Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

CƠ CHẾ bảo đảm THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP cận THÔNG TIN ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.38 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HT

CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số : 60380101
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ……………..

HÀ NỘI – NĂM 2017
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của trường Đại học Luật Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị nhà trường xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị HT

2



LỜI CẢM ƠN
Trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS Thái Vĩnh Thắng– Khoa Hành chính
nhà nước - trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt thời gian
qua để em hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn tới các thầy cô giáo trong trường Đại học Luật Hà Nội, đặc
biệt là khoa Hành chính nhà nước đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ em trong suốt thời gian học
tập, nghiên cứu tại trường. Đồng thời, em cũng gửi lời cảm ơn đến các cán bộ Trung tâm Thông tin
Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình hỗ trợ trong việc tìm kiếm, thu thập tài liệu để
em có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu.
Do kiến thức còn hạn chế nên luận văn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong
nhận được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày .... tháng ..... năm 2017
Học viên
Nguyễn Thị HT

3


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN VÀ CƠ CHẾ
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN 11
1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin 11
1.2. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin 15
1.3. Khái niệm cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin 20
1.4. Vai trò của cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin 24
Chương 2 THỰC TRẠNG CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 27

2.1. Các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin 27
2.2. Phạm vi cung cấp thông tin/ giới hạn thông tin 35
2.3. Các hình thức cung cấp thông tin 43
2.4. Chủ thể quyền tiếp cận thông tin 52
2.5. Chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin 55
2.6. Trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin 62
2.7. Phí tiếp cận thông tin 73
2.8. Thủ tục khiếu nại, tố cáo, khởi kiện và xử lý vi phạm liên quan đếnquyền tiếp cận thông tin 74
2.8.1. Thủ tục khiếu nại, tố cáo, khởi kiện liên quan đến quyền tiếp cận thông tin. 74
2.8.2. Xử lý vi phạm liên quan đến quyền tiếp cận thông tin. 81
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 84
KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 86

4


LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Quyền tiếp cận thông tin là một quyền con người và là quyền cơ bản của công dân thuộc
nhóm quyền dân sự - chính trị đã được ghi nhận trong một số văn kiện quốc tế có giá trị pháp lý
đặc biệt quan trọng như: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 1, Công ước quốc tế
về các quyền dân sự và chính trị năm 19662, Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng
năm 2003, Tuyên bố Rio về môi trường và phát triển năm 1992, Công ước UNECE về tiếp cận
thông tin môi trường năm 1998 của Ủy ban kinh tế Châu Âu của Liên hợp quốc.
Để đáp ứng nhu cầu hội nhập toàn diện, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng nhà nước
pháp quyền hiện nay, Việt Nam đã càng ngày càng chú trọng quan tâm đến thúc đẩy và bảo đảm
quyền con người. Nhận thức được tầm quan trọng của quyền tiếp cận thông tin, Việt Nam đã hiến
định trong Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 và đã cụ thể hóa quyền tiếp cận thông tin trong một số
văn bản quy phạm pháp luật với những lĩnh vực khác nhau như Luật Kiểm toán 2015, Luật phòng

chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung 2012), Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
năm 2013…nhằm tạo điều kiện thuận tiện hơn cho người dân tiếp cận thông tin, tăng cường vai trò
làm chủ của nhân dân để “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”, đồng thời, đó là cơ sở pháp lý
thúc đẩy sự công khai, minh bạch, trách nhiệm đảm bảo tính chính xác trong hoạt động của cơ
quan công quyền phục vụ vì lợi ích nhân dân để Nhà nước ta thực sự là “của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân”.
Tuy nhiên, hiện nay, quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam vẫn chưa có cơ sở pháp lý thực sự
vững chắc cũng như chưa có cơ chế hiệu quả bảo đảm thực hiện trên thực tế để quyền này được
thực thi một cách hiệu quả, phù hợp với các cam kết Việt Nam đã tham gia về quyền tiếp cận thông
tin cũng như chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn về bảo đảm thực hiện quyền này. Hiện nay,
pháp luật Việt Nam còn một số những bất cập, vướng mắc trong thực hiện quyền tiếp cận thông
tin, chưa đáp ứng được nhu cầu của tình hình mới, nhất là khi mới có Hiến pháp 2013 và đã thông
qua Luật tiếp cận thông tin năm 2016 nhưng hiện tại vẫn chưa có hiệu lực thi hành và bản thân quy
định của Luật này vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc.
Đồng thời, trên thực tiễn, việc cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước cho người dân
còn nhiều hạn chế, mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu thông tin của người dân đang ngày càng gia
tăng và chưa tạo điều kiện để người dân tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng, thuận tiện, nhất
là các thông tin liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của người dân trong các lĩnh vực quy hoạch
đất đai, giao thông, xây dựng, đền bù giải phóng mặt bằng.
Thực trạng này dẫn đến tình trạng bất bình đẳng trong xã hội, tạo điều kiện cho một số cán
bộ, công chức trục lợi, gây khó khăn cho người dân.
Vì vậy, việc nghiên cứu để đưa ra những cơ sở lý luận, làm rõ sự cần thiết của quyền tiếp cận
thông tin, nhận thức được thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận thông tin và tìm hiểu đưa ra cơ chế
thúc đẩy và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin là thực sự cần thiết, góp phần bảo vệ quyền con
người, nâng cao tính minh bạch, dân chủ trong thực hiện quyền lực nhà nước, tạo tiền đề vững
chắc cho xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng phát triển và hội
nhập.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
5



2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Nhận thức được tầm quan trọng của quyền tiếp cận thông tin, nhiều tổ chức quốc tế, khu vực
và các quốc gia đã công nhận, tôn trọng và đã có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị lớn trên thế
giới như: Freedom of Information: The Law, the Practice and the Ideal (Tự do thông tin: Pháp luật,
thực tiễn và lý tưởng) của Patrick Birkinshaw năm 2001 hay Blackston’s Guide to the Freedom of
Information Act (Bình luận của Blackston về đạo luật tự do thông tin) của John Wadham, Jonathan
Griffiths và Kelly Marris năm 2002. Những tác phẩm này phân tích cụ thể những vấn đề liên quan
đến quyền tiếp cận thông tin như vai trò, bối cảnh ra đời, nội dung các quyền, các trường hợp miễn
trừ và các cơ chế bảo đảm thực thi. Đặc biệt, Tony Mendel – chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực
Luật tiếp cận thông tin đã có công trình nghiên cứu: “Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp
cận thông tin” xuất bản năm 2008 có giá trị rất lớn đối với việc các quốc gia ban hành Luật tiếp
cận thông tin. Bên cạnh đó còn có nhiều bài nghiên cứu chuyên sâu như: Freedom of Information
and Openness: Fundamental Human Right? (Tự do thông tin và công khai: Quyền cơ bản của con
người?) của Patrick Birkinshaw3 trình bày và phân tích sâu sắc các quan điểm đa chiều của giới
luật học về ưu điểm cũng như hạn chế của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của một số nước
trên thế giới hay bài viết: “Freedom of Information in Australia” (Tự do thông tin ở Úc) của Peter
Bayne4 nói về kinh nghiệm của Australia về tự do thông tin.
Như vậy, có thể thấy quyền tiếp cận thông tin được rất nhiều người quan tâm và đã cho ra đời
các tác phẩm về vấn đề này với nội dung và hình thức hết sức phong phú, đa dạng nhằm cung cấp
kiến thức lý luận cũng như kinh nghiệm các nước trên thế giới về quyền tiếp cận thông tin, là
những tài liệu quý giá nhằm phục vụ cho việc học hỏi, nghiên cứu, hoàn thiện và thúc đẩy cơ chế
bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cho các nước chưa có cơ chế hữu hiệu để bảo đảm quyền này
như ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Trong giai đoạn phát triển và hội nhập toàn diện ở Việt Nam hiện nay, việc bảo đảm và thúc
đẩy quyền con người trong đó có quyền tiếp cận thông tin được rất nhiều người quan tâm tìm hiểu,
nghiên cứu. Trong những năm gần đây đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về quyền tiếp cận
thông tin với những khía cạnh và góc nhìn khác nhau và chủ yếu là các bài viết trên các trang
website, tạp chí và các bài tham luận trong các hội thảo khoa học liên quan đến quyền tiếp cận

