Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 thông qua kỹ năng tích hợp và so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.88 KB, 19 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Cũng như những môn học khác, Ngữ văn là môn học có vai trò rất quan
trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người, góp phần vào
sự hoàn thiện con người trong xã hội hiện đại. Là môn học thuộc nhóm khoa học
xã hội, Ngữ văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của nhà
trường trung học cơ sở (THCS). Đây là môn học có vai trò rất quan trọng trong
đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Từ đó, đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục phổ thông trong tình hình mới. Trong đó, bài nghị luận xã hội
trong chương trình Ngữ văn là một trong những đơn vị kiến thức có ý nghĩa vô
cùng quan trọng vừa đáp ứng được mục tiêu bộ môn vừa đáp ứng được những
vấn đề thực tiễn cuộc sống đang đặt ra hôm nay. Bài nghị luận xã hội rèn luyện
cho học sinh cách nhìn nhận, kiến giải, trình bày những ý kiến riêng về một vấn
đề xã hội đáng quan tâm. Việc rèn luyện kiểu bài này không chỉ cần cho học
sinh khi làm các bài kiểm tra, bài thi mà còn cần cho người học khi vào đời.
Thực tế, trong cuộc sống, dù làm bất cứ công việc gì, ở bất kỳ lĩnh vực nào, mỗi
người cũng có lúc phải trình bày ý kiến riêng của mình về một vấn đề xã hội.
Tuy nhiên, kiểu bài nghị luận xã hội nhìn chung là khó đối với lứa tuổi các em
học sinh THCS. Bởi vì, nếu khi làm bài nghị luận văn học, các em học sinh có
thuận lợi là đã được trang bị kiến thức rất kĩ qua các giờ đọc - hiểu các văn bản
văn học, chỉ sử dụng kỹ năng làm văn nghị luận văn học để tái hiện lại kiến thức
ấy thông qua cảm quan của cá nhân. Còn khi làm bài nghị luận xã hội, các em
gặp không ít khó khăn cả về nội dung lẫn phương pháp làm bài, đặc biệt là kỹ
năng lựa chọn, xử lí kiến thức để đem lại hiệu quả cao cho bài văn.
Thực tế trong những năm gần đây, trong các đề thi (cả thi học kì và thi
vào THPT) môn Ngữ văn, bên cạnh yêu cầu tái hiện kiến thức về Tiếng Việt, về
các văn bản văn học (nghị luận văn học), đề bài còn đưa ra yêu cầu bắt buộc thí
sinh viết một văn bản nghị luận (giới hạn trong khoảng 30 dòng). Các đề bài
phần nghị luận xã hội thường bàn về một vấn đề mang tính thời sự, có ý nghĩa
và sự ảnh hưởng to lớn với con người và toàn xã hội như: an toàn giao thông, ô
nhiễm môi trường, đức hi sinh, lòng dũng cảm ... Thang điểm dành cho phần


này khá cao, chiếm 3/10 điểm của toàn bài thi.
Qua thực tế giảng dạy và trao đổi với các đồng nghiệp trong các kỳ sinh
hoạt chuyên môn, tôi nhận thấy một thực tế: số học sinh làm tốt và đạt điểm tối
đa (3,0 điểm) cho kiểu bài này không nhiều, hoặc nếu có "làm được" thì chất
lượng bài làm không cao, dẫn đến điểm của toàn bài cũng không cao, ảnh hưởng
đến kết quả chung. Trong khi đó, tài liệu tham khảo hướng dẫn học sinh kỹ năng
làm nghị luận cũng chưa phải là nhiều. Các tài liệu nghiên cứu về nghị luận xã
hội chủ yếu bàn về cách gây hứng thú cho học sinh khi học văn nghị luận, cách
lập dàn ý, cách viết các dạng bài nghị luận xã hội, cách viết các phần theo cấu
trúc bài văn ... Nhìn chung, đó thực sự là những tài liệu vô cùng bổ ích cho học
sinh và là kênh tham khảo quý báu cho người dạy. Đồng thời, khi trực tiếp giảng
dạy chương trình Ngữ văn 9, tôi nhận thấy, kỹ năng tích hợp và so sánh trong xử
1


lí, lựa chọn kiến thức kiểu bài nghị luận xã hội rất có hiệu quả. Vì vậy, tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài: Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã
hội cho học sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh. Qua hai kỹ năng cơ bản
này tôi mong muốn các em không còn thấy e ngại, lúng túng khi làm kiểu bài
nghị luận xã hội. Và qua đề tài, người dạy cũng xin được góp phần thiết thực
vào việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách cho học sinh, giúp các em tự tin bước
vào đời thông qua những kỹ năng xử lí những vấn đề nghị luận xã hội rất thiết
thực.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Với đề tài: Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội cho
học sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh, tôi mong muốn nâng cao chất
lượng viết bài văn nghị luận xã hội cũng như tạo được niềm yêu thích của các
em học sinh với bộ môn Ngữ văn. Hơn thế, tôi cũng mong được chia sẻ những
kinh nghiệm cá nhân với các đồng nghiệp để góp phần nâng cao hơn nữa chất
lượng bộ môn Ngữ văn đáp ứng mục tiêu giáo dục mà cả xã hội đang kỳ vọng.

1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội cho học
sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh, tôi sẽ tập trung nghiên cứu cách khai
thác, sử dụng kỹ năng tích hợp và so sánh có hiệu quả cho học sinh lớp 9 khi
làm kiểu bài nghị luận xã hội.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội cho học
sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh, tôi sử dụng các phương pháp nghiên
cứu như:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết về tích hợp và so
sánh;
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế giáo viên và học sinh về tình hình
tiếp cận, sử dụng kỹ năng tích hợp và so sánh để thu thập thông tin;
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu…
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong chương trình ngữ văn ở cấp Trung học cơ sở, học sinh đã học về
thể văn nghị luận ở các lớp 7,8,9. Ở lớp 7, các em được học kiến thức khái quát
chung về văn nghị luận và chú trọng hai phép lập luận chứng minh và giải thích.
Lớp 8, học sinh được học tiếp về văn nghị luận ở nội dung cách viết bài văn
nghị luận có sử dụng yếu tố biểu cảm, tự sự và miêu tả. Lên lớp 9, học sinh tiếp
tục được học về văn nghị luận trên cơ sở có sự kế thừa và nâng cao kiến thức so
với các lớp dưới. Bên cạnh việc cung cấp cho các em phép lập luận phân tích và
tổng hợp trong văn nghị luận, học sinh lớp 9 được học cụ thể, riêng biệt các kiểu
bài nghị luận là nghị luận văn chương và nghị luận xã hội. Như vậy, lên lớp 9,
học sinh mới được học nghị luận xã hội một cách bài bản, cụ thể.
Văn nghị luận là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người
nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó [10]. Về kiến thức nghị luận xã hội, Sách
2



Ngữ văn 9 cung cấp hai khái niệm về kiểu bài này là nghị luận về một sự việc,
hiện tượng trong đời sống và nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí. Nghị luận
về một sự việc, hiện tượng trong đời sống xã hội là bàn bạc về một sự việc, hiện
tượng có có ý nghĩa đối với xã hội. Sự việc, hiện tượng đó có thể là đáng khen,
đáng chê hay có vấn đề cần suy nghĩ; còn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo
lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống, ... của con
người [12]. Như vậy, văn nghị luận xã hội là kiểu bài nghị luận về một hiện
tượng đời sống hoặc một tư tưởng, đạo lí; bao gồm những vấn đề thuộc mọi
quan hệ, mọi hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội như
chính trị, kinh tế, giáo dục, môi trường, dân số .v.v. Nghị luận xã hội có thể đề
cập tới rất nhiều mặt của đời sống xã hội. Từ những vấn đề có tầm nhân loại
như: chiến tranh và hòa bình, tình trạng ô nhiễm môi trường ... đến những vấn
đề tư tưởng, đạo đức phẩm chất con người như lòng tự trọng, đức tính khiêm
tốn, thói vô cảm .v.v. hay những vấn đề xã hội cụ thể gắn kết trực tiếp với các
bạn học sinh như học sinh tham gia giao thông, học sinh nghiện game, nghiện
facebook .v.v. Tóm lại, mọi vấn đề liên quan tới đời sống con người và xã hội
đều có thể trở thành một đề tài của kiểu bài nghị luận xã hội.
Từ đó, ta thấy bài nghị luận xã hội là kiểu bài có tính chất tổng hợp cao,
đòi hỏi người viết phải sử dụng nhiều thao tác nghị luận. Một mặt, bài nghị luận
xã hội coi trọng việc giải thích để làm sáng tỏ nội dung cụ thể của những sự
việc, hiện tượng, vấn đề … được đề cập đến; mặt khác, nó đòi hỏi phải phân tích
những phương diện, những khía cạnh cụ thể của các hiện tượng hoặc vấn đề xã
hội đang được đưa ra bàn bạc. Bài nghị luận xã hội cũng yêu cầu những nhận
định, đánh giá phải có căn cứ xác đáng; những ý kiến, nhận xét cần phải được
chứng minh một cách cụ thể, thuyết phục.
Trong nhà trường, bài nghị luận xã hội đòi hỏi học sinh phải có hiểu biết
cụ thể, trình bày rõ ràng, thuyết phục một vấn đề xã hội đem ra bàn luận; qua đó
phải nêu được suy nghĩ, bày tỏ thái độ, nhận xét, đánh giá của riêng mình về vấn
đề bàn luận. Học sinh phải biết vận dụng những kiến thức từ trong thực tế đời

