Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.65 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-- -- --- -- NGÔ THỊ LỘC
NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Huyền
HÀ NỘI – NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ trong
luận văn là trung thực. Những kết luận trong luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Ngô Thị Lộc
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
TS. Bùi Thị Huyền
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự BLDS
Bộ luật Tố tụng dân sự BLTTDS


Hôn nhân và Gia đình HN&GĐ
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao HĐTP TANDTC
Năng lực pháp luật NLPL
Năng lực hành vi dân sự NLHVDS
Toà án nhân dân TAND
Trách nhiệm hữu hạn TNHH
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1


1.Tính cấp thiết của đề tài: 1
2.Tình hình nghiên cứu đề tài: 2
3.Mục tiêu nghiên cứu: 4
4.Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu: 5
5.Câu hỏi nghiên cứu: 5
6.Phương pháp nghiên cứu: 6
7.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn: 6
8.Bố cục của luận văn: 7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGƯỜI ĐẠI
DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 8
1.1.KHÁI QUÁT NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ: 8
1.1.1.Khái niệm đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự: 8


1.1.2.Đặc điểm của người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự: 10
1.1.3.Vai trò của người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự: 13
1.1.4.Phân loại người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự: 14
1.2.Cơ sở khoa học của việc xây dựng quy định về người đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự: 15
1.2.1.Cơ sở lí luận: 16
1.2.2.Cơ sở thực tiễn: 18
1.3.Sơ lược về sự phát triển các quy định về đại diện của đương sự trong
tố tụng dân sự: 19
1.3.1.Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1989: 19
1.3.2.Giai đoạn từ năm 1989 đến nay: 20
1.4.Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự trong quy định của
một số quốc gia trên thế giới: 24
1.4.1.Bộ Luật Tố tụng dân sự của Cộng hòa Pháp: 24
1.4.2.BLTTDS Liên bang Nga: 26

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1: 28
CHƯƠNG 2: NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH: 29
2.1.MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN ĐỐI VỚI NGƯỜI ĐẠI DIỆN NÓI CHUNG
CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ: 29
2.1.1.Người đại diện của đương sự có thể là cá nhân hoặc pháp nhân: 29


2.1.2.Về năng lực chủ thể: 33
2.1.3.Những người không được làm người đại diện: 35
2.2.NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT: 36
2.2.1.Căn cứ phát sinh quan hệ đại diện – xác định người đại diện của đương sự 36
2.2.2.Phạm vi tham gia tố tụng: 40
2.2.3.Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật: 43
2.2.4.Chấm dứt quan hệ đại diện và hậu quả pháp lý: 49
2.3.NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN: 50
2.3.1.Căn cứ phát sinh quan hệ đại diện: 50
2.3.2.Phạm vi tham gia tố tụng: 52
2.3.3.Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy quyền: 53
2.3.4.Chấm dứt quan hệ đại diện và hậu quả pháp lý: 55
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2: 58
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN
SỰ - MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ 2015 – MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 59
3.1.THỰC TIỄN ÁP DỤNG BLTTDS SỬA ĐỔI BỔ SUNG NĂM 2011
VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
VÀ NHỮNG KHẮC PHỤC CỦA BLTTDS 2015: 59
3.1.1.Lúng túng trong việc xác định tư cách đại diện của một số đối tượng đặc biệt 60



3.1.2.Hình thức ủy quyền trong tố tụng dân sự: 65
3.1.3.Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của người đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự: 66
3.1.4.Quyền ký đơn của người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự: 68
3.1.5.Chỉ định người đại diện trong tố tụng dân sự: 70
3.1.6.Chấm dứt đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự: 72
3.1.7.Chủ thể có thể là người đại diện: 74
3.1.8.Bổ sung về một số trường hợp người đại diện đặc biệt trên cơ sở cập nhật
các bộ luật chuyên ngành: 75
3.2.1.Về quy định pháp luật: 77
3.2.2.Về thi hành pháp luật: 79
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3: 81
KẾT LUẬN: 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
8
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Pháp luật không chỉ là công cụ để thiết lập, duy trì, củng cố, tăng cường
quyền lực nhà nước nhằm quản lý mọi mặt đời sống xã hội mà pháp luật còn là
phương tiện để thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi công dân.
Sự luật hóa kịp thời và đúng đắn các quan hệ xã hội sẽ góp phần thúc đẩy kinh
tế xã hội phát triển. Do đó, việc mở rộng nghiên cứu các vấn đề pháp luật để đưa


ra các đề xuất, kiến nghị nhằm định hướng luật hóa đúng đắn các quan hệ xã hội
luôn là yêu cầu cần thiết và cấp thiết.
Trong những năm qua, pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam đã có những
bước hoàn thiện đáng kể, từ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm

