Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

skkn rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.52 KB, 36 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội ở lớp 9.
2. Lĩnh vực áp dụng: Môn Ngữ văn
3. Tác giả
Nguyễn Thị Kim Vị

Nam (nữ): nữ

Ngày tháng/ năm sinh: 21/ 04/ 1977.
Chức vụ, đơn vị công tác, điện thoại: Giáo viên trường THCS Văn Đức- Chí
Linh- Hải Dương.
4. Chủ đầu tư sáng tạo ra sáng kiến:
Họ và tên: Nguyễn Thị Kim Vị
Tên đơn vị: Trường THCS Văn Đức
Địa chỉ: Khê Khẩu- Văn Đức- Chí Linh- Hải Dương.
Điện thoại: 03203930489.
5. Các điều kiện để áp dụng sáng kiến
Giáo viên xây dựng kế hoạch dạy học ngay từ đầu năm học và triển khai thực
hiện, kiểm tra đánh giá mức độ nhận biết nắm được bài của học sinh. Mặt khác
giáo viên có chuyên môn vững vàng, có lòng nhiệt tình, tận tâm với nghề nghiệp,
có khả năng sư phạm để từ đó cuốn hút, thuyết phục học sinh học văn.
Học sinh có ý thức học tập tốt, có ý chí vươn lên học hỏi một cách chủ động tự
giác, các em tự có ý thức đào sâu, bổ trợ kiến thức cho riêng mình. Tích cực thực
hiện yêu cầu của giáo viên, ham học hỏi tìm tòi, đọc tài liệu tham khảo, có ý thức
quan sát vấn đề trong cuộc sống.
Nhà trường có đủ cơ sở vật chất, có sự quan tâm chỉ đạo của ban giám hiệu,
tổ chuyên môn và nhóm chuyên môn. Phụ huynh có ý thức quan tâm đến việc học
tập của con em mình.
6. Thời gian áp dụng kinh nghiệm tại nhà trường lần đầu tháng 9 năm 2014.
HỌ TÊN TÁC GIẢ


XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP

( Kí và ghi rõ họ tên)

DỤNG SÁNG KIẾN
1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN.
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Nghị luận xã hội là kiểu bài quan trọng trong chương trình tập làm văn lớp
9, kiểu bài này lại khó hơn kiểu bài nghị luận văn học vì phạm vi của nó rất rộng
đề tài phong phú đa dạng, học sinh đứng trước kiểu bài nghị luận xã hội các em vô
cùng lúng túng và khó khăn để lập được dàn ý một cách đầy đủ và chính xác .
Những năm qua nghị luận xã hội được đưa vào trong cấu trúc đề thi tuyển
vào trường THPT, là câu nghị luận ngắn (câu 2). Là giáo viên trực tiếp dạy lớp 9,
trực tiếp hướng dẫn học sinh ôn thi vào THPT, tôi vô cùng trăn trở, luôn đi tìm tòi
cách thức tháo gỡ giúp các em học sinh hiểu cách làm bài nghị luận xã hội.
2. Điều kiện thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
Với mong muốn học sinh đạt kết quả trong kì thi THPT, làm thế nào để các
em hiểu và làm thành thạo kiểu bài văn nghị luận xã hội, tôi đã mạnh dạn lựa chọn
nội dung: “Rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội lớp 9”. Để nghiên cứu
và thực hiện sáng kiến từ thời điểm tháng 9 năm 2014 đến giữa tháng 2 năm 2015
tại nhà trường THCS nơi tôi đang công tác thì theo tôi cần có các điều kiện sau:
Về giáo viên có chuyên môn vững vàng, chịu khó đào sâu chuyên môn. Tích
cực đổi mới phương pháp giảng dạy, từ khâu soạn giảng đến khâu kiểm tra đánh
giá. Giáo viên cần có tính kiên trì, lòng nhiệt huyết yêu nghề, yêu học sinh và có
tinh thần trách nhiệm cao, chịu trách nhiệm chất lượng trước nhà trường.
Học sinh cũng phải có ý thức học tập tốt, biết lo lắng ôn học, chủ động lĩnh
hội tri thức, sáng tạo trong làm bài, diễn đạt lưu loát có ý thức quan sát xung

quanh, có lí lẽ, nhận xét đánh giá trình bày quan điểm lập trường của mình.
Phải có sự phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh, phụ huynh đôn đốc,
động viên, tạo điều kiện về vật chất và thời gian để học sinh học tập tốt nhất.
Nhà trường cần tổ chức các cuộc thảo luận giữa nhóm chuyên môn,đầu tư
trang thiết bị: máy chiếu, kết nối mạng internet và mua sách tài liệu thao khảo.
3. Nội dung sáng kiến:
2


Trong sáng kiến của mình tôi đã chỉ ra được thực trạng, nguyên nhân dẫn đến
thực trạng và tìm giải pháp tháo gỡ. Cụ thể tôi đã đề xuất 4 giải pháp.
3.1. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
Trong sáng kiến này tôi đã lựa chọn nội dung sáng kiến là “Rèn luyện kĩ năng
làm bài văn nghị luận xã hội lớp 9” đây là vấn đề mà ít các thầy cô đưa ra và quan
tâm đúng mức, giải pháp tôi đưa ra trong sáng kiến có tính mới giúp học sinh dễ
nhận biết dễ hiểu dễ nắm được quy cách làm kiểu dạng bài nghị luận xã hội. Vì
thực tế phần lí thuyết ở trong sách giáo khoa còn chung chung, tôi đã hướng dẫn
học sinh cách làm bài nghị luận rõ ràng hơn, cụ thể hơn rất nhiều.
3.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến
Khả năng áp dụng và triển khai rộng rãi ở tất cả các nhà trường THCS, đối
tượng lớp 9, có thể áp dụng cả cho lớp 7,8 (khi ôn đội tuyển học sinh giỏi)
Cách thức áp dụng: trong mỗi biện pháp tôi đã trình bày rất rõ ràng cụ thể: nghị
luận xã hội là gì, các dạng và, yêu cầu, các bước làm bài văn nghị luận xã hội
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến.
Học sinh đã hiểu và nắm được cách làm một bài nghị luận xã hội, biết trình
bày quan điểm thái độ của mình về một vấn đề xã hội bằng hình thức bình và bàn
luận mở rộng. Nêu được bài học cho bản thân. Biết cách tìm hiểu đề, lập dàn ý,
viết bài văn nghị luận. Rèn luyện kĩ năng quan sát, khả năng diễn đạt, khả năng
lập luận, rèn kĩ năng dựng đoạn, viết bài. Chủ động hứng thú, có ý thức chủ động
tìm tòi nghiên cứu tham khảo trên nhiều kênh thông tin khác nhau

