Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp theo luật việc làm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.11 KB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NGỌC HUYỀN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
THEO LUẬT VIỆC LÀM 2013
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 60380108
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN MINH NGỌC

Hà Nội - 2017


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
Chương 1 MỘT SỐ VÁN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM
THẤT NGHIỆP 7
1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp 7
1.1.1. Khái niệm thất nghiệp và người thất nghiệp 7
1.1.2. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp 9
1.2. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp 10
1.3. Khung pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp 13
1.3.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp 13
1.3.2. Điều kiện, mức trợ cấp và thời gian hưởng trợ cấp bảo hiểm thất
nghiệp 14
1.3.3. Hồ sơ, thủ tục tham gia, hưởng BHTN 19


1.3.4. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp 19
1.4. Lược sử pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam 21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 25
Chương 2 CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP THEO QUY ĐỊNH CỦA
LUẬT VIỆC LÀM NĂM 2013 26
2.1. Nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp 26
2.2. Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp 28
2.3. Điều kiện và chế độ hưởng bảo hiểm thất nghiệp 31
2.3.1. Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người
lao động 31
2.3.2. Chế độ bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động 35
2.4. Hồ sơ, thủ tục thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp. 45
2.4.1. Hồ sơ, thủ tục tham gia bảo hiểm thất nghiệp 45


2.4.2. Hồ sơ, thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp 47
2.4.3. Hồ sơ, thủ tục hỗ trợ học nghề 53
2.4.4. Hồ sơ, thủ tục hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng
nghề để duy trì việc làm cho người lao động 55
2.5. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp 56
2.5.1. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp 56
2.5.2. Quản lý và sử dụng Quỹ bảo hiểm thất nghiệp 60
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 64
Chương 3 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM 65
3.1. Thực trạng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp 65
3.2. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện bảo
hiểm thất nghiệp 68
3.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và nâng cao
hiệu quả thưc hiện 73

3.3.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất
nghiệp…………………………..73
3.3.2. Nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm thất nghiệp 77
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 83
KẾT LUẬN 84


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ở tất cả các quốc gia trên thế giới, vấn đề việc làm là một vấn đề vô cùng
quan trọng. Nó không chỉ đơn thuần là một vấn đề xã hội mà còn mang đậm tính
chính trị và kinh tế, bởi một quốc gia có bền vững và phát triển hay không phụ
thuộc rất lớn vào yếu tố việc làm trong xã hội mà quốc gia đó đang tồn tại.
Trong vấn dề lớn “việc làm” ấy, “thất nghiệp” lại càng là một phép toán nan giải
khi nó đã và đang trở thành một vấn nạn của nhiều quốc gia trên thế giới, trong
đó có Việt Nam. Vì vậy, bảo hiểm thất nghiệp trở thành một chính sách cần thiết
trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Trước đây, chính sách bảo hiểm thất
nghiệp lần đầu được xây dựng trong BLLĐ 2002, tuy nhiên tới khi Luật Bảo
hiểm xã hội ra đời năm 2006, bắt đầu được thực hiện từ ngày 01/01/2009, pháp
luật về bảo hiểm thất nghiệp mới thực sự được quy định cụ thể, chi tiết. Có thể
nói, đây chính là bước đầu hết sức tích cực mà theo đó, Nhà nước tiến hành
những biện pháp hữu hiệu để bảo hiểm thất nghiệp phát huy được vai trò và ý
nghĩa quan trọng của mình đối với vấn đề “thất nghiệp” trong xã hội. Sau 4 năm
thực hiện, những quy định về chính sách bảo hiểm thất nghiệp này đã phần nào
đáp ứng được nhu cầu của người lao động, bộc lộ sự phù hợp với điều kiện kinh
tế-xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng không thể tránh khỏi những
vướng mắc, bất cập còn tồn tại. Vì thế, chế độ bảo hiểm thất nghiệp đã được
hoàn thiện một bước đáng kể trong Luật Việc làm 2013, thể hiện cái nhìn mới
của Nhà nước, của các nhà làm luật đối với vấn đề này, đặt bảo hiểm thất nghiệp
gắn liền với “việc làm” thay vì chỉ nhìn nhận chế độ bảo hiểm này dưới góc độ

là một chế độ bảo hiểm xã hội thuần túy như trước đây. Luật Việc làm 2013 có
hiệu lực 01/01/2015 với nhiều quy định mới về bảo hiểm thất nghiệp và việc


nghiên cứu về các quy định mới này để từ đó thấy được thực trạng chế độ bảo
hiểm thất nghiệp cũng như đưa ra một số giải pháp hoàn thiện là cần thiết. Bởi
vậy, tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp theo
Luật Việc làm 2013” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
Có thể khẳng định, tất cả các nước có nền kinh tế thị trường đều phải đối
mặt với vấn đề thất nghiệp và giải quyết vấn đề này luôn được coi là một trong
những ưu tiên hàng đầu. Việt Nam cũng không được loại trừ khỏi “vòng xoay”
này, khi mà Việt Nam cũng lựa chọn con đường xây dựng nền kinh tế thị
trường. Từ những ngày đầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tình trạng thất nghiệp và
nhu cầu việc làm ở nước ta đã ngày càng tăng, vì vậy mà bảo hiểm thất nghiệp
trở thành mối quan tâm và là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà khoa học từ trước
tới nay.
Năm 1999, PGS.TS Nguyễn Văn Kỷ đã có bài viết “Luật Bảo hiểm xã hội
và vấn đề bảo hiểm thất nghiệp” đưa ra vấn đề thất nghiệp cũng như yêu cầu xây
dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.
Năm 2000, tác giả Đỗ Năng Khánh đã lựa chọn đề tài “Thất nghiệp và
việc xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ trong đó nghiên cứu về mặt lý luận vấn đề thất
nghiệp và sự điều chỉnh pháp luật đối với Bảo hiểm thất nghiệp trong cơ chế thị
trường. Tuy nhiên, tại thời điểm này Luật Bảo hiểm xã hội 2006 chưa được ban
hành nên nội dung của đề tài này dừng lại ở tính định hướng.
Năm 2004, đề tài “Chế độ Bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam” đã trở thành đề tài Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Lê
Thị Hoài Thu. Nội dung đề tài đề cập đến kinh nghiệm thực hiện chế độ Bảo
hiểm thất nghiệp ở một số nước trên thế giới và quy định về bảo hiểm thất



