Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN A

HOÀNG THỊ PHƯƠNG LY

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC DU LỊCH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THỊ PHƯƠNG LY

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC DU LỊCH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 60380102


Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THỊ THỦY

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan luận án này là do tự bản thân thực hiện và không sao
chép các công trình nghiên cứu của người khác để làm sản phẩm của riêng mình.
Các thông tin thứ cấp sử dụng trong luận án là có nguồn gốc và được trích dẫn rõ
ràng. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận
án.
Tác giả

Hoàng Thị Phương Ly.


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc của mình, em xin cảm ơn Giảng Viên, TS. Nguyễn
Thị Thủy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Em xin cảm ơn các thầy cô trong Khoa Hành chính – Nhà nước, các thầy cô
giảng dạy tại trường Đại học Luật Hà nội đã giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập
và nghiên cứu.
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài tôi luôn nhận được sự động
viên của bạn bè, đồng nghiệp và người thân trong gia đình. Tôi xin chân thành cảm
ơn!


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Vi phạm hành chính : VPHC


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu

1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH 7
TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH
1.1. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch

7

1.1.1. Quan niệm

7

1.2.2. Đặc điểm của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch

12

1. 2. Khái niệm pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch.

14

1.2.1. Quan niệm

12


1.2.2. Đặc điểm của pháp luật xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch.

17

1.3. Vai trò của pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch đối 19
với quản lý hành chính nhà nước
1.3.1. Pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch với vai trò tạo 19
hành lang pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch
1.3.2. Pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch với vai trò tạo 21
cơ chế đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia vào
lĩnh vực du lịch
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VPHC 24
TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH TẠI VIỆT NAM.
2.1. Quy định pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch ở Việt 24
Nam.
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VPHC TRONG 24
LĨNH VỰC DU LỊCH TẠI VIỆT NAM.
2.1. Quy định pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch ở Việt 24
Nam
2.1.1. Về nguyên tắc xử lý VPHC

25

2.1.2. Đối tượng bị xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch

28

2.1.3. Hành vi VPHC trong lĩnh vực du lịch


31


2.1.4. Hình thức xử lý

38

2.1.5. Thẩm quyền xử xý

46

2.1.6. Thủ tục xử lý VPHC

53

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch

61

2.2.1. Quan niệm về thực hiện pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh 60
vực du lịch
2.2.2. Công tác thực hiện pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du 61
lịch
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY 66
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VPHC TRONG LĨNH VỰC DU
LỊCH
3.1. Yêu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật về xử lý VPHC trong 66
lĩnh vực du lịch
3.1.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính 66
trong lĩnh vực du lịch

3.1.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh 68
vực du lịch
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả của pháp luật về xử lý hành chính trong 69
lĩnh vực du lịch
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh 70
vực du lịch
3.2.2. Nhóm giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý trong tổ chức và 80
thực hiện pháp luật về xử lý VPHC trong du lịch
KẾT LUẬN

83


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Xử lý VPHC nói chung và xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch nói riêng là
biện pháp quan trọng nhằm duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý hành chính của
Nhà nước. Trong suốt 56 năm hình thành và phát triển, ngành Du lịch luôn được
Đảng và Nhà Nước quan tâm, ở mỗi thời kỳ, Du lịch đều có vị trí nhất định trong
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và phù hợp với yêu cầu cách
mạng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định: “Phát triển du lịch,
một ngành kinh tế mũi nhọn” theo đó phấn đấu sau năm 2010, Việt Nam được xếp
vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Phát triển nhanh dịch
vụ du lịch chất lượng để góp phần tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ.
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Quốc hội và Chính phủ từng bước hoàn
thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến du lịch mà trước hết là Luật du
lịch và các văn bản hướng dẫn thi hành. Để đảm bảo cho hoạt động du lịch được
thực hiện có hiệu quả, đạt được các mục tiêu đã đề ra thì phải có những công cụ
pháp lý vững chắc để quản lý tốt hoạt động du lịch mà một trong những biện pháp
đảm bảo là pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch. Ngày 12/11/2013

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 158/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo, thay thế cho nghị
định 16/2012/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch
đã tạo được một công cụ pháp lý vô cùng quan trọng để chấn chỉnh trật tự, kỷ
cương trong quản lý nhà nước về du lịch. Việc thay thế nghị định 16/2012/NĐ-CP
bằng nghị định 158/2013/NĐ-CP cho thấy bên cạnh xu hướng pháp điển hóa văn
bản về xử lý hành chính thì cũng phần nào đó thấy pháp luật về du lịch nói chung và
xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch nói riêng đang liên tục có sự cập nhật, thay đổi
và điều chỉnh. Mặc dù có sự pháp điển hóa quy định xử phạt ở cả ba lĩnh vực thuộc
thẩm quyền quản lý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhưng trên thực tế Nghị
định 158/2013/NĐ-CP lại không ghi nhận hết những ưu điểm trong nghị định trước
đó cụ thể trong lĩnh vực du lịch là nghị định số 16/2012/NĐ-CP khiến cho Nghị