1989 đến Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ
sung năm 2011 và mới nhất là Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Các vấn đề
được luật điều chỉnh cũng ngày càng được mở rộng cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của các quan hệ xã hội, trong đó có vấn đề về người đại diện của đương sự.
Đại diện là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống xã hội cũng như trong
môi trường pháp lý. Trong tố tụng dân sự, đương sự có quyền tham gia tố tụng
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, không phải bất kỳ
trường hợp nào đương sự cũng có thể tự mình thực hiện các quyền tố tụng đó.
Vì nhiều lý do khác nhau như năng lực hành vi, thời gian, vị trí địa lý, trình độ
chuyên môn... đương sự phải thông qua người khác, tổ chức khác để thực hiện
các quyền tố tụng đó. Sự tham gia tố tụng dân sự của người đại diện đương sự
thời gian qua cho thấy vị trí, vai trò quan trọng của họ đối với việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng như việc làm rõ sự thật của vụ việc dân
sự. Do đó, việc nghiên cứu một cách đầy đủ, chuyên sâu là rất cần thiết đối với
vấn đề này.
9
Chế định đại diện đã được quy định một cách khái quát ở BLTTDS năm


2004 và tiếp tục được sửa đổi, bổ sung những hạn chế trong BLTTDS sửa đổi
năm 2011. Tuy nhiên, nhiều quy định về đại diện của đương sự trong Bộ luật
TTDS sửa đổi vẫn chưa đầy đủ, nhiều quy định còn thiếu tính cụ thể, rõ ràng,
nhiều vấn đề cấp thiết chưa được luật hóa. Bộ luật TTDS năm 2015 được ban
hành đã tiến một bước dài với nhiều vấn đề được khắc phục, sửa đổi.
Ngoài ra, thực tiễn giải quyết các tranh chấp, yêu cầu dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh doanh thương mại và lao động thời gian qua cũng cho thấy người đại
diện còn rất lúng túng trong việc tham gia tố tụng và thực hiện các quyền, nghĩa
vụ tố tụng của mình. Tình trạng các Tòa án sai lầm trong xác định tư cách tố
tụng của người đại diện của đương sự hay không thực hiện đúng các quy định về
người đại diện của đương sự... dẫn đến hậu quả quyền và nghĩa vụ của người đại

diện của đương sự không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ; bản án,
quyết định của Tòa án bị hủy làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án vẫn tồn tại
trên thực tế.
Việc nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về người đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự trong bối cảnh BLTTDS 2015 và BLDS
2015 vừa mới bắt đầu có hiệu lực với những sửa đổi, bổ sung lớn trong chế định
người đại diện của đương sự có ý nghĩa trên cả trên phương diện lý luận và
phương diện thực tiễn, một mặt giải thích về quy định mới của pháp luật, một
mặt đánh giá tác động của những quy định mới tới việc cải thiện thực trạng thực
hiện pháp luật tố tụng dân sự cũ về người đại diện của đương sự, từ đó đưa ra
giải pháp hoàn thiện pháp luật.


2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Vấn đề đại diện trong tố tụng dân sự đã thu hút nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu ở những cấp độ và những phương diện khác nhau. Trong quá trình
nghiên cứu, lựa chọn đề tài “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự”,
10
tác giả đã tham khảo các công trình nghiên cứu và các bài viết có liên quan đến
vấn đề này như: Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Công Bình năm 2006; Luận văn thạc sĩ
luật học: “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Hà năm 2012; Luận văn thạc sĩ luật học: “Người đại diện
trong pháp luật tố tụng dân sự hiện nay ở Việt Nam” của tác giả Trần Vũ Toàn
năm 2013; Khóa luận tốt nghiệp: “Người đại diện của đương sự trong tố tụng
dân sự” của tác giả Hồ Nguyên Bình năm 2010, của tác giả Nguyễn Thị Long
năm 2011; Khóa luận tốt nghiệp: “Chế định người đại diện của đương sự trong
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Phùng Thị Thương.
Bên cạnh đó, còn có các bài viết đăng trên các báo và tạp chí như: bài viết
“Người đại diện và người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án dân sự”