thông tin như Hội thảo “Tiếp cận thông tin – quy định quốc tế, kinh nghiệm Việt Nam, Đan Mạch”
tổ chức tại Hà Nội ngày 5- 6/10/2006 và Hội thảo khoa học “Tiếp cận thông tin – thực tiễn Việt
Nam và kinh nghiệm của Vương quốc Anh” tổ chức tại Hà Nội vào tháng 10/2007 với các bài viết:
GS.TS. Trần Ngọc Đường, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với quyền được tiếp
cận thông tin; Nguyễn Chí Dũng, Quyền tiếp cận thông tin: Yêu cầu của quản lý nhà nước hiệu
quả, vì phát triển; Tường Duy Kiên – Hoàng Mai Hương – Chu Thúy Hằng, Tìm hiểu pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền được đảm bảo thông tin của Việt Nam; TS. Dương Thanh
Mai, Quyền được thông tin và sự tham gia của nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật ở Việt
Nam; TS. Đinh Văn Minh, Chuẩn mực tiếp cận thông tin và cuộc đấu tranh chống tham nhũng; TS.
Hoàng Minh Thái, Tiếp cận thông tin – Những vấn đề đang đặt ra; TS. Nguyễn Đức Thủy, Quyền
tiếp cận thông tin – Kinh nghiệm Việt Nam và Vương quốc Anh; Phạm Quốc Anh, Sự cần thiết và
đề xuất khuôn khổ của Luật tiếp cận thông tin của Việt Nam; Ths. Vũ Công Giao, Cơ chế bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan ở Việt Nam; TS. Tường Duy Kiên,
Quyền được thông tin – Cách tiếp cận quốc tế và đặc điểm chung của luật tiếp cận thông tin một số
nước trên thế giới. Tới năm 2009, nhiều hội thảo về xây dựng Luật tiếp cận thông tin đã được tổ
chức như: hội thảo “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam” được tổ chức tại Hà Nội tháng
6


5/2009 và hội thảo “Luật tiếp cận thông tin – kinh nghiệm một số nước trên thế giới” tổ chức ngày
19-20/8/2009 tại Nha Trang đã có nhiều bài tham luận khai thác những phương diện và nội dung
khác nhau của quyền tiếp cận thông tin như: James Anderson - Chuyên gia cao cấp về quản trị
quốc gia của Ngân hàng thế giới, Kinh nghiệm của một số nước Đông Âu trong việc thực thi Luật
tiếp cận thông tin; Jairo Acuna Alfaro
- Cố vấn chính sách về cải cách hành chính và chống tham nhũng của UNDP tại Việt Nam, Quyền
tiếp cận thông tin tại các nước khu vực Đông Nam Á; Ts. Hoàng Thị Ngân, Kết quả nghiên cứu
kinh nghiệm quốc tế về Luật tiếp cận thông tin của một số quốc gia trên thế giới; GS.TSKH. Đào
Trí Úc, Tổng quan về luật tiếp cận thông tin và vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong việc
thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở các nước trên thế giới; GS.TSKH Lê Cảm, Pháp luật và phát
triển – vai trò của giới luật gia trong việc thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin; Toje R. Ruud, Luật

tiếp cận thông tin của Na Uy và vai trò của các tổ chức xã hội trong việc xây dựng và thực hiện
luật này; GS. Sung Nak In - Đại học quốc gia Seoul, Luật tiếp cận thông tin (Luật công khai thông
tin của các cơ quan nhà nước) ở Hàn Quốc và vai trò của các tổ chức xã hội trong việc xây dựng và
thực hiện luật này;…
Bên cạnh đó, còn có một số bài viết cũng có giá trị nghiên cứu về quyền tiếp cận thông tin đã
được đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 17 tháng 9 năm 2009 như: GS.TS. Thái Vĩnh
Thắng, Quyền tiếp cận thông tin – Điều kiện thực hiện các quyền con người và quyền công dân;
ThS. Dương Thị Bình, Thực trạng quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam; TS. Nguyễn Thị Thu Vân,
Cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin...
Đề tài khoa học cấp bộ: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tiếp cận
thông tin phục vụ xây dựng Luật tiếp cận thông tin” năm 2010 do GS.TS Thái Vĩnh Thắng làm chủ
nhiệm đề tài cũng đã có nhiều bài viết nghiên cứu về các nội dung: cơ sở lý luận về tiếp cận thông
tin, luật tiếp cận thông tin/ tự do thông tin trong pháp luật quốc tế và pháp luật của một số nước
trên thế giới, thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay,
xây dựng luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay…có ý nghĩa khoa học sâu sắc, góp phần lớn
trong việc nghiên cứu, ban hành Luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam.
Mỗi tác giả khi nghiên cứu về quyền tiếp cận thông tin có những cái nhìn, phân tích, đánh giá
và nêu ra những ưu điểm, nhược điểm và giải pháp khác nhau nhằm hoàn thiện hơn nữa quyền tiếp
cận thông tin. Nội dung chủ yếu các tác giả quan tâm đến là khái niệm quyền tiếp cận thông tin,
lịch sử hình thành và phát triển quyền tiếp cận thông tin, các quy định liên quan đến bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin và chủ yếu là quy định của các nước trên thế giới như về vấn đề phạm vi
áp dụng, chủ thể quyền tiếp cận thông tin, chủ thể cung cấp thông tin, các phương thức cung cấp
thông tin, trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin, cơ chế giám sát, giải quyết khiếu
nại, khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin…Đó là những vấn đề liên quan đến việc bảo đảm thực
hiện quyền tiếp cận thông tin. Tuy nhiên, để làm rõ hơn về khái niệm, vai trò quyền tiếp cận thông
tin và cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay, em chọn và phân
tích đề tài: “Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay” nhằm khái
quát lại những vấn đề liên quan đến cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin bằng cách
tìm hiểu và nêu ra quy định một số quốc gia trên thế giới.
Trên cơ sở đó, nhận xét, đánh giá xem Việt Nam hiện nay cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin

đang ở mức độ nào và cần hoàn thiện như thế nào.
Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin là điều kiện cần thiết để người dân thực hiện quyền
làm chủ của mình trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội và phục vụ cuộc sống của mình;
góp phần nâng cao tính minh bạch của các chính sách, nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước.
7


Do đó, ban hành Luật tiếp cận thông tin năm 2016 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xây
dựng các nguyên tắc nền tảng trong việc tiếp cận thông tin, tạo khung pháp lý đồng bộ cho việc
thực hiện quyền tiếp cận thông tin của người dân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Những vấn đề lý luận về quyền tiếp cận thông tin: khái
niệm và vai trò quan trọng của quyền tiếp cận thông tin, cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận
thông tin; thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn quyền tiếp cận thông tin và tìm ra một số biện
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện
nay. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt
Nam hiện nay.
4. Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về quyền tiếp cận thông
tin, cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin và chỉ ra kinh nghiệm một số nước để liên hệ với thực
trạng ở Việt Nam để thấy được những ưu điểm cũng như hạn chế nhằm hoàn thiện hơn cơ chế bảo
đảm quyền tiếp cận thông tin hiện nay.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của Luận văn
Để đạt được mục đích nghiên cứu của Luận văn, đề tài xác định các câu hỏi nghiên cứu của
Luận văn là:
- Quyền tiếp cận thông tin là gì? Quyền tiếp cận thông tin có vai trò gì trong việc bảo đảm quyền
con người cũng như nền dân chủ hiện nay?
- Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin là gì và nó có vai trò gì trong việc bảo đảm
thực hiện quyền tiếp cận thông tin hiệu quả trên thực tế?
- Hiện nay, Việt Nam đã học tập được những gì từ quy định của các nước trên thế giới và có những

quy định như thế nào về những vấn đề liên quan đến quyền tiếp cận thông tin như: Các nguyên tắc
bảo đảm quyền tiếp cận thông tin; Phạm vi cung cấp thông tin; Các hình thức cung cấp thông tin;
Chủ thể quyền tiếp cận thông tin; Chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin; Thủ tục thực hiện
quyền tiếp cận thông tin; Phí tiếp cận thông tin; Thủ tục khiếu nại, khởi kiện liên quan đến quyền
tiếp cận thông tin; Thủ tục khiếu nại, khởi kiện, tố cáo và xử lý vi phạm liên quan đến quyền tiếp
cận thông tin; Thủ tục khiếu nại, khởi kiện, tố cáo liên quan đến quyền tiếp cận thông tin;
Xử lý vi phạm liên quan đến quyền tiếp cận thông tin? Những quy định đó có những ưu điểm, hạn
chế gì? Và hạn chế thì cần khắc phục như thế nào?
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật và các quan điểm, chủ trương
của Đảng và Nhà nước ta về dân chủ, quyền con người, quyền công dân.

8


Phương pháp nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu và hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu về vấn đề
thúc đẩy và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
thông thường của khoa học xã hội và luật học như:
- Phương pháp lịch sử: Tìm hiểu những quy định pháp luật về quyền tiếp cận thông tin trong
lịch sử thế giới và Việt Nam để nắm rõ về sự hình thành và quy luật phát triển của quyền tiếp cận
thông tin cũng như nhu cầu bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin theo mỗi giai đoạn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn phân tích và tổng kết lại những kết quả của các
công trình nghiên cứu về quyền tiếp cận thông tin và đưa ra những nhận xét, đánh giá của bản thân
để đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận
thông tin và thúc đẩy, bảo đảm thực hiện quyền này trên thực tế.
- Phương pháp so sánh: Luận văn so sánh về những quy định của pháp luật cũng như thực tế
bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin giữa Việt Nam với thế giới và ở Việt Nam trong các
giai đoạn khác nhau.
- Phương pháp thống kê xã hội học: Luận văn sử dụng những kết quả thống kê, điều tra, khảo sát

như lấy phiếu khảo sát, thống kê số liệu về vấn đề đã lấy ý kiến khảo sát việc thực hiện quyền tiếp
cận thông tin của người dân trong thời gian gần đây.
Nguồn tài liệu nghiên cứu để hoàn thành Luận văn là các văn bản pháp luật quốc tế và văn
bản pháp luật quốc gia liên quan đến quyền tiếp cận thông tin, các báo cáo, nghiên cứu, đánh giá
của các cơ quan nhà nước cũng như của các chuyên gia pháp luật về quyền tiếp cận thông tin. Bên
cạnh đó, luận văn còn được hoàn thành trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo một số bài viết về vấn đề
này trên các tạp chí, website, kỷ yếu hội thảo khoa học trong và ngoài nước.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn nhằm đóng góp vào việc làm rõ hơn những vấn đề lý luận chung về quyền tiếp cận
thông tin và cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Đồng thời, luận văn còn nêu, phân
tích, đánh giá cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay và có so
sánh, đối chiếu, liên hệ với các quy định ở Việt Nam trước đây, với các nước trên thế giới để đưa ra
những đánh giá, nhận xét, kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hơn nữa cơ chế
bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay phù hợp với yêu cầu thực tiễn bảo đảm và
thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam đã tham gia những cam
kết quốc tế về quyền con người, trong đó có nội dung bảo đảm quyền tiếp cận thông tin và Việt
Nam cần nội luật hóa cũng như đưa ra cơ chế hiệu quả nhằm bảo đảm thực hiện trên thực tế.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn gồm các phần
chính sau:

9


Chương 1. Những vấn đề lý luận về quyền tiếp cận thông tin và cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận
thông tin.
1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin
1.2. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin
1.3. Khái niệm cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin
1.4. Vai trò của cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin

Chương 2. Thực trạng cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay và
một số giải pháp hoàn thiện.
2.1. Các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
2.2. Phạm vi cung cấp thông tin
2.3. Các hình thức cung cấp thông tin
2.4. Chủ thể quyền tiếp cận thông tin
2.5. Chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin
2.6. Thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin
2.7. Phí tiếp cận thông tin
2.8. Thủ tục khiếu nại, tố cáo, khởi kiện và xử lý vi phạm liên quan đến quyền tiếp cận thông tin
2.8.1. Thủ tục khiếu nại, tố cáo, khởi kiện liên quan đến quyền tiếp cận thông tin
2.8.2. Xử lý vi phạm liên quan đến quyền tiếp cận thông tin

10


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN VÀ CƠ CHẾ BẢO
ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN
1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin
Quyền tiếp cận thông tin (Right to access to information) không phải là khái niệm mới mà đã
xuất hiện trong thời kỳ Khai sáng (Age of Enlightenment) thế kỷ thứ 18. Đạo luật về Tự do báo chí
của Thụy Điển được ban hành vào năm 1766 quy định các hồ sơ của Chính phủ phải công khai cho
công chúng, người dân có quyền được yêu cầu tiếp cận các văn bản của các cơ quan Chính phủ.
Trong bản tuyên ngôn nhân quyền và quyền của công dân của Pháp năm 1789 quy định: “Việc tự
do trao đổi về tư tưởng và ý kiến là một trong những quyền quý giá nhất của con người; mọi công
dân có thể phát ngôn, viết hay tiến hành in ấn một cách tự do, nhưng phải chịu trách nhiệm về sự
lạm dụng quyền tự do đó trong những trường hợp mà luật pháp đã quy định” (Điều 11) và “Mọi
công dân đều có quyền hoặc trực tiếp hoặc thông qua các đại diện của mình, được xem xét sự cần
thiết của sự đóng góp chung, được tự do thỏa thuận đóng góp, được theo dõi việc sử dụng và được