sống hay lấy trong sử sách để luận giải các vấn đề xã hội; đồng thời, người viết
phải chú ý cách sử dụng ngôn ngữ sắc bén, chính xác, gợi cảm, có khả năng
khơi gợi, tác động được tư tưởng và tình cảm xã hội của người đọc.
Từ những yêu cầu chung đó, ta thấy rằng để làm được điều này học sinh
không chỉ tuân thủ những cách làm theo hướng dẫn của bài học trong sách giáo
khoa mà cần phải biết cả cách tích hợp và so sánh vấn đề nghị luận xã hội.
Tích hợp là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Trong
những năm gần đây, quan điểm dạy học tích hợp đã trở thành xu thế trong việc
xác định nội dung dạy học trong các nhà trường. Tích hợp là sự kết hợp những
hoạt động, chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức
năng, thành sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp. Trong hoạt động giáo dục
tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của
cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học
[2].
3


Như vậy, rõ ràng tư tưởng tích hợp bắt nguồn từ cơ sở khoa học và đời
sống. Trong dạy học, nếu ta vận dụng linh hoạt việc tích hợp sẽ giúp học sinh
học tập thông minh và vận dụng sáng tạo kiến thức, kỹ năng đã được học tập,
rèn luyện để đem lại hiệu quả học tập ngày càng chất lượng hơn. Bởi vậy, có thể
nói đưa tư tưởng hướng dẫn học sinh sử dụng kỹ năng tích hợp vào làm bài nghị
luận xã hội là vô cùng cần thiết.
Bên cánh đó, để vấn đề nghị luận được làm sáng rõ, giúp người đọc,
người nghe thông suốt, tin tưởng thì cần phải có sự đối chiếu, so sánh với các
vấn đề khác. Chính vì vậy, kỹ năng so sánh cũng góp phần không nhỏ đem lại
hiệu quả cho bài văn nghị luận tăng thêm sức thuyết phục, hấp dẫn người đọc
(người nghe).
So sánh là một thao tác tư duy. Trong quá trình nhận thức thế giới khách
quan, kĩ năng so sánh bao giờ cũng giúp phát hiện cái mới, cái khác biệt. Đối

với học sinh Trung học cơ sở (THCS) các em được học khái niệm so sánh ở
phạm vi là một phép tu từ từ vựng ở phần kiến thức Tiếng Việt trong chương
trình Ngữ văn 6, tập 2: “So sánh là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự
việc khác có nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt”
[9]. Khái niệm so sánh này chủ yếu giúp các em tư duy về việc phát hiện ra phép
so sánh có trong tác phẩm văn học. Trên thực tế khi làm văn nghị luận xã hội, so
sánh còn được dùng như một phép lập luận có ý nghĩa bộc lộ rõ nét vấn đề nghị
luận đang được đặt ra. Đối với việc nghị luận một vấn đề xã hội, so sánh thường
hướng vào mục đích chính là để chỉ ra những biểu hiện giữa các sự việc, hiện
tượng, vấn đề xã hội đang được đặt ra có điểm tương đồng nào đó hoặc có sự
đối lập tương phản nhau. Từ đó, học sinh phát hiện, đưa ra những ý kiến, nhận
xét, đánh giá, có nhận thức về một vấn đề xã hội sẽ trở nên sâu sắc hơn, vững
vàng hơn, toàn diện hơn. So sánh còn là cơ sở để thực hiện thao tác tư duy có
mức độ cao hơn như sự tổng hợp, hệ thống hoá các vấn đề, là cơ sở, là nền
móng cho những bàn luận, kiến giải đưa ra cho bài văn có tính ứng dụng, thiết
thực cao, có ý nghĩa với mỗi người và đời sống xã hội chung.
Tuy nhiên, trong thực tế chương trình Ngữ văn THCS, việc hướng dẫn
học sinh cách vận dụng kỹ năng tích hợp, kỹ năng so sánh một cách cụ thể, bài
bản để các em hiểu và vận dụng thành thạo trong quá trình khai thác là chưa có
một bài dạy riêng mà chỉ là vận dụng thực hành qua các câu hỏi nhỏ lẻ ở một số
bài khai thác các ngữ liệu mẫu. Vì vậy, từ cơ sở về lí luận và thực tiễn dạy học
tôi đã lựa chọn đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội
cho học sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Với học sinh lớp 9 bậc THCS, nghị luận xã hội là một kiểu bài có vai trò
ý nghĩa vô cùng quan trọng với các em. Bởi vì, qua các bài nghị luận xã hội các
em không phải lệ thuộc nhiều vào sách vở nên phần lớn sẽ phát huy được năng
lực tư duy, óc sáng tạo, sự hiểu biết về xã hội của học sinh. Từ đó, tạo tiền đề
cho các em sẽ học ở bậc cao hơn; đồng thời giúp người học phát triển và hoàn
thiện về mặt nhân cách, giúp các em biết yêu cái hay cái đẹp, ghét cái xấu, biết

4


cách ăn nói, giao tiếp ... Chính vì vậy, trong chương trình Ngữ văn THCS, văn
nghị luận xã hội đã được lựa chọn để xây dựng xuyên suốt từ cuối vòng 1 (lớp
7) và toàn bộ vòng 2 (lớp 8,9). Tuy nhiên, kiểu bài nghị luận xã hội mà học sinh
được học bài bản, có tính phân loại thì đến chương trình học kỳ hai lớp 9 mới
được đề cập là nghị luận xã hội về một sự việc, hiện tượng trong đời sống và
nghị luận xã hội về một vấn đề tư tưởng, đạo lí. Cụ thể:
- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
- Cách làm bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
- Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí.
- Cách làm bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí [12].
Ngoài ra, chương trình còn được bổ trợ thêm qua phần đọc - hiểu một số
văn bản dạng nghị luận xã hội. Không chỉ có ý nghĩa thực tiễn mà đây còn là
dạng bài gần như bắt buộc trong đề thi cuối học kỳ, đề thi vào THPT hiện nay.
Thực tế, trong đề thi khảo sát chất lượng học kì và vào THPT thường đưa ra yêu
cầu về bài văn nghị luận xã hội dưới dạng một bài viết (khoảng từ 20 đến 30
dòng) bàn về một vấn đề mang tính thời sự cấp thiết của đời sống xã hội.
Như vậy, vai trò, vị trí, tầm quan trọng của nghị luận xã hội là rất lớn
nhưng thời lượng cho kiểu bài này chưa tương xứng. Nhìn chung, chương trình
Ngữ văn THCS chỉ mang tính giới thiệu và thực hành nghị luận xã hội ở mức độ
đơn giản, chưa tập trung vào việc khắc sâu tri thức và rèn luyện kỹ năng làm bài
cho học sinh. Ví dụ như trong chương trình lớp 9, thời lượng dành cho nghị luận
xã hội là 6 tiết/175 tiết toàn chương trình (trong đó 2 tiết là cung cấp lý thuyết, 2
tiết hướng dẫn cách làm của hai kiểu bài, 2 tiết là làm bài kiểm tra). Bởi vậy,
cách rèn kỹ năng làm bài cho HS theo một cách thức linh hoạt, dễ hiểu, gần gũi
là điều vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó, kết quả làm bài kiểm tra của học sinh
lại cho thấy cần có sự bổ sung, định hướng để giúp các em vừa nhận thức được
vai trò quan trọng của nghị luận xã hội vừa biết vận dụng thành thạo mọi tri thức

có thể để viết bài văn nghị luận đạt yêu cầu. Lỗi của các em ngoài lí do là không
biết cách làm bài theo trình tự hợp lí, không xác định được cần phải viết gì, viết
như thế nào còn nguyên do nữa là vốn sống hạn chế. Nói đúng hơn, các em còn
lúng túng khi lựa chọn và trình bày các sự việc, hiện tượng hay tư tưởng nào để
phù hợp và có giá trị thuyết phục ý kiến của mình trước vấn đề nghị luận mà đề
bài đặt ra. Từ đó, dẫn đến tình trạng chung là bài làm có kết cấu rời rạc, thiếu
tính hệ thống, lập luận lỏng lẻo không có tính logic, lý lẽ kém tính thuyết phục.
Vậy nên, vấn đề đặt ra cần giải quyết đối với các em học sinh lớp 9 là giúp các
em củng cố lý thuyết, thực hành rèn kỹ năng làm văn nghị luận xã hội để đạt kết
quả cao trong học và thi Ngữ văn. Và một trong những kỹ năng đó là tích hợp và
so sánh. Nhưng trên thực tế cách hiểu biết và vận dụng kỹ năng tích hợp, kỹ
năng so sánh vào làm bài văn nghị luận xã hội cả ở người dạy và người học chưa
thực sự được chú trọng. Tôi đã tiến hành làm phiếu điều tra về việc hiểu biết và
vận dụng hai kỹ năng này ở học sinh (khối 7, 8, 9) và giáo viên tổ chuyên môn
của đơn vị tôi đang trực tiếp giảng dạy thì thu nhận được kết quả như sau:

5


Đối với giáo viên: Số giáo viên được hỏi: 5 đồng chí.
- Hiểu được vai trò của kỹ năng tích hợp, kỹ năng so sánh và hướng dẫn
học sinh vận dụng trong văn nghị luận là 5/5 (tỉ lệ 100%).
- Hướng dẫn học sinh vận dụng kỹ năng tích hợp và so sánh trong nghị
luận văn chương ở mức độ nhiều là 5/5 (tỉ lệ 100%), mức độ ít là 0 (tỉ lệ 0%);
trong nghị luận xã hội ở mức độ nhiều là 2/5 (tỉ lệ 40%), mức độ ít là 3/5 (tỉ lệ
60%)
- Hướng dẫn học sinh vận dụng kỹ năng tích hợp và so sánh trong nghị
luận xã hội có tính bài bản, hệ thống là 0/5 (0%)
Đối với học sinh : Số học sinh được hỏi: 119 em.
- Đã sử dụng kỹ năng tích hợp và so sánh trong bài viết văn nghị luận xã

hội là 119 /119 (tỉ lệ 100%). Chưa sử dụng kỹ năng so sánh trong cảm thụ tác
phẩm văn học là 0/119 (tỉ lệ 0%).
- Hiểu được vai trò của kỹ năng tích hợp và so sánh trong bài viết văn
nghị luận xã hội là 29/119 (tỉ lệ 24.4%). Chưa hiểu được vai trò của kỹ năng tích
hợp và so sánh trong bài viết văn nghị luận xã hội là 90/119 (tỉ lệ 75.6%).
- Kết quả bài tập về bài văn nghị luận xã hội đạt trên trung bình là 45/119
(tỉ lệ 37.8%); dưới trung bình là 74/119 (tỉ lệ 68.7%).
Như vậy, kết quả bài kiểm tra của các em khi làm bài nghị luận xã hội còn
chưa đạt yêu cầu. Kết hợp điều tra và thực tế trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy
rèn kỹ năng tích hợp và so sánh cho học sinh khi làm bài nghị luận nói chung và
nghị luận xã hội thật sự rất cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên, thực tế việc
hướng dẫn học sinh hai kỹ năng này còn mang tính chủ quan tìm kiếm, mày mò
từ kinh nghiệm cá nhân nên một số giáo viên còn e ngại và chưa rèn học sinh
vận dụng kỹ năng này nhiều.
Về phía học sinh ở bậc THCS nói chung và học sinh khối 9 nói riêng khả
năng sử dụng kỹ năng tích hợp và so sánh chưa tốt. Phần lớn các em chỉ cảm
nhận bằng cảm tính vai trò của những kỹ năng này và vận dụng nó còn tùy tiện
mà chưa có bài bản, khoa học. Hơn nữa kiểu bài nghị luận xã hội đòi hỏi học
sinh phải có cái nhìn bao quát, vừa tư duy những kiến thức từ sách vở, lời dạy
của thầy - cô, vừa phải có vốn kiến thức đời sống xã hội chưa kể đến việc xử lí
các vấn đề nghị luận xã hội đôi lúc có phần vượt tầm nhận thức của các em.
Trên thực tế, trong xu thế xã hội và tình hình học Ngữ văn hiện nay, học sinh
chưa thực sự ham học chịu khó tìm tòi, góp nhặt, tích lũy để xâu chuỗi thành hệ
thống kiến thức mà còn bị các thú tiêu khiển hấp dẫn từ đời sống mạng ảo lôi
kéo ... Vì vậy, tôi chọn đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị
luận xã hội cho học sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh để nghiên cứu,
tìm tòi cách dạy hữu hiệu và có tính khả thi với mong muốn cải tiến phương
pháp dạy học theo hướng tích cực, đưa lại hiệu quả cao trong dạy và học Ngữ
văn. Từ đó, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng tâm mà toàn ngành đã
đề ra trong suốt thời gian qua: nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, hướng

dẫn học sinh học tập tích cực,…

6


2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Kỹ năng tích hợp.
Trên tinh thần Nghị quyết số 29 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 8, khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”, đội ngũ
giáo viên đã không ngừng đổi mới phương pháp dạy học sẵn sàng đáp ứng mục
tiêu đổi mới. Trong đó, tăng cường năng lực dạy học theo hướng “tích hợp” là
một trong những vấn đề cần ưu tiên. Dạy học theo hướng “tích hợp” là cách
định hướng phát triển năng lực cho học sinh, giúp các em biết tổng hợp kiến
thức, kỹ năng ở nhiều môn học để giải quyết các nhiệm vụ học tập và hình thành
năng lực giải quyết các tình huống thực tiễn.
Với dạng bài nghị luận xã hội, yêu cầu cần đạt là các em phải nêu vấn đề,
giải quyết vấn đề và kết thúc vấn đề một cách rõ ràng, mạch lạc và giàu tính
thuyết phục. Để đáp ứng yêu cầu đó thì việc trình bày các luận cứ làm sáng rõ
cho luận điểm trong bài làm là vô cùng quan trọng. Đó là cách dùng lí lẽ, cách
nêu dẫn chứng sao cho thuyết phục người đọc, người nghe. Để có cách trình bày
sinh động lí lẽ và dẫn chứng, người dạy có thể hướng dẫn học sinh cách tích hợp
các kiến thức bộ môn đã học để làm sáng tỏ vấn đề trên các phương diện như:
2.3.1.1 Tích hợp liên môn trong chương trình học phổ thông có các nội
dung tương đồng, gần gũi để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận xã hội.
Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh
vực tư tưởng, đạo đức, lối sống, .... của con người. Với học sinh THCS những
khái niệm về vấn đề tư tưởng, đạo lí vừa gần gũi nhưng cũng hết sức trìu tượng
với các em. Gần gũi vì những tư tưởng, đạo lí các em được cảm nhận từ trong
thực tế đời sống hàng ngày, ngay từ lời ru của ông bà, cha mẹ, hay từ lời dạy bảo
của người thân. Và khi đến trường các em được thầy cô bồi dưỡng qua những

bài học, những hoạt động tập thể… Đặc biệt, những nội dung về tư tưởng, đạo lí
còn được bộ môn Giáo dục công dân cung cấp khá đầy đủ những tư tưởng sống
đẹp, những phẩm chất đạo đức đáng quý, cần thiết của con người. Song với học
sinh THCS, vốn sống của các em chưa nhiều nên để khái quát các vấn đề tư
tưởng, đạo lí thành bài nghị luận xã hội thì không tránh khỏi khó khăn, lúng
túng. Vì vậy, để tiếp cận và giải quyết vấn đề nghị luận xã hội về một vấn đề tư
tưởng, đạo lí giáo viên nên hướng dẫn các em tích hợp kiến thức liên môn để
trình bày, giải thích khái niệm thuộc phạm trù tư tưởng, đạo lí.
Ví dụ như đề bài sau:
''Có một người cha trước khi chết gọi ba người con trai đến bên giường,
đưa cho họ một bó tên và bảo: Các con thử bẻ bó tên này xem ai có thể bẻ gãy
được.
Cả ba người con đều lấy hết sức bình sinh để bẻ những bó tên vẫn không
gãy một chiếc nào. Người cha cầm lấy bó tên tháo ra và lần lượt bẻ từng chiếc
một. Trong phút chốc cả bó tên đã bị bẻ gãy ...
(Truyện ngụ ngôn Người cha và bó tên)
Từ câu chuyện trên em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 30 dòng) bàn
về tình đoàn kết trong gia đình và cộng đồng." [19]
7