nghiệp của Tổ chức Lao động Quốc tế, đồng thời chỉ ra những nội dung cần
thiết của chế độ bảo hiểm thất nghiệp khi được triển khai ở Việt Nam.
Năm 2006, Trường Đại học Luật Hà Nội có đề tài nghiên cứu “Hoàn thiện
pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam” do TS. Nguyễn Thị Kim Phụng làm
chủ nhiệm, trong đó đề cập đến bảo hiểm thất nghiệp là nội dung cần hoàn thiện
trong hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Năm 2008, trong Luận án tiến sĩ Luật học “Cơ sở lý luận và thực tiễn cho
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam”, tác giả
Nguyễn Hiền Phương cũng đề cập đến bảo hiểm thất nghiệp như là một chế độ
của bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Năm 2010, khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế “Thực trạng thu nộp quỹ bảo
hiểm thất nghiệp và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ bảo
hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam” của tác giá Nguyễn Thu Trang đã đề
cập đến thực trạng thu nộp quỹ bảo hiểm thất nghiệp và đưa ra một số giải pháp
nâng cao hiệu quả Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
Năm 2012, tác giả Ngô Thị Thu Hoài trong luận văn thạc sĩ luật học
“Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn áp dụng ở Nghệ An” cũng đã đề
cập đến một số thực trạng thi hành pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp trong
phạm vi của tỉnh Nghệ An.
Năm 2013, luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
sau 04 năm thực hiện – Những vấn đề đặt ra và giải pháp hoàn thiện” của tác giả
Trần Vân Khánh đã đề cập đến thực trạng pháp luật BHTN theo Luật BHXH sau
04 năm thực hiện, từ đó thấy được những ưu nhược điểm và đưa ra những giải
pháp hoàn thiện những nhược điểm đó.
Cũng cùng năm này, tác giả Ngô Thị Thùy đã đưa ra những giải pháp
hoàn thiện pháp luật BHTN hiện hành trong Luận văn thạc sĩ luật học “Hoàn



thiện pháp luật BHTN ở Việt Nam hiện nay”.
Bên cạnh đó, vấn đề bảo hiểm thất nghiệp còn được nghiên cứu trong một
số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học như “Điều kiện, thời gian và mức
hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam” của TS. Lê Thị Hoài Thu đăng
trên báo Dân chủ và pháp luật số 04/2005; “Bảo hiểm thất nghiệp – chỉ nên quy
định về nguyên tắc và định hướng” của TS. Nguyễn Thị Kim Phụng đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3/2006; “Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp sau 03
năm thực hiện ở Việt Nam” của Ths. Đỗ Thị Dung đăng trên tạp chí Luật học số
9/2012.
Trong phạm vi nghiên cứu, tác giả nhận thấy các công trình nghiên cứu
trước đây đã đề cập đến bảo hiểm thất nghiệp từ mức độ khái quát nhất cho đến
khi được quy định thành một chế độ bảo hiểm trong Luật Bảo hiểm xã hội, đồng
thời đã đánh giá được thực tiễn thực hiện các quy định này cũng như đưa ra
những giải pháp hoàn thiện nó. Tuy nhiên, với thực tế hiện nay, chế độ bảo hiểm
thất nghiệp đã được tách ra khỏi Luật bảo hiểm xã hội, được quy định trong Luật
việc làm 2013, chưa có đề tài nào nghiên cứu về những quy định mới này. Vì
vậy, đề tài “Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp theo Luật việc làm 2013” không
trùng với các đề tài khoa học đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu các quy định pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp mới được
quy định trong Luật Việc làm 2013 cùng thực trạng thực hiện những quy định
này để thấy được những điểm tiến bộ so với những quy định trước đây, đồng
thời chỉ ra được nguyên nhân của sự tách biệt chế độ bảo hiểm này ra khỏi bảo
hiểm xã hội và quy định gắn với vấn đề vi ệc làm. Từ những nghiên cứu này có
thể đánh giá và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện những quy định hiện hành.


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về bảo hiểm thất nghiệp như:

khái niệm, các nguyên tắc, nội dung cơ bản của pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
hiện hành để đánh giá hệ thống bảo hiểm thất nghiệp ở nước ta.
- Nghiên cứu các quy định cơ bản của bảo hiểm thất nghiệp hiện hành và
thực trạng thực hiện các quy định đó để đánh giá được những mặt tích cực mặt
hạn chế và từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bảo hiểm
thất nghiệp ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo hiểm
thất nghiệp được quy định trong Luật Việc làm 2013 (có hiệu lực từ
01/01/2015), từ đó đánh giá những ưu và nhược điểm của những quy định này,
nó có gì tiến bộ hơn so với những quy định về chế độ BHTN trước đây, đồng
thời lý giải việc tách các quy định về chế độ này khỏi Luật BHXH và quy định
trong Luật Việc làm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về duy vật lịch sử và duy
vật biện chứng được sử dụng để triển khai các nội dung hoàn thiện pháp luật của
luận văn, cụ thể, các quy định pháp luật hiện hành về chế độ BHTN được nhìn
nhận trong sự phát triển và trong mối tương quan với các vấn đề có liên quan
khác, chẳng hạn như việc làm, nguồn nhân lực lao động, công tác quản lý lao
động,…
- Phương pháp logic và phân tích được sử dụng để đánh giá các quy định
pháp luật hiện hành về chế độ BHTN, cụ thể là tác giả đã sử dụng các phương
pháp này để triển khai Chương 2 của Luận văn.


