rõ muốn làm nổi bật hình ảnh của đối tượng

miêu tả, cần chú ý nhiều đến hệ thống từ tượng hình (tả màu sắc, hình dáng, trạng
thái...) muốn làm nổi bật không khí của cảnh thì chú ý tới hệ thống từ tượng thanh
(mô phỏng âm thanh của tự nhiên)...
Bước 2 : Đưa ra bài tập đa dạng để làm giàu vốn từ và cách sử dụng hợp
lí cho học sinh.
Giáo viên đưa ra các dạng bài tập như điền từ vào chỗ chấm, tìm từ lạc trong
nhóm từ, tìm những từ ngữ gợi hình, gợi thanh, các bài tập giải nghĩa từ... Nhưng
khi xây dựng hệ thống bài tập bổ trợ cần lưu ý: các dạng bài tập đưa ra phải đảm
bảo tính chính xác về cấu tạo ngữ pháp, tính nghệ thuật trong ngôn từ, phải phát
huy được tính sáng tạo của học sinh, phải có nhiều hướng giải quyết khác nhau, tạo
ra sự phong phú trong tư duy của học sinh và trong đáp án của bài.
* Ví dụ: Bài tập bổ trợ rèn kĩ năng sử dụng và làm giàu vốn từ ngữ:
Bài 1. Dạng bài tập tìm từ
Tìm từ nghứ miêu tả sóng nước, tiếng mưa.
- Sóng nước: cuồn cuộn, nhấp nhô, lăn tăn, rì rầm, rì rào, lô nhô, ì oạp...
- Tiếng mưa: lẹt đẹt, rào rào, đồm độp, lùng bùng, ồ ồ....
Sau khi học sinh hoàn thành bài, giáo viên thực hiện hoạt động định hướng
cách sử dụng các từ vừa tìm được: Các từ tìm được như vậy nhưng không phải lúc
nào cũng điền vậy phải lựa chọn sao cho hợp lí. Ví dụ : Tả sóng biển lúc biển động
thì phải dùng từ cuồn cuộn; tả tiếng sóng biển vỗ vào bờ đá thì phải dùng từ ì oạp;
tả tiếng sóng biển vọng lại trong đêm mà nghe từ xa thì phải dùng từ rì rầm...hay
tiếng mưa rào cũng có sự phân biệt rõ: mưa giáo đầu thì lẹt đẹt; mưa trên mái tôn
thì rào rào; mưa đập vào phên nứa thì đồm độp; mưa đập vào tàu lá chuối thì lùng
bùng; mưa từ mái tranh giọt đổ xuống sân thì ồ ồ....
Cách định hướng sử dụng từ giáo viên có thể gợi ý: Chẳng hạn: Để miêu tả
ánh đèn in bóng xuống mặt nước em chọn từ tả độ sáng nào? (loang loáng, lung
linh); hay: Khi tả ánh trăng, ánh nắng lồng trong lá em sẽ dùng từ nào? (lung linh,
lấp lánh; hoặc: “Lập lòe” là từ để miêu tả ánh sáng của sự vật nào? (đèn, đom đóm)
Bài 2. Dạng bài tập thay từ
Thay những từ in nghiêng trong các câu sau bằng các từ ngữ gợi tả hơn:

a.Mặt trời chiếu những tia nắng vàng xuống mặt đất.
b.Tiếng sấm sét vang cùng tia chớp sáng ngang bầu trời khiến mọi người giật
mình, sợ hãi.
Với dạng bài tập này giáo viên gợi ý để học sinh tìm từ láy hay những từ để
nhân hóa sự vật càng tốt.
Ví dụ: Có thể thay như sau:
a. Mặt trời ném những tia nắng chói chang xuống mặt đất.
b. Tiếng sấm sét đùng đùng cùng tia chớp loang loáng, rạch ngang bầu trời
khiến mọi người giật mình, sợ hãi.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh biết viết câu văn đúng ngữ pháp, có hình
ảnh, có sức biếu cảm, sử dụng câu dài, câu ngắn phù hợp.
7


Trong khi làm văn, học sinh còn đặt câu chưa đúng, câu không có hình ảnh,
không có sức gợi tả, gợi cảm, dùng câu dài câu ngắn chưa phù hợp. Vì vậy giáo
viên giúp học sinh viết câu văn đúng ngữ pháp nghĩa là bản thân em phải xác định
được đâu là chủ ngữ, đâu là vị ngữ của câu đó, đâu là các vế trong câu ghép. Phải
biết sử dụng câu dài, câu ngắn để miêu tả cho phù hợp.
* Vậy khi nào dùng câu dài?
- Đó là khi miêu tả thiên nhiên êm đềm, yên ả:
Ví dụ: “Trên những bãi đất phù sa nụ hồng mơn mởn, các vòm cây quanh năm
xanh um, đã dần dần chuyển màu lốm đốm như được rắc thêm một lớp bụi phấn
hung hung vàng: Các vườn nhãn, vườn vãi đang trổ hoa và hai bên con sông nước
êm đềm trong vắt, không một tấc đất nào hở.” (Nguyễn Đình Thi, “Vỡ Bờ”).[3]
- Khi miêu tả những hành động diễn ra nhẹ nhàng hoặc nối tiếp nhau:
Ví dụ: “Mùa thu, gió thổi mây về phía cửa sông, mặt nước phía dưới cầu Tràng
Tiền lại đen sẫm lại, trong khi phía trên này lên mãi gần Kim Long mặt sông sáng
màu ngọc lan in những vệt mây hồng rực rỡ của bầu trời buổi chiều.” ( Hoàng Phủ
Ngọc Tường)[3]