5. Đề xuất, kiến nghị để thực hiện dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
Tôi mạnh dạn đề nghị các cấp quản lí giáo dục cần mở đợt học tập bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên và tập chung vào từng dạng cụ thể. Tổ chức
hội thảo cụm liên trường, tổ chức khen thưởng những thầy cô giáo có thành tích
trong công tác ôn thi học sinh lớp 9. Lựa chọn giáo viên có trình độ chuyên môn
vững vàng được học sinh và phụ huynh tin tưởng để dạy khối lớp 9. Cần đầu tư
trang thiết bị, cơ sở vật chất đầy đủ đáp ững nhu cầu của giáo viên và học sinh.
3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
1.1. Nghị luận xã hội là kiểu bài quan trọng được biên soạn và giảng dạy trong
chương trình sách giáo khoa từ bậc THCS đến THPT, song hiện nay hầu hết các
em thích làm kiểu bài nghị luận văn học vì các em được tiếp cận với hình tượng
văn học, sống với những hình tượng văn học được rung cảm vì lời giảng của thầy
cô mà rất ngán và ngại gặp những đề kiểu dạng nghị luận xã hội. Khi đứng trước
đề bài nghị luận xã hội học sinh rất lúng túng tìm ra cách làm cho đúng cho chuẩn
với yêu cầu của đề.
1.2. Những năm gần đây, cấu trúc đề thi vào THPT thường có 3 câu, tồn tại
dưới dạng tự luận: vận dụng thấp và vận dụng cao. Đề thi thời gian 120 phút,
thường có 3 câu rõ rệt: Câu 1- vận dụng thấp đòi hỏi học sinh nhớ tác giả, tác
phẩm, nội dung của đoạn thơ hoặc đoạn văn đã trích dẫn rồi các em trả lời ngắn có
thể dưới dạng dựng đoạn hoặc không cần dựng đoạn. Câu 2 thường là câu 3 điểm
yêu cầu học sinh có kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội (nghị luận về tư tưởng
đạo lí, nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống). Câu 3 thường là câu chiếm 5
điểm trở lên, dạng câu này yêu cầu học sinh biết làm bài nghị luận về văn học, cụ
thể là dạng nghị luận về bài thơ- đoạn thơ hoặc nghị luận về tác phẩm truyện, đọan
trích.
1.3. Trước yêu cầu đòi hỏi nói trên là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ

Văn khối lớp 9 nhiều năm tôi trăn trở làm thế nào để rèn luyện được kĩ năng cho
học sinh giúp các em có kĩ năng làm tốt bài văn nghị luận. Cũng như làm thế nào
để các em nắm được các bước cơ bản của từng dạng bài nghị luận trong sách giáo
khoa Ngữ Văn- Tập 2- Lớp 9. Làm thế nào để các em hứng thú, thích học Văn,
say mê tìm tòi hứng thú trước một đề văn. Và cái đích cuối cùng đó là kết quả
phân môn Văn các em thi vào trường THPT các em đạt điểm số cao.
2. Cơ sở lí luận của vấn đề.

4


Ở chương trình tập làm văn lớp 9 các em tiếp cận với dạng nghị luận xã hội
và nghị luận văn học. Nghị luận văn học bao giờ cũng là nội dung và phương thức
biểu đạt (nghệ thuật) là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật,
sự kiện chủ đề… thì nghị luận xã hội là bộc lộ những quan điểm của mình trước
vấn đề xã hội. Mà vấn đề xã hội không giống vấn đề văn chương, Goethe đã từng
nói “Nếu coi văn chương là lí thuyết thì xã hội chính là cuộc đời. Mọi lí thuyết đều
màu xám chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi”, ở đây màu xám ta hiểu theo một nét
nghĩa nào đó là cái chuẩn mực có đơn vị kiến thức cơ bản đã được cung cấp, còn
cây đời- cuộc đời xã hội thì muôn màu muôn vẻ, phong phú, đa dạng có rất nhiều
góc độ để soi chiếu. Văn nghị luận nói chung là dùng lí lẽ, dẫn chứng để làm sáng
tỏ một vấn đề nào đó từ đó thuyết phục người đọc người nghe.
Làm văn nghị luận xã hội quả thật không dễ với đông đảo học sinh bởi kiểu
bài này không chỉ đòi hỏi kĩ năng lập luận mà còn là sự thể hiện vốn sống, ý thức
quan tâm đến xã hội, bản lĩnh tư duy độc lập và một thế giới tâm hồn phong phú
nhạy cảm chân thành. Nghị luận xã hội là loại hình văn bản quan trọng với học
sinh. Vì sau này khi các em học xong phổ thông thì có phải ai cũng đi vào con
đường văn chương đâu. Nhưng ai chẳng phải đối diện với những vấn đề xã hội.
Trong cuộc sống nhiều trường hợp ta buộc phải giải thích, bày tỏ quan điểm, thái
độ tư tưởng của mình trước một vấn đề nào đó và phải thuyết phục ai đó nghe theo

mình, tin mình hoặc thuyết phục họ tin theo lẽ phải. Ví dụ đơn giản như trong nhà
trường ta muốn khuyên bạn của ta tránh xa trò chơi điện tử, hay khuyên bạn không
nên học vẹt học tủ. Trong gia đình ta muốn thuyết phục bố bỏ thuốc lá hoặc thôi
cờ bạc rượu chè…, một cô giáo trình bày với hiệu trưởng về sự bất hợp lí khi đuổi
học một em học sinh, tất cả đều có chung một mục đích đó là thuyết người nghe
tán thành ý kiến của mình. Như vậy thực chất là họ đang làm văn nghị luận trong
đời sống. Nghị luận xã hội tồn tại ở một số dạng như: nghị luận về tư tưởng đạo lí,
nghị luận về một hiện tượng, sự việc trong đời sống. Muốn học sinh làm được