- Đồng thời, tác giả cũng sử dụng phương pháp tổng hợp để nghiên cứu
các quy định chung hay còn gọi là khung pháp luật về chế độ BHTN theo pháp
luật quốc tế và nghiên cứu lược sử các quy định về chế độ BHTN trong hệ thống
pháp luật Việt Nam.

- Phương pháp so sánh được sử dụng để triển khai việc so sánh các quy
định pháp luật về chế độ BHTN trong Luật Việc làm năm 2013 với các quy định
cũ trong Luật BHXH 2006, từ đó đánh giá được những điểm tiến bộ của những
quy định hiện hành cũng như mức độ phù hợp của những quy định đó trong thực
tiễn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa khoa học: Luận văn sẽ góp phần làm rõ và hoàn thiện những
vấn đề lý luận về BHTN nói chung và các quy định pháp luật BHTN hiện hành
nói riêng, cụ thể là các quy định được quy định trong Luật Việc làm năm 2013.
Đây cũng là điểm mới của luận văn, bởi từ khi Luật Việc làm năm 2013 được
ban hành, chưa có tác giả nào lựa chọn chế độ BHTN theo quy định của Luật
này làm đề tài để nghiên cứu. Bởi vậy, luận văn trở thành tài liệu đầu tiên tìm
hiểu về các quy định này, là “viên gạch” đầu tiên được đặt trên con đường
nghiên cứu về BHTN theo quy định mới.
- Về mặt thực tiễn, với những nghiên cứu bước đầu về các quy định về
chế độ BHTN theo pháp luật hiện hành và thực trạng áp dụng những quy định
đó trên thực tiễn, luận văn góp phần làm rõ những ưu nhược điểm của chế độ
BHTN theo Luật Việc làm năm 2013, từ đó góp phần đưa ra phương hướng
hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 03 chương:


Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Chương 2: Quy định về bảo hiểm thất nghiệp theo Luật việc làm 2013.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.



Chương 1
MỘT SỐ VÁN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT
NGHIỆP
1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1. Khái niệm thất nghiệp và người thất nghiệp
Điều 20 Công ước số 102 (1952) của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã
đưa khái niệm thất nghiệp như sau: “Thất nghiệp là hiện tượng người lao động
bị ngừng thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm thích hợp trong
trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc”. Định nghĩa
này đã được rất nhiều quốc gia tán thành và đưa vào áp dụng, bởi nó được xây
dựng dựa trên căn cứ được cho là căn bản nhất của hiện tượng thất nghiệp, đó là
việc “bị ngừng thu nhập” do không có việc làm của người lao động. Định nghĩa
cũng nhấn mạnh rằng, một người chỉ bị coi là thất nghiệp nếu họ không có khả
năng tìm được việc làm thích hợp trong khi họ vẫn có khả năng làm việc và sẵn
sàng làm việc để tạo ra thu nhập.
Trên cơ sở khái niệm “thất nghiệp” mà ILO đưa ra, Văn phòng Lao động
Quốc tế (BIT) đã đưa ra khái niệm về người thất nghiệp như sau: “Người thất
nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng không có
việc làm. Họ có thể là người chưa có việc làm hoặc có việc làm nhưng đã thôi
việc và đang cần tìm việc làm có thu nhập”.
Có thể thấy đây là một định nghĩa rõ ràng, cho thấy không phải bất cứ
người nào không có việc làm cũng được xếp vào nhóm “người thất nghiệp” mà
phải có những điều kiện nhất định như về độ tuổi, khả năng lao động. Theo đó,
người không có việc làm nhưng phải đang ở trong độ tuổi lao động và có khả
năng lao động mới được xếp vào nhóm “người thất nghiệp”. Như vậy, định
nghĩa này đã loại trừ những đối tượng khác không có việc làm nhưng không ở


trong độ tuổi lao động như người già, trẻ em chưa đến tuổi lao động và người
không có khả năng lao động như người tàn tật,… Đồng thời, người thất nghiệp

còn phải là người đang không có việc làm và đang đi tìm việc làm. Tình trạng
thất nghiệp của họ được hiểu là không có các nguồn thu nhập dưới dạng tiền
lương do không tham gia quan hệ lao động. Là người đang không có việc làm,
nhưng bản thân họ phải đang tích cực tìm kiếm việc làm và sẵn sàng làm việc để
tạo ra thu nhập. Đây là điều quan trọng để phân biệt giữa đối tượng người thất
nghiệp và đối tượng người không có việc làm khác.
Đối với Việt Nam, thất nghiệp cũng là hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại
trong nền kinh tế thị trường cần được hết sức chú trọng. Dưới góc độ pháp lý,
thuật ngữ “thất nghiệp” lần đầu tiên được đề cập đến trong Sắc lệnh số 29/SL
ngày 12/3/1947 (Điều 76) và sau đó là Nghị định số 233/HĐBT ngày 22/6/1990
của Hội đồng bộ trưởng ban hành quy chế lao động đối với các xí nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài (khoản 1 Điều 46). Tuy nhiên, các văn bản này chỉ đề cập đến
thuật ngữ “thất nghiệp” chứ chưa đưa ra định nghĩa cụ thể về “thất nghiệp”.
Ngay cả khi chế độ BHTN lần đầu được quy định tại Luật BHXH 2006 và hiện
tại được quy định trong Luật Việc làm 2013, chúng ta cũng chưa đưa ra khái
niệm “thất nghiệp” mà chỉ đưa ra khái niệm “người thất nghiệp” (được quy định
tại khoản 4 Điều 3 Luật BHXH 2006).
Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật BHXH 2006 thì “Người thất
nghiệp là người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc chấm
dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc nhưng chưa tìm được việc làm”. Cần
lưu ý rằng, khái niệm “người thất nghiệp” được giải thích trong quy định pháp
luật này không phải khái niệm chung theo các tài liệu của ILO, mà chỉ để phục
vụ mục đích xác định đối tượng chi trả BHTN. So với khái niệm chung của ILO,
khái niệm “người thất nghiệp” để xác định đối tượng chi trả BHTN theo pháp