8


định 158/ 2013/ NĐ-CP bộc lộ nhiều bất cập và việc xử lý VPHC trong lĩnh vực du
lịch hiên nay trở nên kém hiệu quả. Những tồn tại hiện nay trong pháp luật xử lý
VPHC trong lĩnh vực du lịch đã và đang gây ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà
nước trong du lịch và không thể đảm bảo quyền và lợi ích cho các chủ thể tham gia
lĩnh vực này.
Trong xu thế hội nhập hiện nay khi đã coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn
thì việc kiểm soát và xử lý vi phạm trong lĩnh vực du lịch đặt ra cấp thiết hơn bất cứ
lúc nào để có thể duy trì trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực du lịch chính vì
vậy học viên lựa chọn đề tài : “Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực du lịch” làm đề tài luận văn nghiên cứu của mình với mong muốn tìm ra những
điểm bất cập trong pháp luật xử lý vi phạm hành chính về du lịch để có biện pháp
khắc phục, thống nhất và hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính về du lịch cũng như pháp luật về du lịch.
2. Tình hình nghiên cứu về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du

lịch
Tại Việt Nam, trong những năm qua đã có nhiều đề tài nghiên cứu về hoạt
động quản lý hành chính nhà nước nói chung và về xử lý vi phạm hành chính nói
riêng được thực hiện. Các tác giả đều xem xét pháp luật về xử lý VPHC dưới nhiều
góc độ. Điển hình là các công trình nghiên cứu sau:
Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện quy định pháp luật về các hình thức
xử phạt VPHC” của tác giả Nguyễn Trọng Bình (năm 2000). Trong luận văn này,
tác giả nêu ra các hình thức xử phạt VPHC được đề cập trong các văn bản pháp
luật; những ưu điểm và hạn chế của các biện pháp này khi được áp dụng trong thực
tiễn và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Luận văn thạc sỹ luật học “Thẩm quyền xử lý VPHC” của tác giả Nguyễn
Thị Thủy (năm 2001) đi sâu phân tích thực trạng pháp luật về thẩm quyền của các
chủ thể có thẩm quyền xử lý VPHC và nêu các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
thẩm quyền xử lý VPHC.

9


Luận văn thạc sỹ luật học “Xử lý VPHC đối với người nước ngoài trong lĩnh
vực xuất, nhập cảnh ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thu Thảo (2011) đi phân tích
đặc thù của xử lý vi phạm hành chính với người nước ngoài khi vi phạm hoạt động
xuất, nhập cảnh ở Việt Nam.
Ngoài ra còn có các bài viết về pháp luật xử lý VPHC được đăng trong tài
liệu hội thảo khoa học “Xử lý VPHC bước tiến mới trong công tác xây dựng pháp
luật.” được tổ chức tại Trường Đại học Luật hà Nội ngày 07 tháng 6 năm 2013 như:
“Luật Xử lý VPHC – bước tiến mới trong pháp luật về xử lý VPHC.” Của TS. Bùi
Thị Đào, Khoa hành chính – Nhà nước, Đại học luật hà nội; “Các hình thức xử phạt
vi phạm hành chính theo Luật Xử lý VPHC” của TS. Nguyễn Ngọc Bích, Khoa
Hành chính – Nhà nước, Đại học Luật Hà Nội; “Điểm mới trong thẩm quyền xử
phạt VPHC” của ThS. Cao Kim Oanh, Khoa Hành chính – Nhà nước, Đại học Luật

hà nội,…
Tuy nhiên, vấn đề xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch dường như vẫn còn bỏ
ngỏ với rất ít các nghiên cứu đề cập đến xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch. Bên
cạnh đó các quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong du lịch còn có nhiều điểm
cần hoàn thiện để đảm bảo trật tự quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực này.
Với cấp độ luận văn thạc sỹ luật học, đây là công trình tập trung vào nghiên cứu các
vấn đề cả về lý luận và thực tiễn pháp luật liên quan đến các quy định của nhà nước
về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch để từ đó rút ra biện pháp đề hoàn thiện hơn
nữa Pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích:
- Mục tiêu gần: nghiên cứu và luận giải một số khái niệm liên quan đến vi
phạm và các biện pháp xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch; Đánh giá thực trạng
công tác thực hiện pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch; Đưa ra giải
pháp để hoàn thiện pháp luật xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch.
- Mục tiêu xa: Củng cố hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch
hướng tới tạo môi trường pháp luật du lịch phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay.

10


3.2. Nhiệm vụ - Phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến xử lý VPHC nói
chung và xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch nói riêng.
– Đánh giá công tác triển khai và tổ chức thực hiện pháp luật về xử lý
VPHC trong du lịch, dự báo những yếu tố tác động về công tác xử lý VPHC trong
lĩnh vực này và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xử lý VPHC
trong lĩnh vực du lịch trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
– Quan điểm của Đảng về du lịch và phát triển du lịch.

- Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực du lịch, xử lý
VPHC và xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch;
- Thực trạng VPHC trong du lịch và thực trạng biện pháp xử lý VPHC trong
lĩnh vực này;
- Hoạt động thực tiễn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc chủ thể và đối
tượng của việc xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Với mục đích và đối tượng nghiên cứu ở trên, trong luận văn “Pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch” sẽ tập chung nghiên cứu về pháp
luật xử lý VPHC nói chung và pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch nói
riêng từ khi luật du lịch có hiệu lực đến nay. Đồng thời đánh giá thực tiễn hiệu quả
áp dụng các quy định pháp luật về xử lý VPHC về du lịch tại Việt Nam và hoàn
thiện pháp luật cũng như nâng cao ý thức thực hiện pháp luật trong xử lý VPHC
trong lĩnh vực du lịch.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mac - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Quán triệt đường lối, quy định nghị
quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển du lịch - Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X xác định: “Phát triển du lịch, một ngành kinh tế mũi
nhọn.”