của tác giả Nguyễn Công Bình đăng trên Tạp chí Luật học số 06/1998; bài viết
“Đại diện theo ủy quyền, từ pháp luật nội dung đến tố tụng dân sự” của tác giả
Nguyễn Minh Hằng, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 05/2005; bài
viết “Quyền của người đại diện của đương sự được quy định tại Điều 243 Bộ


luật tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Văn Dũng đăng trên Tạp chí Nghề luật
số 04/2006; bài viết “Người đại diện và người bảo vệ quyền lợi của đương sự
trong tố tụng dân sự” của tác giả Hoàng Thu Yến, đăng trên Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 05/2006; bài viết “Bố mẹ có quyền đại diện cho người con bị
tâm thần khởi kiện xin ly hôn hay không” của tác giả Tưởng Duy Lượng, đăng
trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 06/2006; bài viết “Người mù không có người
đại diện có quyền khởi kiện dân sự” của tác giả Từ Văn Thiết, đăng trên Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 18/2006; bài viết “Một số suy nghĩ về đại diện của đương
sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Tưởng Duy Lượng đăng trên Tạp chí Khoa
học pháp luật số 01/2007; bài viết “Chế định đại diện theo quy định của pháp
luật Việt Nam – nhìn từ góc độ Luật so sánh” của tác giả Ngô Huy Cương, đăng
11
trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 04/2009, bài viết “Một số vấn đề về
người đại diện theo pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả
Nguyễn Thị Hạnh, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 03/2010.
Những công trình nghiên cứu cũng như các bài viết trên dù ở mức độ,
phạm vi khác nhau đã góp phần phát triển dần chế định đại diện qua các lần sửa
đổi Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, chưa có công trình nào tiếp cận chế định
người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự trong BLTTDS 2015 với
những đổi mới đáng kể. Do vậy, tôi thực hiện đề tài theo hướng tiếp cận tới chế
định người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự trong BLTTDS 2015, để
làm rõ hơn sự thay đổi trong quy định của pháp luật tố tụng về người đại diện



của đương sự.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống và toàn
diện vấn đề đại diện của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự dưới góc độ
lập pháp và áp dụng pháp luật, chỉ ra những hạn chế, thiếu sót và bất cập trong
quy định của pháp luật hiện hành và đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật về vấn đề người đại diện của đương sự, góp phần tăng
cường hiệu quả của hoạt động tố tụng dân sự trên thực tế. Tuy nhiên, do
BLTTDS 2015 vừa mới bắt đầu có hiệu lực, thời gian áp dụng trên thực tế quá
ngắn, nên tôi thực hiện nghiên cứu thực trạng việc thực hiện BLTTDS sửa đổi,
bổ sung năm 2011 kết hợp với đánh giá sự khắc phục những tồn tại trong thực
trang đó của những quy định mới về người đại diện của đương sự trong tố tụng
dân sự của BLTTDS 2015, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện. Cụ thể:
- Làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về đại diện trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu các quy định của BLTTDS Việt Nam năm 2015 về người đại
diện của đương sự; So sánh sự thay đổi so với quy định của BLTTDS Việt
Nam 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011.
12
- Nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của BLTTDS sửa đổi, bổ
sung năm 2011 về người đại diện của đương sự. Phân tích những hạn chế,
bất cập của những quy định này, đồng thời đánh giá sự khắc phục những


hạn chế đó của quy định mới tại BLTTDS 2015 và đề xuất các giải pháp
cụ thể hoàn thiện pháp luật về đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định liên quan đến người
đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự trong BLTTDS 2015, BLDS 2015 và
các pháp luật chuyên ngành khác. Ngoài ra, luận văn cũng nghiên cứu về thực
trạng thực hiện quy định của BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 về người

đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự.
Trên cơ sở lý luận về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự,
luận văn tập trung nghiên cứu các quy định trong một số văn bản pháp luật như:
Luật Tố tụng dân sự 2015, Luật dân sự 2015, Luật HN&GĐ 2014, Luật Lao
động 2013 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Bên cạnh đó, luận văn
cũng đưa ra những so sánh quy định tại các bộ luật trên về người đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự với quy định về chế định này của BLTTDS 2004
sửa đổi bổ sung năm 2011, BLDS 2005.
5. Câu hỏi nghiên cứu:
Luận văn tập trung trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là ai?
- Chế định người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự trong
BLTTDS 2015 quy định thế nào? Có thay đổi gì so với BLTTDS 2004 sửa đổi
bổ sung năm 2011?
- Thực trạng áp dụng chế định người đại diện cuả đương sự trong tố tụng


dân sự theo BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 vào thực tế đời sống?
- Những quy định mới của BLTTDS 2015 khắc phục những vướng mắc,
13
bất cập trong thực trạng áp dung BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 như
thế nào?
- Hướng hoàn thiện pháp luật như thế nào để nâng cao hiệu quả việc áp
dụng chế định người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự?
6. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng các phương pháp luận cơ bản sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát: Nhằm đi sâu vào phân tích
bản chất của quan hệ đại diện, tổng hợp các quy định pháp luật hiện hành
về người đại diện của đương sự, từ đó phân tích làm rõ đi đến khái quát
những nguyên tắc chung của quan hệ đại diện trong tố tụng dân sự

- Phương pháp mô tả kết hợp so sánh, đối chiếu: tìm hiểu về chế định người
đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự theo từng thời kỳ ở Việt Nam,
tìm ra những điểm mới tiến bộ của pháp luật hiện hành so với các bộ luật
trước, đồng thời so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới trong quy
định về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, tìm ra những
điểm tương đồng giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các quốc gia đó.
- Bên cạnh những phương pháp chủ đạo trên, luận văn cũng sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp nghiên cứu lịch


sử để nghiên cứu quá trình phát triển của chế định người đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự qua các thời kỳ của Việt Nam, phương
pháp khảo sát thực tế từ đó đưa ra được những vướng mắc, bất cập trong
quá trình áp dụng pháp luật;…
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn:
Sự ra đời của LTTDS 2015 đã đưa lại những điểm mới tích cực cho chế
định người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự. Với đề tài này, tác giả hi
vọng có thể xây dựng được một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy luật học nói chung và luật TTDS nói riêng. Bên cạnh đó,
14
luận văn cũng có ý nghĩa thiết thực cho những cá nhân, cơ quan, tổ chức không
hoạt động trong lĩnh vực pháp luật khi muốn áp dụng chế định người đại diện
cho việc tham gia tố tụng của mình. Luận văn góp phần cung cấp những kiến
thức lý luận và thực tiễn chế định người đại diện của đương sự trong tố tụng dân
sự, quy định của pháp luật về chế đinh này… Trên cơ sở đó, người đọc có thể tự
mình nghiên cứu lý thuyết và ứng dụng vào thực tế để giải quyết những khó
khăn của mình trong việc tham gai tố tụng dân sự, tạo nền tảng cho việc thực
hiện pháp luật một cách đầy đủ, chính xác, nâng cao hiệu quả của hoạt động tố
tụng dân sự;
Ngoài ra, những vấn đề pháp lý cũng như những kiến nghị được đề xuất

trong luận văn này cũng phần nào đóng góp cho việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật, củng cố việc thực thi pháp luật ở nước ta hiện nay. Tác giả hi vọng luận


văn có thể đem đến một cái nhìn tổng quát về chế định người đại diện của đương
sự trong tố tụng dân sự và những vấn đề cần tập trung nghiên cứu thêm để ngày
càng hoàn thiện BLTTDS, phù hợp với định hướng phát triển của đất nước và
mong muốn của mỗi người dân.
8. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về người đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự
Chương 2: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về người đại diện
của đương sự trong tố tụng dân sự - Một sô đánh giá về những điểm mới của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 – Một số kiến nghị
15
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGƯỜI ĐẠI
DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI QUÁT NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ:
1.1.1. Khái niệm đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự:
“Đại diện” theo Từ điển Tiếng Việt là sự thay mặt cho cá nhân, tập thể”1