Để giúp học sinh trình bày được tình đoàn kết trong gia đình và cộng
đồng, giáo viên cần giúp học sinh xác định được các kiến thức cần cung cấp cho
bài viết qua hệ thống các câu hỏi như:
? Tình đoàn kết là gì?
? Tình đoàn kết có ý nghĩa như thế nào trong gia đình và cộng đồng?
? Chúng ta cần phải phát huy tình đoàn kết như thế nào?
Từ việc định hướng các câu hỏi để tìm ra các ý chính, giáo viên sẽ giúp
các em lựa chọn để xây dựng nguồn kiến thức cho bài viết. Trước tiên, để trả lời
các câu hỏi này, các em phải hiểu được đoàn kết là gì? Ở thao tác này, để các em

không thấy kiến thức khô khan, khó hiểu, thầy cô giáo sẽ giúp các em nhớ lại
mình đã được học nội dung này trong bộ môn nào để giúp các vận dụng tốt vào
bài viết. Cụ thể tình đoàn kết các em được kiến thức đã học môn Giáo dục công
dân trong bài "Đoàn kết, tương trợ" trong chương trình lớp 7 kết hợp với các
giải nghĩa từ trong chương trình Ngữ văn lớp 6 để trình bày được: Đoàn kết,
tương trợ là sự thông cảm, chia sẻ và có việc làm cụ thể giúp đỡ nhau khi gặp
khó khăn. Tình đoàn kết là sự gắn bó bền chặt, đồng tâm nhất trí, chung sức
chung lòng. Đoàn kết không chỉ xuất phát từ ý thức mà quan trọng từ tình yêu
thương, từ tình cảm tự nhiên, tự nguyện của con người. Đoàn kết giúp chúng ta
dễ dàng hòa nhập, hợp tác với mọi người xung quanh và sẽ được mọi người yêu
quý. Đồng thời đoàn kết sẽ làm nên sức mạnh để chúng ta vượt qua khó khăn.
Đoàn kết cũng là một truyền thống quý báu, đáng tự hào của dân tộc ta [5].
Hay với đề thi:
Mẹ sẽ đưa con đến trường, cầm tay con dắt qua cánh cổng, rồi buông tay
mà nói: “Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con,…”
(Theo Lí Lan, Cổng trường mở ra)
Từ việc người mẹ không “cầm tay” dắt con đi tiếp mà “buông tay” để
con tự đi, hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi) bàn về tính tự
lập. [18]
Với đề bài này, để làm rõ được vấn đề nghị luận, thì trước tiên học sinh
phải hiểu được tự lập là gì ? Tương tự như đề bài về tình đoàn kết, giáo viên gợi
nhớ cho các em nhớ lại kiến thức này đã từng được học ở môn Giáo dục công
dân lớp 8 trong bài "Tự lập". Từ đó, các em chỉ ra được tự lập là tự làm lấy, tự
giải quyết công việc, tự lo liệu, tạo dựng cuộc sống cho mình; không trông chờ,
dựa dẫm, phụ thuộc vào người khác ... [6]. Từ cách tích hợp để giải thích khái
niệm sẽ là cơ sở để các em làm rõ vấn đề bàn luận qua các mặt biểu hiện cụ thể
và bàn bạc, bày tỏ vấn đề một cách mạch lạc, sâu sắc.
Như vậy, khi viết bài nghị luận về một vấn đề xã hội, để thuyết phục
người đọc (người nghe) học sinh không chỉ cần phải giải thích rõ được vấn đề xã
hội bằng các khái niệm mà quan trọng hơn là phải chỉ rõ được tác động của

những sự việc, hiện tượng hay tư tưởng đạo lí đối với mỗi cá nhân và cả xã hội
nói chung để từ đó có hướng điều chỉnh tư tưởng, hành động sao cho phù hợp
với chuẩn mực đạo đức và xu thế phát triển của xã hội. Chính vì vậy, trong bài
viết học sinh phải cung cấp gần gũi, chân thực mà tiêu biểu về tác động của vấn
8


đề xã hội. Vì vậy, trước tiên theo tôi một nguồn cứ liệu mà giáo viên có thể giúp
học sinh vận dụng để làm rõ ảnh hưởng của các vấn đề nghị luận đến con người
chính là kiến thức từ các bộ môn trong nhà trường, từ các bộ môn thuộc lĩnh vực
khoa học tự nhiên như Toán, Vật lí, Hóa học đến các bộ môn thuộc lĩnh vực
khoa học xã hội có nhiều điểm tương đồng là Giáo dục công dân, Lịch sử, Địa
lí,... Và các em có thể làm rõ vấn đề xã hội từ việc tích hợp với các tác phẩm văn
học trong chương trình PTTH và đọc thêm. Đồng thời để giúp học sinh làm rõ
hơn những tác động của vấn đề nghị luận đến cá nhân và đời sống con người, ta
còn có thể hướng dẫn các em tích hợp với thực tiễn đời sống xã hội. Và đó cũng
là phương diện mà tôi đã hướng dẫn HS tích hợp trong khi làm bài nghị luận xã
hội.
2.3.1.2. Tích hợp liên môn và thực tiễn xã hội để làm rõ những biểu
hiện và ảnh hưởng của vấn đề xã hội được bàn luận.
Cùng với hệ thống dẫn chứng, liên hệ phong phú có trong các bộ môn
trong nhà trường phổ thông, khi làm bài các em còn có thể tích hợp với thực tế
đời sống để vấn đề nghị luận được làm rõ, thuyết phục hơn. Đó là một nguồn tri
thức phong phú về xã hội trên Internet, các phương tiện truyền thông như báo,
đài, ti vi, ... với rất nhiều sự kiện, câu chuyện, danh ngôn, bài viết tham khảo, bài
học giáo dục đạo đức, các slides, clip có hình ảnh màu sắc đẹp mắt và nhiều câu
danh ngôn thú vị.
Ví dụ: Với đề bài:
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào

(Huy Cận, Đoàn thuyền đánh cá)
Từ ý thơ trên, hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 30 dòng) bàn về tình
yêu biển đảo quê hương. [18].
Đây là một đề bài yêu cầu học sinh nghị luận về một vấn đề xã hội có tính
thời sự: tình yêu biển đảo quê hương. Ngoài những kỹ năng về cách trình bày,
diễn đạt như lập luận chặt chẽ, bố cục hợp lí, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp
cơ bản.... Thì học sinh phải đáp ứng những kiến thức cơ bản như:
+ Giải thích được ý thơ của Huy Cận.
+ Khẳng định được tầm quan trọng của biển đảo với con người và vận
mệnh dân tộc.
+ Những thách thức phải đối diện về vấn đề biển đảo.
+ Những biểu hiện cụ thể về nhận thức và hành động của tình yêu biển
đảo.
Như vậy, với đề bài này, nếu học sinh chỉ dựa vào mình kiến thức văn
chương thì sẽ không có cái nhìn đầy đủ, toàn diện về vai trò biển đảo với con
người, về những thách thức trong việc bảo vệ biển đảo hôm nay của nhân dân ta.
Vậy nên, để vấn đề nghị luận được trình bày mạch lạc, có sức thuyết phục thì
các em cần phải dựa vào sự hiểu biết về biển đảo của mình. Giáo viên có thể
giao việc cho học sinh tìm hiểu qua các kênh thông tin như: những tác phẩm văn
chương viết về biển đảo, những bài học về biển đảo trong môn Địa lí hoặc
9


những trận chiến gắn với biển đảo quê hương trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
của nhân dân ta qua kiến thức tích lũy từ môn Lịch sử, hoặc là tình hình thời sự
đang được cập nhật hàng ngày trên các phương tin thông tin đại chúng về biển
đảo ... Từ sự tích hợp chuỗi kiến thức về biển đảo, giáo viên sẽ lần lượt giúp các
em hiểu được: Biển đảo Việt Nam là phần lãnh thổ đất nước Việt Nam, qua
nghìn đời luôn gắn chặt với đời sống của cư dân nước Việt cả về vật chất và tinh
thần. Với nguồn tài nguyên tiềm tàng, biển nước ta rất giàu đẹp. Biển cung cấp

