Tải bản đầy đủ (.doc) (145 trang)

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT về xử lý VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH vực AN NINH, TRẬT tự và AN TOÀN xã hội TRÊN địa bàn THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.77 KB, 145 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NGỌC SƠN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC AN NINH, TRẬT TỰ VÀ AN TOÀN XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số : 60380101
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ……………..

HÀ NỘI – NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số
liệu nêu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác do các cơ quan
chức năng đã công bố. Những kết luận khoa học của Luận văn là mới và chưa từng
được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Ngọc Sơn

XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PHÓ GIÁO SƯ. TIỄN SĨ



LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới
PGS.TS Lê Văn Long người Thầy tâm huyết đã tận tình hướng dẫn tôi nghiên cứu, học
tập, dành thời gian quý báu để trao đổi, định hướng cũng như động viên khích lệ tôi
hoàn thành Luận văn luật học này.
Xin chân thành cảm ơn toàn thể các Thầy, Cô trong khoa sau Đại học của
Trường Đại học Luật Hà Nội về những kiến thức quý báu đã truyền đạt cho tôi, đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn
tốt nghiệp.
Tôi vô cùng biết ơn những người thân yêu của tôi và các bạn bè, đồng nghiệp
thân thiết luôn động viên để tôi duy trì nghị lực, luôn cảm thông và chia sẻ về cả thời
gian, sức khỏe và các nguồn lực khác trong suốt quá trình hoàn thành Luận văn./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Ngọc Sơn


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADPL: Áp dụng pháp luật
AN, TT: An ninh, trật tự
ATXH: An toàn xã hội
TTCC: Trật tự công cộng
THPL : Thực hiện pháp luật
UBND: Ủy ban nhân dân
VPPL: Vi phạm pháp luật
VPHC: Vi phạm hành chính


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp mới của Luận văn
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
8. Kết cấu của Luận văn
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC AN NINH, TRẬT TỰ VÀ AN TOÀN XÃ HỘI
1.1. Những vấn đề lý luận về pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội
1.2. Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội
Kết luận chương 1
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC AN NINH, TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ


HỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIÊN NAY
2.1. Thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và
an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội
Trang
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội trên địa bàn thành phố
Hà Nội hiện nay

Kết luận chương 2
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC AN
NINH, TRẬT TỰ VÀ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Bảo đảm điều kiện thiết yếu cho quá trình thực hiện pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an
toàn xã hội
3.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội
3.3. Tăng cường giải thích, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an
toàn xã hội cho cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân.
3.4. Kiện toàn bộ máy tổ chức, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ
quan, tổ chức về việc thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội
3.5. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực hiện pháp luật về xử lý vi


phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội
trên thành phố Hà Nội
3.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ nghiệp vụ
chuyên môn trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội
3.7. Phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng chính quyền trong sạch, vững
mạnh thực sự của dân, do dân và vì dân
Kết luận chương 3
KẾT LUẬN CHUNG


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể pháp
luật bằng hành vi của mình thực hiện các quy định pháp luật trong thực tế đời sống.
Thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an
toàn xã hội là một lĩnh vực thực hiện pháp luật cụ thể. Nó có khái niệm, đặc điểm riêng
biệt cần được định nghĩa, bổ sung, cụ thể hóa lý luận chung và soi rọi vào thực tiễn
thực hiện pháp luật. Từ đó, đối chiếu đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính về an ninh, trật tự và an toàn xã hội làm cơ sở để đưa ra các giải pháp
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội.
Thực tiễn cho thấy, trong những năm qua, việc bảo đảm thực hiện pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội bên cạnh
những ưu điểm đã bộc lộ nhiều bất cập, quy định pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn,
chưa rõ ràng, khó áp dụng, thiếu sự phù hợp với thực tế, còn hạn chế tính khả thi. Hoạt
động giải thích pháp luật vi phạm hành chính đã triển khai song hiệu quả chưa cao dẫn
đến việc áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự
và an toàn xã hội nhiều nơi còn tùy tiện hoặc dung túng bao che, không xử lý hoặc xử
lý không kịp thời, những điều đó làm nảy sinh tâm lý coi thường kỷ cương phép nước.
Trong khi đó, việc tuyên truyền pháp luật xử lý vi phạm vi phạm hành chính trong lĩnh
vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội còn hạn chế, chưa được tiến hành thường xuyên.
Người dân còn thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết rất hạn chế pháp luật ở lĩnh vực này. Hơn
nữa hầu hết cơ quan có nhiệm vụ xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật
tự và an toàn xã hội đồng thời thực hiện nhiều nhiệm vụ khác; cán bộ, chiến sĩ thực