luật Việt Nam đã được quy định thêm điều kiện “đang đóng bảo hiểm thất
nghiệp” ngoài các điều kiện chung về tuổi lao động và khả năng lao động (gián
tiếp quy định thông qua “bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động, hợp
đồng làm việc”). Quy định này được đặt ra với các điều kiện phù hợp với cơ chế

quản lý nguồn lao động Việt Nam, đồng thời cũng là để thắt chặt một cách hợp
lý các đối tượng hưởng BHTN vào thời điểm Luật BHXH 2006 ra đời – lần đầu
tiên chúng ta triển khai thực hiện chế độ BHTN.
1.1.2. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp
Như đã đề cập, tình trạng thất nghiệp đã và đang trở thành một vấn đề hết
sức nhức nhối, không chỉ ảnh hưởng đến bản thân, gia đình người thất nghiệp
mà còn ảnh hưởng tới nền kinh tế của một quốc gia. Vì vậy, các quốc gia luôn
tìm kiếm các giải pháp trợ giúp cho những người thất nghiệp. Một trong những
biện pháp trợ giúp đó là chế độ BHTN.
Khoản 4 Điều 3 Luật Việc làm 2013 đã đưa ra định nghĩa cụ thể về
“BHTN” như sau: “Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ nhằm bù đắp một phần thu
nhập của người lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề,
duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp”.
Nhìn nhận từ góc độ kinh tế - xã hội, BHTN là một biện pháp nhằm hỗ trợ
người lao động bị mất việc làm, giúp ổn định tạm thời cuộc sống, học nghề và
tìm kiếm việc làm mới thông qua việc tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung do người
lao động, người sử dụng lao động đóng góp và có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
Do đó, BHTN chính là giải pháp nhằm khắc phục hậu quả của tình trạng thất
nghiệp đối với người tham gia BHTN và góp phần điều tiết sự chuyển dịch lao
động trong nền kinh tế thị trường.
Dưới góc độ pháp lý, pháp luật BHTN là tổng hợp những quy phạm pháp
luật quy định về việc thu nộp BHTN, chi trả trợ cấp thất nghiệp, đưa người thất


nghiệp trở lại làm việc, quản lý quỹ BHTN và các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các bên tham gia vào quá trình thực hiện chế
độ BHTN cho người lao động.
BHTN có những điểm đặc trưng thể hiện đúng bản chất riêng của nó, cụ
thể là:
Thứ nhất, BHTN xuất phát từ quan hệ lao động nhưng khi thực hiện lại

chủ yếu thuộc về lĩnh vực việc làm, nó giống như một phương án dự phòng về
việc làm của người lao động. Việc chi trả BHTN cũng luôn luôn gắn liền với
vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động, nó vừa đóng vai trò
hỗ trợ phần nào thu nhập cho người thất nghiệp, vừa xúc tiến các hoạt động tìm
kiếm và tạo việc làm cho người thất nghiệp. Đây là điểm khác biệt giữa hoạt
động quản lý BHTN so với việc quản lý các chế độ BHXH khác. Cũng chính
bởi sự gắn bó mật thiết giữa BHTN và việc làm của người lao động mà hiện nay
ở nước ta chế độ BHTN đã được tách ra khỏi Luật BHXH, được quy định trong
Luật Việc làm.
Thứ hai, về đối tượng được hưởng chế độ BHTN, người được hưởng chế
độ BHTN là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và đang
bị mất việc làm dẫn đến việc tạm thời không có thu nhập, vẫn sẵn sàng trở lại
làm việc. Như vậy, người được hưởng chế độ BHTN là những người hiện không
tham gia vào quan hệ lao động, bị chấm dứt quan hệ lao động trong khi vẫn có
khả năng lao động, khác với đối tượng của các chế độ BHXH khác là những
người lao động vẫn đang có quan hệ lao động (chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản)
hoặc đã chấm dứt quan hệ lao động do không có khả năng tiếp tục làm việc (chế
độ hưu trí, tử tuất).
Thứ ba, việc thực hiện chế độ BHTN trên thực tế rất phức tạp và khó
quản lý. Sự phức tạp và khó quản lý có thể thấy ngay được từ việc khó có thể dự


đoán được tỷ lệ thất nghiệp một cách chính xác, từ đó dẫn đến khó khăn trong
việc hạch toán và cân đối thu – chi quỹ BHTN. Việc thực hiện chế độ BHTN
cũng liên quan mật thiết với các hệ thống đào tạo nghề, các trung tâm giới thiệu
việc làm và chương trình quốc gia về việc làm nên cần có sự phối hợp đồng bộ
giữa cơ quan quản lý BHTN với các cơ quan chức năng trong lĩnh vực lao động
việc làm. Hơn nữa, việc xác định điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp khó khăn
hơn nhiều so với các chế độ BHXH khác, xuất phát từ ranh giới mờ nhạt giữa
“có việc làm” và “không có việc làm”, giữa “có thu nhập” và “không có thu

nhập”. Đây là một thực tế mà chúng ta cần phải cố gắng khắc phục để có thể
thực hiện được chế độ BHTN một cách hiệu quả.
1.2. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp
BHTN đóng vai trò hết sức cần thiết ở mỗi quốc gia bởi những lý do cơ
bản sau đây:
- Thứ nhất, chế độ BHTN được xây dựng chính là cơ sở pháp lý để người
lao động được đảm bảo trợ cấp về vật chất khi thất nghiệp, giúp cho họ phần nào
ổn định được cuộc sống để có thể trở lại làm việc khi tìm được việc làm mới.
Bất cứ người lao động nào cũng mong muốn có được một công việc, một
mối quan hệ lao động ổn định và bền vững để có được khoản thu nhập ổn định
phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của bản thân và gia đình. Tuy nhiên, không
phải lúc nào mối quan hệ lao động – việc làm cũng diễn ra một cách suôn sẻ. Lý
do này hoặc lý do khác, khách quan hoặc chủ quan có thể sẽ khiến cho họ “đánh
mất” đi việc làm đã tìm kiếm được trước đó, lúc này họ không còn thu nhập để
có thể đảm bảo được cuộc sống ở mức tối thiểu, họ không chỉ rơi vào khó khăn
về kinh tế mà còn phải chống chọi với sự khốn khó về mặt tinh thần. Cuộc sống
của người lao động bị mất việc làm sẽ trở nên hết sức nặng nề về tất cả mọi mặt
nếu như không có khoản trợ cấp dưới tên “BHTN”. BHTN giúp cho người thất