rất nhiểu nguồn hải sản quý (tôm, cua, mực,... “Biển cho ta cá như lòng mẹ”),
nhiều khoáng sản (dầu khí, than, ti tan,...), ... Biển còn là bức trường thành vững
chắc bảo vệ lãnh thổ dân tộc. Biển làm nên những điều kì diệu, thiêng liêng…
Là truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ, là những chiến công lịch sử Bạch
Đằng, Vân Đồn xưa, hay con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển với
những “con tàu không số” trong kháng chiến chống Mỹ… là sức mạnh tinh thần
cho muôn thế hệ mai sau. Vậy nên, biển đảo trong tâm thức người Việt là đất
nước, là cuộc sống. Và thực tế hàng ngàn năm lịch sử người Việt đã ra sức khai
phá, dựng xây và sẵn sàng đổ cả máu xương cho chủ quyền biển đảo. Tuy nhiên,
những năm gần đây, biển đảo đang đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức lớn.
Đó là tình trạng ô nhiễm môi trường, các nguồn hải sản đang bị xâm hại, đứng
trước nguy cơ diệt chủng, .... đặc biệt khi Trung Quốc đã có nhiều hành động
xâm hại đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam: ngang ngược xây dựng thành
phố Tam Sa trên quần đảo Hoàng Sa, cấm ngư dân Việt Nam đánh cá trên biển
thuộc chủ quyền biển Việt Nam… Để biển phát huy tiềm năng, chúng ta cần
nâng cao nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của biển, hải đảo; cũng như tôn
vinh những giá trị của biển với sự sống cộng đồng. Nâng cao trách nhiệm trong
công tác quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên, môi trường biển, hải
đảo. Đặc biệt, trong thời điểm hiện tại cần xây dựng ý thức vươn ra biển, làm
giàu từ biển trong cộng đồng người Việt Nam, từng bước khẳng định vị thế Việt
Nam là một quốc gia mạnh về biển trong khu vực. Luôn tích cực tham gia các
hoạt động hướng về Trường Sa, Hoàng Sa. Thể hiện quan điểm lên án, phản đối
những hành động của Trung Quốc đi ngược với Công ước liên hiệp quốc về luật
biển (DOC)... Điều quan trọng nữa là không ngừng tu dưỡng phẩm chất người
Việt Nam mới, tích cực tham gia xây dựng đất nước giàu mạnh, có lý tưởng yêu
nước và đoàn kết thì chúng ta sẽ kết nối khối sức mạnh lớn đủ sức bảo vệ chủ
quyền biển đảo. Để làm được điều đó, trước tiên phải cố gắng học tập tu dưỡng
tốt ngay từ khi mỗi chúng ta đang ngồi trên ghế nhà trường để trở thành một
công dân có ích. Đó cũng chính là tinh thần sẵn sàng vào công cuộc giữ gìn biển
đảo quê hương bằng tất cả những gì mình có thể.

Hay đề thi: Trong bài thơ "Quê hương", Đỗ Trung Quân viết:
"... Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi...”
Từ ý thơ trên, em hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng một trang giấy
thi) bày tỏ suy nghĩ của mình về quê hương. [3].

10


Đề bài yêu cầu học sinh phải biết cách làm bài văn nghị luận xã hội có hệ
thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ, ... để làm rõ được vai trò của quê
hương với mỗi người. Cụ thể học sinh phải chỉ rõ được:
+ Quan niệm về quê hương của nhà thơ Đỗ Trung Quân.
+ Quê hương theo quan điểm của cá nhân học sinh và cộng đồng.
+ Vai trò, tầm quan trọng của quê hương với mỗi người.
+ Tình cảm, thái độ và hành động của mỗi người với quê hương.
Như vậy, đề bài này học sinh không chỉ đơn thuần thực hiện tao tác nghị
luận xã hội mà từ cảm thụ vẻ đẹp văn chương để các em nhận ra một vấn đề xã
hội. Với dạng bài này, giáo viên vừa giúp học sinh nắm được quan niệm về quê
hương của nhà thơ Đỗ Trung Quân. Qua cách so sánh độc đáo, thú vị: quê
hương và mẹ, nhà thơ khẳng định tình cảm với quê hương là tình cảm tự nhiên
mang giá trị nhân bản, thuần khiết trong tâm hồn mỗi con người. Từ đó giáo
viên giúp học sinh nhận ra quê hương là bắt nguồn từ những điều rất gần gũi,
bình dị trong đời sống là mái nhà có những người thân yêu, là con đường hay
ngôi trường, ... Vì vậy, hai tiếng quê hương thật thiêng liêng với mỗi người. Quê
hương là điều quý giá vô ngần mà mỗi con người không thể thiếu. Hình bóng
quê hương đi theo con người suốt cả cuộc đời, trở thành điểm tựa về tinh thần
của con người trong cuộc sống. Nếu thiếu đi điểm tựa này, cuộc sống của con
người trở nên chông chênh, lệch lạc. Bởi vậy, xuyên suốt chiều dài lịch sử dân
tộc, nhân dân ta luôn sẵn sàng hi sinh tất cả để xây dựng, bảo vệ quê hương.

Tình cảm thiêng liêng ấy, giáo viên có thể khơi gợi cho học sinh từ các văn bản
văn học thấm đẫm tình quê hương hay qua các sự kiện lịch sử trong bộ môn
Lịch sử, hay các truyện đọc, tư liệu về tình yêu quê hương đất nước đã học trong
nhà trường. Cách tích hợp các biểu hiện về tình yêu quê hương từ các bộ môn
trong nhà trường và thực tế đời sống hiện nay để gợi mở cho học sinh hướng tới
một cách sống, cách làm người: Phải biết coi trọng gốc rễ, hướng về cội nguồn,
biết yêu quê hương. Thiếu đi tình cảm này là một khiếm khuyết trong đời sống
tâm hồn, tình cảm khiến con người không được làm người một cách trọn vẹn.
Từ đó rút ra những suy nghĩ về quê hương là bến đỗ bình yên cho mỗi con
người... Mỗi người không được quên đi nguồn cội, gốc gác, quê hương. Dù ai đi
đâu, ở đâu cũng sẽ luôn tự nhắc nhở hãy nhớ về cội nguồn yêu thương. Nuôi
dưỡng tình cảm với quê hương có nghĩa là nuôi dưỡng tâm hồn, để con người
được làm người theo nghĩa đầy đủ nhất. Vì vậy, chúng ta luôn cần phải biết đặt
tình cảm với quê hương trong quan hệ với tình yêu đất nước, cần hướng về quê
hương song không có nghĩa là chỉ hướng về mảnh đất nơi mình sinh ra mà phải
biết tôn trọng và yêu quý tất cả những gì thuộc về Tổ quốc. Bởi vậy, chúng ta
phải có thái độ phê phán trước những hành vi, suy nghĩ chưa tích cực về quê
hương: chê quê hương nghèo khó, lạc hậu; làm thay đổi một cách tiêu cực dáng
vẻ quê hương mình... Từ đó, mỗi người phải xác định xây dựng quê hương là
quyền và nghĩa vụ của tất cả chúng ta.
Tuy nhiên, khi làm bài văn nghị luận xã hội, nhiều học sinh chưa thể tiếp
cận với nguồn dẫn chứng phong phú trong thực tiễn đời sống vì nhiều lý do:
11


Học sinh chưa có khả năng tích hợp kiến thức hoặc phụ huynh không cho vào
mạng Internet; không cho xem ti vi nhiều vì sợ con em nghiện game online, lạm
dụng xem phim ảnh, ca nhạc hoặc gia đình các em chưa có điều kiện nối mạng,
bản thân các em không có thời gian … Vì vậy, để có vốn kiến thức đời sống cho
học sinh, giáo viên sẽ là người hướng dẫn giúp các em cách tìm dẫn chứng. Có