- Khi diễn tả cảm xúc con người đang dâng trào trước cảnh vật:
Ví dụ: “ Những con nhạn bay thành đàn trên trời cao, như một đám mây mỏng
lướt qua thôn làng, gieo xuống những tiếng kêu mát lành, trong veo, sương sớm
khiến tim tôi vang lên dịu dàng những câu thơ không nhớ đã thuộc tự bao giờ”.[3]
* Khi nào dùng kiểu câu ngắn?
- Đó là khi cần miêu tả những hoạt động diễn ra nhanh ngọn, liên tục, hoặc
những tình huống bất ngờ:
Ví dụ: “Mưa đến rồi, lẹt đẹt, lẹt đẹt, mưa giáo đầu. Những giọt nước lăn xuống
mái phên nứa: mưa thực rồi. Nước xiên xuống, lao vào bụi cây. Lá đào, lá na, lá sói
vẩy tai run rẩy.” (Tô Hoài, “Kinh nghiệm viết văn miêu tả” )
Để giúp các em đặt câu đúng ngữ pháp, đặt được câu dài, câu ngắn có hình ảnh,
có sức gợi tả, gợi cảm, sử dụng cho phù hợp giáo viên đưa ra các dạng bài tâp: Đặt
câu với từ cho trước, mở rộng câu, rút gọn câu.
Ví dụ: Bài tập bổ trợ rèn kĩ năng đặt câu và sử dụng câu.
Bài 1: Dạng bài tập giúp học sinh đặt câu đúng ngữ pháp. Em hãy đặt câu miêu
tả với mỗi từ sau: hiu hiu, ào ào, lổm ngổm, lộp độp, tí tách, thơm ngát, thơm lừng.
Dạng bài tập này giúp các em đặt câu đúng ngữ pháp, với mỗi câu học sinh đặt
được, giáo viên phân tích cấu tạo câu, chỉ ra cho các em thấy câu nào đúng, câu nào
sai, sai vì sao. Tuy bài chỉ yêu cầu các em đặt câu đúng nhưng giáo viên cũng
khuyến khích các em đặt câu hay có sức gợi tả, gợi cảm lớn.
Bài 2. Dạng bài tập mở rộng câu :
Em hãy mở rộng thành phần câu các câu sau đây:
a. Mây trôi.
b. Cánh đồng lúa rất rộng.
Các câu trên chúng ta thường hay gặp trong các bài văn của học sinh, các em
thường viết các câu kể không có hình ảnh sinh động. Vì vậy, khi thực hiện luyện
8


dạng bài tập về câu, giáo viên nên đặt câu hỏi gợi mở có sử dụng nhiều câu hỏi như

thế nào? để gợi tả đặc điểm, tính chất của sự vật để giúp các em mở rộng câu.
Ví dụ: Mây màu gì? (màu trắng, hồng, đen kịt,...). Trôi như thế nào? (lững
lờ, thong thả) ở đâu? (bầu trời). Bầu trời như thế nào? (xanh thẳm, cao vời vợi).
Từ những gợi ý trên học sinh có thể diễn đạt câu trên hay hơn bằng nhiều
cách khác nhau theo sự tưởng tượng riêng:
a. Mây trắng lững lờ trôi trên bầu trời xanh thẳm.
b. Trên bầu trời cao vời vợi, những đám mây hồng đang thong thả trôi.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh mở rộng câu như sau:
- Mở rộng bộ phận chủ ngữ: Cách đồng lúa ở quê em rộng.
- Mở rộng vị ngữ: Cách đồng rộng mênh mông như tấm thảm khổng lồ màu
vàng trải dài tít tận chân trời.
- Mở rộng trạng ngữ: Vào vụ lúa chín cánh đồng rộng mênh mông như tấm
thảm khổng lồ màu vàng trải dài tít tận chân trời.
Sau khi mở rộng câu xong, chúng ta cho học sinh so sánh với câu ban đầu để
các em được câu văn hay và có sức gợi tả, gơi cảm.
Với cách làm đó sẽ rèn được kĩ năng sử dụng từ ngữ, rèn được kĩ năng viết
câu sử dụng câu, giúp học sinh tự tin. Khi làm bài các em biết sử dụng từ ngữ hợp
lí, viết câu đúng có hình ảnh, có cảm xúc, bài văn tả cảnh của các em trôi chảy
mạch lạc hẳn lên.
2.3.2. 3. Rèn kỹ năng dựng đoạn
Dựng đoạn văn trong bài văn tả cảnh là vô cùng quan trọng. Một bài văn tả
cảnh bao gồm một số đoạn văn. Bài văn hay, giàu hình ảnh sinh động phải có các
đoạn văn hay giàu hình ảnh sinh động. Các đoạn văn trong bài lộn xộn thì bài văn
lộn xộn. Nhưng trong thực tế học sinh chưa có ý thức dựng đoạn, chưa rèn luyện
khả năng dựng đoạn, chưa có ý thức viết văn theo đoạn mà các em hầu như nhớ
đến đâu viết đến đó dẫn đến các ý trong bài không logic.Với cách làm sau đậy sẽ
khắc phục được tình trạng này
Bước 1: Phân tích cho học sinh biết và hiểu yêu cầu và cấu trúc một đoạn
văn:
Một đoạn văn bao gồm một số câu, mỗi đoạn văn nêu lên một ý và nó bao

gồm 3 phần:
- Mở đoạn: thường là 1 câu có chức năng nêu lên chủ đề của đoạn văn để các
câu khác sẽ triển khai làm sáng tỏ, ngoài ra nó còn có chức năng liên kết văn bản.
- Thân đoạn: Thân đoạn bao gồm một số câu tiếp theo có chức năng triển
khai, làm sáng tỏ chủ đề của đoạn hay nêu lên sự việc, sự kiện làm tiền đề để rút ra
kết luận khái quát trong câu kết đoạn.
- Kết đoạn: Thường là 1 câu có chức năng đúc kết, khái quát hay mở rộng
chủ đề của đoạn. Xuất hiện ở cuối đoạn.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn theo cấu trúc:
Trước hết tôi đưa đoạn văn mẫu yêu cầu học sinh nhận diện và xác định mở
đoạn thân đoạn và kết đoạn
9


“Biển luôn thay đổi tùy theo sắc mây trời. Trời xanh thẳm, biển cũng thẳm
xanh, như dâng cao lên chắc nịch. Trời dải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi
sương. Trời âm u mây mưa, biển xám xịt nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục
ngầu giận dữ... Như một con người biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt lạnh lùng, lúc sôi
nổi, hả hê, lúc đăm chiêu, gắt gỏng.” (Vũ Tú Nam) [3]
Căn cứ vào lý thuyết học sinh sẽ xác định được:
Câu mở đoạn: “Biển luôn thay đổi tùy theo sắc mây trời. Là một câu nêu lên
chủ đề của đoạn văn đó là Sự thây đổi màu sắc của biển theo màu sắc mây trời.
Thân đoạn: “Trời xanh thẳm, biển cũng thẳm xanh, như dâng cao lên chắc
nịch. Trời dải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa,
biển xám xịt nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giận dữ...”. Thân đoạn
bao gồm bốn câu là những câu có chức năng triển khai, làm sáng tỏ sự thay đổi
màu sắc của biển theo màu sắc mây trời là chủ đề của đoạn đã được nêu ở câu mở
đoạn.
Kết đoạn: là 1 câu: “Như một con người biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt lạnh
lùng, lúc sôi nổi, hả hê, lúc đăm chiêu, gắt gỏng.” có chức năng đúc kết sự thay đổi