[1, p. 279]. Theo Từ điển Luật học, “đại diện là việc một người, một cơ quan, tổ
chức xác lâp, thực hiện hành vi pháp lý trong phạm vi thẩm quyền đại diện.
Người đại diện là người nhân danh và vì các lợi ích của một người khác xác lập,

thực hiện các giao dịch trong phạm vi thẩm quyền đại diện”2. [2, p. 575]
Tại cuốn Những vấn đề cơ bản và thuật ngữ của Bộ Luật Dân sự của tác
giả Nguyễn Thùy Dương – Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh [3], khái niệm
Đại diện được định nghĩa rõ ràng hơn dưới dạng là một hành vi, trong đó tồn tại
hai chủ thể: người đại diện và người được đại diện, người đại diện nhân danh
người được đại diện thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi phạm vi thẩm
quyền đại diện. Quan hệ đại diện được xác lập theo quy định của pháp luật hoặc
theo ủy quyền. Trường hợp pháp luật có quy định phải tự mình thực hiện giao
dịch dân sự thì cá nhân không được cho người khác đại diện cho mình.
Có thể thấy, cơ chế đại diện biểu hiện rõ rệt cho sự linh hoạt linh hoạt,
mềm dẻo trong của đời sống pháp lý dân sự. Các giao dịch dân sự luôn có sự đa
dạng trong chủ thể tham gia: chủ thể có thể là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình,
tổ hợp tác và Nhà nước CHXHCN Việt Nam, và đối với những chủ thể mà
quyền lợi mang tính cộng đồng thì việc tham gia quan hệ pháp luật dân sự buộc
phải thông qua hành vi của người đại diện, đối với cá nhân, pháp luật dân sự với
sự đề cao nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt, được phép tham gia vào các
1 Trung tâm Từ điển học, Từ điển Tiếng Việt, Hà Nội - Đà Nẵng: NXB Đà Nẵng, 2004.
2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển Luật học, Hà Nội: NXB. Giao thông vận tải,
2008.


16
giao dịch dân sự một cách gián tiếp và được hưởng lợi từ giao dịch đó thông qua
một người khác. Chế định đại diện còn là một phương tiện pháp lý hữu ích đối
với các cá nhân mà theo quy định của pháp luật thì không thể trực tiếp tham gia
giao dịch dân sự, đưa họ tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, đảm bảo các
quyền năng cơ bản của họ mà pháp luật cho phép họ.3 [4, p. 141]
Với nội dung cốt lõi như vậy, chế định đại diện được áp dụng vào hoạt
động tố tụng dân sự. Hoạt động tố tụng dân sự là một hoạt động pháp lý nhằm
giải quyết các vụ việc phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia

đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Mặt khác, chủ thể tham gia các quan
hệ pháp luật nội dung nêu trên thông thường chính là một bên chủ thể tham gia
tố tụng dân sự với tư cách là đương sự, do vây, tính đa dạng và đòi hỏi linh hoạt
về người tham gia quan hệ pháp luật của các chủ thể đó đã đặt ra yêu cầu áp
dụng chế định đại diện trong Tố tụng dân sự.
Đương sự trong tố tụng dân sự là những người tham gia tố tụng dân sự để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo về lợi ích công cộng, lợi ích
của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan
đến vụ việc dân sự.4 [5, p. 108]
Đương sự trong vụ việc dân sự cũng rất đa dạng, có thể là cá nhân, cơ quan
hoặc tổ chức, tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn, bị đơn và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự; người yêu cầu, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự. Đối với trường hợp đương sự là chủ


thể mà quyền lợi mang tính cộng đồng, như đã nói ở trên, luôn đòi hỏi phải
thông qua cơ chế đại diện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cộng đồng
người đó. Ngoài ra, tương tự như sự tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể
pháp luật dân sự hay đảm bảo quyền tham gia quan hệ pháp luật dân sự của một
3 Lê Đình Nghị, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, vol. Tập một, Hà Nội: NXB. Giáo
dục Việt Nam, 2009.
4 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Hà Nội:
NXB. Công an nhân dân, 2014.
17
số chủ thể đặc biệt của pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng dân sự cũng cho phép
đương sự hoặc tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ hoặc thông qua
người khác tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương
sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Và những người tham gia
tố tụng với tư cách nêu trên được gọi là người đại diện của đương sự.
Là một dạng cụ thể của người đại diện trong khoa học pháp lý dân sự,