ấn định số lượng, cách thức và thời hạn đóng góp” (Điều 14).
Như vậy, quyền tiếp cận thông tin được nhắc đến từ rất sớm so với các quyền cơ bản khác
nhưng mới chỉ xuất hiện ở một vài quốc gia. Quyền tiếp cận thông tin chỉ trở thành mối quan tâm
của thế giới và ngày càng nhiều các quốc gia sau khi Liên hợp quốc ra đời năm 1945 và Đại hội
đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 59 quy định: “Tự do thông tin là quyền con người
cơ bản và là nền tảng của tất cả các tự do khác…”. Tiếp đó, Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người năm 1948 đã liệt kê một loạt các quyền và tự do cơ bản của cá nhân, trong đó có quyền tiếp
cận thông tin và trách nhiệm của các Chính phủ trong việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện: “Ai
cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị
ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý
kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia” (Điều 19) và Công ước quốc
tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 tại Điều 19 cũng đã quy định: “2. Mọi người có
quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin,
ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới
hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn
của họ”.
Trong thời gian khoảng 20 năm trở lại đây, cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học công
nghệ thông tin, quyền tiếp cận thông tin cũng ngày càng được phát triển và trở thành cơ sở của nền
dân chủ, là công cụ hữu hiệu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Nếu như năm 1990
mới chỉ có 13 nước ban hành Luật tiếp cận thông tin thì đến năm 2009 có 86 nước ban hành Luật
tiếp cận thông tin và hiện nay đã có khoảng 100 nước ban hành
Luật này. Sau Thụy Điển là những nước đi tiên phong trong việc ban hành Luật tiếp cận thông tin
như: Colombia (1885), Phần Lan (1919). Mỹ (1966), Na Uy (1970), Pháp (1978), Úc (1982),
Hungary (1992), Hàn Quốc (1996), Kirgizstan (1997), Thái Lan (1997), Bungary, Nam Phi, Anh
(2000)…Theo
11


Tony Mendel, chuyên gia quốc tế về quyền tiếp cận thông tin thì xu hướng ngày càng có nhiều luật
về tự do thông tin được ban hành bởi quan điểm phổ biến trên thế giới hiện nay là các cơ quan

công quyền nắm giữ thông tin không phải cho chính bản thân họ mà là vì lợi ích công cộng.5
Theo quan điểm triết học, thông tin được hiểu là sự phản ánh của tự nhiên và xã hội (thế giới vật
chất) bằng ngôn từ và ký hiệu, hình ảnh…, hay nói rộng hơn là bằng tất cả các phương tiện tác
động lên giác quan của con người.6
Dưới góc độ pháp lý, quyền tiếp cận thông tin là một loại quyền cơ bản bản mà mọi người ở
tất cả các quốc gia đều có quyền được hưởng. Đó là quyền được tiếp cận các thông tin đang được
các cơ quan công quyền nắm giữ, quản lý và kiểm soát nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống, làm cơ
sở để bảo đảm các quyền khác của mình cũng như bảo vệ quyền và lợi ích của người khác.
Về khái niệm quyền tiếp cận thông tin, có ít nước đưa ra một định nghĩa chính thức hoặc giải thích
thuật ngữ. Ở Ấn Độ thì: “Quyền được thông tin là quyền được tiếp cận các thông tin theo quy định
của Luật này, mà đang được quản lý hoặc kiểm soát bởi bất kỳ nhà chức trách công cộng nào.
Quyền này bao gồm các quyền được: xem các tác phẩm, tư liệu, hồ sơ; ghi chép, trích dẫn, sao
chụp các tư liệu hoặc hồ sơ; có các bản sao chứng thực các tài liệu thu thập thông tin dưới các
dạng đĩa mềm, thẻ nhớ, băng ghi âm, băng hình hoặc bất kỳ dạng thiết bị điện tử nào khác hoặc
thông qua việc in ra các tài liệu ở những nơi lưu trữ tư liệu bằng máy vi tính hoặc bằng các thiết bị
khác.”7
Ở Việt Nam, từ Hiến pháp năm 1992 cũng đã hiến định quyền được thông tin và đến Hiến pháp
2013 trong nhóm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền tiếp cận thông
tin được hiến định với nội dung: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.” Nhận thức được tầm quan trọng của quyền tiếp cận thông
tin, các văn kiện, cương lĩnh của Đảng qua các thời kỳ cũng hướng đến mở rộng, bảo đảm quyền
tiếp cận thông tin. Trên cơ sở đó, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được thể hiện rõ nét hơn trên
các lĩnh vực khác nhau thông qua các đạo luật cụ thể, các văn bản, tài liệu như: Luật báo chí 2016,
Luật đất đai 2013, Luật doanh nghiệp 2014, Luật Kiểm toán nhà nước 2015, Luật phòng chống
tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung 2012),
Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013…Hiện nay, Luật tiếp cận cận thông tin, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội – 2007, trang 77
thông tin đã được ban hành và cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể về quyền tiếp cận thông tin
nhưng tại Điều 2 Luật tiếp cận thông tin 20168 đã giải thích một số từ ngữ: “Thông tin là tin, dữ
liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản

điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà
nước tạo ra”; “Thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra là tin, dữ liệu được tạo ra trong quá trình cơ
quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, được người
có thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó ký, đóng dấu hoặc xác nhận bằng văn bản” và “tiếp cận
thông tin là việc đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin”.
Như vậy, quyền tiếp cận thông tin không phải là khái niệm mới mà đã trải qua quá trình phát
triển trên thế giới nói chung và kể cả ở Việt Nam nói riêng, xuất phát từ quyền được biết sự thật và
phản ánh nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm cho mọi người được biết về các thông tin mà cơ quan
công quyền nắm giữ liên quan đến các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…, đặc biệt là
những thông tin liên quan đến quản lý hành chính nhà nước và bảo vệ quyền, tự do cơ bản của con
người, của công dân. Có thể đưa ra khái niệm:
12