thể chia nhóm học sinh tìm tư liệu, cử nhóm trưởng là những em có năng lực
tích hợp kiến thức và phân công thành viên nhóm phù hợp hoặc có thể giáo viên
lấy tư liệu từ mạng về trình chiếu cho học sinh … Tư liệu dẫn chứng do giáo
viên sưu tầm có thể cung cấp cho HS qua các tiết dạy Ngữ văn, hoặc tiết sinh
hoạt chủ nhiệm (nếu giáo viên chủ nhiệm là giáo viên dạy Ngữ văn của lớp),
hoặc tiết Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp , tiết Tự chọn Ngữ văn …
Như vậy, rõ ràng ta thấy kỹ năng tích hợp rất cần thiết để HS vận dụng
khi viết văn nghị luận xã hội. Để tích hợp có hiệu quả, người dạy cần hướng dẫn
HS xây dựng các bước tích hợp như sau:
- Xác định chính xác vấn đề nghị luận mà đề yêu cầu.
- Xác định vấn đề nghị luận thuộc kiểu bài nghị luận xã hội nào (nghị luận
về một sự việc, hiện tượng đời sống hay nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo
lý). Để từ đó xác định đúng các bước xây dựng ý cho bài văn.
- Xác định các phần cần vận dụng kỹ năng tích hợp và mục đích tích hợp
(Tích hợp liên môn để trình bày, giải thích khái niệm hay để làm rõ những biểu
hiện và ảnh hưởng của vấn đề xã hội được bàn luận …).
- Lựa chọn những kiến thức tích hợp một cách tiêu biểu, tin cậy có sức
thuyết phục, tránh lan man, dàn trải.
Quả thật, để bài văn nghị luận xã hội đạt hiệu quả cao, mỗi GV chúng ta
cần hướng dẫn học sinh kỹ năng tích hợp. Có như vậy các em không chỉ biết
cách làm bài văn nghị luận sâu sắc, chân thực, giàu sức thuyết phục mà các em
có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về các vấn đề đang diễn ra trong xã hội. Từ đó
biết điều chỉnh thái độ, hành vi của bản thân để sống, học tập, làm việc theo
chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Tuy nhiên nếu chỉ chú trọng mình kỹ năng tích
hợp trong bài văn nghị luận thì các em sẽ chưa thể có một bài văn nghị luận
hoàn chỉnh. Vì vậy để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận, các em còn phải biết cách
giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phân tích,... Trong khuôn khổ bài viết
này, tôi xin mạnh dạn đưa ra thêm một kinh nghiệm hướng dẫn học sinh kỹ năng
so sánh, đối chiếu để góp phần nâng cao sự hứng thú học tập văn nghị luận ở các
em nhằm đem lại kết quả cao khi viết bài văn nghị luận xã hội.

2.3.2. Kỹ năng so sánh.
Trong văn nghị luận, so sánh được xem là một thao tác của lập luận. So
sánh là đối chiếu hai hay nhiều sự vật, đối tượng hoặc là các mặt của một sự vật
để chỉ ra những nét giống nhau hay khác nhau, từ đó thấy được giá trị của từng
sự vật hoặc một sự vật mà mình đang bàn luận. Mục đích của so sánh là làm
sáng rõ đối tượng đang nghiên cứu trong tương quan với đối tượng khác. So
sánh đúng làm cho bài văn nghị luận sáng rõ, cụ thể, sinh động và có sức thuyết
phục. Khi so sánh phải đặt các đối tượng vào cùng một bình diện, đánh giá trên
12


cùng một tiêu chí mới thấy được sư giống nhau và khác nhau giữa chúng, đồng
thời phải nêu rõ ý kiến, quan niệm của người nói (người viết). [13]
Trong quá trình hướng dẫn HS làm bài văn nghị luận xã hội, tôi đã hướng
dẫn HS hai kỹ năng so sánh cơ bản có thể lựa chọn để vận dụng là so sánh tương
đồng hoặc so sánh tương phản.
2.3.2.1. Kỹ năng so sánh tương đồng.
So sánh tương đồng là cách so sánh hai hay nhiều sự vật cùng loại có
nhiều điểm giống nhau giúp nhận thức nhanh chóng đặc điểm nổi bật của đối
tượng và cùng lúc hiểu biết được hai hay nhiều đối tượng. [19]
Chẳng hạn với vấn đề nghị luận về thói dựa dẫm trong đề thi vào 10, năm
học 2012-2013 của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thanh Hoá: Viết bài văn ngắn
(khoảng 30 dòng) trình bày suy nghĩ của em về tác hại của thói dựa dẫm. [18].
Với vấn đề nghị luận đề cập về một thói xấu của con người, học sinh cần
phải xác định được:
- Thế nào là dựa dẫm?
- Dựa dẫm có biểu hiện như thế nào?
- Tác hại của dựa dẫm với mỗi cá nhân và cộng đồng ra sao?
- Chúng ta cần làm gì để khắc phục thói dựa dẫm?
Từ xác định hệ thống ý cơ bản, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh vận dụng

các kĩ năng làm bài để vấn đề nghị luận được sáng tỏ. Sau khi học sinh nắm
được dựa dẫm là một thói xấu của con người, đặc biệt thường xuất hiện ở lứa
tuổi thanh thiếu niên. Đó là những kẻ luôn trông chờ, phó thác mọi việc của bản
thân vào người khác, ỷ lại, dựa dẫm vào sự bao bọc, chở che của mọi người, đặc
biệt là bố mẹ, người thân, .... Từ biểu hiện của sự dựa dẫm, giáo viên giúp học
sinh so sánh để rút ra điểm chung của những người dựa dẫm là không chịu học
tập, lao động, không chịu phấn đấu, vươn lên. Đây là sơ sở để các em luận bàn
về tác hại của thói dựa dẫm. Các em nhận thức rằng dựa dẫm khiến con người
không làm chủ được bản thân, làm chủ cuộc sống nên sẽ trở thành những kẻ lười
biếng trong cả suy nghĩ và vận động, thiếu năng lực đưa ra quyết định, không
biết quý trọng giá trị của đồng tiền và sức lao động, .... Người luôn dựa dẫm sẽ
khó trưởng thành, không rèn luyện được những kỹ năng cần thiết để sống tốt và
sống có ích... Cho nên, khi chỗ dựa không còn thì sẽ khó có khả năng vượt lên
những trở ngại của cuộc sống, dễ dàng rơi vào sự bi quan, chán nản, tuyệt vọng
và dễ sa ngã trước những cám dỗ của cuộc sống hiện đại. Thói dựa dẫm còn là
tiền đề cho những thói xấu khác như thụ động, ích kỉ, hèn nhát, sống vô trách
nhiệm, ... Những người có thói dựa dẫm luôn tạo gánh nặng cho người khác, cho
gia đình và xã hội... Vì vậy, chúng ta cần phải đấu tranh với những biểu hiện của
thói dựa dẫm ở bản thân và người khác. Đặc biệt là các bạn trẻ cần học cách tự
đứng trên đôi chân của mình, không biến mình thành cây tầm gửi trong cuộc
sống. Còn gia đình và xã hội cần quyết liệt loại bỏ căn bệnh ỷ lại, tạo điều kiện
để các bạn trẻ sống tích cực, chủ động.
Hay với đề thi sau:
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
13


“Đã lâu lắm rồi tôi và cả nhà mới lại cùng nhau xem U23 Việt Nam thi
đấu bóng đá SEA Games. Lúc đội tuyển ra sân, tôi rất xúc động khi quốc ca Việt
Nam vang lên. Cả nhà tôi đã cùng hát theo, dù các con tôi chưa thật thuộc

nhưng chúng vẫn buộc ba, mẹ phải đặt tay lên ngực cho giống các cầu thủ. Lúc
hát quốc ca, tôi có một cảm giác thật khó tả. Một điều gì đó thiêng liêng dành
cho Tổ quốc đang dâng lên trong lòng tôi. Hát quốc ca làm cho ta có tinh thần
mạnh mẽ, truyền cho ta khí thế hừng hực để sẵn sang bước vào trận đấu.
Khi đi học, tôi đã được hát quốc ca mỗi khi chào cờ. Bây giờ hát lại,
trong tôi vẫn dâng trào một cảm xúc mãnh liệt. Đó là niềm tự hào và tình yêu
quê hương, đất nước. Xem xong trận bóng đá, con tôi lại hỏi “Khi nào Việt Nam
đá nữa vậy ba? Để con cùng ba mẹ hát quốc ca”.”
(Theo Lê Văn Thu, Quốc ca Việt Nam, báo Thanh Niên số ngày 8-6-2015)
Từ đoạn trích trên, hãy viết bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của mình về
việc hát quốc ca hiện nay. [19]
Với đề bài này, để nhận diện vấn đề nghị luận, giáo viên phải giúp học
sinh phát hiện ngữ liệu trong đề có những sự việc nào đáng chú ý. Các sự việc
có điểm tương đồng nào. Từ đó học sinh sẽ định hướng được những ý cơ bản
cho bài viết như: Ngữ liệu tập trung nói về cảm xúc của tác giả khi xem trận đá
bóng và nghe quốc ca Việt Nam vang lên để rồi cả gia đình cùng hát theo. Hai
sự việc đều gặp gỡ nhau ở tình cảm thiêng liêng, niềm yêu mến, tự hào hướng về
Tổ Quốc. Từ đó học sinh tiếp tục vận dụng cách so sánh tương đồng khi đưa ra
hàng loạt các dẫn chứng khác về hát quốc ca. Từ những buổi sinh hoạt đầu tuần
dưới cờ trong các nhà trường đến những dịp kỉ niệm long trọng hay những buổi
đại hội, hội nghị quan trọng, hay những buổi đón tiếp các quan khách quốc tế,…
lời bài hát quốc ca đều được vang lên đầy trang trọng, tự hào. Tất cả đều gặp gỡ
nhau bởi sự xúc động dâng trào về quê hương đất nước, xuất phát từ tinh thần tự
tôn dân tộc của người Việt Nam yêu nước thiết tha.
Như vậy, trong quá trình dạy học sinh làm bài văn nghị luận xã hội ta
thấy, kỹ năng so sánh tương đồng thường được khai thác khi giúp học sinh so
sánh những biểu hiện giống nhau hoặc gần giống nhau của vấn đề nghị luận để
rút ra những nhận xét, đánh giá khái quát một cách toàn diện và sâu sắc hơn.
2.3.2.2. Kỹ năng so sánh tương phản.
Nếu so sánh tương đồng là cách so sánh hai hay nhiều sự vật cùng loại có