người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự tham gia quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự cũng với ý nghĩa thay mặt đương sự - một loại chủ thể tham gia tố
tụng dân sự, nhân danh đương sự tham gia một quan hệ pháp luật – cụ thể là
quan hệ pháp luật tố tụng, thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ
pháp luật đó – là quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự nhằm bảo vệ bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa cho khái niệm Người đại


diện của đương sự như sau:
“Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là người thay mặt cho
đương sự tham gia tố tụng dân sự, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự trong tố tụng dân sự”
1.1.2. Đặc điểm của người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự:
 Người đại diện thông thường là cá nhân có đủ năng lực pháp luật tố
tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự:
Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự với chức năng người
thay mặt cho đương sự tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, trực tiếp thực
hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự, do đó, người đại diện thông
thường là cá nhân có đủ năng lực hành vi TTDS.
Như đã nói, đối với trường hợp đương sự là tổ chức, tham gia tố tụng vì
quyền lợi của cộng đồng tổ chức đó, tổ chức là một chỉnh thể phức tạp hình
thành bởi nhiều bộ phận khác nhau, không thể trực tiếp thực hiện các quyền,
18
nghĩa vụ tố tụng được, do đó, tất yếu phải có cá nhân cụ thể đứng ra đại diện cho
toàn thể tổ chức, trực tiếp thực hiện.
Và chính vì tổ chức là chủ thể không thể trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa
vụ tố tụng nên không thể thể hiện được một cách trực tiếp chức năng đại diện cơ
bản của người đại diện.
Tuy nhiên, có một vài trường hợp đặc biệt, cơ quan, tổ chức khởi kiện để

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác cũng được xem là người đại diện


của đương sự. Vốn dĩ, cơ quan, tổ chức không thể là chủ thể trực tiếp thực hiện
quyền năng tố tụng cho người được đại diện, họ vẫn nhất thiết phải thông qua
người đại diện cho tổ chức mình thực hiện chức năng đại diện nói trên. Có thể
thấy, đến tận cùng thì chủ thể thực hiện chức năng đại diện vẫn là cá nhân, còn
tư cách đại diện thì vẫn có thể được gắn cho cơ quan, tổ chức trong một số
trường hợp mà pháp luật quy định.
Người được công nhận là người đại diện của đương sự phải là người thực
hiện cơ chế đại diện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, được pháp luật
TTDS quy định quyền và nghĩa vụ tố tụng. Hay nói cách khác người đại diện
phải có năng lực pháp luật tố tụng dân sự.
Hơn nữa, cá nhân để đủ điều kiện thực hiện chức năng đại diện của người
đại diện của đương sự phải là cá nhân có đủ năng lực, nhận thức để tự mình xác
lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Hay nói cách khác, cá nhân
thực hiện chức năng đại diện phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Theo đó,
cá nhân này phải đáp ứng các điều kiện về độ tuổi và khả năng nhận thức, làm
chủ hành vi của mình mà pháp luật quy định.
 Người đại diện tham gia quan hệ tố tụng trên cơ sở quan hệ đại diện và
nhân danh đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự:
Người đại diện không đương nhiên có tư cách tố tụng mà họ có được tư
cách đó hoặc do pháp luật quy định trong một số trường hợp cụ thể hoặc do
19