hiện nhiệm vụ này chưa được đào tạo chuyên sâu, đa số kiêm nhiệm các nhiệm vụ
khác. Do vậy đã phần nào ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hà
Nội hiện nay.
Mặc dù vấn đề bảo đảm thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong

lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội là một vấn đề rất quan trọng, nhưng dưới góc
độ lý luận chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ
và có hệ thống về vấn đề này. Một số công trình được công bố chỉ nghiên cứu chung về
pháp luật hình sự và xử phạt vi phạm hành chính, những vấn đề như: chất lượng pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội; ý
thức pháp luật của các đối tượng tham gia hoạt động xử lý vi phạm hành chính; bộ máy
tổ chức và nhân sự; cơ chế phối hợp giữa các lực lượng; phương tiện vật chất kỹ thuật
và môi trường xã hội cũng như dư luận xã hội chưa thực sự được tiến hành trên cơ sở
khoa học.
Rõ ràng, cả về mặt lý luận, cả về mặt thực tiễn, việc nghiên cứu một cách toàn
diện vấn đề bảo đảm thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an
ninh, trật tự và an toàn xã hội để khuyến nghị và luận chứng các giải pháp nhằm bảo
đảm thực hiện pháp luật được nghiêm mình, chính xác, kịp thời là hết sức cần thiết và
cấp bách hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm trước thời kỳ đổi mới hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu
về pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Theo đường lối đổi mới và nhất là nhằm
thực hiện chủ trương “quản lý đất nước bằng pháp luật”, việc nghiên cứu những vấn đề
lý luận về pháp luật, cơ chế thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật về xử lý vi phạm


hành chính nói riêng đã có sự phát triển mạnh. Có thể kể đến một số công trình sau:
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía bắc ở
nước ta hiện nay – thực trạng và các phương hướng, giải pháp” của Lê Thanh Bình,
2002. Đề tài đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về thực hiện pháp
luật ở các tỉnh miền núi như: khái niệm, những nội dung cơ bản, thực trạng thực hiện
pháp luật ở các tỉnh miền núi phía bắc. Những giá trị của đề tài đã nghiên cứu về sự
bảo đảm về mặt pháp lý đối với việc thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía bắc.
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Tăng cường pháp chễ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh
vực xử lý vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay” của Đặng Thanh Sơn, 2003. Nội

dung của công trình này nghiên cứu sâu về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, khái
niệm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính ở
nước ta hiện nay.
- Chuyên đề “ Hoàn thiện các biện pháp xử lý hành chính khác theo pháp luật
Việt Nam” của Thạc sĩ Lê Ngọc Thanh (tỉnh Đăc Lắc) đăng trên tạp chí Dân chủ và
Pháp luật số 1/2006.
- Bài viết “ Quyền công dân, quyền con người và chỗ đứng của “các biện pháp
xử lý hành chính khác” trong pháp luật về vi phạm hành chính” của tác giả Trần
Thanh Hương đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11/2015.
- Bài viết “Đổi mới tổ chức xét xử khiếu kiện hành chính theo tinh thần cải cách
tư pháp” của tác giả Thạc sĩ Nguyễn Thanh Bình (Học viện Tư Pháp) và bài viết
“Nhằm nâng cao hiệu quả xét xử hành chính của TAND” của Thạc sĩ Hoàng Quốc
Hồng (Trường Đại học Luật Hà Nội) đăng trên tạp chí Nghề Luật số 1/2006.
Ngoài ra, còn có một số bài viết của các cán bộ chuyên gia trong và ngoài ngành
Công an liên quan đến đề tài Luận văn đã được đăng trên các tạp chí như bài viết của


Phó Giáo Sư, Tiến sĩ Lê Văn Long và Thạc sĩ Hoàng Văn Sao đăng trên tạp chí Luật
học – đặc san về xử lý vi phạm hành chính. Một số các bài viết trên trang web Công an
nhân dân về pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an
toàn xã hội.
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào các vấn đề hoàn thiện
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, quản lý Nhà nước bằng pháp luật, chưa có đề
tài trực tiếp nghiên cứu việc bảo đảm thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
- Mục đích:
Luận văn trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài để luận
chứng và khuyến nghị các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội trên địa bàn thành

phố Hà Nội hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, Luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:
+ Làm sáng tỏ cơ sở lý luận thực hiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Như khái niệm,
đặc điểm, nội dung của thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
an ninh, trật tự và an toàn xã hội; các yếu tố ảnh hưởng đến việc bảo đảm thực hiện
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội
hiện nay.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng, tìm ra các nguyên nhân hạn chế việc thực hiện
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội.