màu sắc của biển theo màu sắc mây trời.
Để khắc sâu về cấu trúc đoạn tôi tiếp tục cho học sinh thực hiện đề cụ thể
Ví dụ đoạn văn tả dòng sông vào đêm trăng đẹp.
Trước khi viết đoạn yêu cầu học sinh làm rõ các ý sau:
- Xác định chủ đề, viết câu mở đoạn nêu lên chủ đề.
- Viết thân đoạn: Bao gồm một số câu có chức năng triển khai, làm sáng tỏ
chủ đề của đoạn hay nêu lên sự việc, sự kiện.
- Viết câu kết đoạn: 1 câu có chức năng đúc kết, khái quát hay mở rộng chủ
đề của đoạn.
Học sinh phân tích yêu câu của đề để đi đến lập luận: vì đêm trăng đẹp nên
thường cảnh khác cũng đẹp theo vì vậy nội dung của đoạn là “cảnh dòng sông
trong đêm trăng đẹp.Vậy câu mở đoạn sẽ nêu khái quát dòng sông trong đêm trăng
đẹp và các câu của phần thân đoạn sẽ triển khai làm rõ hơn về dòng sông trong đêm
trăng đẹp, không nói sang ý khác để tránh lôn xộn. Câu kết đoạn sẽ khái quát lại
hay mở rộng hơn.
Ví dụ : Dòng sông vào đêm trăng thật đẹp và nên thơ. Dưới ánh trăng và lớp
sương bàng bạc, dòng sông như được trải rộng mênh mông. mặt sông như được dát
bạc. Ánh đèn hai bên bờ tạo thành những vệt sáng lấp loáng làm sông trở nên lung
linh hơn. Văng vẳng đâu đây tiếng lanh canh của thuyền đánh cá đêm, tiếng hú của
ngư dân. Lúc này, dòng sông bồng bềnh, huyền ảo và đẹp như bức tranh thủy mặc.
Bước 3 : Giới thiệu cho học sinh một số cấu trúc đoạn khác.
Với một cấu trúc đoạn như trên nhiều khi gây sự nhàm chán cho các em vì
vậy tôi cũng đưa một số cấu trúc khác cho học sinh tham khảo để gây hứng thú, tạo
điều kiện cho học sinh sáng tạo trong bài viết.
Cách trình bày một đoạn văn thường là diễn dịch, quy nạp, song hành, móc
xích. Kĩ năng này lên đến chương trình lớp 8 các em mới được viết kĩ nhưng để
10


giúp học sinh làm quen và viết theo câu trúc tôi vẫn giới thiệu cho học sinh mô

hình các đoạn văn để khích lệ nhu cầu của học sinh có năng khiếu.
Đoạn Diễn dịch: Câu mở đoạn nêu nhận xét đánh giá chung về đối tượng tả
trong đoạn. các câu còn lại tả chi tiết đối tượng đó.
+ Ví dụ: Bầu trời đêm mới đẹp làm sao! Mặt trăng tròn, to như quả bóng vàng
treo lơ lửng trên bầu trời mờ đục, cao thăm thẳm. Những vì sao như ngàn vạn hạt
kim cương lấp lánh tô điểm cho chiếc áo đêm thêm lộng lẫy.
Đoạn Quy nạp: Câu cuối đoạn nêu nhận xét, đánh giá đánh giá về đối tượng
được tả ở trên. Các câu còn lại tả chi tiết các đặc điểm của đối tượng
+ Ví dụ: Mặt trăng tròn, to như quả bóng vàng treo lơ lửng trên bầu trời mờ
đục, cao thăm thẳm. Những vì sao như ngàn vạn hạt kim cương lấp lánh tô điểm
cho chiếc áo đêm thêm lộng lẫy. Ánh trăng vàng đổ xuống mái nhà, lồng trong kẽ
lá, chảy xuống nhành cây, tràn ngập khắp con đường trắng xóa. Khoảng sân đầy ắp
trăng, cánh đồng trăng mênh mông. Dưới ánh trăng, dòng sông lấp lánh như được
dát bạc. Bầu trời đêm trăng mới đẹp làm sao ![4]
Như vậy để viết được một đoạn văn theo cách quy nạp hoặc diễn dịch, học
sinh cần xác định được luận điểm, câu chủ đề, vị trí của câu chủ đề trong đoạn văn,
tìm đủ luận cứ cần thiết tổ chức lập luận theo một trật tự hợp lí để làm nổi bật luận
điểm.
Bước 4 : Giúp học sinh một số cách chia đoạn trong bài văn:
- Chia đoạn theo dàn ý: Tả bao quát 1 đoạn, tả từng bộ phận 1 đoạn, tả hoạt
động, của con người trong cảnh 1 đoạn.
- Chia đoạn theo trình tự thời gian: Giúp học sinh đặt đối tượng miêu tả vào
các khoảng thời gian khác nhau (Cảnh cánh đồng buổi sáng, cảnh cánh đồng buổi
trưa cảnh cánh đồng buổi chiều)
- Chia đoạn theo trình tự không gian: Chia theo góc độ quan sát, hướng quan
sát (từ xa nhìn lại, từ toàn cảnh bao quát đến chi tiết cụ thể, từ trên xuống dưới, từ
chi tiết nổi bật đến chi tiết đối lập,…)
Biện pháp hướng dẫn học sinh kỹ năng dựng đoạn văn trong bài văn tả cảnh
qua cách hướng dẫn và hệ thống bài tập bổ trợ như đã nêu trên, sau khi áp dụng, tôi
nhận thấy có kết quả rất tốt làm cho học sinh có kĩ năng dựng đoạn, viết đoạn đúng

cấu trúc, có kế hoạch làm bài.
2.3.2.4. Rèn kĩ năng lập dàn ý
Đây là một bước rất quan trọng nhưng học sinh thường bỏ qua vì tâm lý các em
thường ngại lập ý trước khi làm bài. Chính vì không lập dàn ý nên bài viết sắp xếp
các ý còn lộn xộn, chưa logic, nhớ đâu viết đó. Nên trong quá trình dạy. Với yêu
cầu này ta cần tiến hành qua các bước: tìm ý, lập dàn bài chi tiết theo bố cục 3 phần
(mở bài, thân bài, kết bài). Với mỗi bài văn miêu tả, học sinh làm được những yêu
cầu sau:
- Học sinh đọc kỹ đề , xác định thể loại, kiểu bài.
- Xác định nội dung (tả gì ?)
- Xác định tư tưởng, tình cảm cần thể hiện trong bài.
11