5


kiểu bài này thì giáo viên cần chỉ các bước làm bài văn, các bước làm bài văn nghị
luận xã hội nói riêng và các kiểu văn nghị luận khác nói chung.
3. Thực trạng của vấn đề.
3.1. Thuận lợi
3.1.1. Giáo viên dạy:
Bản thân tôi đã có nhiều năm thâm niên công tác, nhiều năm dạy văn lớp 9
nhiều năm được nhà trường tin tưởng giao nhiệm vụ ôn thi môn ngữ văn 9 để các
em tham gia vào kì thi tuyển vào THPT. Chính vì lẽ đó tôi đã phải nghiên cứu tìm
ra phương pháp giảng dạy đơn giản nhất để truyền đạt giúp học sinh hiểu được
cách làm bài nghị luận xã hội hiệu quả nhất.
Giáo viên dạy đã chuẩn bị bài soạn giáo án tương đối tốt, có ý thức đổi mới
phương pháp học tập việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên tổ chức,
hướng dẫn cách thức làm bài, luyện các dạng đề khác nhau giúp học sinh hình
thành kĩ năng làm bài nghị luận.
3.1.2. Về phía học sinh
Đa số các em đã xác định được mục đích của việc học, có ý chí phấn đấu để
đỗ được vào THPT với số điểm cao nhất, nhiều em có ý thức ôn học tốt, tích cực
tìm tòi các dạng bài nghị luận, có ý thức tự bổ sung kiến thức, say mê trước mỗi

đề văn mà giáo viên giao cho.
Các em đã được tiếp xúc và học dạng văn nghị luận về một sự việc hiện
tượng xã hội và nghị luận về vấn đề tư tưởng đạo lí từ lớp 7 nên các em đã biết và
hình dung cách làm kiểu bài này.
3.2. Khó khăn
3.2.1. Giáo viên dạy:
Giáo viên cũng không thích dạy các tiết tập làm văn bằng các tiết văn bản và
các tiết tiếng Việt nên ít thày cô chọn các tiết hội giảng, tiết chuyên đề ngoại khóa
về tập làm văn. Thậm chí ngay trong các kì thi giáo viên giỏi các cấp các thầy cô
cũng không muốn dạy tiết tập làm văn.
6


Giáo viên đã có ý thức ra bài tập rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh tuy
nhiên hệ thống bài tập chưa nhiều, đôi khi chưa cung cấp đầy đủ cách làm các
dạng văn nghị luận dẫn đến học sinh lúng túng khi xác định hệ thống luận điểm.
3.2. 2. Về phía học sinh học:
Những năm gần đây học sinh có xu thế ngại học văn, sợ học văn hầu hết các
em không hững thú với việc học văn mà chủ yếu thiên về các môn tự nhiên dẫn
đến kĩ năng làm văn của nhiều học sinh còn hạn chế, nhiều học sinh đứng trước
một đề văn các em không xác định được yêu cầu của đề bài, không phân định rõ
đó là dạng nghị luận gì, từ đó khó có thể xác định và tìm được hướng đi của bài,
thậm chí các em chỉ làm qua loa, đại khái cho xong có em còn làm lạc đề hoặc kết
cấu bài làm thiếu ý, đoạn văn thiếu mạch lạc rõ ràng. Cá biệt nhiều em không cần
suy nghĩ cách làm, khi giáo viên giao đề văn thì ngay lập tức đi tìm sách tham
khảo để xem để chép hoặc dựa vào dàn ý cô giáo cho sẵn để làm dẫn đến bài viết
không linh hoạt khô cứng, không chân thật có phần gượng ép.
Kiểu loại văn nghị luận xã hội phạm vi bao hàm của nó rất rộng đa dạng
phong phú, muôn hình muôn vẻ mà thời lượng dành cho các tiết lí thuyết còn ít
dẫn đến kĩ năng làm bài còn hạn chế.

Kiểu bài nghị luận xã hội các em đã được học ở lớp 7 nhưng hầu hết học sinh
lâu ngày đã phôi pha dần quên mất kiến thức lí thuyết. Trong khi đó cuối năm khi
đi thi lại yêu cầu đòi hỏi học sinh phải thuần thục cách làm các dạng văn nghị luận
này để các em làm tốt bài thi vào THPT nên đây là vấn đề trăn trở đối với giáo
viên trực tiếp dạy Văn, nhất là Văn 9 làm thế nào các em hiểu đề bài, xác định
được các luận điểm của bài văn đảm bảo đủ ý, các ý sắp xếp theo trình tự hợp lí,
bài nghị luận của các em đủ sức thuyết phục người khác vấn đề mà đưa ra bàn
luận.
Nguyên nhân hạn chế.
Nguyên nhân khách quan:

7


Thực tế ngày nay đại bộ phận học sinh ngại học văn, sợ học văn, thiên hướng
của các em thích đi vào các môn tự nhiên hơn dẫn đến lúng túng trong cách làm
văn. Vậy nguyên nhân do đâu? Do xã hội ngày một phát triển đi lên theo hướng
công nghiệp hóa- hiện đại hóa, do cơ chế thị trường, do định hướng lệch lạc từ gia
đình nhiều phụ huynh coi nhẹ việc học các môn xã hội nói chung và phân môn văn
nói riêng, do học sinh có nhiều trò cuốn hút, ham chơi, lười học nên ngày càng có
nhiều học sinh lười học văn, ngại học văn.
Chương trình văn nghị luận rất rộng và khó hơn dạng nghị luận văn học, làm
kiểu bài này các em khó “tán” hơn bởi văn nghị luận xã hội đòi hỏi người viết phải
có vốn tri thức hiểu biết đời sống xã hội diễn ra xung quanh mình thì các em mới
lập luận thuyết phục người khác được. Vì thế mà học sinh thấy khó thấy lúng
túng.
Học sinh hiện nay học nhiều môn, môn nào cũng có yêu cầu đòi hỏi cao từ
giáo viên giảng dạy nên các em cảm thấy mệt mỏi quá sức không có thời gian
chuyên tâm vào các môn chính, việc học trở nên dàn trải, các em lo làm sao có bài
thuộc bài để ngày mai giáo viên kiểm tra. Ngoài ra chưa kể đến áp lực của các

hoạt động khác mà các em bắt buộc phải tham gia đó là các cuộc thi do Đội, Đoàn
…. phát động.
Nhiều bậc phụ huynh học sinh do mải làm ăn bươn trải cuộc sống, rất nhiều
em hiện bố mẹ đi nước ngoài ở nhà với ông bà già hoặc ở với cô, dì, chú, bác nên
việc đốc học tập của con em mình ôn học còn hạn chế. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến chất lượng học và ý thức học của học sinh giảm sút.
Nguyên nhân chủ quan:
Nhiều em học sinh chưa chú ý chuyên tâm vào việc học nên không có ý thức
tìm tòi học hỏi, một bộ phận không nhỏ các em học sinh đến lớp mà không chuẩn
bị bài và làm bài tập được giao hoặc có chuẩn bị cũng chỉ là sự miễn cưỡng chống
đối, có học sinh không tự làm bài mà mượn vở của bạn, chép trong sách tham
khảo để đối phó với cô giáo khi bị kiểm tra.
8