nghiệp có thể phần nào ổn định được cuộc sống vật chất và gánh nặng về mặt
tinh thần. Có ổn định được cuộc sống vật chất và tinh thần người thất nghiệp
mới có cơ hội để tìm việc và tiếp tục tham gia thị trường lao động. ILO cũng đã
đưa ra vấn đề đảm bảo cuộc sống cho người lao động bị mất việc trong các công
ước và khuyến nghị của mình. Điều này sẽ được đề cập đến ở phần sau của luận
văn.
- Thứ hai, BHTN góp phần đảm bảo quyền con người và quyền có việc
làm của người lao động.
Có thể nói, sự ra đời của chế độ BHTN đã góp phần không nhỏ trong việc
đảm bảo quyền con người của người lao động. Người lao động có quyền được

sống, được đảm bảo cuộc sống bằng vật chất do họ lao động mà tạo ra, được tự
do phát triển. Trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hiệp quốc (1948) đã
ghi nhận “Mỗi người đều có quyền có một mức sống cần thiết cho việc giữ gìn
sức khỏe bản thân và gia đình, có quyền được bảo đảm trong trường hợp thất
nghiệp”. Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cũng là một vấn đề quan trọng
thuộc về quyền con người, mỗi con người đều có quyền có việc làm, tự do chọn
nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng và được bảo vệ
chống lại thất nghiệp. Như vậy, sự ra đời của chế độ BHTN là biện pháp hữu
hiệu góp phần tạo điều kiện đảm bảo các quyền cơ bản của con người.
- Thứ ba, BHTN góp phần làm ổn định nền kinh tế - xã hội của quốc gia.
+ Đối với nền kinh tế: Nền kinh tế của mỗi quốc gia không thể tự bản thân
nó phát triển và lớn mạnh, mà hạt nhân của nền kinh tế quốc gia chính là kinh tế
của cá nhân mỗi người lao động. Nếu mỗi người lao động đều có việc làm ổn
định, thu nhập ổn định đồng nghĩa với việc xã hội với nhiều cá nhân người lao
động đó cũng có sự “thu nhập” ổn định, kinh tế từ đó mà càng lúc càng vững
mạnh. Ngược lại, nếu trong quốc gia nào đó có quá nhiều người thất nghiệp,


không có khả năng tạo ra thu nhập thì trước hết, bản thân họ sẽ rơi vào cảnh đói
nghèo, không có tiền để chăm lo cho bản thân cũng như cho gia đình. Điều này
đồng nghĩa với việc quốc gia sẽ trở nên ngày càng nghèo khó, không thể phát
triển được. Chính vì vậy, chế độ BHTN với chức năng “hỗ trợ” thu nhập cho
người lao động khiến cho họ phần nào ổn định được cuộc sống, từ đó có cơ hội
để tìm kiếm việc làm mới, sẵn sàng tham gia quan hệ lao động mới để có thu
nhập, làm giàu cho bản thân. Nền kinh tế cũng từ đó mà phát triển hơn. BHTN
đã đóng vai trò làm cân bằng nền kinh tế, hạn chế những tác động tiêu cực của
nền kinh tế thị trường.
+ Đối với xã hội: Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp đang dần trở
thành một sự cản trở vô cùng to lớn cho sự phát triển của xã hội. Như đã đề cập
ở trên, nếu người lao động bị mất việc làm và hoàn toàn không có sự hỗ trợ từ

chế độ BHTN, khả năng tìm kiếm việc làm mới của họ sẽ trở nên khó khăn hơn
rất nhiều bởi các yếu tố khách quan lẫn chủ quan. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng
người thất nghiệp bị lâm vào tình trạng “đường cùng”, từ đó sẽ nảy sinh ra nhiều
vấn đề xã hội phức tạp như các tệ nạn xã hội, trộm cắp, cờ bạc,… làm ảnh
hưởng không nhỏ đến đời sống của những người xung quanh. BHTN với chức
năng không chỉ hỗ trợ về thu nhập mà còn tạo điều kiện để người thất nghiệp có
thể dễ dàng hơn trong việc tìm công việc mới phù hợp để tạo ra thu nhập, đảm
bảo cuộc sống cho bản thân, gia đình và xã hội.
1.3. Khung pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
1.3.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Xác định đối tượng tham gia, hay còn gọi là đối tượng áp dụng BHTN là
một trong những vấn đề hết sức quan trọng để có thể thực hiện chế độ BHTN,
thường được xem xét trên các yếu tố: nhu cầu bảo vệ, khả năng tài chính của
người tham gia BHTN và khả năng quản lý của nhà nước thông qua tổ chức


BHTN.
ILO đã có nhiều Công ước quy định rõ đối tượng áp dụng BHTN. Điều 2
Công ước số 44 “Công ước về bảo đảm tiền trợ cấp cho những người thất nghiệp
không tự nguyện” ban hành năm 1934 quy định áp dụng BHTN cho tất cả những
người làm việc được trả tiền công hoặc tiền lương. Đây được coi là nguyên tắc
chung xác định đối tượng cần được bảo vệ. Tuy nhiên, Điều 2 của Công ước này
cũng chỉ ra rằng khi cần thiết, pháp luật của mỗi quốc gia có thể quy định những
ngoại lệ đối với những người giúp việc gia đình, làm việc tại nhà, những người
làm công ăn lương trong các hệ thống dịch vụ công ích của Nhà nước, những
người lao động chưa đến tuổi quy định, những người đã đến tuổi nghỉ hưu, có
thu nhập đảm bảo tham gia BHTN.
Như vậy, theo Công ước nêu trên, đối tượng tham gia bảo hiểm thất
nghiệp là những người làm công ăn lương và tùy vào điểu kiện kinh tế – xã hội
của mỗi quốc gia có thể mở rộng thêm đối tượng.