Mỗi đề bài được đưa ra đều phải giành cho các em từ 5-> 10 phút để lập dàn
ý. Sau đó, học sinh theo yêu cầu của đề bài, huy động vốn thực tế (mà các em đó
được hướng dẫn quan sát qua khâu chuẩn bị), để lựa chọn được những nét nổi bật
của đối tượng để miêu tả rõ ràng, đầy đủ.
2.3.2.5 Rèn kĩ năng viết đoạn mở bài, kết bài.
Mở bài là phần đầu tiên, vị trí của nó bao giờ cũng nằm ở phần đầu bài, là
phần trước nhất đến với người đọc, gây cho người đọc cảm giác, ấn tượng về bài
viết, tạo ra âm hưởng chung cho toàn bài. Nó có vai trò và tầm quan trọng khá đặc
biết, một mở bài gọn gàng, hấp dẫn sẽ tạo được hứng thú cho người đọc và báo
hiệu một nội dung tốt. Nhưng thực tế học sinh viết mở bài còn rườm rà, chưa giới
thiệu được cảnh tả một cách ấn tượng thậm chí còn sai nội dung.
Để viết tốt phần mở bài tôi tiến hành cho học sinh nắm những nội dung sau:
Thứ nhất : giúp học sinh nắm vững kiến thức:
a. Mở bài
- Trực tiếp: giới thiệu ngay với người đọc cảnh mà mình sẽ tả.
- Gián tiếp: nói chuyện khác có liên quan rồi dẫn vào giới thiệu cảnh sẽ tả.

Thứ hai:Hướng dẫn cách viết:
Mở bài trực tiếp: Hướng dẫn học sinh viết bằng cách như sau:
+ Mở bài bằng cách nêu vị trí, thời gian quan sát cảnh.
Ví dụ: Chiều qua, em cùng bố ra sông Chu tắm, Cảnh ở đó rất đẹp.
+ Mở bài bằng một câu cảm nhận xét, đánh giá về cảnh.
Ví dụ : Ôi, dòng sông quê em mới đẹp làm sao!
Mở bài gián tiếp: Hướng dẫn học sinh một số cách như sau: Học sinh tuỳ theo từng
đối tượng mà lựa cho chọn cách mở bài gián tiếp cho phù hợp
+ Trích dẫn câu văn, câu thơ câu hát… về cảnh tả.
Ví dụ:
“Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống dòng sông lấp loáng...”
Mỗi khi nghe những câu thơ trên, em lại bồi hồi nghĩ về dòng sông Chu yêu
dấu của quê hương, nơi cất giữ biết bao kỉ niện đẹp đẽ thời thơ ấu.
+ Mở bài bằng âm thanh đặc trưng của cảnh tả.
Ví dụ: “Bộp…bộp…” Tiếng mưa nặng nề rơi xuống mái tôn làm em giật
mình nhận ra nhận ra trời đó mưa.
Hoặc mở bài bằng: Một câu nói của người viết, một cách so sánh, một lời đối thoại,
nêu tình huống để cảnh tả xuất hiện. Nêu hoàn cảnh ra đời của cảnh...
b. Kết bài
Nếu như mở bài như một lời thăm hỏi mời chào của chúng ta đối với khách
tới thăm thì kết bài là lời tạm biệt đầy tình cảm mến yêu, nó khép lại trước mắt
người đọc nhiều cảm xúc, nhiều hình ảnh đẹp đẽ mà các em đã miêu tả, nó kết lại
những ý lớn ở phần thân bài. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc
của mình làm phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em
12



thường làm kết bài không mở rộng, kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay,
chưa hấp dẫn người đọc. Để khắc phục tình trạng này, tôi đã hướng dẫn học sinh
qua các bước sau:
Thứ nhất: Cho học sinh nắm vững kiến thức về hai cách kết bài không mở
rộng và mở rộng
+ Kết bài không mở rộng: kết thúc bằng một hoặc hai câu nêu nhận xét, đánh giá về
cảnh, tình cảm đối với cảnh, ý thức hành động đối với cảnh tả.
+ Kiểu kết bài mở rộng : khi kết vẫn đưa các ý: suy nghĩ, tình cảm, hành động của
em đối với cảnh được tả và thường nghiêng về hướng mở cho học sinh. Nêu ra câu
hỏi, Nêu một ý mới lạ, đưa ra một lời mời.
Thứ hai: Hướng dẫn cách viết:
+ Kết bài không mở rộng:
Ví dụ: khi kết bài văn tả khu vườn nhà em. Học sinh có thể viết:
- Bằng một câu nêu nhận xét đánh giá: Khu vườn thật đẹp
- Bằng một câu nêu tình cảm: Được ngắm nhìn nó em thấy rất thích thú và thoải
mái.
- Bằng một câu nêu hành động: Em sẽ chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt.
- Bằng ba câu nêu nhận xét đánh giá, tình cảm hành động đối với cảnh.
Khu vườn thật đẹp. Được ngắm nhìn nó em thấy rất thích thú và thoải mái.
Em sẽ chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt.
+ Kết bài mở rộng
Ví dụ: Kết bài Khi kết bài văn tả khu vườn nhà em. Học sinh có thể viết
bằng cách đưa ra một ý tưởng như:
Âm thanh của khu vườn hay chính là bản hoà tấu của tiếng chim ca hát, của
tiếng lá xào xạc, tiếng cựa mình của cây cùng với cảnh vui chơi nhảy nhót của nắng
của gió, của ong bướm làm khu vườn thật đẹp, thật lộng lẫy, khoáng đạt, trong
lành. Sẽ còn đẹp hơn nữa nếu chúng ta biết làm cho khu vườn đầy sắc màu hơn.
2.3.3 Biện pháp 3. Hướng dẫn học sinh kỹ năng tích luỹ kiến thức:
Việc tích lũy kiến thức trong quá trình học các tiết Tập làm văn, các phân
môn khác của môn Tiếng Việt cũng như trong các môn học khác để học tốt phân