11


Cụ thể hóa các quyền con người được quy định trong Hiến pháp 2013; Luật
du lịch 2005 và các nghị định hướng dẫn thi hành; Nghị định số 158/2013/NĐ-CP
ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể
thao, du lịch và quảng cáo và một số nghị định xửa phạt vi phạm vi phạm hành
chính có liên quan.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể

- Phương pháp nghiên cứu phân tích, thống kê: Phương pháp này chủ yếu
thống kê các số liệu liên quan đến VPHC và các biện pháp xử lý được chủ thể có
thẩm quyền áp dụng, phân tích ưu, nhược điểm của các biện pháp áp dụng.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Đặt xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch
trong mối quan hệ với pháp luật về xử lý VPHC nói chung để đánh giá hiệu quả
thực hiện của các bện pháp xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch đang được pháp luật
quy định.
- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Sử dụng kiến thức của ngành quản trị
kinh doanh du lịch và các ngành khác để phân tích hạn chế bất cập trong quy định
pháp luật hiện hành.
6. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của luận văn:
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần xây dựng hệ thống các khái niệm, đặc
điểm của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch, các biện pháp xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch.
- Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần hoàn thiện cơ chế bảo vệ hành chính đối với
hoạt động quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực du lịch theo đúng chủ trương
đường lối của Đảng và nhà nước đối với việc phát triển du lịch hiện nay.
- Ý nghĩa nếu luận văn được bảo vệ thành công sẽ góp phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và pháp luật về du lich; là tài liệu tham
khảo cho những vấn đề liên quan.
7. Kết cấu của Luận văn :

12


- Phần mở đầu: Tính cấp thiết của đề tài; mục đích; đối tương; phạm vi
nghiên cứu; phương pháp nghiên cứu; những đóng góp mới của luận văn và giới
thiệu bố cục của luận văn.
- Phần nội dung: 03 chương của luận văn:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG

LĨNH VỰC DU LỊCH
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VPHC TRONG LĨNH
VỰC DU LỊCH TẠI VIỆT NAM.
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VPHC TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH
- Phần kết luận.

13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH
1.1. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch
1.1.1. Quan niệm
1.1.1.1. Khái niệm VPHC và quan niệm về VPHC trong lĩnh vực du lịch
Khái niệm VPHC là căn cứ để xây dựng cách hiểu về VPHC trong các lĩnh
vực cụ thể để từ đó xác định được hành vi VPHC trong lĩnh vực đó và áp dụng các
biện pháp xử lý VPHC cho phù hợp. Theo khoản 1 điều 2 luật Xử lý vi phạm hành
chính thì “Vi Phạm Hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.” Vi phạm hành
chính là một dạng cụ thể của vi phạm pháp luật. Vì vậy việc xác định có hay không
VPHC xảy ra cũng như phân biệt VPHC với các loại vi phạm pháp luật cơ bản khác
ta phải căn cứ vào bốn yếu tố cấu thành của nó đó là: Mặt khách quan, mặt chủ
quan, chủ thể, khách thể.
Theo đó thì về mặt khách quan ta có thể thấy đó là những hành vi “vi phạm
quy định pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm theo quy định
pháp luật sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính”1 cách xác định mặt khách quan vừa có
sự loại trừ vừa mang định hướng liệt kê cách định nghĩa này sẽ là tiền đề để đưa ra

hàng loạt các nghị định để xác định hành vi vi phạm hành chính trong cách lĩnh vực
quản lý hành chính nhà nước cụ thể. Việc xác định VPHC “không phải là tội phạm”
cũng là một cách định nghĩa loại trừ cho thấy VPHC có mức độ nguy hiểm cho xã
hội nhẹ hơn tội phạm tuy nhiên cách định nghĩa này đôi khi đưa đến hiểu lầm rằng
cứ không phải tội phạm sẽ là VPHC nên cách quy định “theo quy định pháp luật sẽ
bị xử phạt vi phạm hành chính” là cách để giới hạn về VPHC cũng là cơ sở, yêu
cầu để các cơ quan nhà nước đưa ra các văn bản quy phạm về xử phạt VPHC trong
các lĩnh vực cụ thể làm căn cứ đấu tranh loại trừ các hành vi VPHC ra khỏi xã hội.
1 Xem: Khoản 1 điều 2 Luật xử lý VPHC 2012