+ Khuyến nghị các giải pháp bảo đảm điều kiện thiết yếu cho quá trình thực
hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã
hội trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn
thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an
toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ có hạn, Luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu những vấn đề cơ bản của việc thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội và nghiên cứu chủ yếu giai đoạn từ sau
đổi mới (1986) đến nay, đồng thời có tham khảo các quy định pháp luật trước đó khi
phân tích các vấn đề mang tính lịch sử vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật
tự và an toàn xã hội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, về
tuyên truyền, giáo dục thực hiện pháp luật. Luận văn dựa trên cơ sở lý luận trực tiếp

của bộ môn lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của khoa học pháp lý xã hội chủ
nghĩa.
- Về phương pháp nghiên cứu, Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, như phương pháp lý luận với thực tiễn, phân
tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu của một số bộ môn khoa học khác như phương pháp luật học so sánh,
phương pháp xã hội học (điều tra, khảo sát).


6. Đóng góp mới của Luận văn
Điểm mới nhất của Luận văn là ở chỗ không chỉ nghiên cứu thực hiện pháp luật,
nguyên nhân hạn chế việc thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội mà còn nghiên cứu làm sáng tỏ các yếu tố cấu
thành, các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Từ đó, khuyến nghị các giải pháp
mang tính toàn diện, không chỉ có ý nghĩa đối với thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội, mà còn có ý nghĩa trong
nghiên cứu bảo đảm thực hiện pháp luật nói chung, góp phần hoàn thiện cơ chế thực
hiện và bảo vệ pháp luật, giáo dục pháp luật theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
- Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần xây dựng những vấn đề lý luận về pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội; những vấn đề lý luận về
thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an
toàn xã hội; các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội.
Luận văn còn góp phần khởi xướng và là nguồn động viên, cổ vũ cho các hoạt
động nghiên cứu có tính định hướng phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật xử lý
vi phạm hành chính ở Việt Nam hiện tại và trong tương lai.

- Ý nghĩa về mặt thực tiễn:
Luận văn góp phần hoàn thiện cơ chế thực hiện và bảo vệ pháp luật, giáo dục
pháp luật theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Luận văn có


thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu thực hiện pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội hành chính ở Việt
Nam hiện nay theo hướng của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam quy định tại Nghị Quyết số 48 – NQ/TƯ của Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa IX). Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận chung và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn được kết cấu thành 3 chương sau:


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC AN NINH,
TRẬT TỰ VÀ AN TOÀN XÃ HỘI
1.1. Những vấn đề lý luận về pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội
1.1.1. Khái niệm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an
ninh, trật tự và an toàn xã hội
1.1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xẩy ra khá phổ biến hàng
ngày trong đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn so với
tội phạm nhưng VPHC là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của
Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của toàn thể cộng đồng,
là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội nếu như không được ngăn chặn và xử lý kịp thời. Chính vì lẽ đó, công tác đấu tranh

phòng và chống VPHC luôn là vấn đề được xã hội quan tâm.
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm “VPHC” lần đầu tiên được định nghĩa
một cách chính thức tại Pháp lệnh Xử phạt VPHC ngày 30/11/1989, Điều 1 của Pháp
lệnh này quy định: “Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm
hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”[31]. Định nghĩa
này sau đó đã được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thi hành pháp luật và đưa vào các
giáo trình giảng dạy về pháp luật. Theo Pháp lệnh xử lý VPHC năm 1995 và sau đó là
Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002 thì khái niệm VPHC không được định nghĩa riêng
biệt nữa mà được đưa “lẩn” vào trong khái niệm “xử lý VPHC”, nếu trích dẫn từ định