môn Tập làm văn với kiểu bài tả cảnh là vô cùng quan trọng. Việc tích lũy sẽ giống
như một hành trình đi tìm cái hay cái đẹp trong văn chương, trong các môn học
khác. Tích lũy được kiến thức sẽ khắc phục được vốn sống còn hạn chế của các
em, vốn từ còn nghèo nàn. Khắc phục được sự lúng túng ở các em. Có kiến thức,
có vốn sống, có vốn từ, học sinh sẽ tự tin, chủ động khi làm văn miêu tả.
Tuy nhiên với đối tượng là học sinh lớp 6 nếu giáo viên không hướng dẫn cụ
thể cách tích lũy thì học sinh không thể hiểu được tích lũy là gì? Và cách tích lũy
như thế nào? Vì vậy tôi đã giúp các em tích lũy kiến thức với các bước như sau:
Bước 1: Làm sổ tay ghi chép: sổ được chuẩn bị ghi chép lâu dài nên học
sinh có thể đóng thành tập hoặc chuẩn bị quyển sổ dày.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh ghi chép, tích lũy trên sổ ghi chép : Nội dung
ghi chép sẽ là các kiến thức kiến thức về cách viết văn tả cảnh, về những quan sát
13


tinh tế của tác giả, về cách dùng từ phong phú, tích lũy hệ thống từ ngữ, nghĩa của
từ, dùng từ sáng tạo; tích lũy về cách dùng từ đặt câu, cách mở rộng câu; ghi chép
cách dựng đoạn, mở đoạn kết đoạn, liên kết câu, liên kết đoạn; tích lũy về các cách
sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, liên tưởng ... ghi chép về
những sự bày tỏ tình cảm của tác giả đối với cảnh. Các em sẽ tích lũy thường
xuyên, liên tục qua tất cả các môn học và trong cuộc sống.
Bước 3 : Hướng dẫn học sinh tích lũy kiến thức qua các bài dạy:
Trong các bài Tập làm văn có những đoạn văn mẫu mực, nhiều kiến thức có
thể tích lũy. Có thể lấy các chất liệu từ các văn bản, Ở phần Tiếng việt có nhiều
kiến thức để tích lũy về từ,về câu, về cách thức liên kết. Thậm chí trong các bài của
môn Địa lý cũng có những câu văn miêu tả hay có hình ảnh rõ nét và riêng biệt hay
trong các bài của môn Lịch sử cũng có những câu, đoạn kể xen miêu tả rõ nét hấp
dẫn về hoạt động của con người trong cảnh. Vì vậy giáo viên cần thấy được cái cần
thiết, cái hay cái đẹp, cái giá trị để nhắc nhở các em tích lũy.
Ví dụ: Các nguồn tích lũy sẽ là

* Từ tác phẩm văn học:
Trong chương trình lớp 6 ở phần văn bản Đọc - hiểu các tác phẩm văn học học
sinh sẽ tích lũy được vốn kiên thức được các nhà văn miêu tả ở dạng sinh động, cụ
thể.Đó có thể xem là kho tàng quý báu, là cẩm nang để các em học hỏi
Ví dụ 1: khi dạy bài thơ “Mưa” của Trần Đăng Khoa. Ngoài dạy kiến thức cơ
bản. Tôi hướng dẫn học sinh tích lũy để làm văn tả cảnh “Tả quang cảnh trận mưa
rào đầu mùa hạ”: các em ghi chép tiết tấu một trận mưa rào mùa hạ qua những hình
ảnh và âm thanh vô cùng sống động: lá khô, gió cuốn, bụi bay cuồn cuộn, hàng
bưởi đu đưa, chớp rạch ngang trời, cây dừa sải tay bơi, ngọn mùng tơi nhảy múa,
Mưa ù ù như xay lúa...[1]
Ví dụ 2: khi dạy bài “ Vượt thác” -Võ Quảng tôi hướng dẫn học sinh tích
lũy dạng bài miêu tả cảnh qua hành động của con người học sinh sẽ cảm nhận được
cảnh xuất phát của một con thuyền: Dượng Hương “ nhổ sào” khi “ gió nồm vừa
thổi”, hạ cánh buồm rất đẹp, đầy khí thế “cánh buồm nhỏ căng phồng”. Đó là cảnh
“ buồm căng gió lộng”[2].
Ví dụ 3: Dạy bài qua bài “ Cô Tô” – Nguyễn Tuân học sinh sẽ tích lũy được
quang cảnh biển sau cơn bão: cây xanh mượt, nước biển lam biếc đậm đà, cát vàng
giòn, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi. Mặt trời được so sánh
“Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng
hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng
cả chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng [1].
Tóm lại các tác phẩm văn học là một kho tàng chất liệu vô cùng phong phú
tạo cơ hội cho học sinh tích lũy. Để học sinh nắm được những kiến thức, phương
pháp từ các tác phẩm văn học, vai trò của người thầy hết sức quan trọng. Đó là phải
định hướng cho học sinh có thói quen đọc sách có chọn lọc, bồi dưỡng cho học sinh
tình yêu văn học. Đọc phải kết hợp với ghi chép, phải biết tổng hợp kiến thức, bổ
14


sung vào vốn kiến thức của mình. Phải biết chuyển kiến thức đã tiếp nhận được

thành kiến thức của mình.
* Từ các môn học khác: Các môn học khác cũng là nguồn cung cấp vốn sống
cũng như vốn từ khá phong phú. Đặc biệt là các môn khoa học xã hội: Môn Địa lí
giúp các em hiểu về hiện tượng tự nhiên như nắng, mưa, gió, con suối, dòng
sông...môn Địa lý miêu tả các dạng địa hình, thiên nhiên.
* Từ thực tế: Đây là những hiện thực sống động nhất, gần gũi các em nhất Để
giúp học sinh tích lũy được kiến thức thực tế trong các bài dạy tôi cho lần lượt các
đề tài theo từng tiết học để các em có thời gian quan sát như: Mặt trời buổi sáng có
gì khác với mặt trời khi sắp lặn? Hàng cây sẽ như thế nào khi không có gió hoặc có
gió to khi bão? Tả tiếng nước chảy khi nào dùng ồ ồ, khi nào dùng ầm ầm, khi nào
dùng róc rách? Bầu trời mùa hè khác gì bầu trời mùa đông?[4].
Tóm lại biện pháp tích lũy không thể thiếu trong quá trình học văn đặc biệt
là với những dạng văn mêu tả khó như tả cảnh . Biện pháp này sẽ giúp các em rèn
luyện khả năng giao tiếp, sử dụng ngôn ngữ và tạo lập văn bản. Song để đạt được
phải là một quá trình bồi dưỡng và tích luỹ lâu dài, đòi hỏi các thầy cô giáo phải
kiên nhẫn với học sinh của mình mỗi ngày một ít, làm giàu thêm vốn sống, vốn
liếng văn học cho các em.
2.3.4. Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh cách dùng các biện pháp nghệ thuật
Các biện pháp tu từ: nhân hoá, so sánh cũng là thế mạnh đặc trưng, là
phương tiện miêu tả hữu hiệu. So sánh là biện pháp tạo hình, khiến sự vật được so
sánh trở nên đẹp đẽ, sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn và gợi liên tưởng cho người đọc.
So sánh có giá trị gợi âm thanh, hình ảnh. Nhân hoá là biện pháp miêu tả sinh động,
hấp dẫn, lí thú các sự vật, hiện tượng. Làm cho những đối tượng này không phải là
người nhưng lại mang dấu hiệu, thuộc tính của con người. Nhân hoá là con đường
thú vị nhất, ngắn nhất đưa những vấn đề trừu tượng đến với nhận thức của con
người. Khi sử dụng nhân hoá, người viết thả sức vùng vẫy, lựa chọn ngôn từ để làm
tăng sự uyển chuyển, mềm mại khi diễn đạt. Như vậy, so sánh và nhân hoá giữ một
vai trò quan trọng trong việc biểu đạt đặc điểm, thuộc tính của đối tượng miêu tả.
Chúng tạo nên bức tranh sinh động với những gam màu ấn tượng bằng ngôn ngữ
trong miêu tả.