3. 3. Điều tra thực trạng.
Năm học 2014- 2015 tôi được nhà trường phân công dạy hai lớp ngữ văn 9,
ngay từ đầu năm học tôi đã xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của giáo viên dạy lớp
9 đó là ngoài giảng dạy kiến thức trong sách giáo khoa theo phân phối chương
trình 37 tuần thì song song với đó nhiệm vụ trọng trách nặng nề đó là ôn luyện,
rèn kĩ năng thuần thục, cung cấp kiến thức đầy đủ để cuối năm học các em còn
tham dự kì thi tuyển vào THPT. Chính vì thế ngay từ đầu tháng 9 tôi đã ra tiến
hành ra đề nghị luận kiểu dạng nghị luận xã hội mà các em đã học ở lớp 7 sau đó
tôi tiến hành chấm bài mục đích để nắm bắt được khả năng làm bài nghị luận của
học sinh. Đề khảo sát ( phụ lục 3). KÕt quả bài kiểm tra của các em như sau:
Lớp
9A
9C

Sĩ số

35
34

Giỏi- TL % Khá- TL % TB- TL %
2 - 5,7
15- 42,8
16- 45,8
0–0
5- 14,7
22- 64,7
Bảng 1: Kết quả khảo sát đầu năm

Yếu- TL %
2- 5,7
7- 20,6

Từ kết quả bài kiểm tra đầu tiên tôi nhận thấy học sinh nhiều em chưa biết
cách làm bài nghị luận xã hội, hầu hết bài làm của các em thiếu ý, các ý sắp xếp
theo trình tự chưa hợp lí, hết một ý- một luận điểm học sinh không phải tách ý,
tách đoạn chuyển ý chuyển đoạn. Về hành văn thì chưa lưu loát, lí lẽ dẫn chứng
chưa đủ tính thuyết phục, chưa biết liên hệ và nêu bài học cho bản thân…Cá biệt
còn có em không hiểu trước đề bài đó thì cần triển khai những ý chính nào. Xuất
phát từ thực tế đó tôi xin đưa ra một số giải pháp giúp các em có kĩ năng làm bài
văn nghị luận xã hội.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
4.1 Hướng dẫn học sinh nắm được thế nào là nghị luận xã hội
Nghị luận xã hội thực chất là trình bày quan điểm thái độ của mình về một
vấn đề xã hội nào đó được nêu ở phần đề bài bằng hình thức bình và bàn luận mở
rộng. Từ đó đưa ra bài học cho bản thân, nhận thức được điều gì đó sau khi bàn
luận và tự nêu được hành động hoặc đề xuất biện pháp góp phần làm cho vấn đề

bàn luận tốt đẹp hơn trong cuộc sống.
9


4.2. Phân biệt dạng bài nghị luận:
Khi cầm đề trên tay học sinh cần ngay lập tức xác định đó là dạng đề nào, nó
là hiện tượng sự kiện hay là tư tưởng đạo lí, nhiều khi ranh giới để xác định rất
mong manh thậm chí đan hòa với nhau. Để học sinh xác định được đề thuộc dạng
thứ nhất hay dạng thứ hai thì cần đi vào hiểu khái niệm của từng dạng bài như
sau:
4.2.1. Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống là bàn về một sự việc hiện
tượng đời sống xã hội có ý nghĩa đáng khen đáng chê hay đáng suy nghĩ.
Ví dụ sự việc hiện tượng đáng khen như tấm gương học sinh nghèo vượt khó
hay các cuộc vận động giúp đỡ đồng bào bão lụt….Sự việc hiện tượng đáng chê,
đáng suy nghĩ như: bàn về việc học tập: học tủ học vẹt hay tiêu cực trong thi cử,
vấn đề ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông…
4.2.2. Nghị luận về vấn đề tư tưởng đạo lí là bàn về lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối
sống…của con người. Các vấn đề thường gặp là:
- Vấn đề nhận thức: lí tưởng, mục đích sống…
- Tâm hồn tính cách: lòng yêu nước, tính trung thực, khiêm tốn….
- Quan hệ gia đình như: tình mẫu tử, tình phụ tử…
- Quan hệ xã hội: tình yêu, tình bạn...
- Cách ứng xử của mọi người trong cuộc sống.
4. 3. Hướng dẫn xác định yêu cầu của từng kiểu bài nghị luận xã hội.
4.3.1. Yêu cầu về nội dung:
4.3.1.1. Yêu cầu của kiểu bài nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống yêu cầu là
phân tích mặt đúng, mặt sai, mặt lợi, mặt hại chỉ ra nguyên nhân, bày tỏ thái độ, ý
kiến nhận định của người viết.
4.3.1.2. Yêu cầu của kiểu bài nghị luận về tư tưởng, đạo lí phải làm sáng tỏ bằng
cách giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu để chỉ ra chỗ đúng, chỗ sai của một