nghĩa về “xử lý VPHC” được quy định tại khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh xử lý VPHC năm
2002 thì VPHC được hiểu là hành vi cố ý hoặc vô ý của cá nhân, tổ chức, vi phạm các
quy định của pháp luật về quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt VPHC” [40]. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2
Luật Xử lý VPHC năm 2012 thì: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ
chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý Nhà nước mà không phải là
tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt VPHC” [34]. Về ngôn ngữ thể
hiện, có thể thấy có đôi chút khác nhau giữa định nghĩa về VPHC được quy định trong
các Pháp lệnh về xử phạt, xử lý VPHC năm 1989, 1995, 2002 và Luật Xử lý VPHC
năm 2012, tuy nhiên về bản chất hành vi VPHC thì các định nghĩa trong các văn bản
pháp luật này, về cơ bản, không có gì khác nhau.
Tóm lại, những hành vi VPPL trên thể hiện rất đa dạng, phong phú, ở hầu hết
các lĩnh vực của quản lý Nhà nước, song đều có chung một số đặc điểm sau:
Một là, vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, tác hại (tính nguy hiểm) do
hành vi gây ra ở mức độ thấp, chưa hoặc không cấu thành tội phạm hình sự và hành vi
đó được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt VPHC. Đây chính là dấu hiệu
“pháp định” của vi phạm. Đối với một số loại VPHC cụ thể, dấu hiệu trong mặt khách
quan có tính chất phức tạp, không đơn thuần chỉ có một dấu hiệu nội dung trái pháp

luật trong hành vi mà còn có thể có sự kết hợp với những yếu tố khác. Thông thường,
những yếu tố này có thể là thời gian, địa điểm, công cụ phương tiện, hậu quả và mối
quan hệ nhân quả.
Hai là, vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi thể hiện dưới hình thức cố ý
hoặc vô ý. Nói cách khác, người thực hiện hành vi này phải trong trạng thái có đầy đủ
khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng


mà không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội (lỗi vô ý) hoặc
nhận thức được điều đó nhưng vẫn cố tình thực hiện (lỗi cố ý). Khi có đủ căn cứ để cho
rằng chủ thể thực hiện hành vi trong tình trạng không có khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi, chúng ta có thể kết luận rằng đã không có VPHC xảy ra.
Ngoài dấu hiệu lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của mọi VPHC, ở một số
trường hợp cụ thể, pháp luật còn xác định dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc của
một số loại VPHC. Luật Xử lý VPHC hiện hành quy định tổ chức bị xử phạt VPHC về
mọi VPHC do mình gây ra. Đồng thời, nó phải có trách nhiệm xác định lỗi của người
thuộc tổ chức mình trực tiếp gây ra VPHC trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được
giao để truy cứu trách nhiệm kỷ luật và để bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp
luật.
Ba là, chủ thể thực hiện hành vi VPHC là tổ chức hoặc cá nhân có năng lực chịu
trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính. Đối với tổ chức, thì
hành vi này được thực hiện bởi cá nhân nhưng dưới danh nghĩa tổ chức (do tổ chức
giao, phân công hoặc thực hiện hành vi nhân danh tổ chức đó). Các chủ thể thực hiện
hành vi VPHC là tổ chức hoặc cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành chính.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt VPHC về VPHC do cố ý. Như vậy, khi
xác định người ở độ tuổi này có VPHC hay không cần xác định yếu tố lỗi trong mặt
chủ quan của họ. Luật Xử lý VPHC hiện hành không định nghĩa thế nào là lỗi cố ý
hoặc vô ý trong VPHC. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, thông thường người thực
hiện hành vi với lỗi cố ý là người nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội, bị pháp luật cấm đoán nhưng vẫn cố tình thực hiện. Người từ đủ 16 tuổi trở lên

bị xử phạt VPHC về mọi VPHC (vi phạm do lỗi cố ý hay vô ý). Tổ chức là chủ thể
VPHC là cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính


trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn
vị vũ trang nhân dân và tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật. Tổ
chức, cá nhân nước ngoài cũng là chủ thể VPHC theo quy định của pháp luật Việt
Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, gia nhập có quy định khác.
Bốn là, vi phạm hành chính cũng như mọi hành vi VPPL khác đều xâm hại đến
các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Nói cách khác, khách thể của quan hệ hành
chính là quan hệ xã hội về quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực bị hành vi vi phạm
xâm hại.
Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu: Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do
cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm hành chính thực hiện trái với quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử lý vi phạm hành chính.
Các dấu hiệu vi phạm pháp luật
- Vi phạm pháp luật luôn là hành vi (hành động hoặc không hành động) xác
định của con người. Chỉ những hành vi (biểu hiện dưới dạng hành động hoặc không
hành động) cụ thể mới bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật; những ý nghĩ dù tốt,
dù xấu cũng không thể coi là những vi phạm pháp luật.
- Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ. Hành vi thể hiện sự chống đối những quy định chung của pháp
luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. Hành vi trái
pháp luật là hành vi không phù hợp với những quy định của pháp luật như không thực
hiện những nghĩa vụ pháp lý, sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn pháp luật cho
phép,... Tính trái pháp luật là dấu hiệu không thể thiếu của hành vi bị coi là vi phạm
pháp luật.



- Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi. Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ là biểu
hiện bên ngoài của hành vi. Để xác định hành vi vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt
chủ quan của hành vi, nghĩa là, phải xác định trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành
vi trái pháp luật của mình. Nếu một hành vi trái pháp luật được thực hiện do những
hoàn cảnh và điều kiện khách quan, chủ thể hành vi đó không cố ý và không vô ý thực
hiện hoặc không thể ý thức được, từ đó không thể lựa chọn cách xử sự theo yêu cầu
của pháp luật thì hành vi đó không thể coi là có lỗi và chủ thể không bị coi là vi phạm
pháp luật. Kể cả những hành vi trái pháp luật mà chủ thể bị buộc phải thực hiện trong
điều kiện không có tự do ý chí thì cũng không bị coi là có lỗi.
- Chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật phải có năng lực trách nhiệm pháp lý.
Trong pháp luật xã hội chủ nghĩa sự độc lập gánh chịu nghĩa vụ pháp lý chỉ quy định
đối với những người có khả năng tự lựa chọn cách xử sự và có tự do ý chí, nói một
cách khác, người đó phải có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình. Những hành vi mặc dù trái pháp luật nhưng do những người mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không thể coi là vi phạm pháp luật.
Hành vi trái pháp luật của trẻ em (chưa đến độ tuổi pháp luật quy định phải chịu trách
nhiệm pháp lý) cũng không bị coi là vi phạm pháp luật. Như vậy, trách nhiệm pháp lý
trong pháp luật xã hội chủ nghĩa chỉ quy định cho những người đã đạt một độ tuỏi nhất
định theo quy định của pháp luật, có khả năng lý trí và tự do ý chí.
Từ những dấu hiệu trên có thể xác định: Vi phạm pháp luật là hành vi (hành
động hoặc không hành động) trái pháp luật và có lỗi do chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xã hội chủ
nghĩa bảo vệ.
Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính


Để xác định một hành vi xẩy ra có phải là vi phạm hành chính hay không, cần
xác định các dấu hiệu pháp lý của các yếu tố cấu thành loại vi phạm hành chính này.
Những dấu hiệu này được mô tả trong các văn bản pháp luật quy định về VPHC, hình
thức và biện pháp xử lý VPHC. Giống như bất kì loại vi phạm pháp luật nào, VPHC

được cấu thành bởi bốn yếu tố:
- Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của VPHC là hành vi VPHC. Nói
cách khác, hành vi mà tổ chức, cá nhân thực hiện là hành vi xâm phạm các quy tắc
quản lý nhà nước và đã bị pháp luật hành chính ngăn cấm. Việc bị ngăn cấm được thể
hiển rõ ràng trong các văn bản pháp luật quy định về xử phạt hành chính, theo đó, pháp
luật quy định rằng những hành vi này sẽ bị xử lý hành chính. Đối với một số loại
VPHC cụ thể, dấu hiệu trong mặt khách quan có tính chất phức tạp, không đơn thuần
chỉ có một dấu hiệu nội dung trái pháp luật trong hành vi mà còn có thể có sự kết hợp
với những yếu tố khác. Thông thường, những yếu tố này có thể là thời gian thực hiện
hành vi vi phạm; địa điểm thực hiện hành vi vi phạm; công cụ phương tiện vi phạm;
hậu quả và mối quan hệ nhân quả.
- Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của VPHC là dấu hiệu lỗi của chủ thể vi
phạm. VPHC phải là hành vi có lỗi thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Nói cách
khác, người thực hiện hành vi này phải trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận thức
được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội (lỗi vô ý) hoặc nhận thức được điều đó
nhưng vẫn cố tình thực hiện (lỗi cố ý). Khi có đủ căn cứ cho rằng chủ thể thực hiện
hành vi trong tình trạng không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành
vi, chúng ta có thể kết luận rằng đã không có VPHC xẩy ra. Ở một số trường hợp cụ
thể, pháp luật còn xác định dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc của một số loại