nhiều điểm giống nhau thì so sánh tương phản lại là cách so sánh hai hay nhiều
sự vật cùng loại có nhiều điểm đối chọi nhau. Và trong khi viết văn nghị luận để
làm vấn đề nghị luận nổi bật, toàn diện, tăng sức thuyết phục ta nên hướng dẫn
học sinh dùng cách so sánh tương phản.[20].
Chẳng hạn như với vấn đề nghị luận được đặt ra trong đề bài:
"Nhân dịp tết, một đoàn các chú lái máy bay lên thăm cơ quan cháu ở Sa
Pa. Không có cháu ở đấy. Các chú lại cử một chú lên tận đây. Chú ấy nói: nhờ
cháu có góp phần phát hiện một đám mây khô mà ngày ấy, tháng ấy, không
quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng. Đối với cháu, thật

14


là đột ngột, không ngờ lại là như thế... Nhưng từ hôm ấy cháu sống thật hạnh
phúc.”
(Nguyễn Thành Long, "Lặng lẽ Sa Pa", Ngữ văn 9, tập một)
Trong đoạn văn trên, anh thanh niên có nói: "Nhưng từ hôm ấy cháu sống
thật hạnh phúc". Viết bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của em về quan
điểm hạnh phúc của thanh niên thời nay." [18].
Với đề bài này, học sinh xác định được đoạn trích kể lại lời nói của anh
thanh niên trong cuộc trò chuyện với ông họa sĩ. Anh cảm thấy hạnh phúc vì đã
góp phần phát hiện đám mây khô giúp không quân ta hạ được phản lực Mỹ trên
cầu Hàm Rồng. Đó là niềm vui được cống hiến, được làm việc có ích cho đất
nước. Niềm hạnh phúc của chàng trai trẻ là được sống vì mục đích cao cả: góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là quan điểm sống đẹp của cả thế
hệ người dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Từ đó,
học sinh bàn luận về quan điểm hạnh phúc của giới trẻ trong hiện tại. Ngày nay,
tuổi trẻ được sống trong hòa bình, đất nước đang trên đà phát triển trong xu thế
hội nhập với bạn bè năm châu. Quan niệm về hạnh phúc được các bạn thanh
niên thể hiện phù hợp với lứa tuổi và hoàn cảnh sống hiện tại. Nguồn hạnh phúc

với nhiều bạn trẻ được bắt đầu từ ý nghĩa của niềm vui, của sự sống yêu thương
và được yêu thương, giúp đỡ người khác. Hạnh phúc là một cách để biết nâng
tâm hồn mình cao đẹp hơn, biết cống hiến, sống có ý nghĩa, sống có ích, có mục
đích và lý tưởng cao đẹp.
Tuy nhiên, để học sinh hiểu sâu sắc hơn về hạnh phúc thì chúng ta cần
hướng dẫn học sinh cách dùng các biểu hiện đối lập với hạnh phúc chân chính.
Đó là sự phê phán những quan niệm sai lầm về hạnh phúc: Hạnh phúc là sống có
đầy đủ về của cải vật chất, được mọi người quan tâm chăm sóc, sống hẹp hòi,
ích kỉ, không quan tâm đến cuộc sống và mọi người xung quanh... Từ lối so sánh
tương phản này là cơ sở để học sinh rút ra bài học nhận thức và hành động: Phê
phán thái độ sống vị kỉ, tầm thường. Phải luôn biết tạo ra hạnh phúc trong học
tập và cuộc sống bằng sự mở rộng tâm hồn để yêu thương và sẻ chia, sống có
trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội, đất nước. Không ngừng ra sức học
tập và làm việc để góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào cuộc sống lao
động và dựng xây đất nước.
Cũng như việc sử dụng mọi kỹ năng để tạo lập văn bản, khi sử dụng kỹ
năng so sánh, học sinh không sử dụng độc lập riêng rẽ mà cần có sự kết hợp với
các kỹ năng khác một cách nhuần nhuyễn hợp lí. Đặc biệt với kỹ năng so sánh
tương phản được vận dụng khá nhiều trong các dạng bài nghị luận xã hội. Mặc
dù có thể chỉ vận dụng ở mức độ đơn giản như cách dùng dẫn chứng đối lập với
vấn đề nghị luận song điều này lại có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc tạo sự
toàn diện cho vấn đề nghị luận, giúp bài văn có độ sâu sắc và thuyết phục hơn.
Chẳng hạn cũng với đề bài: Mẹ sẽ đưa con đến trường, cầm tay con dắt qua
cánh cổng, rồi buông tay mà nói: “Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là
của con,…”
(Theo Lí Lan, Cổng trường mở ra)
15


Từ việc người mẹ không “cầm tay” dắt con đi tiếp mà “buông tay” để

con tự đi, hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi) bàn về tính tự
lập. [18] học sinh vừa vận dụng kỹ năng tích hợp để giải thích về tự lập, trình
bày ý nghĩa của tính tự lập đem lại cho con người thì để bài văn có cái nhìn toàn
diện hơn chúng ta vẫn phải hướng dẫn học sinh dùng cách so sánh tương phản.
Đó là học sinh sử dụng những dẫn chứng đối lập với tự lập để đưa vào bài như
là sống ỷ lại, luôn trông chờ dựa dẫm vào sự bao bọc, chở che của người khác,
… Qua các biểu hiện tương phản này, học sinh chỉ rõ được đó là những hiện
tượng, những tư tưởng sống đáng lên án, phê phán. Từ đó, giúp học sinh khái
quát, đánh giá nâng cao vấn đề, khẳng định được tự lập là thước đo phẩm giá
của con người, là kim chỉ nam giúp chúng ta đi đến thành công.
Thật vậy, khi sử dụng kỹ năng so sánh có hiệu quả ta cần:
- Trước hết là cần xác định đối tượng nghị luận từ đó tìm đối tượng tương
đồng hay tương phản, hoặc cần so sánh hai hay nhiều đối tượng cùng lúc.
- Dựa vào nội dung nghị luận cần trình bày, chỉ ra những điểm giống nhau
(hoặc điểm khác biệt) giữa các đối tượng.
- Xác định giá trị cụ thể của các đối tượng.
Như vậy, từ thực tế hướng dẫn học sinh viết văn nghị luận xã hội, ta thấy
được kỹ năng dùng lập luận so sánh, kỹ năng tích hợp là chìa khóa giúp học sinh
viết bài văn dễ dàng, hứng thú hơn và đem lại hiệu quả, chất lượng bài văn cao
hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Trong quá trình hướng dẫn cho học sinh vận dụng kỹ năng tích hợp và kỹ
năng so sánh trong làm văn nghị luận xã hội, tôi nhận thấy các em học sinh hứng
thú hơn với giờ học Ngữ văn. Dường như không còn thái độ ngại ngùng khi các
em làm các đề bài nghị luận xã hội. Khi được yêu cầu trình bày những hiểu biết
của mình về một vấn đề nghị luận cụ thể trong những giờ thực hành, hầu hết học
sinh đều có ý thức chuẩn bị, nghiên cứu khá kỹ nội dung của đề bài đã tạo một
không khí học tập tích cực hơn. Từ đó các em trở nên tự tin và mở rộng tầm hiểu
biết của mình khi tiếp cận với những vấn đề được đặt ra trong đề bài nghị luận

xã hội. Mặt khác, các em cũng hình thành thói quen làm việc khoa học, trao đổi
những hiểu biết của mình với bạn bè, có thể hỏi thêm thầy, cô để làm giàu thêm
kiến thức cho mình, rất thuận lợi trong quá trình học tập và khi làm bài thi. Qua
thực hành luyện đề thì năng lực làm bài của học sinh cũng có những tiến bộ rõ
rệt. Học sinh nắm vững hơn các kỹ năng làm văn, được tiếp cận với nhiều dạng
đề, từ đó, rèn luyện nhiều thao tác nghị luận. Sau đó tôi tiếp tục tiến hành điều
tra việc hiểu biết và vận dụng kĩ năng tích hợp và so sánh làm bài nghị luận xã
hội ở học sinh thì đã có kết quả khả quan như sau: Số học sinh được hỏi : 47 em
(khối 9).
- Hiểu được vai trò của kĩ năng tích hợp và so sánh trong bài viết văn nghị
luận xã hội là 47/47 (tỉ lệ 100%). Chưa hiểu được vai trò của kĩ năng tích hợp
và so sánh trong bài viết văn nghị luận xã hội là 0/47 (tỉ lệ 0%).
16