Trên thực tế, có rất nhiều nước đã triển khai chế độ BHTN với đối tượng
tham gia là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy nhiên, đối tượng này
rộng hay hẹp còn tùy thuộc vào điều kiện cụ thể và quy định của từng nước.
Trong bài viết “Quy định về BHTN trong Công ước của Tổ chức lao động quốc
tế (ILO) và một số nước trên thế giới” của TS. Lê Thị Hoài Thu đăng trên Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật số 6/2006 thì theo kinh nghiệm của các nước, đối
tượng của BHTN là những người lao động bị thất nghiệp phải có thời gian lao
động nhất định, ở lĩnh vực ngành nghề nào đó và làm trong cơ sở có quy mô lao
động theo quy định. Ví dụ như ở Trung Quốc, BHTN được áp dụng từ năm
1986 đối với người lao động mới tuyển dụng vào doanh nghiệp Nhà nước. Sau
một số lần sửa đổi, Trung Quốc thông qua “Điều lệ BHTN” vào năm 1999 áp
dụng với tất cả lao động ở thành thị, lao động trong các doanh nghiệp nhà nước,


doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và nông dân làm
hợp đồng trong các doanh nghiệp này. Ở Cộng hòa liên bang Đức, tất cả những
người lao động trên cơ sở hợp đồng như: công nhân, nhân viên hoặc những
người đang đi học cũng như chủ của họ, không phụ thuộc vào mức thu nhập,
đều là đối tượng bắt buộc tham gia BHTN. Theo pháp luật Đức, công chức Nhà
nước là đối tượng duy nhất không cần tham gia BHTN vì thời gian phục vụ Nhà
nước là cả đời. Đối với học sinh, sinh viên và người lao động làm việc dưới 18
giờ trong tuần hoặc có mức thu nhập ít hơn 1/7 thu nhập trung bình của tất cả
thành viên của BHTN cũng không tham gia loại bảo hiểm này.
1.3.2. Điều kiện, mức trợ cấp và thời gian hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp
1.3.2.1. Điều kiện hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp
Theo Công ước số 44 của ILO, để được hưởng trợ cấp BHTN, người thất
nghiệp phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Thứ nhất, có năng lực làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng hiện tại
không có việc làm.
Điều kiện “có năng lực làm việc” là điều kiện quan trọng để phân biệt đối

tượng hưởng BHTN với đối tượng hưởng BHXH khác, cụ thể là, chỉ trong
trường hợp người thất nghiệp có năng lực làm việc mới được hưởng BHTN, còn
nếu họ không còn năng lực làm việc hay mất năng lực làm việc do hết tuổi lao
động hoặc gặp tai nạn dẫn đến mất khả năng lao động thì sẽ hưởng chế độ bảo
hiểm khác tùy quy định pháp luật của mỗi quốc gia. Ngoài ra, người thất nghiệp
cũng phải “sẵn sàng làm việc” chứ không phải không muốn làm việc và không
tích cực tìm kiếm việc làm.
- Thứ hai, có đăng ký tìm việc tại một phòng tìm việc.
Việc đăng ký tìm việc như vậy tạo điều kiện để các cơ quan chức năng hỗ
trợ tìm việc làm cho người thất nghiệp đồng thời giúp cơ quan có thẩm quyền dễ


dàng thống kê số lượng người thất nghiệp để điều chỉnh chính sách BHTN một
cách hợp lý, đúng đối tượng. Ví dụ, ở Nhật, việc đăng ký phải được làm thường
xuyên 4 tuần 1 lần tại cơ quan bảo đảm việc làm quốc gia.
- Thứ ba, có sổ BHTN.
Sổ BHTN là cơ sở pháp lý để chứng nhận người thất nghiệp có tham gia
đóng BHTN trong một thời gian nhất định và đủ thời gian tối thiểu (còn được
gọi là thời kỳ dự bị) theo quy định. Điều kiện này nhằm tránh sự lạm dụng của
người thất nghiệp đối với chế độ BHTN. Trong thời gian tối thiểu được quy định
theo pháp luật, người lao động tham gia đóng góp cho quỹ BHTN trước khi thất
nghiệp. Điều 6 Khuyến nghị số 41 hướng dẫn “Thời kỳ dự bị thường không vượt
quá 26 tuần lễ làm việc… trong thời gian 12 tháng trước khi xin hưởng trợ cấp
BHTN”. Luật BHTN Ba Lan quy định thời gian này là 180 ngày trong 12 tháng
cuối cùng trong quan hệ lao động, trong khi Cộng hòa Pháp quy định là 03 tháng
đóng BHTN trong 12 tháng cuối cùng trước khi thất nghiệp.
- Thứ tư, việc thất nghiệp không phải do lỗi của người lao động.
Người lao động phải chứng minh bị thất nghiệp không do lỗi của bản
thân. Các quốc gia trên thế giới đều đưa ra các tiêu chí xác định trường hợp mất
quyền hưởng trợ cấp BHTN với các lý do như tự ý bỏ việc không có lý do chính