Quyền tiếp cận thông tin là quyền của cá nhân, công dân tiếp cận các thông tin do các cơ quan nhà
nước hoặc cơ quan hành chính nắm giữ để biết được thông tin về tổ chức cũng như hoạt động của
các cơ quan đó. Đây là quyền tự do cơ bản của con người, bao gồm: Tự do tìm kiếm, tiếp nhận,
tiếp cận, chia sẻ, biểu đạt, trao đổi và phổ biến thông tin.
Các thông tin được tiếp cận là các thông tin được xác định do cơ quan công quyền nắm giữ và có
trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân được tiếp cận, góp phần bảo đảm quyền tự
do, dân chủ cho người dân, tăng cường tính công khai, minh bạch, hiệu quả trong hoạt động của cơ
quan nhà nước, từ đó củng cố, tăng cường niềm tin của người dân vào nhà nước, tăng cường sự
phát triển toàn diện và bền vững đất nước, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập thế giới ngày càng sâu rộng hiện nay.
1.2. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin
Quyền tiếp cận thông tin thuộc thế hệ thứ ba trong các thế hệ quyền con người, thuộc nhóm quyền
dân sự, chính trị. Quyền tiếp cận thông tin là quyền tự do nhân bản, được phát triển từ thế hệ thứ
nhất, thứ hai ở mức độ cao hơn ở các quốc gia phát triển về kinh tế và có điều kiện sống cao hơn.
Quyền tiếp cận thông tin có ý nghĩa rất to lớn trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người,
quyền công dân, đặc biệt là thể hiện ý nghĩa dân chủ của nhà nước dân chủ với sự phát triển toàn

diện, cụ thể:
Thứ nhất, đây là quyền tạo điều kiện cho tự do ngôn luận và phản biện xã hội được thực hiện do
tiếp cận thông tin là quyền của người dân được biết đến những thông tin của các cơ quan nhà nước
nên thực hiện quyền này chính là sự tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước và xã hội, tạo sự
đồng thuận giữa người dân với nhà nước. Người dân chỉ có thể thực hiện quyền này khi được tiếp
nhận đầy đủ các thông tin về chính sách, hoạt động trong cơ quan nhà nước, tăng cường sự giám
sát và phản biện xã hội từ phía người dân đối với cơ quan nhà nước. Trên cơ sở đó, người dân có
thể tham gia hiệu quả vào quá trình ra các quyết định, những quy định pháp luật mà chính họ sẽ là
đối tượng chịu sự tác động. Sự tham gia hiệu quả vào các hoạt động của cơ quan nhà nước có ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân thể hiện thông qua từ hoạt động bầu cử đến việc tham
gia, đóng góp ý kiến đối với các dự thảo luật, dự thảo chính sách…Bởi bầu cử thực sự thể hiện
đúng được vai trò, ý nghĩa của nó đó là phải bảo đảm dân chủ, phải thể hiện được ý chí, nguyện
vọng của nhân dân và sự tham gia của công chúng cũng là vấn đề trung tâm đối với quá trình ra
quyết định hợp lý và đúng đắn của cơ quan nhà nước. Báo cáo về phát triển con người của UNDP
năm 2002: “Tăng cường dân chủ trong một thế giới chưa hoàn thiện” đã chỉ ra lợi ích cơ bản của
sự tham gia của công dân vào việc xây dựng các chính sách công, khẳng định đó là quyền cơ bản
của con người mà tất cả xã hội nên hưởng ứng. Sự tham gia của công chúng vào các chính sách
chung bảo vệ con người khỏi các thảm họa về chính trị và kinh tế và nó “có thể khởi sự một chu kỳ
đúng đắn của sự phát triển”9
Thứ hai, từ nền tảng quyền tiếp cận thông tin, cá nhân trong xã hội sẽ có cơ sở tiền đề để thực hiện
những quyền con người khác. Quyền tiếp cận thông tin có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm
tăng cường thực hiện công bằng và hiệu quả các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
của người dân từ quyền bầu cử, ứng cử, quyền chất vấn, biểu quyết, tham gia đóng góp ý kiến hay
thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện cho đến việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi
sai trái của cơ quan công quyền gây ra, quyền học tập, quyền lao động, quyền tự do kinh doanh,
quyền được sống trong môi trường trong lành và tiếp cận với các dịch vụ y tế. Tất cả các quyền
này chỉ có thể được đảm bảo thực hiện tốt và công bằng khi các thông tin liên quan đến các vấn đề
đó được công khai, minh bạch, người dân có thể dễ dàng tiếp cận. Khi quyền tiếp cận thông tin bị
vi phạm thì các quyền con người khác cũng sẽ không được đảm bảo toàn vẹn. Đặc biệt trong các
13



vấn đề liên quan đến quyền kinh tế thì tác động của việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của
công dân được phản ánh rõ nét nhất. Bởi hoạt động đầu tư, kinh doanh trong xã hội hiện đại luôn
gắn bó một cách mật thiết với các thông tin thị trường, thông tin xã hội…Các cơ quan công quyền
nắm giữ một khối lượng lớn thông tin trong tất cả các lĩnh vực, nhiều loại trong số đó liên quan
đến
các vấn đề kinh tế và chúng có thể rất hữu ích cho những chủ thể hoạt động
kinh doanh. Đồng thời, việc được thông tin công khai là cơ sở để người dân
thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với các hành vi vi phạm
9 UNDP, Báo cáo phát triển con người 2002: Tăng cường sự dân chủ trong một thế giới chưa hoàn
thiện,
(Oxford: NXB trường đại học Oxford, 2002),trang 3.
20
quyền con người, quyền công dân và sự bất bình đẳng trong hoạt động công
quyền của các cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính, tạo điều kiện cho các
quyền khác như quyền học tập, quyền được chăm sóc sức khỏe… phải được
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện, bảo đảm sự công bằng, bình đẳng
trong xã hội.
Ví dụ: Thông tin về vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm được cung cấp
rộng rãi và chính xác giúp người dân có thể lựa chọn cho mình những thực phẩm
an toàn chăm sóc sức khỏe và biết cách giữ gìn, cải tạo môi trường tốt hơn.
Hay kết quả thi tuyển đầu vào của một trường đại học sẽ phản ánh sự
khách quan, công bằng, chính xác và uy tín tuyển sinh của trường. Vì vậy, kết
quả thi tuyển phải công khai, minh bạch để những đối tượng quan tâm có thể
theo dõi và nếu phát hiện việc tuyển sinh không chính xác, không khách quan,
công bằng hay có trường hợp nào đủ điều kiện trúng tuyển mà không có trong
danh sách trúng tuyển thì có thể khiếu nại để đòi quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, đảm bảo hoạt động của nhà trường được thực hiện đúng đắn, công
bằng, hiệu quả, tạo được uy tín của nhà trường.