vấn đề tư tưởng nào đó.
4.3.2. Yêu cầu về hình thức:
10


- Bài văn nghị luận xã hội mức độ yêu cầu của đề thi có dung lượng khoảng 1
trang giấy thi.
- Bố cục đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết bài) phần thân bài được tổ chức thành
một số đoạn văn.
- Lập luận rõ ràng, chặt chẽ, kết hợp các dẫn chứng thuyết phục, lời văn trong
sáng, diễn đạt lưu loát, trình bày sáng sủa.
4. 4. Hướng dẫn học sinh các bước làm bài văn nghị luận xã hội.
Thao tác làm bài văn nghị luận trải qua 5 bước: Tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn
ý, viết bài, đọc và sửa bài.
4.4.1. Bước 1: Tìm hiểu đề
Đây là bước cực kì quan trọng trong khi làm bài văn song thực tế học sinh
thường chủ quan ở bước này. Bước tìm hiểu đề nếu các em xác định tốt thì bài làm
đúng hướng, đủ ý còn ngược lại nhiều em vội vàng hấp tấp chưa chú ý cẩn trọng
khi tìm hiểu đề nên dẫn đến làm bài thiếu ý hoặc làm lạc đề, không đúng yêu cầu
của đề bài. Để khắc phục tình trạng trên tôi đã hướng dẫn học sinh tự đặt câu hỏi
và tự trả lời.
- Đề thuộc dạng đề gì? ( nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống hay nghị luận về
tư tưởng, đạo lí)
- Yêu cầu về nội dung của đề: nêu suy nghĩ, bày tỏ quan điểm, thái độ
- Tri thức cần có là gì? ( những hiểu biết về vấn đề nghị luận, tri thức về đời sống)
4.4.2. Bước 2: Tìm ý
Bất kì bài văn nào cũng cần tìm ra các ý chính- tìm ra hệ thống luận điểm
chính, khung sườn cho bài văn. Vậy làm thế nào để tìm được ý? Sau khi các em
xác định được kiểu dạng bài nghị luận thì các em bám vào từ khóa để lập ý, các từ
khóa của từng kiểu bài nghị luận học sinh cần bám vào đó là:

Kiểu bài nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống: giải thích(nếu cần), thực
trạng; nguyên nhân; hậu quả; biện pháp.
Kiểu bài nghị luận về tư tưởng đạo lí: giải thích; phân tích; bác bỏ; đánh giá.
11


Để thực hiện bước tìm ý học sinh bắt buộc tự đặt câu hỏi và lập ý cho bài văn.
Ví dụ1: Cho đề bài: Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động như thế nào
để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
- Tai nạn giao thông là gì?
- Thực trạng tai nạn giao thông? Diễn ra ở đâu ? Nhờ đâu mà em biết được điều
đó? Dẫn chứng bằng số liệu cụ thể về số vụ việc, người và vụ mà em biết.
- Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên (khách quan và chủ quan)
- Hậu quả xấu gây ra là gi? (ảnh hưởng đến bản thân, gia đình, xã hội như thế
nào?)
- Biện pháp khắc phục (với cá nhân, với cộng đồng xã hội, đề nghị với cơ quan
chức năng…)
4.4.3. Bước 3: Lập dàn ý
Làm bài văn giống như dựng một ngôi nhà trước hết phải đủ vật liệu cần thiết,
vật liệu ở đây chính là các luận điểm, luận cứ, các ý lớn, ý nhỏ, các dẫn chứng.
Sau khi chuẩn bị để viết bài người viết tiến hành dựng khung cho ngôi nhà hay
còn gọi làm đề cương, lập dàn ý cho bài viết. Đây là bước quan trọng vì không thể
viết bài mà không lập dàn ý. Ngay cả những cây bút chuyên nghiệp cũng phải có
đề cương trước khi viết. Đành rằng phải hiểu đề cương một cách linh hoạt dàn ý
có thể viết ra giấy nháp nhưng cũng có thể là ý ở trong đầu người viết. Miễn là
trước khi viết mô hình bài viết cần được hình thành với những ý và sự sắp xếp các
ý để làm nổi bật vấn đề mà mình muốn làm sáng tỏ. Trong nhà trường học sinh
đang ở giai đoạn học tập và rèn luyện vì thế bắt buộc phải lập dàn ý ra giấy.
Không thể làm tắt hoặc bắt chước một số cây bút chuyên nghiệp. Thực chất mục
đích của lập dàn ý ra giấy là buộc người viết phải động não suy nghĩ trước khi

viết.
Dàn bài của bài văn nghị luận có ba phần, nhiệm vụ của từng phần rất rõ, tuy
nhiên các phần nhiều khi rất linh hoạt sau đây giáo viên cung cấp dàn ý chỉ mang

12


tính chất gợi ý tham khảo, học sinh có thể thay đổi thêm bớt, đảo vị trí sao cho
phù hợp với yêu cầu nghị luận.
4.3.3.1 Dàn ý bài văn nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống.
4.4.3.1.1. Mở bài: Giới thiệu sự việc, hiện tượng có vấn đề.
4.4.3.1.2. Thân bài:
- LĐ1: Giải thích sơ lược sự việc hiện tượng (nếu cần) tuy nhiên đây là ý không
bắt buộc, không phải đề văn nào cũng cần giải thích.
- LĐ2: Thực trạng của vấn đề nghị luận, tức là biểu hiện sự việc hiện tượng trong
thực tế diễn ra như thế nào.
- LĐ3: Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là gì, trong đó cần đưa ra những
nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
- LĐ4: Hậu quả của vấn đề nghị luận, hậu quả xấu hoặc kết quả tốt.
- LĐ5: Biện pháp khắc phục hậu quả ( đưa ra từng biện pháp : với cá nhân, gia
đình, xã hội....
4.4.3.1. 3. Kết bài: Nêu suy nghĩ bài học và lời khuyên rút ra đối với mọi người.
* Lưu ý khi làm kiểu bài này các ý có thể linh hoạt đổi vị trí cho nhau hoặc có thể
gộp ý cho dễ diễn đạt (chẳng hạn có thể gộp nguyên nhân và hậu quả luôn hoặc
sau khi nêu thực trạng thì nêu luôn hậu quả của nó có ảnh hưởng tích cực, tiêu cực
trong đời sống) chú ý liên hệ tình hình thực tế xã hội, địa phương nơi em sinh
sống để tăng tính thuyết phục.
Ví dụ 2. Lập dàn ý cho đề bài sau: Bàn về học tập: học vẹt, học tủ.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập dàn ý như sau:
1.


Mở bài: Giới thiệu sự việc, hiện tượng.

2.