Có thể thấy khi học sinh làm văn miêu tả nói chung tả cảnh nói riêng rất khó
khăn trong việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật để miêu tả sự vật. Nhiều học sinh
không sử dụng một biện pháp nào, một số học sinh có sử dụng một hai hình ảnh so
sánh nhưng lại chọn sự vật so sánh không hợp lý còn nhân hóa và các biện pháp
khác thì hầu như không có em nào sử dụng. Để khắc phục tình trạng này tôi dùng
biện pháp sau:
Bước 1: Cho học sinh biết khái niệm về biện pháp so sánh, nhân hóa và
các biện pháp khác:
Hệ thống biện pháp tu từ học sinh đã được bắt đầu làm quen và vận dụng
trong chương trình lớp 6. Nên điều quyết định thành công trong quá trình vận dụng
15


là trong các bài Tiếng Việt tôi luôn dạy cho học sinh nắm chắc các biện pháp tu từ
này.giúp các em vận dụng một cách linh hoạt sáng tạo trong phần Tập làm văn.
Bước 2: Xây dựng hệ thống bài tập bổ trợ giúp học sinh biết sử dụng các
biện pháp so sánh, nhân hóa và các biện pháp khác khi làm văn miêu tả.
Khi xây dựng bài tập bổ trợ, giáo viên cân lưu ý: Hệ thống bài tập đưa ra
phải có dữ liệu đảm bảo tính chính xác về cấu tạo ngữ pháp, tính nghệ thuật trong
ngô từ và cú pháp. Bài tập phải có nhiều hướng giải quyết khác nhau tạo sự phong
phú trong suy nghĩ của học sinh, phải phát huy được sự sáng tạo của học sinh .
Ví dụ một số kiểu bài tập
Bài 1: Tìm hình ảnh so sánh phù hợp cho mỗi sự vật sau:
a. Cánh đồng lúa
b. Dòng sông
c. Những vì sao
Học sinh dựa vào đặc điểm của sự vật để liên tưởng, so sánh, tìm đối tượng
để so sanh sao cho có được sự gợi tả, gợi cảm, biểu đạt được tình cảm của minh đối
với sự vật đang miêu tả.
Chẳng hạn: a. Cánh đồng lúa như tấm thảm vàng khổng lồ.

Kiểu bài tập này là kiểu bài tập mở, phát huy được sự sáng tạo của học sinh .
Bài 2. Chuyển các câu kể sau thành câu văn có sử dụng biện pháp so sánh hoặc
biện pháp nhân hóa:
a. Trong mưa, cây ớt ngả rạp xuống đất.
b. Cây đa cổ thụ đứng ở đầu làng.
Học sinh dựa vào đặc điểm của sự vật để liên tưởng, so sánh, dựa vào các
cách nhân hóa để miêu tả sự vật, các em sẽ thực hiện được yêu cầu của bài. Giáo
viên có thể đặt câu hỏi gợi mở, khi học sinh còn lúng túng. Chẳng hạn: Với câu a,
giáo viên có thể đặt câu hỏi gợi mở như sau:
Em có thể gọi cây ớt bằng đại từ xưng hô nào? (cô, nàng, chị, anh,...)
Cây ớt có hình dáng ra sao? (nhỏ, khẳng khiu). Hình dáng này gợi đến người có
hình dáng như thế nào? (gầy gò, yếu ớt). Khi cây ớt đung đưa trong gió mưa gợi
cho em đến hình ảnh một người trong trạng thái ra sao? (run rẩy, sợ hãi).
Từ những gợi ý trên, học sinh có thể đưa ra câu văn mới có hình ảnh so sánh, nhân
hóa: Trong mưa, chị ớt gầy gò, ốm yếu ngả rạp xuống run rẩy.[2]
Bài 3. Chỉ rõ từng từ được lặp lại (điệp ngữ) trong đoạn văn sau, cho biết tác
dụng của nó:
“Thoắt cái, lác đác lá vàng rơi trong khoảng khắc mùa thu. Thoắ cái, trắng
long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận. Thoắt cái, gió xuân hây
hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn màu đen nhung, hiếm quý.” [3]
Giáo viên giúp học sinh tìm ra: Từ được lặp lại: Thoắt cái...(Gợi cảm xúc
đột ngột ngỡ ngàng, nhấn mạnh sự thay đổi rất nhanh của thời gian.)
Sau khi áp dụng biện pháp hướng dẫn học sinh các biện pháp nghệ thuật bài
văn tả, tôi nhận thấy có kết quả rất tốt, làm cho học sinh có kĩ năng sử dụng các
16


biện pháp nghệ thuật khi làm bài, bài văn tả cảnh của các em sinh động hơn, gợi tả,
gợi cảm hơn rất nhiều so với khi chưa có biện pháp này.
2.3.5. Giáo án thực nghiệm