14


Về mặt chủ quan hiện giờ Luật xử lý VPHC 2012 đang xác định VPHC
phải là hành vi có lỗi và dường như ta thấy lỗi ở VPHC mang tính chất suy đoán, áp
đặt có nghĩa là cứ có hành vi xâm hại được coi là có lỗi việc chứng minh không có
lỗi hay lỗi vô ý khi nào có yêu cầu thì chủ thể có thẩm quyền mới tiến hành giải
trình và chủ thể bị áp dụng biện pháp xử lý cũng thực hiện quyền giải trình này nếu
thấy cần bảo vệ quyền lợi của mình.
Về chủ thể trong định nghĩa VPHC đó là các cá nhân tổ chức có nghĩa chủ
thể bao gồm cả cá nhân là công dân Việt Nam và có thể cả người nước ngoài, người
không có quốc tịch, các tổ chức hợp pháp. Liên quan đến năng lực chịu trách nhiệm
pháp lý hành chính là điều kiện để xử lý VPHC đối với chủ thể, tuy không nói cụ
thể nhưng ta có thể nhận thấy thông qua việc ghi nhận VPHC là hành vi phải bị xử
phạt hành chính có nghĩa các chủ thể của VPHC đều phải là các cá nhân, tổ chức có
năng lực chịu trách nhiệm pháp lý hành chính.
Về khách thể của VPHC chính là trật tự quản lý hành chính nhà nước, cách
xác định này vừa khẳng định rõ phạm vi, vừa xác định rõ nội dung cụ thể của khách
thể bị xâm hại, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng các nghi định hướng dẫn thi
hành để xác định vi phạm hành chính trong các lĩnh vực cụ thể.

Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực du lịch có thể tồn tại cả ở bốn dạng vi
phạm pháp luật cơ bản là vi phạm hình sự, vi phạm hành chính, vi phạm dân sự và
vi phạm kỷ luật do đó cách xác định cấu thành nêu trên sẽ là căn cứ để nhận biết rõ
hơn vi phạm nào trong lĩnh vực du lịch là VPHC. Bên cạnh đó căn cứ vào việc phân
chia hoạt động quản lý nhà nước hiện nay có thể thấy VPHC trong lĩnh vực du lịch
nằm trong nhóm VPHC trong lĩnh vực Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Từ đây có thể
hiểu VPHC trong lĩnh vực du lịch là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái
với những quy định pháp luật trong lĩnh vực du lịch, do các cá nhân, tổ chức thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước trong
lĩnh vực du lịch và theo quy định pháp luật sẽ bị xử phạt hành chính. Một cách khái
quát cũng có thể hiểu: VPHC trong lĩnh vực du lịch là hành vi vi phạm các quy định
của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch do cá nhân, tổ chức thực

15


hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử phạt hành chính.
Theo đó thì VPHC trong lĩnh vực du lịch có thể bao gồm 4 nhóm vi phạm:
- Nhóm 1: Vi phạm quy định về kinh doanh lữ hành, hướng dẫn du lịch bao
gồm: Vi phạm quy định về thông báo hoạt động kinh doanh lữ hành; Vi phạm quy
định về kinh doanh lữ hành; Vi phạm quy định về kinh doanh đại lý lữ hành; Vi
phạm quy định về hướng dẫn du lịch.
- Nhóm 2: Vi phạm quy định kinh doanh lưu trú du lịch bao gồm: Vi phạm
quy định về kinh doanh lưu trú du lịch và Vi phạm quy định về kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện trong cơ sở lưu trú du lịch.
- Nhóm 3: Vi phạm quy định về hoạt động xúc tiến du lịch.
- Nhóm 4: Vi phạm các quy định về hoạt động du lịch khác.
1.3.1.2. Khái niệm về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch.
Xử lý VPHC là một hoạt động áp dụng pháp luật của Nhà nước, trong đó cơ

quan được giao quyền quản lý hành chính Nhà nước, người có thẩm quyền xem xét
vụ việc vi phạm và các quy định có liên quan của pháp luật để đưa ra các quyết định
về trách nhiệm pháp lí và các chế tài nhằm giải quyết vụ việc VPHC. Khác với hoạt
động xử lý tư pháp, xử lý VPHC là một hoạt động quản lí Nhà nước, được tiến hành
bởi các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, người có thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính. Ở Việt Nam, xử lý VPHC bao gồm hai hình thức đó là xử phạt hành
chính và các biện pháp xử lý hành chính.
Để xử lý các vi phạm hành chính thì hình thức phổ biến và quan trọng nhất
được áp dụng đó là xử phạt hành chính. Xử phạt hành chính là hoạt động của các
chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành áp dụng các
biện pháp xử phạt hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác (trong
trường hợp cần thiết theo quy định pháp luật) đối với các cá nhân, tổ chức VPHC.
Hoạt động xử phạt hành chính có các đặc điểm sau đây:

16


- Xử phạt VPHC được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức VPHC theo quy định
của pháp luật cũng có nghĩa VPHC là cơ sở để tiến hành xử phạt VPHC và chỉ xử
phạt với chính chủ thể VPHC.
- Xử phạt hành chính được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy
định pháp luật. Các chủ thể này có thể là cơ quan quản lý Nhà nước hoặc người có
thẩm quyền khi thực hiện thẩm quyền xử phạt VPHC được nhà nước quy định.
- Xử phạt hành chính được tiến hành theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục
được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
- Kết quả của hoạt động xử phạt VPHC thể hiện ở quyết định xử phạt VPHC
ghi nhận các hình thức, biện pháp xử phạt áp dụng đối với tổ chức, cá nhân VPHC.
Xử phạt chính là biện pháp xử phạt được áp dụng với một VPHC, một người
có thể cùng một lúc thực hiện nhiều VPHC những với mỗi VPHC chỉ được áp dụng