VPHC.
- Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân có năng
lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính. Theo quy
định của Luật Xử lý VPHC năm 2012, cá nhân là chủ thể của VPHC phải là người
không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính và đủ độ
tuổi do pháp luật quy định, cụ thể là:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm

hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi
vi phạm hành chính. Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vi
phạm hành chính thì bị xử lý như đối với công dân khác; trường hợp cần áp dụng hình
thức phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động
có thời hạn liên quan đến quốc phòng, an ninh thì người xử phạt đề nghị cơ quan, đơn
vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân có thẩm quyền xử lý; Tổ chức bị xử phạt vi
phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra; Cá nhân, tổ chức nước
ngoài vi phạm hành chính trong phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trên tàu
bay mang quốc tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ quốc tịch Việt Nam thì bị xử phạt vi
phạm hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc
tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác. Đối
tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính là cá nhân được quy định tại các điều 90,
92, 94 và 96 của, Luật Xử lý VPHC năm 2012. Các biện pháp xử lý hành chính không
áp dụng đối với người nước ngoài.
- Vi phạm hành chính cũng như mọi VPPL khác đều xâm hại đến các quan hệ


xã hội được pháp luật bảo vệ. Dấu hiệu khách thể để nhận biết về VPHC là hành vi vi
phạm này đã xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước được pháp luật hành
chính quy định và bảo vệ. Nói cách khác, VPHC là hành vi trái với các quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như quy
tắc về an ninh, trật tự, an toàn xã hội,... Điều đó đã được quy định trong các văn bản
pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.1.1.2. Khái niệm xử lý vi phạm hành chính
Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện
pháp xử lý hành chính.
Xử phạt hành chính
Xử phạt hành chính thực chất là một loại hoạt động quản lý hành chính Nhà
nước. Đó là loại hoạt động đặc biệt và rất phức tạp bao gồm một loạt các hành vi cụ thể

liên quan mật thiết với nhau như phân tích, đánh giá tính chất, mức độ của VPHC, xác
định thẩm quyền xử phạt, đối chiếu với quy định của pháp luật, áp dụng hình thức và
mức phạt và ra quyết định xử phạt hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền nhân
danh Nhà nước, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành áp dụng hình thức xử
phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành
chính.
Quyết định xử phạt hành chính khi được ban hành sẽ gây một hậu quả pháp lý
đặc biệt, làm phát sinh trách nhiệm hành chính của cá nhân, tổ chức VPHC, tức là buộc
họ phải chịu hậu quả bất lợi trước Nhà nước về tinh thần (bị hạn chế quyền) hoặc về tài
sản (bị phạt tiền, bị tịch thu tang vật, phương tiện,…).
Xử phạt vi phạm hành chính có những đặc điểm cơ bản sau:


- Xử phạt vi phạm hành chính là một loại hoạt động cưỡng chế Nhà nước, mang
tính quyền lực Nhà nước. Tính cưỡng chế và tính quyền lực Nhà nước thể hiện ở chỗ
hoạt động xử phạt hành chính luôn luôn được các cơ quan hoặc cán bộ có thẩm quyền
thực hiện. Chỉ có các cơ quan hoặc cán bộ Nhà nước nào được Nhà nước trao thẩm
quyền xử phạt hành chính và được ghi rõ trong các văn bản pháp luật có quy định về
xử phạt hành chính mới có quyền quyết định xử phạt. Xử phạt hành chính là phản ứng
của Nhà nước trước các hành vi xâm hại quy tắc quản lý Nhà nước. Biểu hiện của phản
ứng đó chính là việc áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính. Việc áp dụng các biện
pháp xử phạt này có tác dụng trực tiếp điều chỉnh hành vi xử sự của chủ thể vi phạm,
tức là buộc chủ thể vi phạm phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi trước Nhà
nước và tác dụng đình chỉ VPHC qua đó mà bảo vệ và duy trì trật tự quản lý Nhà nước.
- Cơ sở để xử phạt hành chính là vi phạm hành chính. Chỉ có hành vi nào xâm
phạm quy tắc quản lý Nhà nước mà chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự
do các cá nhân, tổ chức đủ năng lực chủ thể thực hiện với lỗi cố ý hay vô ý mới bị xử
phạt VPHC. Đặc điểm có tính nguyên tắc trên đây đã được khẳng định tại điểm d
khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý VPHC: “Chỉ xử phạt VPHC khi có hành vi VPHC do pháp