đáng, vi phạm kỷ luật lao động dẫn đến mất việc,…
Ngoài ra, nhiều quốc gia cũng quy định thêm về điều kiện không có thu
nhập trong thời gian hưởng trợ cấp.
Tiếp đó, theo Điều 21, Công ước số 102 năm 1952 thì đối tượng được
hưởng trợ cấp thất nghiệp bao gồm:
“a) Những người làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm
50% toàn bộ những người làm công ăn lương;
b) Hoặc mọi người thường trú mà phương tiện sinh sống trong khi trường


hợp thất nghiệp xảy ra không vượt quá giới hạn về mức trợ cấp được quy định
tại Điều 67 của Công ước;
c) Hoặc, nếu các quốc gia đã có bản tuyên bố về bảo lưu tạm thời điều
khoản trợ cấp thất nghiệp của Công ước thì những người được hưởng trợ cấp
thất nghiệp phải bao gồm những người làm công ăn lương mà tổng số ít nhất
chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương làm việc trong các cơ sở
công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên.”
Khi tình hình thất nghiệp trên thế giới ngày một gia tăng, Công ước số
168 “Công ước về xúc tiến việc làm và bảo vệ chống lại thất nghiệp” được ILO
thông qua năm 1988 đã bổ sung cho các Công ước và khuyến nghị trước đó. Cụ
thể là, Điều 11 Công ước 168 quy định “Những người được bảo vệ sẽ gồm
những người làm công ăn lương theo quy định không ít hơn 85% toàn bộ những
người làm công ăn lương, kể cả những người làm công ăn lương khu vực công
cộng và những người học nghề”. Ngoài ra, Điều 26 của Công ước này đưa ra
một số điều khoản đặc biệt để áp dụng với một số loại lao động mới xin việc lần
đầu, hoặc không được xem là thất nghiệp, hoặc chưa bao giờ, hoặc không được
tham gia chương trình bảo vệ người thất nghiệp…
1.3.2.2. Mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp
Mức trợ cấp BHTN là khoản tiền mà người lao động (khi mất việc làm)
nhận được từ cơ quan BHTN hay cơ quan quản lý lao động chi trả trợ cấp. Mức

trợ cấp thất nghiệp được hình thành trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng của
người lao động.
Khi xác định mức trợ cấp cần phải lưu ý nếu mức trợ cấp quá thấp sẽ
không đủ giải quyết nhu cầu tối thiểu của người thất nghiệp, dẫn đến kết quả là
cuộc sống của họ sẽ gặp nhiều khó khăn. Nhưng nếu mức trợ cấp BHTN cao
ngang bằng tiền lương trước khi thất nghiệp sẽ tạo tâm lý ỷ lại, không chịu làm


việc của người thất nghiệp để kéo dài thời gian trợ cấp, gây thiệt hại cho quỹ
BHTN và ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Do vậy, về nguyên tắc, mức trợ cấp
BHTN phải thấp hơn mức thu nhập của người lao động khi đang làm việc nhưng
phải đảm bảo nhu cầu tối thiểu của họ.
Công ước 102 quy định mức trợ cấp thất nghiệp là tỷ lệ % so với tổng số
tiền lương của một người lao động nam giới thành niên thông thường và so với
mức phụ cấp gia đình trả cho một người lao động thất nghiệp có gánh nặng gia
đình giống như người được hưởng mẫu. Người thụ hưởng mẫu là người có vợ và
hai con được hưởng tỷ lệ trợ cấp thất nghiệp là 45%. Tùy theo điều kiện của
từng quốc gia, mức trợ cấp thất nghiệp này cũng được quy định không giống
nhau.
Ví dụ, tại Nhật mức trợ cấp BHTN là từ 60-80% mức lương tiền công
ngày và tỷ lệ này sẽ cao hơn đối với người có thu nhập thấp; 50-80% cho người
thất nghiệp trong độ tuổi từ 60 đến 64. Khoản trợ cấp cũng phụ thuộc vào độ dài
của thời gian đóng bảo hiểm, tuổi tác, tương lai việc làm,… Đối với Hungari,
mức trả trợ cấp BHTN lại được quy định giảm dần theo thời gian thất nghiệp:
“Người thất nghiệp nhận được 70% lương thực lĩnh cho năm đầu tiên và 50%
cho năm thứ hai”. Một số nước khác lại căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh gia đình
để xác định mức hưởng trợ cấp như Bỉ, Phần Lan,…1
1.3.2.3. Thời gian hưởng trợ cấp BHTN
Theo Khuyến nghị số 44 của ILO, thời gian trả trợ cấp dài hay ngắn là tùy
thuộc vào khả năng tài chính của quỹ BHTN. Thời gian này được kéo dài nếu

như quỹ còn đủ khả năng chi trả và người lao động còn có yêu cầu được giúp
đỡ. Trên thực tế, việc chi trả trợ cấp thực sự khó có thể đáp ứng tình trạng khó
khăn của người thất nghiệp và thời gian chi trả trợ cấp cũng cần phải có giới hạn
cần thiết.


Điều 24, Công ước số 102 quy định “Trợ cấp thất nghiệp có thể trả suốt
thời gian người lao động bị mất việc làm ngoài ý muốn, và đôi khi trợ cấp này
cũng có thể hạn chế trong nhiều trường hợp đối với các loại đối tượng hưởng
trợ cấp. Riêng với đối tượng hưởng trợ cấp là người làm công ăn lương, thời
gian hưởng trợ cấp có thể bị hạn chế trong khoảng 13 tuần trong từng thời kỳ
12 tháng”. Đối với người được bảo vệ là người thường trú mà các phương tiện
sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới hạn quy định
thì trợ cấp thất nghiệp được trả là 26 tuần trong thời kỳ 12 tháng.
Theo Công ước số 168 của ILO bổ sung Công ước số 102, các quốc gia
thành viên có thể giới hạn thời gian chi trả trợ cấp thất nghiệp lên tới 26 tuần
cho mỗi thời kỳ thất nghiệp hoặc tới 39 tuần trong mỗi giai đoạn 24 tháng. Nếu
quốc gia thành viên đưa ra bản tuyên bố bảo lưu quy định này, thì thời gian chi
trả trợ cấp có thể giới hạn tới một tuần cho mỗi thời kỳ 13 tháng, hoặc trung
bình 13 tuần nếu pháp luật nước đó quy định rằng thời gian đầu trả trợ cấp sẽ
thay đổi theo độ dài thời gian làm việc (Điều 19).
Trên cơ sở quy định của Công ước quốc tế, các nước quy định thời gian
trả trợ cấp khác nhau, nhưng thông thường là khoảng từ 12 tuần đến 52 tuần, ví
dụ: Cộng hòa liên bang Đức 13 tuần, Anh 24 tuần, Italia 180 ngày,… Tuy nhiên,
cũng có những nước quy định thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp chặt chẽ như
Trung Quốc. Quốc gia này quy định thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp phụ
thuộc vào thời gian mà người thất nghiệp đóng góp vào quỹ BHTN, chẳng hạn
trợ cấp BHTN sẽ được hưởng trong vòng 12 tháng nếu người thất nghiệp đóng
quốc tế (ILO) và một số nước trên thế giới”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 06/2006.
góp vào quỹ BHTN trong thời gian từ 1-5 năm, những người đóng góp trên 10