một biện pháp xử phạt chính. Hiện nay, các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
bao gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tịch thu tang vật vi phạm hành
chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính (sau đây gọi chung là tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính); Trục xuất. Các hình thức xử phạt chính và có
thể đi kèm các biện pháp xử phạt bổ sung. Hình thức xử phạt sau đây sẽ là xử phạt
bổ sung nếu không được áp dụng là biện pháp xử phạt chính: Tước quyền sử dụng
giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;
Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; Trục xuất. Với một VPHC có
thể áp dụng một hoặc đồng thời nhiều biện pháp xử phạt bổ sung.
Cũng phải nói thêm rằng hai biện pháp xử phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền
và trục xuất ở đây khác với hình phạt cảnh cáo; phạt tiền và trục xuất trong hình sự
trong hình sự đồng thời cũng khác biệt với cảnh cáo của xử lý kỷ luật ở cả chủ thể
áp dụng căn cứ áp dụng lẫn trình tự thủ tục áp dụng. Xử phạt bằng biện pháp cảnh
cáo chỉ được áp dụng với tổ chức cá nhân có vi phạm nhỏ, lần đầu, có nhiều tình tiết
giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi VPHC do người chưa thành niên từ đủ 14 đến

17


16 tuổi thực hiện và việc cảnh cáo phải được thực hiện bằng văn bản. Phạt tiền là
biện pháp được áp dụng cho hầu hết các VPHC với mỗi hành vi VPHC đều có quy
định về khung phạt tiền nhất định; cùng một hành vi VPHC thì tổ chức chịu mức
phạt tiền gấp đôi cá nhân. Mức phạt tiền sẽ còn phụ thuộc vào các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ, và người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi VPHC bị phạt tiền thì mức phạt
áp dụng với họ không quá một phần hai mức phạt đối với người thành niên, nếu họ
không có khả năng nộp phạt thì cha, mẹ hoặc người giám hộ phải nộp thay. Cùng
với việc xử phạt khi VPHC các chủ thể có thể có thể bị áp dụng các biện pháp
cưỡng chế hành chính trong quá trình áp dụng xử phạt hành chính như: Các biện
pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra và các biện pháp ngăn chặn

và đảm bảo xử lý vi phạm hành chính. Bên cạnh xử phạt hành chính thì theo quy
định của pháp luật xử lý VPHC hiện hành ta còn có các biện pháp xử lý hành chính
được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội
nhưng chưa đến mức phải xử lý hình sự để thể hiện sự khoan dung của pháp luật.
Để đảm bảo hiệu quả trong công tác đấu tranh đối với VPHC trong lĩnh vực
du lịch, nhà nước còn quy định thêm các biện pháp ngăn chặn và đảm bảo xử lý
VPHC như tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chững chỉ hành nghề,… được
áp dụng ngay khi phát hiện VPHC và được vận dụng phù hợp với quy định chung
của xử lý VPHC và xử lý VPHC trong du lịch.
Từ những ghi nhận chung về hoạt động xử lý VPHC kể trên ta có thể thấy xử
lý VPHC trong lĩnh vực du lịch cũng chỉ là hoạt động áp dụng pháp luật nhằm giải
quyết các vụ việc VPHC trong lĩnh vực du lịch mà cụ thể là những VPHC trong lĩnh
vực du lịch do cá nhân, tổ chức thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam. Hay nói cách
khác thì xử lý vi phạm hành chính trong trong lĩnh vực du lịch là một hoạt động áp
dụng pháp luật trong đó các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch hoặc
người có thẩm quyền căn cứ vào quy định của pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh
vực du lịch đưa ra các quyết định xử phạt hành chính hoặc các biện pháp xử lý hành
chính khi cá nhân, tổ chức VPHC trong lĩnh vực du lịch trên lãnh thổ Việt Nam.

18


1.2.2. Đặc điểm của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch
Cơ sở của xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch là phải có VPHC trong lĩnh
vực du lịch; chủ thể VPHC trong lĩnh vực du lịch phải có năng lực chịu trách
nhiệm; và vụ việc VPHC trong lĩnh vực này phải còn thời hiệu xử lý. Việc xử lý
phải phù hợp với phạm vi điều chỉnh và chủ thể áp dụng của xử lý VPHC trong lĩnh
vực du lịch. Do đó việc xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch bên cạnh những đặc
điểm chung của xử lý VPHC thì xử lý vi phạm hành chính cũng có những đặc điểm
riêng phù hợp với yêu cầu của nhà nước trong đấu tranh phòng ngừa VPHC trong