14


Thứ ba, thực hiện quyền tiếp cận thông tin góp phần phòng, chống
tham nhũng vì sự thiếu công khai, minh bạch là cơ sở để việc tham nhũng
được tiến hành một cách dễ dàng hơn. Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Mỹ, Louis Brandeir đã nói: “Ánh sáng chính là chất tẩy tốt nhất”10 . Việc
công khai, minh bạch về những vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động như
tài chính, tuyển dụng… làm nâng cao khả năng giám sát từ phía cơ quan nhà
nước, các chủ thể có thẩm quyền và của nhân dân đối với các chủ thể thực
hiện công quyền. Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về chống tham nhũng
năm 2005 đã nhấn mạnh: “Mỗi quốc gia tham gia sẽ thực hiện các biện pháp
cần thiết để tăng tính minh bạch trong khu vực hành chính công bao gồm các
thủ tục và quy định cho công chúng có thể nhận thông tin về tổ chức, chức
10 Tony Mendel, Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, Hội thảo quốc tế xây
dựng Luật
tiếp cận thông tin tại Việt Nam, Hà Nội ngày 6-7/5/2009,tr.6
21
năng, quá trình ra quyết định hành chính công có tính đến việc bảo vệ dữ liệu
cá nhân và sự riêng tư, và cả các quyết định và văn bản pháp lý liên quan đến
công chúng”. Quy định này góp phần lớn trong việc vạch trần các hành vi sai
trái, đấu tranh chống tham nhũng.
Thứ tư, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin là cơ sở buộc các cơ quan
công quyền phải thực hiện hoạt động của mình một cách trách nhiệm, có hiệu
quả hơn do các cơ quan công quyền buộc phải công khai các thông tin trong
tổ chức và hoạt động, đặc biệt là việc ban hành ra các văn bản quản lý nhà
nước và xã hội sẽ phải cân nhắc kĩ lưỡng hơn, có được sự đóng góp ý kiến,
phản biện từ phía người dân, tránh tình trạng dư luận phản đối sau khi ban
hành văn bản đó và sẽ không thực hiện, mất lòng tin vào các cơ quan công
15



quyền. Đồng thời, các cơ quan này cũng phải lưu trữ các hồ sơ liên quan để
khi người dân yêu cầu cung cấp thông tin để dân biết, dân làm, dân bàn, dân
kiểm tra. Công chúng có quyền xem xét, đánh giá một cách kỹ lưỡng hành
động của các cơ quan công quyền và tham gia vào các cuộc tranh luận công
khai về các hành động đó. Họ phải được tiếp cận những thông tin liên quan
đến hành động đó để có thể thực hiện việc tranh luận một cách tốt nhất nhằm
giải quyết những yếu kém, sai phạm trong quá trình thực hiện công quyền. Ủy
ban cải cách pháp luật và Hội đồng giám sát hành chính Australia đã nhận
định: “Luật tự do thông tin đã có ảnh hưởng to lớn đến cách thức mà các cơ
quan nhà nước ra quyết định cũng như cách thức mà họ lưu trữ các thông tin.
Luật này nhắc nhở những người ra quyết định phải nhớ rằng sự ban hành các
quyết định luôn luôn dựa trên các yếu tố có liên quan nên phải lưu trữ lại toàn
bộ quá trình soạn thảo và ra quyết định. Việc nhận thức rằng các quyết định
và quá trình ra quyết định là minh bạch và chịu sự giám sát của công luận
theo quy định của Luật tự do thông tin sẽ tạo ra kỷ cương vững chắc trong
khu vực nhà nước”11.
11 Stiglitz, Sự minh bạch trong chính quyền, Học viện ngân hàng thế giới, Quyền được nói: Vai trò
của
truyền thông đại chúng trong sự phát triển kinh tế, Oasington 2002,tr.28
22
Thứ năm, quyền tiếp cận thông tin được bảo đảm giúp tạo ra nhiều hình
thức để người dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước như: bầu cử, ứng
cử, đóng góp vào dự thảo Hiến pháp, chính sách, pháp luật của nhà nước, biểu
quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng
dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các
16



cơ quan khác của Nhà nước”.
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định chủ thể quyền lực nhà nước là
nhân dân: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Để nhân dân thực sự làm chủ đất nước, sử dụng quyền lực nhà nước
hiệu quả phải đảm bảo các hoạt động để họ tham gia vào hoạt động quản lý
nhà nước, người dân cần nắm được các thông tin cần thiết do cơ quan nắm
giữ như: danh sách cử tri, danh sách và thông tin ứng cử viên, nội dung các dự
thảo về chính sách, pháp luật của nhà nước… để từ những thông tin đó, họ sẽ
xem xét, thảo luận. đánh giá và đóng góp ý kiến và thực hiện hoạt động của
mình chính xác, khách quan, hiệu quả. Và ngược lại nếu như người dân không
biết được các thông tin cần thiết do cơ quan công quyền đang nắm giữ thì tất
cả những hoạt động tham gia vào quản lý nhà nước của người dân sẽ chỉ là
hình thức, giả hiệu.
Ví dụ: Cử tri không biết đầy đủ các thông tin về ứng cử viên, không
nắm được ứng cử viên đó là người có trình độ, năng lực, đạo đức như thế nào,
đã từng có những đóng góp như thế nào cho địa phương, cho đất nước và đặc
biệt là sẽ làm gì phục vụ cho lợi ích của nhân dân khi được lựa chọn làm đại
biểu Quốc hội hay đại biểu Hội đồng nhân dân thì việc bầu cử chỉ là hình
thức, không lựa chọn được chính xác người xứng đáng làm đại biểu, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
23
Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin chính là xây dựng một nhà nước dân
chủ thực sự, tiến bộ và hoạt động hiệu quả. Đã có nhận xét rất hay rằng:
“thông tin là oxy của nền dân chủ. Chính quyền tiếp cận thông tin là công cụ
17



để đưa oxy tới nuôi cơ thể nền dân chủ. Nếu không có công cụ đó, cơ thể dân
chủ sẽ chết hoặc nếu không thì cũng sống một cách èo uột. Khi quyền tiếp cận
thông tin được bảo đảm, người dân sẽ sử dụng công cụ đó để xây dựng và duy
trì nền dân chủ của mình”12.
Như vậy, quyền tiếp cận thông tin có ý nghĩa rất lớn trong thực hiện
quản lý nhà nước và xã hội, đảm bảo dân chủ nhân dân. Do đó, cần coi tiếp
cận thông tin như tài sản quốc gia, là sức mạnh của quốc gia, dân tộc để khai
thác, sử dụng hợp lý để phát triển toàn diện. Để đảm bảo quyền tiếp cận thông
tin được thực hiện trên thực tế, bên cạnh việc bảo đảm cho người dân tiếp cận
được những thông tin cần thiết thì nhà nước cần tạo điều kiện cho các cơ quan
nhà nước cung cấp thông tin cho người dân. Thông tin càng công khai, minh
bạch bao nhiêu thì xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, nhà nước dân
chủ nhân dân càng dễ dàng hơn bấy nhiêu.
1.3. Khái niệm cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
Cơ chế là chuyển ngữ của từ mécanisme của phương Tây. Từ điển Le
Petit Larousse năm 1999 của Pháp giảng nghĩa “mécanisme” là cách thức
hoạt động của một tập hợp các yếu tố phục thuộc vào nhau.
Cơ chế cũng là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các môn
khoa học tự nhiên như cơ chế sinh học, trong kinh tế học như cơ chế thị
trường, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, trong luật học như cơ chế kiểm
soát quyền lực, cơ chế bảo đảm quyền và trên thực tế thì cụm từ “cơ chế”
được sử dụng khá phổ biến. Trong mỗi ngữ cảnh khác nhau, cụm từ liên quan
12 Những nguyên tắc cơ bản của Dự luật Tiếp cận thông tin, TS. Tô Văn Hòa, trong “Đề tài khoa
học cấp bộ
“Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tiếp cận thông tin phục vụ xây dựng
luật tiếp cận
18


thông tin”