đương sự trao cho thông qua cơ chế đại diện. Người đại diện tham gia đồng thời
hai quan hệ pháp luật, một là quan hệ đại diện và hai là quan hệ tố tụng. Quan hệ
đại diện là tiền đề để người đại diện tham gia tố tụng, nếu không có quan hệ đại
diện, người đại diện không hình thành và không ai có tư cách tố tụng của đương

sự thay đương sự tham gia gia tố tụng.
Với ý nghĩa cơ bản của quan hệ đại diện là sự thay mặt của người đại diện
đối với người được đại diện, người đại diện được pháp luật hoặc đương sự trao
cho quyền tham gia tố tụng thay cho đương sự, thực hiện các quyền năng tố tụng
của đương sự. Tuy nhiên, người đại diện thực hiện các quyền năng đó dưới danh
nghĩa của đương sự, vì quyền lợi của đương sự. Điều này phân biệt người đại
diện với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng đồng thời với đương
sự, có vị trí pháp lý tương đối độc lập với đương sự. Người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng riêng biệt
mà pháp luật quy định, không phải là thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của
đương sự.
 Quyền và nghĩa vụ của người đại diện phụ thuộc vào quyền và nghĩa vụ
của đương sự và bản chất của quan hệ đại diện:
Như đã phân tích ở trên, vì là thay mặt đương sự thực hiện các quyền,
nghĩa vụ tố tụng của đương sự thông qua quan hệ đại diện, cho nên, quyền và
nghĩa vụ của người đại diện phụ thuộc vào nội dung quyền, nghĩa vụ tố tụng của
đương sự. Người đại diện của nguyên đơn thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố


tụng của nguyên đơn, người đại diện của bị đơn thực hiện các quyền và nghĩa vụ
tố tụng của bị đơn,…Quyền, nghĩa vụ tố tụng của những đương sự ở vị trí tố
tụng khác nhau thì khác nhau, theo đó người đại diện của từng loại đương sự
khác nhau thì thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng khác nhau.
20
Ngoài ra, quan hệ đại diện có nhiều dạng khác nhau, mỗi dạng quan hệ đại
diện lại mở ra những phạm vi đại diện khác nhau cho người đại diện, theo đó,
người đại diện sẽ được thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự ở
các mức độ khác nhau. Ví dụ, trong quan hệ đại diện theo ủy quyền sẽ thực hiện
đại diện khác nhau cho người đại diện, theo đó, người đại diện sẽ được thực hiện

các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự ở các mức độ khác nhau. Ví dụ,
trong quan hệ đại diện theo ủy quyền sẽ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng theo
phạm vi ủy quyền mà đương sự đưa ra, còn trong quan hệ đại diện theo pháp
luật, người đại diện được thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định
của pháp luật.
1.1.3. Vai trò của người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự:
Người đại diện tham gia tố tụng tham gia tố tụng như một cầu nối kết nối
giữa đương sự và cơ quan tiến hành tố tụng. Đối với đương sự, người đại diện
thay mặt đương sự thực hiện những quyền, nghĩa vụ tố tụng mà đáng ra họ phải
tự mình thực hiện, trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Qua đó, đương sự vừa được đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình vừa


được thực hiện hộ những quyền và nghĩa vụ của bản thân.
Đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người đại diện giúp họ kết nối được với
đương sự một cách thuận lợi và hiệu quả nhất. Như đã biết, không phải tất cả
các loại chủ thể có thể tham gia một cách trực tiếp vào quan hệ tố tụng dân sự,
hoặc họ là một tổ chức hoặc họ không đủ khả năng hoặc không đủ kiến thức hay
một vài lý do chủ quan khác. Trong những trường hợp đó, để giải quyết được vụ
việc liên quan đến những chủ thể đó, họ đã sử dụng cơ chế ủy quyền để kết nối
mình vào quan hệ tố tụng để bảo vệ lấy quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân.
Nhờ vậy, cơ quan tiến hành tố tụng có thể nhanh chóng tiếp cận được với sự thật
khách quan, giải quyết vụ việc theo đúng chức năng của mình, đặc biệt là chức
năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội.
21
1.1.4. Phân loại người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự:
Trong tố tụng dân sự, có nhiều tiêu chí để phân loại người đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự, mỗi cách phân loại có những ý nghĩa riêng biệt,
mỗi cách phân loại sẽ đưa lại những góc độ nhận thức khác nhau về khái niệm
người đại diện, tùy vào mục đích nghiên cứu mà lựa chọn cách phân loại phù hợp.