năm cũng chỉ nhận được trợ cấp thất nghiệp tối đa là 24 tháng.2
Về thời gian hoãn hưởng trợ cấp BHTN (thời gian từ khi người thất


nghiệp nộp đơn xin hưởng trợ cấp đến khi họ thực sự nhận được trợ cấp) với
mục đích giảm bớt phần nào gánh nặng tài chính cho quỹ BHTN đối với các
trường hợp tạm ngừng việc ngắn hạn. Theo Khuyến nghị số 44 của ILO, thời
gian này không được vượt quá 8 ngày cho mỗi thời kỳ thất nghiệp.
1.3.3. Hồ sơ, thủ tục tham gia, hưởng BHTN
Việc tham gia BHTN của người lao động phải được theo dõi bằng sổ
BHTN được coi là hồ sơ tham gia BHTN. Như đã đề cập, sổ BHTN là cơ sở
pháp lý chứng nhận việc tham gia BHTN của người lao động, trong đó ghi nhận
mức đóng BHTN cũng như thời gian đóng BHTN của người lao động.
Để được hưởng chế độ BHTN, người lao động tạm thời bị mất việc cần
phải đáp ứng các điều kiện hưởng BHTN được quy định cụ thể theo pháp luật.
Theo đó, người lao động tạm thời bị mất việc cần phải nộp hồ sơ để được xem
xét việc hưởng BHTN. Theo quy định của ILO thì người lao động bị mất việc
phải đăng ký thất nghiệp, đăng ký tìm việc làm ở cơ quan lao động có thẩm
quyền do Nhà nước quy định. Ở mỗi quốc gia, việc đăng ký này lại được quy
định khác nhau. Ví dụ như, ở Nhật, người thất nghiệp phải đăng ký tại cơ quan
bảo đảm việc làm quốc gia và việc đăng ký phải được làm thường xuyên 4 tuần
một lần. Hồ sơ hưởng BHTN sẽ được nộp cùng lúc với thời gian đăng ký thất
nghiệp, bao gồm đơn xin hưởng BHTN, sổ BHTN và giấy tờ chứng minh việc
thất nghiệp không phải lỗi của người lao động.
1.3.3. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
1.3.3.1. Trách nhiệm đóng quỹ BHTN
Theo nguyên tắc các bên cùng chịu trách nhiệm, quỹ BHTN là một quỹ
tiền tệ tập trung được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia quan hệ
BHTN và dùng để chi trả trợ cấp cho người lao động khi bị thất nghiệp theo quy



2 Lê Thị Hoài Thu (2006), “Quy định về Bảo hiểm thất nghiệp trong Công ước của Tổ chức lao
động
quốc tế (ILO) và một số nước trên thế giới”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 06/2006.
định của pháp luật. Các bên tham gia quan hệ BHTN đóng quỹ BHTN bao gồm
người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Người lao động tham gia đóng góp quỹ BHTN như một khoản tiết kiệm
để khắc phục rủi ro khi mất việc làm, với ý nghĩa của việc đóng góp là sự san sẻ
rủi ro, lấy của số đông người lao động đang làm việc bù đắp cho số ít người thất
nghiệp. Người sử dụng lao động có được giá trị thặng dư sinh ra trong quá trình
họ sử dụng sức lao động của người lao động, nên họ phải có trách nhiệm đóng
góp để trợ giúp cho người lao động mà mình thuê trong trường hợp người lao
động bị mất việc, đặc biệt là khi doanh nghiệp gặp khó khăn dẫn đến người lao
động bị thất nghiệp hàng loạt. Đối với Nhà nước, việc đóng góp BHTN là trách
nhiệm của Nhà nước để giải quyết những vấn đề có tính xã hội như giải quyết
việc làm và hạn chế tình trạng thất nghiệp đang diễn ra trong xã hội.
1.3.3.2. Tỷ lệ đóng quỹ BHTN
Căn cứ xác định đóng quỹ BHTN thường được thực hiện dưới hai hình
thức sau:
- Đóng theo một khoản cố định và hưởng theo một khoản cố định. Khoản
cố định này sẽ được cơ quan BHTN lựa chọn phù hợp mức sống, tình hình kinh
tế-xã hội nói chung và nhu cầu của đa số người hưởng chế độ.
- Đóng theo mức lương và hưởng theo mức lương: Hình thức này được
ILO khuyến nghị và được người lao động do sự đảm bảo công bằng trong đóng
và hưởng BHTN. Tuy nhiên việc đóng theo hình thức này cần phải kiểm soát
được thu nhập của người lao động để tránh bội chi quỹ BHTN
Tùy tình hình kinh tế xã hội của từng nước, BHTN được thành lập dựa
trên tỷ lệ đóng góp của các bên có trách nhiệm đóng quỹ. Quá trình tạo lập quỹ



×