Thân bài:

- Giải thích thế nào là học vẹt và học tủ. Bản chất của học vẹt, học tủ khác nhau
như thế nào ?
- Thực trạng : học vẹt, học tủ diễn ra ở đâu ? ở những bậc học nào? ( diễn ra ở
khắp các ngôi trường trên cả nước, trừ các trường mầm non. Trường em lớp em
13


cũng có các hiện tượng này, các bạn học không đều, học vẹt học tủ nên bài kiểm
tra bài thì điểm rất cao, bài lại có điểm rất thấp.
- Nguyên nhân là do đâu ? Do nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan
(do bản thân ý thức việc học tập không tốt, do gia đình không đốc thúc, quan tâm
đến việc học hành của con cái hoặc gia đình tạo áp lực học tập dẫn đến con cái
phải học tập một cách gượng ép không thoải mái, chỉ biết học thuộc cho xong, do
môi trường giáo dục chưa chú ý đến lực học học của học sinh thúc giục quá học
sinh đành phải học vẹt, học tủ cho qua.
- Hậu quả của việc học tủ, học vẹt chỉ có lợi ngay trước mắt nhưng lại rất có hại
cho bản thân, gia đình, và xã hội.
- Từ hậu quả nêu trên cần bày tỏ quan điểm bác bỏ, phê phán lối học này, tuy
nhiên không nên xa lánh học mà cần gần gũi, giúp đỡ để họ hiểu và thực hiện tốt
hơn.
- Giải pháp : Cần làm gì để ngăn chặn hiện tượng này ? Đối với bản thân, với gia
đình, dòng họ với xã hội.
3. Kết bài : Bài học thấm thía sâu sắc và đưa ra lời khuyên.

4.4.3.2. Dàn ý bài văn nghị luận về vấn đề tư tưởng, đạo lí.
4.4.3.2.1. Mở bài:
Giới thiệu vấn đề tư tưởng, đạo lí cần bàn luận.
Dẫn đề (nếu có)
4.4.3.2.2. Thân bài:
- LĐ1: Giải thích rõ vấn đề cần nghị luận tùy theo đề bài mà giải thích có thể giải
thích một từ hoặc một cụm từ (đối với đề nghị luận về nhận định) hoặc giải thích
nghĩa đen, nghĩa bóng ( nếu đề yêu cầu nghị luận về câu tục ngữ) sau đó rút ra tư
tưởng chung của cả câu.
- LĐ 2: Phân tích cũng tùy vào đề để phân tích, nếu đề nghị luận về câu tục ngữ,
ca dao, một nhận định, một câu thì người viết cần bày tỏ quan điểm của mình,
khẳng định phần giải thích là đúng hay sai, lấy dẫn chứng để chứng minh
14


Nếu là đề nghị luận mảng tâm hồn, tính cách thì phần phân tích cần chỉ rõ
biểu hiện như thế nào, vì sao phải như thế. Dùng dẫn chứng lí lẽ để thuyết phục.
- LĐ3: Bác bỏ- phê phán những biểu hiện sai lệch, bác bỏ cái xấu, cái tiêu cực và
bênh vực cái tốt cái tích cực.
- LĐ4: Đánh giá vấn đề tư tưởng, đạo lí, làm gì để đạt được mục tiêu đã bàn luận
phân tích ở trên.
4.4.3.2.3. Kết bài: Khái quát khẳng định lại vấn đề
Bài học sâu sắc, lời khuyên và mong ước hướng tới điều tốt đẹp
4.4.4 Bước 4: Hướng dẫn học sinh viết bài.
Từ dàn ý có sẵn các em có thể viết thành đoạn văn, bài văn. Giáo viên hướng
dẫn các em viết thành đoạn văn tiêu biểu: đoạn mở bài, thân bài, kết bài.
4.4.4.1: Hướng dẫn viết mở bài:
Học sinh rất lúng túng khó khăn khi viết mở bài vì chưa biết cách để viết tốt
phần mở bài nên giáo viên cần hướng dẫn học sinh viết mở bài hãy chú ý.
Mở bài là đoạn văn khởi đầu cần giới thiệu được vấn đề nghị luận đã được

đặt ra ở phần đề bài để lát nữa phần thân bài sẽ đi giải quyết. Vì thế mở bài không
được lấn sâu vào phần thân bài như giải thích, nhận xét, đánh giá.
Ví dụ viết phần mở bài cho đề sau: Suy nghĩ về đức hi sinh.
Con người Việt Nam đã từ lâu có nhiều phẩm chất đạo đức tốt đẹp như nhân
nghĩa, thủy chung, cần cù, chăm chỉ, dũng cảm…Một trong những phẩm chất tốt
đẹp ấy đó là đức hi sinh. Vậy chúng ta nên hiểu thế nào về đức tính này tôi và các
bạn cùng bàn luận nhé.
4.4.4.2. Hướng dẫn viết thân bài:
Phần thân bài bao hàm nhiều ý để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận (nhiều luận
điểm) mỗi luận điểm là một đoạn văn, đoạn văn ấy phải đúng quy cách:
Về hình thức của đoạn văn viết hoa đầu đoạn, hết đoạn có dấu chấm câu, các
câu văn trong đoạn văn phải sắp xếp theo trình tự hợp lí. Về nội dung các câu văn
trong đoạn văn đều phải tập chung làm sáng rõ chủ để của đoạn văn, đoạn văn ấy
15


có câu mang luận điểm, các câu khác trong đoạn làm nhiệm vụ tập chung làm sáng
tỏ cho câu mang luận điểm. Tương tự như vậy các đoạn văn trong bài văn cần tập
chung làm sáng tỏ cho luận đề của bài văn. Mỗi đoạn văn có một nội dung độc lập
và diễn đạt lưu loát, hành văn trong sáng có sử dụng lí lẽ dẫn chứng để chứng
minh thuyết phục người đọc người nghe.
Giữa các đoạn văn (các luận điểm) cần có sự liên kết, chuyển ý, chuyển đoạn
nhịp nhàng bằng các phép liên kết đã học để bài văn mượt mà, tránh gò bó, máy
móc, công thức.
Ví dụ viết đoạn văn giải thích đức hi sinh là gì?
Trước tiên ta cần hiểu thế nào là đức hi sinh? “đức”ở đây là nói đến một đạo
đức, đức tính tốt đẹp trong cuộc sống. “Hi sinh”là chịu thiệt, nhận phần thiệt thòi
về mình để cho người khác hưởng những điều tốt đẹp. Hi sinh mang ý nghĩa cao
cả, cống hiến những điều mà bản thân đang có cho người khác vì mục đích cao
đẹp. “Đức hi sinh” là sự cống hiến, hi sinh bản thân mình vì người khác, vì nghĩa