 Nếu dựa vào cơ sở tham gia của người đại diện có thể chia người
đại diện làm ba loại:
- Người đại diện theo pháp luật
- Người đại diện theo ủy quyền
- Người đại diện do toàn án chỉ định5 [5, p. 119]


 Nếu dựa vào vị trí tố tụng của người được đại diện, có thể chia
người đại diện theo ba loại sau:
- Người đại diện của nguyên đơn/người yêu cầu
- Người đại diện của bị đơn
- Người đại diện của người có quyền và nghĩa vụ liên quan
 Dựa vào loại chủ thể được đại diện, chia người đại diện thành hai
loại:
- Người đại diện của cá nhân
- Người đại diện của cơ quan, tổ chức
 Dựa vào ý chí của chủ thể, chia người đại diện thành hai loại:
- Người đại diện theo ủy quyền
- Người đại diện theo pháp luật
Trong phạm vi luận văn này, tôi chọn phân loại người đại diện theo tiêu chí
ý chí của đương sự. Theo đó, người đại diện được chia thành hai loại:
- Người đại diện theo ủy quyền: là người tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự theo sự ủy quyền của đương sự trên
5 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Hà Nội:
NXB. Công an nhân dân, 2014.
22
cơ sở ý chí của đương sự. Do đó, đương sự trong trường hợp này là người
có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, nhưng họ có ý chí muốn nhờ
người khác tham gia tố tụng hộ mình. Và họ phải có đủ năng lực hành vi



dân sự thì mới có thể thực hiện quan hệ đại diện với người đại diện, để
trao quyền tham gia tố tụng cho họ.
Trong trường hợp này, người đại diện chỉ được tham gia quan hệ tố
tụng khi được đương sự ủy quyền. Đương sự có thể ủy quyền cho bất cứ
cá nhân nào có đủ năng lực hành vi tố tụng để thay mặt mình, trừ một số
người đặc biệt như cán bộ, công chức trong ngành tòa án, kiểm sát, công
an để đảm bảo tính khách quan cho việc giải quyết vụ việc dân sự; và
trong việc li hôn, do gắn liền với yếu tố nhân thân của đương sự nên
đương sự cũng không được ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng.
Đương sự có thể ủy quyền cho người đại diện thực hiện một phần
hoặc toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.
- Người đại diện theo pháp luật: là người tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự theo quy định của pháp luật hoặc
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Người đại diện trong trường hợp này tham gia tố tụng không dựa
trên ý chí riêng biệt của đương sự, mà họ tham gia tố tụng theo những
nguyên tắc đã được pháp luật đề ra hay dựa trên những nguyên tắc đó.
Những đương sự được đại diện trong trường hợp này không có năng
lực hành vi hành vi tố tụng dân sự đầy đủ, họ không thể tự mình tham gia
quan hệ tố tụng, do đó, pháp luật đã đưa ra cơ chế đại diện để giúp họ
tham gia được quan hệ tố tụng để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp


của họ được bảo vệ.
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng quy định về người đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự:
23
1.2.1. Cơ sở lí luận:
- Việc xây dựng các quy định về người đại diện của đương sự trong tố tụng

dân sự nhằm đảm bảo quyền được tiếp cận công lý và quyền được bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Quyền được tiếp cận công lý là quyền được tiếp cận với các thiết chế tư
pháp để công dân có thể bảo vệ quyền lợi của mình, mà nền tảng của nó là
khuôn khổ các quyền, nghĩa vụ của công dân và khuôn khổ các thiết chế cho
phép tất cả mọi người có thể vận dụng hoặc được trợ giúp để có thể có được sự
bù đắp, khắc phục những bất công, thiệt hại mà mình phải gánh chịu. Một khía
cạnh khác của tiếp cận công lý là khả năng đòi hỏi, theo đuổi vụ việc của công
dân trong tố tụng. Tuy nhiên, không phải ai cũng có khả năng làm tốt việc đòi
hỏi và theo đuổi vụ việc để bảo vệ mình (có thể do kém hiểu biết về pháp luật,
không có thời gian, hạn chế về địa lý, hoặc thiếu kinh nghiệm tham gia tố
tụng…), hay thậm chí họ không đủ khả năng, nhận thức để tham gia tố tụng một
cách bình thường theo quy định của pháp luật (ví dụ như người mất năng lực
hành vi dân sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự….). [6]
Điều tối thiểu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân tại Tòa án
là quyền được tham gia tố tụng của đương sự. Những sự bất lợi, cản trở đương


×