lĩnh vực này. Đó là:
- Các biện pháp xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả được quy
định phù hợp với hoạt động quản lý nhà nước về du lịch. Cụ thể trong lĩnh vực du
lịch cũng có một loạt các hình thức xử phạt bổ sung mang đặc thù riêng như: Tước
quyền sử dụng Giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế có thời hạn; Tước quyền sử
dụng Thẻ hướng dẫn viên du lịch có thời hạn; Tước quyền sử dụng Giấy chứng
nhận thuyết minh viên có thời hạn; Tước quyền sử dụng Quyết định công nhận hạng
cơ sở lưu trú du lịch có thời hạn; Tịch thu tang vật vi phạm đối với một trong các
hành vi: Làm bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia để kinh doanh mà không có
giấy phép hoặc mua, bán, trao đổi, vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc
gia thuộc di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh và di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia có nguồn gốc bất hợp pháp.… Hay các biện pháp khắc phục hậu quả như:
Buộc trả lại đất đã lấn chiếm hoặc chấm dứt việc sử dụng trái phép di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, công trình văn hóa, nghệ thuật hoặc Buộc nộp lại số
lợi bất hợp pháp có được; Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đối với hành vi
khai quật khảo cổ;….Việc quy định các biện pháp xử phạt và xử lý VPHC đi kèm
các biện pháp khắc phục phù hợp với đặc tính của VPHC trong lĩnh vực du lịch là
công cụ pháp lý hữu hiệu để chủ thể có thầm quyền lựa chọn áp dụng cho phù hợp
với yêu cầu quản lý nhà nước cũng như việc đấu tranh, khắc phục hậu quả và phòng
ngừa các VPHC trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam hiện nay.

19


- Thẩm quyền xử phạt được xác định phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước
trong lĩnh vực du lịch. Khi nói về việc xác định thẩm quyền xử phạt trước hết ta xác
định chủ thể có thẩm quyền xử phạt VPHC đó là các cơ quan nhà nước, các cán bộ
có thẩm quyền khác nhau có quyền áp dụng các quy định pháp luật về hình thức xử
phạt, mức phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả. Căn cứ tiếp theo để xác định
thẩm quyền xử phạt của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền theo phạm vi lãnh
thổ và loại vụ việc từ đó xác định được thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt

và mức phạt cụ thể của từng cơ quan, từng người có thẩm quyền. Theo đó, các chủ
thể có thẩm quyền xử phạt VPHC trong du lịch bao gồm Chủ tịch Ủy ban nhân dân
các cấp, và thanh tra chuyên ngành nói chung và cụ thể là thanh tra chuyên ngành
Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngoài ra thanh tra chuyên ngành khác thì tùy thuộc và
vấn đề liên quan trong phạm vi quản lý nhà nước và của địa phương mình đều có
thể là chủ thể có thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực du lịch. Về thẩm quyền
xử phạt VPHC cụ thể (hình thức và mức xử lý) trong lĩnh vực du lịch cũng được
phân định rõ cho từng chủ thể như phân định rõ thẩm quyền xử phạt VPHC về du
lịch của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp ( từ cấp xã đến cấp tỉnh ); Thanh tra viên
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
Chánh thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thanh tra viên chuyên ngành,
Chánh thanh tra sở chuyên ngành, Chi cục trưởng các cục liên quan, Chánh thanh
tra Bộ chuyên ngành, Cục trưởng các cục liên quan đều có quy định các biện pháp
xử phạt với mức xử lý cụ thể.
- Phải sử dụng nhiều biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ trong thủ tục xử lý VPHC
trong lĩnh vực du lịch. Xử lý VPHC trong du lịch ngoài việc tuân theo các quy định
chung về xử lý VPHC bao gồm: thủ tục ra quyết định xử phạt VPHC (có thể là thủ
tục giản đơn hoặc thủ tục phức tạp); xử phạt VPHC được phát hiện, truy tìm bằng
phương tiện, kĩ thuật nghiệp vụ; thủ tục thi hành quyết định xử phạt VPHC; thời
hiệu, thời hạn trong xử phạt VPHC… Còn có một số yếu tố đặc thù của VPHC
trong lĩnh vực du lịch cũng phải được tính đến khi xác định thủ tục xử lý vi phạm ở
lĩnh vực này đó là các yếu tố như chủ thể VPHC về du lịch có mặt hay không tại nơi

20


xảy ra vi phạm, vấn đề xác định việc xâm hại đến hoạt động quản lý nhà nước về du
lịch là có hay không? Hậu quả như thế nào? Chủ thể vi phạm là ai? Chưa kể VPHC
trong lĩnh vực du lịch còn liên quan không nhỏ đến khách du lịch nước ngoài đến
các quy chế đối xử ngoại giao đến các quan điểm về văn hóa, lịch sử khiến cho việc

xác định và áp dụng thủ tục xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch cần phải sử dụng
nhiều phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ…
Từ những phân tích trên ta có thể thấy việc xác định, nhận thức về VPHC
trong lĩnh vực du lịch để xử lý VPHC trong lĩnh vực này đều là trách nhiệm của
Nhà nước với hai hoạt động cần có sự thống nhất và phối hợp với nhau đó là hoạt
động lập pháp và hoạt động hành pháp mà cụ thể là hoạt động áp dụng pháp luật
(xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch). Kết quả của hoạt động lập pháp tạo hành lang
pháp lý cho việc xác định VPHC trong lĩnh vực du lịch là nền tảng cho hoạt động
xử lý VPHC trong du lịch đồng thời góp phần đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn
tiến tới hạn chế VPHC nói chung và VPHC trong lĩnh vực du lịch nói riêng. Ngược
lại hoạt động áp dụng pháp luật có hiệu quả có nghĩa việc hiện thực hóa hoạt động
lập pháp vào thực tế cuộc sống là phù hợp đồng thời trong quá trình áp dụng pháp
luật cũng gợi mở cách thức điều chỉnh đối với hoạt động lập pháp theo yêu cầu của
xã hội.
1. 2. Khái niệm pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch.
1.2.1. Quan niệm
Để quản lý xã hội theo trật tự nhất định, Nhà nước đã ban hành ra pháp luật.
Theo đó, pháp luật được hiểu là: “ ... hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc
chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội theo mục tiêu, định hướng cụ thể.„2 Hệ thống này là một chỉnh thể thống nhất
của cả hình thức và nội dung. Nội dung của pháp luật phải được thể hiện dưới
những hình thức nhất định và ngược lại hình thức của pháp luật cũng phải đảm bảo
tính thống nhất, thể hiện mối liên hệ nội tại của toàn bộ nội dung của pháp luật.
Hình thức pháp luật được xem xét dưới hai góc độ: Hình thức cấu trúc và phương
2 Xem: Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật - trường Đại học Luật Hà nội, Nxb. CAND, 2010, Tr. 98.