Tiết 88:
PHƯƠNG PHÁP TẢ CẢNH
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC.
1. Kiến thức:
Giúp học sinh nắm được
- Yêu cầu của bài văn tả cảnh.
- Bố cục, thứ tự miêu tả, cách xây dựng đoạn văn và lời văn trong bài văn tả cảnh.
2. Kĩ năng:
- Quan sát cảnh vật.
- Trình bày những điều đã quan sát về cảnh vật theo một trình tự hợp lí.
3. Thái độ:
- Giáo dục tinh thần học tập tích cực, tự giác sửa những lỗi đã mắc.
B. PHƯƠNG PHÁP:
- Đọc, nêu vấn đề, vấn đáp, phân tích, quy nạp, tổng hợp, thảo luận nhóm.
C. CHUẨN BỊ:
- GV: Soạn bài. Đọc sách giáo viên, SGK. Bảng phụ ghi các đoạn văn a, b, c (SGK)
- HS: Soạn bài, học bài, SGK, bảng phụ.
D. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
1. Ổn định lớp: Giáo viên kiểm tra sĩ số và chấn chỉnh nề nếp của lớp.
2. Kiểm tra bài cũ: GV kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của HS.
3. Bài mới:
Hoạt động của thầy và trò
ở bài và phần kết bài cho đề bài trên(
Hđ1: Gv hướng dẫn hs tìm hiểu nội
dung bài học
?Mỗi văn bản trên miêu tả những gì?
- Gv chia nhóm học tập để hs thảo
luận nhóm trong thời gian 10 phút.
- Đại diện các nhóm trình bày kết quả.
- Gv cho các nhóm khác nhận xét sau

đó kết luận lại và ghi bảng
- Dựa vào kĩ năng chia bố cục
? Tích lũy kiến thức qua phần văn
bản (Cây tre)
Qua việc phân chia bố cục hãy nêu
bố cục chung của bào văn tả cảnh?
? Nhận xét về cách mở bài (trực tiếp

Nội dung cần đạt
I. Phương pháp viết bài văn tả cảnh
1. Ví dụ: SGK.
- Đoạn a: Miêu tả cảnh vượt thác
Dáng vẻ, thái độ của nhân vật phản ánh
cảnh sắc ở khúc sông có nhiều thác dữ.
- Đoạn b: Miêu tả con sông Năm căn. tác
giả trình bày những điều quan sát được
theo một trình tự nhất định (nước, thuyền,
cá, rừng đước, cây đước).
- Đoạn c: Luỹ làng
* Bố cục
Bài văn tả cảnh gồm ba phần
Phần mở bài: Nêu khái quát cảnh định tả.
17


hay gián tiếp) Cách kết bài (mở rộng
hay không mở rộng)
- Khắc sâu bố cục của bài văn tả
cảnh
Hđ2: Gv cho hs thực hiện phần

luyện tập trong sgk
Bài tập1: Để tả quang cảnh lớp học
trong giờ viết tập làm văn cần chú ý
những hình ảnh tiêu biểu, cụ thể nào?
( Vận dụng kĩ năng quan sát. Trình tự
quan sát)
- Gv gợi ý để các em thực hiện theo
trình tự: trước, trong , lúc gần hết giờ
và lúc hết giờ làm bài.

Phần thân bài: Miêu tả đặc điểm, tính chất
của cảnh.
Phần kết bài: Nêu cảm nghĩ của bản thân
về cảnh được tả.

II. Luyện tập: rèn luyện kĩ năng
Bài tập1: Tả quang cảnh lớp học trong giờ
TLV.
a, Những hình ảnh tiêu biểu, cụ thể.
+ Trước giờ làm bài: hs tranh thủ xem lại
dàn ý và nội dung của các bài đã soạn sẵn
ở nhà.
+ Trong giờ làm văn:
- Lúc chép đề: Miêu tả thái độ của hs khi
gv đọc đề (vui mừng hay thất vọng)
- Lúc làm bài: Tả theo trình tự thời gian:
Dáng vẻ hs làm bài (cắm cúi làm, vẻ mặt
hân hoan phấn khởi, hay nhìn ra cửa sổ,
cắn bút, nhìn lén bài làm của bạn)
Hành động, cử chỉ của thầy cô (đi lại, ngồi

nhìn xuống, nhắc nhở hs khi không nghiêm
? Dựa vào đó em hãy cho biết trình
túc)
tự bài văn đó là trình tự nào?
b, Trình tự miêu tả:
Miêu tả theo trình tự thời gian và trình - Trình tự thời gian
tự không gian.
- Trình tự không gian.
- GV cho hs viết phần m Luyện kĩ
năng viết bài mở rộng và không mở
c, Viết phần mở bài và kết bài
rộng)
Bài tập 2 :Tả buổi sáng mùa hè nắng
? Vận dụng cách mở bài gián tiếp như đẹp trên quê hương em.
thế nào?
* Mở bài
- Giới thiệu chung về khung cảnh định tả
(thời gian, không gian, điểm nhìn...)
- Nêu cảm nhận chung của em về cảnh
buổi sáng mùa hè ở quê hương.
* Thân bài
? Xác định trình tự tả?
- Trình tự: miêu tả theo một trình tự nhất
định - trình tự thời gian, không gian...)
? Tập trung miêu tả những cảnh tiêu
- Cảnh thiên nhiên: , hoa lá, khí hậu, tiết
biểu nào?
trời... mang đặc điểm mùa hè (vừa yên ả,
- Vận dụng các biện pháp rèn luyện kĩ thanh bình vừa tươi vui, náo nức, đầy sức
năng :quan sát, cách dùng từ tạo câu, sống)

18


dựng đoạn, lập dàn ý. Sử dụng so
sánh, nhân hóa, tưởng tượng và vốn
kiến thức tích lũy của học sinh để
hoàn thành bài.
? Luyện kĩ năng viết kết bài

- Bầu trời, ánh nắng, cơn gió nhè nhẹ...
những đặc trưng thời tiết mùa hè
- Hoa lá với nhiều sắc
- Chim chóc ca vang, âm thanh tiếng ve
ngân tạo nên bản nhạc vui tươi náo nức;
- Một vài hoạt động của con người
* Kết bài: Cảm nghĩ chung về cảnh.