lớn. Người có đức hi sinh là người biết đặt lợi ích của người khác cũng như lợi ích
của đất nước lên trên lợi ích của chính mình, sẵn sàng đối đầu với mọi gian khổ
khó khăn vì mục đích cao cả tốt đẹp mà mình hướng tới. Có thể nói sự hi sinh vì lí
tưởng cao đẹp là thứ vĩ đại, thiêng liêng và đẹp đẽ nhất trên thế giới này.
4.4.4.3: Hướng dẫn viết kết bài:
Phần kết bài cũng là phần quan trọng làm không chỉ làm nhiệm vụ khép lại bài
văn mà còn khẳng định lại vấn đề đã nghị luận ở trên, bày tỏ quan điểm và nêu lời
khuyên bổ ích của tư tưởng, đạo lí đã nêu.
4.4.5. Hướng dẫn học sinh đọc và sửa bài.
Thực tế học sinh không hay thực hiện bước này. Đây là bước tương đối quan
trọng, sau khi hoàn thành bài viết cần đọc lại để sửa lỗi như lỗi chính tả, lỗi diễn
đạt, lỗi đánh dấu câu...phải kiểm tra soát lỗi thật chính xác rồi mới nộp bài. Vậy
vì sao học sinh không hay thực hiện bước này, cũng có nhiều lí do có thể do các
em thiếu giờ không đủ thời gian để đọc kiểm tra lại bài, nhưng một trong những lí
16


do khác nữa là các em chủ quan hoặc một số em lười nhác. Giáo viên cần lưu ý
học sinh khắc phục lỗi này và yêu cầu các em khi viết bài cần lưu ý thời gian, viết
phải đúng trúng ý tránh dài dòng, lan man mà thiếu thời gian đọc và sửa lỗi.
Giáo án minh họa tôi đã tiến hành dạy hai tiết dạng kiểu bài nghị luận về
vấn đề tư tưởng, đạo lí:
Tiết 114 và 115 – Tập làm văn
CÁCH LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VỀ TƯ TƯỞNG, ĐẠO LÍ.
(Nằm ở phần phụ lục 3)
5. Kết quả đạt được
Trên đây là một số biện pháp tôi đưa ra để chia sẻ với mọi người nhằm nâng
cao chất lượng khi dạy kiểu bài nghị luận xã hội, giúp học sinh hiểu và thuần thục
cách làm bài văn nghị luận xã hội.
Đề khảo sát ( phụ lục 4). Sau khi áp dụng các biện pháp trên tôi đã tiến hành

ra đề bài cho đề học sinh viết bài, giáo viên thu chấm bài và kết quả bài viết cụ
thể :
Lớp
9A
9C

Sĩ số
Giỏi- TL % Khá- TL % TB- TL %
Yếu- TL %
35
6 - 17,1
21- 60,1
8- 22,8
0- 0
34
0–0
8- 23,7
24- 70,5
2- 5,8
Bảng 2: Kết quả khảo sát sau khi áp dụng các biện pháp..
Từ kết quả trên tôi thấy có sự thay đổi đáng khích lệ, học sinh tiến bộ hơn

số lượng bài làm đạt bài giỏi và khá tăng lên, ở lớp 9A tỉ lệ giỏi tăng từ 5,5% đến
17,1%, khá tăng từ 45,8% lên 60,1% bài trung bình giảm từ 45,8% xuống 22,8%,
tỉ lệ học sinh yếu không còn nữa, vì lớp 9A là lớp đối tượng một. Ở lớp 9C tỉ lệ
học sinh khá tăng từ 14,7% lên 23,75 trung bình tăng 64,7% lên 70,5% còn tỉ lệ
bài yếu giảm rõ rệt từ 20,6% xuống còn 5,8% , điều này chứng tỏ
5.1. Về kiến thức: Học sinh đã hiểu và nắm được cách làm một bài nghị luận xã
hội, biết trình bày quan điểm thái độ của mình về một vấn đề xã hội bằng hình
thức bình và bàn luận mở rộng. Nêu được bài học cho bản thân, đề xuất biện pháp

cụ thể. Biết cách tìm hiểu đề, lập dàn ý, viết bài văn nghị luận. Đa số bài viết đã
17


đáp ứng được yêu cầu của đề giúp các em đạt kết quả cao trong bài viết tập làm
văn số 5 và tương lai trong kì thi tuyển vào THPT sẽ đạt kết quả cao hơn năm
trước.
5.2. Về kĩ năng: Trong quá trình làm bài rèn luyện được kĩ năng quan sát, khả
năng diễn đạt, khả năng lập luận, rèn kĩ năng dựng đoạn, viết bài.
5.3: Về thái độ: sau thời gian thực hiện sáng kiến tôi thấy thái độ của các em học
sinh khác hẳn, nếu trước đây các em rất sợ làm văn, ngại làm văn, lúng túng trước
một đề văn thì nay các em không còn ngại và sợ làm văn như trước, các em tỏ ra
tích cực, hăng hái chủ động hứng thú khi giáo viên giao đề. Các em bắt ta vào làm
văn thực hiện và tuân thủ các bước tạo lập một văn bản: tìm hiểu đề, lập dàn ý,
viết bài sau đó đọc và sửa bài trước khi nộp bài. Đặc biệt nhiều em còn có ý thức
chủ động tìm tòi nghiên cứu tham khảo trên nhiều kênh thông tin khác nhau để bổ
sung nâng cao nhận thức tầm hiểu biết về xã hội từ đó giúp các em hiểu hơn về
xung quanh có vốn sống giúp các em làm bài nghị luận xã hội tốt hơn
6. Điều kiện để áp dụng sáng kiến.
Giáo viên phải có ý thức học hỏi đào sâu chuyên môn, luôn trăn trở với kết
quả của học sinh sau mỗi bài kiểm tra và sau kì thi tuyển vào THPT. Sáng kiến có
thể triển khai trong tổ chuyên môn, trong nhà trường cho giáo viên đang trực tiếp
dạy môn Văn.
Phải phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh và với các lực lượng giáo dục
khác.
Học sinh phải có ý thức học tập tốt, tự tìm tòi chủ động lĩnh hội và tích lũy
kiến thức cho chính chính mình. Phải có yếu tố học trò say mê, ham học thì việc
thầy hướng dẫn mới có hiệu quả
Nhà trường cũng đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị, tài liệu sách tham khảo
phục vụ cho việc dạy và học của thầy và trò. Ngoài ra cũng cần có sự hỗ trợ của

các đồng chí đồng nghiệp và các cấp chính quyền và của ngành giáo dục.