- Đã sử dụng kĩ năng tích hợp và so sánh trong bài viết văn nghị luận xã
hội là 47 /47 (tỉ lệ 100%). Chưa sử dụng kĩ năng là 0/47 (tỉ lệ 0%).
- Kết quả bài tập về bài viết văn nghị luận xã hội số 5 đạt trên trung bình
là 42/47 (tỉ lệ 89.4%); dưới trung bình là 5/47 (tỉ lệ 10.6%).
Đồng thời khi trao đổi trong tổ chuyên môn về kinh nghiệm dạy học sinh
kỹ năng tích hợp và so sánh làm bài văn nghị luận xã hội, tôi đã nhận được sự
ủng hộ nhiệt tình từ các đồng nghiệp. Chúng tôi thống nhất vận dụng kinh
nghiệm này vào việc hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Ngữ văn ở các khối lớp
7,8,9. Vì vậy, kết quả thi học sinh giỏi của nhà trường bước đầu đã đạt được
thành tích đáng khích lệ. Trong năm học 2015 - 2016, các em đội tuyển lớp 8
đạt 01 giải ba, 01 giải khuyến khích cấp huyện; khối 7 đạt 02 giải khuyến khích
cấp huyện; kết quả thi vào 10 đạt tỉ lệ môn Ngữ văn từ 5 điểm trở lên là 94.9 %
(37/39 em), trong đó có cả học sinh đạt điểm 9. Trong năm học 2016 - 2017, có
02 em được tham gia ôn luyện đội tuyển cấp tỉnh và 1 em đạt giải khuyến khích
trong kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh môn Ngữ văn 9, 02 giải khuyến khích môn

Ngữ văn 8 cấp huyện. Quả thực với chúng tôi, đó là nguồn khích lệ động viên
vô cùng đáng quý sau bao thời gian thầy trò cùng nhau đồng hành trong những
giờ học, mùa thi...
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Hướng dẫn học sinh lớp 9 viết bài văn nghị luận xã hội có chất lượng là
trọng trách nặng nề của người giáo viên dạy Ngữ văn. Bởi vậy, để rèn cho học
sinh làm kiểu bài này đạt hiệu quả cao thì trong quá trình dạy - học, người giáo
viên Ngữ văn cần biết kết hợp các phương pháp giảng dạy một cách linh hoạt
nhất để giúp các em hiểu và biết cách xác định được yêu cầu đặt ra từ các đề bài
nghị luận xã hội. Từ đó xây dựng được dàn ý và chọn các kỹ năng trình bày phù
hợp để thể hiện hiểu biết của bản thân về vấn đề nghị luận một cách phù hợp
nhất. Với kỹ năng tích hợp và so sánh trong viết văn nghị luận xã hội, theo
chúng tôi muốn phát huy được hiệu quả của việc sử dung các kỹ năng này người
dạy phải hướng dẫn người học kinh nghiệm để thực hành có hiệu quả như:
- Phải luôn trau dồi kiến thức Ngữ văn nói chung và các môn học khác
trong nhà trường. Muốn có được điều này GV phải hướng dẫn các em tích luỹ
qua từng bài học, từng khối học để xâu chuỗi có hệ thống về kiến thức liên môn.
Chính bề dày hiểu biết sẽ đem lại hai khả năng: vừa có nguyên liệu để tích hợp,
so sánh, vừa tạo được tiền đề để mở rộng kỹ năng tích hợp, so sánh.
- Bên cạnh vốn kiến thức là nền tảng, các em cần có một tư duy sắc sảo và
trường liên tưởng nhạy bén.
- Trong khi nghị luận xã hội cần luôn có ý thức tích hợp, so sánh, có nghĩa
là tích hợp, so sánh phải trở thành một phản xạ thường trực trong tư duy.
Tuy vậy, để kỹ năng tích hợp, so sánh thực sự đạt hiệu quả trong quá trình
làm bài nghị luận xã hội, tôi nghĩ rằng cần lưu ý một số yêu cầu sau:
- Tích hợp, so sánh phải hợp lí. Tính hợp lí được thể hiện qua việc không
thừa nhận sự tuỳ tiện, thiếu khách quan, thiếu cơ sở khoa học.
17



- Tích hợp, so sánh phải có tính phát hiện, phải tìm ra được nét mới.
Nghĩa là tích hợp, so sánh có mục đích, không nửa vời.
- Tích hợp, so sánh phải có mức độ, chừng mực, phù hợp với phạm vi
biểu hiện của đối tượng.
- Đặc biệt để học sinh vừa phát huy năng lực văn chương, vừa rèn luyện
kỹ năng sống thực tế, người giáo viên cần chú trọng ở khâu ra đề. Đề ra không
nên theo lối mòn, mà cần phát huy hết những tiềm năng sẵn có ở các em. Từ tri
thức tới sự linh hoạt xử lí tri thức trong bài thi...
Đề tài Nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9
qua kỹ năng tích hợp và so sánh là tất cả niềm tâm huyết với nghề, tình yêu
thương và trách nhiệm mà tôi muốn dành cho học sinh. Khi thực hiện đề tài này
là cách mà từng bước tôi hình thành, rèn luyện năng lực viết văn nghị luận xã
hội ở học sinh. Qua sản phẩm của chính mình, các em thấy được ý nghĩa của các
vấn đề nghị luận không phải dừng lại ở trang giấy, bài thi mà bước vào cuộc đời,
gắn với lẽ sống, hành động của mỗi người trong cuộc sống xã hội. Từ đó, các em
có tình cảm yêu thích bộ môn Ngữ văn và biết sống có ý nghĩa cho mình cho
mọi người. Vì vậy, trong khuôn khổ của sáng kiến kinh nghiệm của cá nhân, tôi
xin trân trọng giới thiệu cách thực hiện này tới các đồng nghiệp với mong muốn
góp một phần nhỏ vào việc cải tiến phương pháp giảng dạy và nâng cao chất
lượng bộ môn Ngữ văn ngày càng tốt hơn.
3.2. Kiến nghị:
Với sự kỳ vọng về vai trò của bộ môn Ngữ văn nói riêng và nền giáo dục
trong bối cảnh xã hội hiện nay, tôi xin có một số kiến nghị với nhà trường và các
cấp quản lí giáo dục:
- Có ngân hàng đề cho các bộ môn đảm bảo tính chính xác, khoa học
thông qua việc tạo lập những phần mềm, trang web,... tiện ích, dễ sử dụng.
- Thư viện tạo điều kiện thuận lợi, giới thiệu sách mới để học sinh tìm đọc
thêm. Cần bổ sung vào thư viện những loại sách “Hạt giống tâm hồn’, “Học làm
người”, “Kỹ năng sống”…để học sinh vừa được bồi dưỡng đạo đức nhân cách,

vừa bổ sung tư liệu làm văn nghị luận xã hội có chất lượng ngày càng tốt hơn.
- Trong chương trình Ngữ văn 9 được xem là điểm kết thúc cho vòng 2
của chương trình THCS. Chương trình vừa tổng kết kiến thức, kĩ năng được học
tập và rèn luyện trong bốn năm học cho HS vừa chuẩn bị cho kì thi cuối khoá;
đồng thời tạo tâm thế, tiềm lực cho người học lên PTTH hoặc đi vào cuộc sống.
Cho nên có vị trí, tầm quan trọng rất lớn. Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy
kiểu bài nghị luận xã hội có một tầm quan trọng, ảnh hưởng lớn tới tư duy, nhận
thức và nhân cách của người học. Vì vậy, trong thời gian tới, ở chương trình
SGK chỉnh lí nên có sự điều chỉnh về thời gian và kiến thức tăng cho kiểu bài
này để phù hợp với năng lực, tầm hiểu biết của học sinh.
- Các SKKN có chất lượng cao, mang tính thực tiễn ở huyện, tỉnh ... cần
được đưa về các cơ sở để thảo luận và triển khai thực hiện nhằm nâng cao hơn
nữa tầm hiểu biết kinh nghiệm dạy học của giáo viên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
18


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2017
ĐƠN VỊ TRƯỜNG THCS TÂY HỒ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Bùi Thị Nga

19




×