21


thức tồn tại của pháp luật, tương ứng với cách hiểu về hình thức pháp luật bao gồm

hình thức bên trong và hình thức bên ngoài. Hình thức bên trong của pháp luật
chính là sự liên kết, sắp xếp của các bộ phận, các yếu tố tạo nên hệ thống pháp luật,
xác định vị trí các bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật. Hình thức bên trong
bao gồm bao gồm: các chính sách pháp luật, các nguyên tắc pháp lí, các quy phạm
pháp luật, chế định luật và ngành luật, trong đó chính sách pháp luật và các nguyên
tắc pháp lí giữ vai trò chỉ đạo và định hướng cho toàn bộ hệ thống pháp luật. Hình
thức bên ngoài là sự biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, là căn cứ pháp lý trực tiếp
để áp dụng pháp luật. Cũng chính vì thế mà hình thức pháp luật còn được hiểu gần
với nguồn của pháp luật. Ở nước ta hình thức bên ngoài được thừa nhận chủ yếu
vẫn là các văn bản quy phạm pháp luật là những văn bản mà nội dung chứa quy
phạm pháp luật và được ban hành theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định.
Nội dung và hình thức của pháp luật đều có mối liên hệ chặt chẽ, có sự tác
động qua lại với nhau và được tập hợp theo những trật tự nhất định để tạo thành một
hệ thống. Trong khoa học pháp lý, khái niệm hệ thống pháp luật được xem xét ở
nhiều góc độ khác nhau. Ở góc độ cấu trúc hay còn gọi là hệ thống cấu trúc của
pháp luật thì hệ thống pháp luật được hiểu là “là một chỉnh thể gồm tất cả các quy
định pháp luật có sự liên kết và thống nhất nội tại với nhau được phân định thành
những bộ phận nhỏ hơn, phù hợp với tính chất và đặc điểm của các quan hệ xã hội
mà chúng điều chỉnh”3 Theo cách hiểu này thì hệ thống cấu trúc của pháp luật Việt
nam hiện nay khá phức tạp, bao gồm chỉnh thể thống nhất gồm nhiều thành tố, bộ
phận, trong đó thành tố cơ bản nhất là quy phạm pháp luật, chế định pháp luật và
ngành luật. Ngoài các bộ phận cơ bản trên còn có thể có thêm các thành tố không
phổ biến khác như phân ngành luật hoặc tổ hợp các ngành luật,… các bộ phận này
luôn có mối liên kết, ràng buộc, tác động qua lại và thống nhất với nhau tạo nên sự
thống nhất của hệ thống pháp luật. Biểu hiện sự tồn tại thực tế của hệ thống pháp
luật là hệ thống pháp luật thực định hay còn gọi là hệ thống nguồn pháp luật. Theo
3 Xem: Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật - trường Đại học Luật Hà nội, Nxb. CAND, 2010, Tr.495

22



đó hệ thống nguồn pháp luật Việt Nam bao gồm tập hợp các nguồn pháp luật quốc
gia (mà chủ yếu là các văn bản quy phạm pháp luật) được sắp xếp theo trật tự pháp
lí của chúng để đảm bảo sự thống nhất, phù hợp của các nguồn đó trong chỉnh thể
pháp luật. Hệ thống các nguồn thực định hay trong phạm vi hẹp là hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật có
hiệu lực pháp lý cao thấp khác nhau do các cơ quan nhà nước ban hành theo những
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Hiệu lực pháp lý của văn bản quy phạm
pháp luật phụ thuộc vào địa vị pháp lý của cơ quan ban hành ra văn bản đó. Hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật này muốn hoàn thiện phải đảm bảo hai yếu tố đó
là tính thống nhất và tính phù hợp, nghĩa là nội dung các văn bản phải có sự thống
nhất với nhau và phù hợp với thực tế.
Pháp luật chỉ đảm bảo được vai trò của mình là điều chỉnh các quan hệ xã
hội khi pháp luật được thực hiện trong thực tế, được các chủ thể pháp luật biến nó
thành các hành vi thực tế và hợp pháp hay đó chính là hoạt động thực hiện pháp
luật. Hình thức thực hiện pháp luật trong đó có cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền tổ chức cho người dân thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý là áp dụng pháp
luật, xử lý VPHC chính là một hoạt động áp dụng pháp luật. Xử lý VPHC bao gồm
tập hợp một loạt các quan hệ xã hội phát sinh từ việc xử lý VPHC cần được nhà
nước điều chỉnh bằng các quy tắc sử xự tạo điều kiện cho hoạt động đó hợp pháp và
phù hợp với thực tế, cơ chế đó chính là nhà nước thiết lập pháp luật về xử lý VPHC.
Theo đó pháp luật về xử lý vi phạm hành chính xét về hình thức có thể được hiểu
tổng thể các quy phạm pháp luật thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành nhằm và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh từ hoạt động xử lý VPHC. Về nội dung thì pháp luật về xử lý VPHC được
hiểu bao gồm tổng thể các quy tắc xử sự chung xác định VPHC, nguyên tắc xử lí,
hình thức xử lí, thẩm quyền và các thủ tục xử lý VPHC. Khác với pháp luật về xử lý
vi phạm hình sự (tội phạm) phải sử dụng quy phạm của cả hai ngành luật đó là dùng
quy phạm ngành luật hình sự để xác định có vi phạm xảy ra hay không và biện pháp