Hoạt động 3 : Hướng dẫn học ở nhà
- Nắm vững phương pháp làm văn tả cảnh. Luyện các dạng đề tả cảnh
E RÚT KINH NGHIỆM SAU GIỜ DẠY
.........................................................................................................................
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm với hoạt động giáo dục
Với các biện pháp đã nêu ở trên giáo viên tôi đã vận dụng vào quá trình
giảng dạy. Sau khi áp dụng đề tài cũng với đề kiểm tra trước khi áp dụng tôi thu
được kết quả như sau:
Lớp/ss
6/38

Giỏi
SL

%
6
15.8

Khá
SL
%
13
34.2

Trung bình
SL
%
18
47.4

Yếu
SL
%
1
2.6

Kém
SL
%

Từ bảng thống kê trên cho thấy việc tiến hành đổi mới các phương pháp
trong các bài dạy tập làm văn tả cảnh mang lại hiệu quả rõ rệt.
Chất lượng giáo dục được nâng lên rõ rệt, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục môn ngữ văn và đổi mới phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt

nói chung: số lượng học sinh tự tin khi làm văn tả cảnh đã tăng lên so với trước rất
nhiều (qua bảng khảo sát).
Sau khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm bản thân đã không phải vướng mắc
gì khi dạy tiết Tập làm văn tả cảnh nữa. Đặc biệt tôi đã sử dụng những biện pháp
này để nâng cao chất lượng dạy và học văn tả cảnh ở lớp tôi các em tiếp thu nhanh
làm bài tốt. Trong quá trình soạn bài bản thân không phải băn khoăn tìm ra cách
thức, phương pháp dạy.
Bên cạnh đó do biện pháp dễ áp dụng, phù hợp với đặc trưng bộ môn nên
đồng nghiệp có thể dễ dàng áp dụng có hiệu quả. Từ đó nâng cao chất lượng giáo
dục của nhà trường.
Đặc biệt với đối tượng được áp dụng trực tiếp đó là học sinh thì hiệu quả của
việc áp dụng đề tài đã mạng lại những thay đổi rõ rệt học sinh từ chỗ không có khả
năng làm văn tả cảnh đến chỗ các em đã hoàn toàn tốt yêu cầu chủ động, tự tin, khi
làm bài. Học sinh chủ động quan sát ghi chép, chọn từ đặt câu, dựng đoạn hợp lí,
viết văn trôi chảy, mạch lạc, có hình ảnh có cảm xúc, biết sử dụng các biện pháp
nghệ thuật khi làm văn tả cảnh. Biện pháp này còn giúp học sinh nâng cao năng lực
19


cảm thụ văn học, cảm nhận được giá trị nổi bật, những điều sâu sắc tế nhị và đẹp đẽ
của văn học. Nhìn kết quả bài làm, nhìn ánh mắt rạng người sự hứng thú khi bước
vào tiết học, thấy được sự hứng khởi, tự tin khi làm bài. Tôi thiết nghĩ rằng biện
pháp của mình thực sự đã có hiệu quả.
3. KẾT LUẬN
Văn miêu tả đặc biệt là tả cảnh có một vai trò quan trong trong dạy - học văn.
Từ việc dạy tốt văn tả cảnh sẽ giúp học sinh có rèn các kĩ năng khác, góp phần
nâng cao chất lượng bộ môn. Muốn làm tốt kiểu bài này cần phải nắm vững lý
thuyết về kiểu bài. Tích cực luyện các kĩ năng: từ quan sát, đến cách dùng từ đặt
câu, dựng đoạn, viết mở bài kết bài đến vận dụng tích lũy, sử dụng các biện pháp
nghệ thuật trong tả cảnh. Muốn tả cảnh tốt cần phải nắm được các phương pháp tả

cảnh, biết chọn các vị trí quan sát phù hợp, chọn các đặc điểm tiêu biểu của đối
tượng, sử dụng các biện pháp nghệ thuật để làm nổi bật đặc điểm của đối tượng.
Trong quá trình thực hiện và áp dụng sáng kiến tôi nhận thấy học sinh tích
cực có hứng thú với môn học, Trong bài viết đã xuất hiện các đoạn, các câu văn có
hình ảnh đặc sắc hơn. Không còn những bài văn xa vào kể. Học sinh không còn
lúng túng trong cách dùng từ, đặt câu, vốn từ ngữ trở nên phong phú. Các kĩ năng
được rèn luyện một cách thành thạo. Kết quả học tập có những tiến bộ vượt bậc.
Đồng thời qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu để thực hiện sáng kiến kinh
nghiệm tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm như sau:
Giáo viên không truyền thụ tri thức một cách áp đặt cho học sinh như trước
đây mà phải là người tổ chức, điều khiển quá trình dạy để học sinh tích cực, chủ
động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức.
Giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh quan sát trực tiếp cảnh sẽ tả có sự
hướng dẫn của giáo viên để khơi gợi được sự sáng tạo của học sinh.
Tạo điều kiện cho HS hoà nhập với thiên nhiên, đưa vào các chương trình sinh
hoạt tập thể với những nội dung phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sử dụng ngôn
ngữ.
Phải nắm vững yêu cầu nội dung từng tiết dạy, trong quá trình dạy học một
tiết tả cảnh. Cần chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp để khi thực hiện đúng kế hoach
dạy học.
Cần coi tiết trả bài như một khâu không thể thiếu của các hoạt động tiếp
theo, dành nhiều thời gian để sửa lỗi cho học sinh, giúp học sinh điều chỉnh những
sai sót mắc phải trong bài viết để bài viết sau sẽ hoàn chỉnh hơn, hấp dẫn hơn.
Học sinh phải chủ động tích cực học bài. biết cách quan sát tinh tế tìm được
nét riêng, nét tiêu biểu của cảnh, có ý thức tích lũy kiến thức thường xuyên.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày 19 tháng 4 năm2017
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của

người khác.
Người viết SKKN
20


Cù Thị Hòa

Hoàng Thị Xinh
MỤC LỤC

PHẦN

NỘI DUNG

TRANG

1.1. Lí do chọn đề tài

1

1.2 Mục đích nghiên cứu

2

1.3 Đối tượng nghiên cứu

2

1.4 Phương pháp nghiên cứu


2

2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2

Mở đầu

2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
Nội dung kinh nghiệm
của sáng
kiến
2.3 Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

3
5

2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với
hoạt động giáo dục

19

3. Kết luận

20

Kết luận,
Kiến nghị

21



THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Sách giáo khoa Tiếng Việt 6 (tập 2)) - Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên)
Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Minh Thuyết - Nhà xuất bản Giáo dục
2. Sách giáo viên Tiếng Việt 6 (tập 2)- Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên)
Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Minh Thuyết - Nhà xuất bản Giáo dục
3. Giáo trình Tiếng Việt 1- Lê A, Lê Phương Nga, Đặng Kim Nga, Lê Hữu
Tỉnh, Đỗ Xuân Thảo Nhà xuất bản Đại học sư phạm Hà Nội – năm 2006
4..Nguồn Internet

22


23



×