luật quy định” [35].
Từ quy định trên, khi áp dụng các biện pháp xử phạt đòi hỏi các cơ quan hoặc
cán bộ Nhà nước có thẩm quyền phải xác định rõ có VPHC xảy ra hay không, tính chất
và mức độ của vi phạm như thế nào, hành vi vi phạm đó có quy định trong các văn bản
pháp luật quy định về xử phạt hành chính hay chưa.
- Hoạt động xử phạt hành chính được tiến hành qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn
nhưng kết quả của hoạt động này phải được thể hiện bằng quyết định xử phạt hành
chính. Trong xử phạt hành chính, các chủ thể có thẩm quyền tiến hành xử phạt luôn


được thực hiện hai loại hành vi: 1- Hành vi ban hành quyết định xử phạt hành chính.
Quyết định xử phạt hành chính phải được thể hiện bằng văn bản hay bằng một hình
thức khác do pháp luật quy định; 2 – Hành vi hành chính khác, như nhằm đình chỉ
hành vi vi phạm, lập biên bản vi phạm, giải thích hành vi vi phạm và thông báo điều
khoản văn bản pháp luật được áp dụng cho cá nhân hoặc tổ chức vi phạm,…
Hai loại hành vi trên luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong đó, hành vi ban hành quyết định xử phạt là cơ bản và chủ yếu nhất. Các hành vi
hành chính khác được thực hiện nhằm hướng tới việc ra quyết định xử phạt hoặc thực
hiện trên cơ sở quyết định xử phạt. Đặc biệt, khi ban hành quyết định xử phạt sẽ dẫn
đến hậu quả pháp lý là làm phát sinh trách nhiệm hành chính. Quyết định xử phạt hành
chính là hình thức thể hiện công khai ý trí và thái độ của Nhà nước phản ứng trước các
hành vi VPHC và mức cưỡng chế của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm.
- Hoạt động xử phạt hành chính được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật và
phải tuân thủ pháp luật về trình tự, thủ tục hành chính. Tất cả các cơ quan, cán bộ có
thẩm quyền xử phạt hành chính khi thực hiện các hành vi xử phạt đều phải tuân thủ
theo các trình tự, thủ tục hành chính do pháp luật quy định chứ không tuân theo các
quy định về Tố tụng hình sự kể cả trường hợp Tòa án nhân dân thực hiện quyền xử
phạt hành chính.
Xử lý vi phạm hành chính
Xử lý vi phạm hành chính còn là việc áp dụng các biện pháp hành chính khi có

hành vi VPHC xẩy ra. Các biện pháp xử lý hành chính được áp dụng đối với cá nhân
có hành vi VPPL về AN, TT và ATXH nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình
sự được quy định tai các Điều 89 ( biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn), Điều
91 ( biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng), Điều 93 (biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục


bắt buộc), Điều 95 (biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc) Luật Xử lý VPHC
năm 2012.
Từ những phân tích và luận giải trên có thể rút ra khái niệm xử lý vi phạm hành
chính như sau:
Xử lý vi phạm hành chính là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền nhân
danh Nhà nước, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành áp dụng hình thức xử
phạt, các biện pháp xử lý hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính.
Từ khái niệm xử lý vi phạm hành chính có thể đi đến quan niệm pháp luật xử lý
vi phạm hành chính, đó là: Tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh khi có vi phạm hành chính, bao gồm các
quy phạm xác định hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành
chính.
1.1.1.3. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn
xã hội
- Khái niệm an ninh, trật tự, an toàn xã hội
An ninh là tình hình trật tự xã hội bình thường, yên ổn, không có rối loạn, rối
ren. Hay nói theo cách khác, an ninh là khả năng có thể giữ vững sự an toàn trước các
mối đe dọa.
Trật tự là tình trạng ổn định, có thứ bậc trên dưới, trước sau,... An toàn là yên ổn
trọn vẹn, yên ổn hẳn, không sợ tai nạn . Nói đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội là
nói đến tình trạng (trạng thái) ổn định, có trật tự, kỷ cương của xã hội. Trật tự, kỷ
cương đó được xác lập trên cơ sở các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành
(được gọi là những quy phạm pháp luật) và những giá trị xã hội, chuẩn mực đạo đức
truyền thống được mọi người trong xã hội thừa nhận, tôn trọng, tuân thủ và nhờ đó mà



×