24
đến cơ chế có những ý nghĩa khác nhau nhưng đều toát lên ý nghĩa chung của
từ cơ chế đó là cách thức sắp xếp tổ chức, hoạt động của một cơ quan, tổ chức
hay công việc nào đó. Có thể nói “cơ chế” là một “cỗ máy” được lập ra để
phục vụ cho sự vận hành của một hoạt động, một công việc nào đó, mà khi đã
có “cơ chế” rồi thì công việc, hoạt động đó cứ tuần tự vận hành một cách tự
động mà không phải phụ thuộc vào sự tùy tiện của bất kỳ ai.13
Theo cuốn đại từ điển tiếng Việt thì cơ chế là “cách thức sắp xếp tổ
chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện”14.
Như vậy, khi nói đến cơ chế là hàm ý các vấn đề về cơ cấu và thủ tục.
Về bản chất, khi bàn đến cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin chính là nói
đến các quy định về cách thức tổ chức nhằm bắt buộc các cơ quan công quyền
phải công khai, minh bạch các hoạt động của cơ quan đó, phải cung cấp các
thông tin thuộc phạm vi cung cấp mà người dân yêu cầu theo quy định của
phạm luật.
Như vậy, nói đến cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin chính là nói
đến vị trí, vai trò, trách nhiệm của các cơ quan công quyền trong việc tạo các
điều kiện bảo đảm cho người dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin cũng như
những quy định pháp luật về các vấn đề: nguyên tắc bảo đảm thực hiện quyền
tiếp cận thông tin; phạm vi quyền tiếp cận thông tin; chủ thể quyền tiếp cận
thông tin; chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin; trình tự, thủ tục, các
hình thức thực hiện quyền tiếp cận thông tin cũng như các chi phí phát sinh
khi thực hiện quyền này làm cơ sở pháp lý cho quyền này được thực hiện một
cách dễ dàng, thuận lợi, mang lại hiệu quả cao nhất trên thực tế; đồng thời,
khi quyền tiếp cận thông tin bị xâm phạm thì cơ quan nào sẽ xử lý và với
19


phương thức nào dựa trên căn cứ pháp luật nào.
13 PGS.TS. Tô Văn Hòa, Khái niệm và các yếu tố cấu thành cơ chế giám sát quyền lực nhà nước

14 Đại từ điển tiếng Việt, tr.464
25
Quyền tiếp cận thông tin quy định nghĩa vụ của Nhà nước phải bảo
đảm cho tất cả mọi người được tiếp cận các nguồn thông tin mà trước tiên là
thông tin do chính bản thân các cơ quan nhà nước đang nắm giữ hoặc quản lý
dưới hình thức này hay hình thức khác15. Nội dung chính của quyền tiếp cận
thông tin chính là việc tiếp cận các thông tin được công khai hóa tối đa liên
quan đến hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể hiện mối quan hệ của các
quan chức nhà nước đối với công chúng nói chung cũng như đối với từng
người dân nói riêng. So với các quyền con người khác, quyền tiếp cận thông
tin là quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, làm cơ sở để bảo đảm thực hiện các quyền khác và vì vậy mà cơ chế
bảo đảm quyền tiếp cận thông tin có những điểm đặc thù riêng so với cơ chế
bảo đảm các quyền con người khác như:
- Thứ nhất, cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin chú trọng đến việc
làm sao để người dân có thể tiếp cận các thông tin mà các cơ quan nhà nước
đang nắm giữ một cách dễ dàng, sự tiếp cận thông tin đó bao gồm: biết được,
có được, sử dụng được thông tin đó phục vụ cho nhu cầu của mình. Người
dân sẽ phải có cơ sở pháp lý vững chắc, rõ ràng, dễ hiểu để họ biết rằng: Mình
được quyền tiếp cận những thông tin nào, những thông tin nào không được
tiếp cận và tại sao và làm thế nào, thực hiện những hoạt động nào để thực
hiện quyền tiếp cận thông tin; chủ thể nào có trách nhiệm cung cấp thông tin;
nếu quyền tiếp cận thông tin của mình bị xâm phạm, không được bảo đảm thì
20


chủ thể nào sẽ phải chịu trách nhiệm và thông qua cách thức, hình thức
nào…Cơ chế bảo đảm các quyền con người, quyền công dân khác cũng cần
bảo đảm được các yếu tố đó nhưng đây là quyền mà cần thiết hơn cả là sự
15 Văn kiện Liên hợp quốc mã số E/CN.4/1998/40, đoạn 14-16; Văn kiện Liên hợp quốc mã số

E/CN.4/2000/63, đoạn 41-43 (Những nguyên tắc cơ bản của dự luật tiếp cận thông tin, TS. Tô Văn
Hòa,bài
viết trong đề tài hoa học cấp Bộ: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tiếp
cận thông
tin phục vụ xây dựng Luật tiếp cận thông tin” )
26
nhanh chóng, kịp thời đáp ứng một cách chính xác và từ đó giúp tính dân chủ
được phát huy một cách tốt nhất với những vai trò, ý nghĩa to lớn của quyền
tiếp cận thông tin như đã phân tích ở mục trên.
- Thứ hai, nếu như quyền tự do thông tin hướng tới mục đích là tạo ra
một xã hội thông tin, ở đó thông tin là tự do thì quyền tiếp cận thông tin lại
chủ yếu hướng đến việc chủ động công khai, minh bạch hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Và quyền tự do thông tin nhắm tới khách thể là tất cả các
thông tin do mọi chủ thể trong xã hội nắm giữ, có thể là cơ quan nhà nước, tổ
chức, đoàn thể, cá nhân nắm giữ còn quyền tiếp cận thông tin thì hướng đến
khách thể chính là thông tin nhà nước mà các cơ quan công quyền nắm giữ và
sự công khai, minh bạch các thông tin đó là do các cơ quan công quyền chủ
động công khai, minh bạch hoặc có nghĩa vụ phải cung cấp khi người dân yêu
cầu. Cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin nhắm chủ yếu đến đối tượng
các cơ quan công quyền, vì để bảo đảm quyền này, người dân có thể là người
chủ động, tích cực tìm kiếm thông tin, yêu cầu cung cấp thông tin nhưng phía
các cơ quan công quyền không hợp tác, không thực hiện trách nhiệm, nghĩa
vụ của mình thì quyền này không được bảo đảm. Quyền tiếp cận thông tin
21


được bảo đảm hay không cần nhấn mạnh đến nghĩa vụ, trách nhiệm, hoạt
động từ phía các cơ quan công quyền – cơ quan nắm giữ các thông tin mà
người dân có nhu cầu tiếp cận.
Như vậy, quyền tiếp cận thông tin thể hiện mối quan hệ cơ bản giữa