18


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Nội dung nghiên cứu mà tôi đưa ra khá phong phú đòi hỏi sự kiên trì. Ở
sáng kiến này tôi đã đưa ra nội dung các giải pháp để tiến hành dạy kiểu bài nghị
luận xã hội. Trong đó đánh giá thực trạng mặt thuận lợi và khó khăn của việc dạy
học văn nói chung và làm kiểu bài nghị luận nói riêng, tìm nguyên nhân, các giải
pháp từ đó tôi thấy có sự chuyển biến tích cực và rõ rệt nhưng vẫn còn hạn chế
19


nhất định. Với khả năng của bản thân tôi mới chỉ đưa ra giải pháp cơ bản nhằm
mục đích giúp học sinh hiểu và làm tốt kiểu bài nghị luận xã hội, trong sáng kiến
tôi đưa ra 5 giải pháp (đã trình bày trong phần mô tả) với mong muốn làm sao học
sinh hứng thú học văn, không ngại học văn, đứng trước đề văn các em phản ứng
nhanh làm bài tốt, bài nghị luận của các em đủ ý, giàu tính thuyết phục trình bày
được quan điểm, chứng kiến của mình và đặc biệt là trong kì thi tuyển vào lớp vào
THPT các em ghi điểm số cao giúp các em đỗ đạt vào các trường công lập.
2. Khuyến nghị :
Để sáng kiến đạt hiệu quả cao tôi mạnh dạn đề nghị các cấp quản lí giáo dục
cần mở đợt học tập bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên hàng năm, ở
các đợt bồi dưỡng ấy nên tập chung vào từng dạng cụ thể. Tổ chức hội thảo cụm
liên trường để giáo viên có điều kiện giao lưu học hỏi kinh nghiệp từ các đồng
nghiệp khác ngoài nhà trường. Hàng năm tổ chức khen thưởng những thầy cô giáo
có thành tích trong công tác ôn thi học sinh lớp 9 theo từng môn cụ thể từ đó tạo
động lực để giáo viên hăng hái và say sưa hơn với chuyên môn của mình. Lựa

chọn giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng được học sinh và phụ huynh tin
tưởng để dạy khối lớp 9. Cần đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất đầy đủ đáp ững
nhu cầu của giáo viên và học sinh.
Trên đây là một vài giải pháp của cá nhân tôi, các giải pháp này đã được thực
hiện ở trong nhà trường và có hiệu quả nhất định. Hi vọng với các giải pháp tôi đã
trình bày sẽ được nhiều người áp dụng thì hiệu quả của sáng kiến ngày càng cao
hơn và bền vững hơn. Mặc dù đã hết sức cố gắng trình bày các giải pháp của cá
nhân một cách rõ ràng dễ hiểu tuy nhiên ý kiến chủ quan của cá nhân cũng không
thể tránh được thiếu sót, hạn chế cũng như vấn đề tranh cãi bàn luận. Rất mong
nhận được sự góp ý chân thành của đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn các đồng chí đã quan tâm, theo dõi và giúp đỡ.

20


PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Các tài liệu tham khảo
1. Sách giáo khoa Ngữ Văn 9.
2. Sách giáo viên Ngữ Văn 9.
3. Chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ Văn tập 2.
4. Muốn làm bài được văn hay- Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên
5. Hướng dẫn làm các bài văn nghị luận lớp 9.
21


Phụ lục 2: Danh mục các từ viết tắt.
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
TL


: tỉ lệ.

HS

: học sinh

SGK : sách giáo khoa


: hoạt động
22




: Luận điểm

Phụ lục 3: Đề khảo sát trước khi thực hiện biện pháp, giải pháp.
A. Đề: Em có suy nghĩ gì về thực trạng học vẹt, học tủ của học sinh ngày nay.
B. Hướng dẫn chấm:
a. Mức độ tối đa:
* Về nội dung:( 8 điểm)
Bài viết của học sinh cần đảm bảo các ý sau:
Nêu được vấn đề nghị luận:
23


a. Mở bài: Giới thiệu được vấn đề nghị luận.
b. Thân bài:
-


Giải thích được học là quá trình tiếp thu lĩnh hội kiến thức, học vẹt là học

thuộc bài nhưng không hề hiểu biết gì. Học tủ hơi khác hơn một chút là cách học
chọn một đơn vị kiến thức nhỏ trong vô vàn kiến thức để học.
-

Thực trạng học vẹt học tủ diễn ra ở mọi nơi, ở các bậc học và ngay ở trường

em hiện tượng này cũng rất phổ biến.
-

Nguyên nhân: nêu được nguyên nhân khách quan và chủ quan: do tự ý thức

bản thân, do ham chơi lười học, do bố mẹ và thầy cô tạo áp lực quá…
-

Hậu quả: học theo kiểu học này học sinh sẽ không hiểu bản chất, không tiếp

thu được tri thức… về phía gia đình mất niềm tin vào con em mình. Xã hội sẽ toàn
những người đầu óc trống rỗng.
-

Bên cạnh học vẹt học tủ còn có những em hộc tập qua lao , đối phó bỏ học đi

chơi. Chúng ta phê phán lối học vẹt, hcoj tủ, học qua loa này. Trái với học vẹt, học
tủ là những người chuyên cần học tập học tập ngày đêm vì thế mà họ nắm được
kiến thức cơ bản.
-


Giải pháp: mỗi học sinh cần tự cố gắng học tập để tự khẳng định mình, với

gia đình cần quan tâm, động viên, ngăn chăn kịp thời lối học này. Nhà trường các
thầy cô cần phân loại đối tượng học sinh, giao bài tập đúng sức…
c. Kết bài: Kết luận về tình trạng học vẹt học tủ, bài học, lời khuyên.
* Về hình thức và tiêu chí khác ( 2 điểm)
- Bài viết bố cục đảm bảo ba phần.
- Bài viết không mắc lỗi chính tả, lỗi diễn đạt
- Lời văn mạch lạc, trong sáng, từ ngữ giàu hình ảnh, dùng từ đặt câu , dựng đoạn
tốt.
b. Mức độ chưa tối đa:
Chưa đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về nội dun và hình thức nêu trên.
c. Mức độ không đạt: Không làm bài hoặc lạc đề
24


Phụ lục 4: Đề khảo sát sau khi đưa ra biện pháp, giải pháp.
A. Đề bài: Suy nghĩ về tính tự lập.
B. Hướng dẫn chấm:
a. Mức độ tối đa:
* Về nội dung: (8 điểm) Học sinh cần nêu được các ý cơ bản sau
a. Mở bài: Nêu được vấn nghị luận, vai trò của tự lập.

25


×