Nhà nước với người dân, theo đó, người dân có thể thực hiện quyền tiếp
cận thông tin dưới các hình thức khác nhau đối với các thông tin mà cơ
quan công quyền đang nắm giữ và ngược lại, các cơ quan công quyền có
trách nhiệm cung cấp thông tin cho người dân có thể là chủ động hoặc khi
có yêu cầu, nhưng nói chung là nhấn mạnh đến nghĩa vụ, trách nhiệm cung
cấp thông tin từ phía cơ quan công quyền. Người dân chỉ có thể tiếp cận
27
thông tin chính xác, hiệu quả khi các cơ quan nhà nước thực hiện đúng
nghĩa vụ, trách nhiệm công khai, minh bạch, cung cấp các thông tin mà
mình đang nắm giữ cho người dân.
Và khi nói đến quyền tiếp cận thông tin, người ta thường hiểu nội hàm
chính của quyền này chính là nghĩa vụ, trách nhiệm bảo đảm cho quyền này
được thực thi hiệu quả trên thực tế từ phía các cơ quan công quyền.
Điều này là dễ hiểu vì xuất phát từ những đặc thù nói trên của quyền tiếp
cận thông tin và bản chất mối quan hệ bất cân bằng về thế và lực giữa cơ quan
nhà nước với người dân thì việc nhấn mạnh nghĩa vụ, trách nhiệm cung cấp
thông tin cho người dân của các cơ quan công quyền là hoàn toàn hợp lý. Điều
này không phải là vô căn cứ vì trong một mối quan hệ bất cân bằng về thế và lực
như mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân thì việc nhấn mạnh nghĩa vụ, trách
nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm quyền cho người dân là điều dễ hiểu.
1.4. Vai trò của cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
22


Như đã phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng quyền tiếp cận thông tin có
vai trò cực kỳ quan trọng, nhất là khi Hiến pháp năm 2013 đã ra đời làm cơ sở
để Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm thực thi
quyền cơ bản của công dân. Xét trong mối quan hệ với các quyền dân sự chính trị khác, việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin cũng là nhằm
bảo đảm thực hiện các quyền khác như tham gia vào quản lý nhà nước và xã
hội, quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền khiếu nại, tố cáo, quyền tự do ngôn

luận, quyền tự do báo chí…Xét trong mối quan hệ với Nhà nước, bảo đảm
thực hiện quyền tiếp cận thông tin sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân
đóng góp vào xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đòi hỏi các cơ quan công quyền phải
công khai, minh bạch hoạt động, làm tăng cường hiệu quả hoạt động của các
cơ quan nhà nước, củng cố và tăng cường niềm tin của người dân đối với
chính quyền.
28
Cùng với sự hội nhập càng ngày càng sâu rộng giữa các quốc gia, các
quyền con người ngày càng được coi trọng và bảo đảm đòi hỏi các quốc gia
không thể tách mình ra khỏi thế giới mà phải chuyển mình, mở rộng và thực
hiện tốt hơn các quyền công dân bao gồm quyền tiếp cận thông tin để giải
quyết được các tác động từ bên ngoài cũng như sức ép từ công chúng, các
nhóm xã hội, giới truyền thông, nhu cầu đấu tranh chống tham nhũng vì sự
bình đẳng và tiến bộ xã hội và sự phát triển kinh tế. Có được một cơ chế bảo
đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin giúp quyền này được thực hiện một
cách hiệu quả trên thực tế là yêu cầu bức thiết đối với mỗi quốc gia. Bởi cơ
chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin vận hành hiệu quả sẽ giúp cho
người dân có thể được bảo vệ hữu hiệu các quyền, lợi ích hợp pháp của mình;
23


đồng thời giúp ngăn ngừa và chống lại các hành vi lạm dụng quyền lực của
các cơ quan công quyền; thúc đẩy dân chủ và minh bạch hóa quá trình hoạch
định chính sách và ban hành pháp luật, thực thi pháp luật, củng cố lòng tin và
tăng cường sự ủng hộ của dân chúng đối với các chủ trương, đường lối, chính
sách của nhà nước, tạo sự đồng thuận xã hội, mối đoàn kết toàn dân không chỉ
trong phạm vi quốc gia mà còn tạo mối quan hệ với các quốc gia trên khắp thế
giới. Bảo đảm thực hiện được những điều đó chính là thực hiện những điều
kiện tiên quyết để xây dựng đất nước phát triển mạnh mẽ và bền vững.

Như vậy, có cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin hiệu
quả sẽ là cơ sở vững chắc để quyền này được dễ dàng thực hiện trên thực tế
và khi quyền này có bị xâm phạm thì ngay tức khắc cũng sẽ được bảo vệ.
29
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Quyền tiếp cận thông tin là quyền dân sự, chính trị cơ bản của con
người. Đây là cơ sở của một nền dân chủ thực sự vì khi người dân được thực
hiện quyền của mình thì thể hiện việc làm chủ đất nước. Hiện nay, càng ngày
càng nhiều quốc gia chú trọng đến việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin,
hướng tới mục tiêu là cụ thể hóa quyền hiến định về tiếp cận thông tin bằng
Luật tiếp cận thông tin. Phạm vi tiếp cận thông tin cũng ngày càng hướng tới
mở rộng tối đa đáp ứng nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân và xây dựng
cơ chế hữu hiệu bảo đảm việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin một cách
nhanh chóng, thuận lợi mà hiệu quả, góp phần làm tăng cường tính công khai,
minh bạch trong hoạt động của các cơ quan công quyền. Và cũng có một số
trường hợp giới hạn quyền tiếp cận thông tin nhưng là trong một số trường
hợp nhất định đã do luật quy định như vì lí do quốc phòng, an ninh quốc gia,
24


bí mật nhà nước, bí mật cá nhân, bí mật kinh doanh, sức khỏe cộng đồng…
Để quyền tiếp cận thông tin được thực hiện một cách hiệu quả thì một cơ chế
tốt là điều rất quan trọng. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin không chỉ là bảo
đảm việc mở rộng đối tượng, phạm vi thông tin được tiếp cận, ngoại lệ giới
hạn, miễn trừ cung cấp thông tin mà còn phải thực hiện theo những nguyên
tắc cụ thể làm đường hướng cho quyền tiếp cận thông tin được thực hiện đúng
chừng mực, đúng nhu cầu thực tế và đúng pháp luật. Bên cạnh đó còn cần làm
người dân hiểu rõ về chủ thể quyền và chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông
tin, nắm được trình tự, thủ tục tiếp cận thông tin, các loại chi phí phát sinh khi
thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Đồng thời, cần có những quy định của

pháp luật làm cơ sở pháp lý cũng như là thiết chế bảo vệ ngay tức khắc khi
quyền tiếp cận thông tin bị xâm phạm.
30
Chương 2
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN
TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
2.1. Các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
Để bảo đảm thực hiện hiệu quả bất cứ quyền nào của người dân thì
cũng phải dựa trên những nguyên tắc nhất định. Luật tiếp cận thông tin hiệu
quả khi thể hiện được hết tinh thần và nội dung của quyền tiếp cận thông tin
đã được công nhận rộng rãi trên phạm vi thế giới cũng như trong phạm vi
quốc gia và những nội dung ấy phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia ban hành. Để đảm bảo thực
hiện quyền này trên thực tế cần có cơ chế thự sự thuận lợi và dễ vận hành để
người dân có thể dễ dàng thực hiện quyền của mình, dễ dàng được tiếp cận
25


×