xử lý còn dùng quy phạm ngành luật tố tụng hình sự để xác định thẩm quyền, trình

23


tự thủ tục. Đối với xử lý VPHC, pháp luật xử lý VPHC vừa quy định về hành vi
VPHC, các hình thức xử lý, mức xử phạt vừa quy định về thẩm quyền, thủ tục tiến
hành xử lý VPHC.
Từ nhận thức chung trên ta có thể đưa đến quan niệm về pháp luật về xử lý
VPHC trong lĩnh vực du lịch như sau:
Pháp luật xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch là hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo hình thức,
trình tự, thủ tục luật định, trong đó chứa đựng các quy phạm pháp luật quy định
VPHC trong lĩnh vực du lịch, thẩm quyền, thủ tục và các biện pháp xử lý VPHC
trong lĩnh vực du lịch.
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch.
1.2.2.1. Đặc điểm chung
Pháp luật xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch vừa mang đặc điểm của pháp
luật về xử lý VPHC nói chung vừa mang những đặc điểm riêng cuả quản lý nhà
nước ở lĩnh vực này. Có thể thấy rằng, pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du
lịch là một bộ phận trong pháp luật về xử lý VPHC. Vì vậy, khi nói đến pháp luật
về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch sẽ bao gồm các quy phạm phần chung và các
quy phạm phần cụ thể áp dụng riêng với lĩnh vực du lịch.
Các quy phạm pháp luật của xử lý VPHC nói chung và xử lý VPHC trong
lĩnh vực du lịch nói riêng do nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành như: Quốc hội,
Chính phủ, các bộ. Ví dụ: Quốc hội ban hành Luật du lịch 2005 điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh liên quan đến hoạt động du lịch…; Luật xử lý VPHC 2012, quy
định những vấn đề chung trong xử lý VPHC như nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự,
thủ tục, các hình thức xử phạt, các biện háp xử lý khác các biện pháp ngăn chặn,
biện pháp khăc phục hậu quả, thời hiệu xử phạt,.. đây là văn bản đóng vai trò làm

cơ sở nền tảng cho việc quy định chi tiết, cụ thể hóa việc xử lý VPHC ở mỗi lĩnh
vực quản lý nhà nước chuyên ngành trong đó có lĩnh vực du lịch. Và theo đó thì
việc xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch và các vấn đề liên quan sẽ được các văn bản
dưới luật như các nghị định của Chính phủ quy định chi tiết theo kiến nghị đề xuất

24


của bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch. Là một hoạt động khá rộng có ảnh hưởng tác
động qua lại với nhiều lĩnh vực, nhất là trong xu thế hội nhập hiện nay việc nhận
thức lại đối với các VPHC trong du lịch là diễn ra liên tục, vì vậy việc đưa ra những
quy định điều chỉnh cụ thể chi tiết trong các nghị định của Chính phủ là hoàn toàn
phù hợp với yêu cầu của hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói chung và trong
lĩnh vực du lịch nói riêng góp phần hoàn thiện pháp luật về xử lý VPHC và cả pháp
luật về du lịch. Nhận thức được đặc điểm này của pháp luật về xử lý VPHC trong
du lịch là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện pháp luật đồng thời cũng tác động đến cả
hoạt động áp dụng pháp luật. Những đặc điểm chung này, là điều kiện để đảm bảo
tính thống nhất của pháp luật và hoạt động áp dụng pháp luật đồng thời cũng là nền
tảng để nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa các VPHC nói chung và VPHC
trong lĩnh vực du lịch nói riêng.
1.2.2.2.Đặc điểm riêng
Đặc điểm riêng của pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch thể hiện
ở đối tượng và phạm vi điều chỉnh. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh này vừa chịu
ảnh hưởng bởi đặc trưng của xử lý VPHC vừa phụ thuộc vào các quan hệ xã hội có
liên quan đến du lịch. Bên cạnh đó xử lý VPHC là một hoạt động áp dụng pháp luật,
và cũng là một hoạt động trong quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực du lịch
nên việc xử lý VPHC trong lĩnh vực này chủ yếu phải do cơ quan quản lý nhà nước
về du lịch thực hiện. Hiện nay, du lịch ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực như bảo vệ tài
nguyên du lịch (cả tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn), các hoạt động kinh
doanh du lịch, hoạt động xúc tiến du lịch, thanh tra du lịch,… và diễn ra ở nhiều địa

bàn khu vực khác nhau và chưa kể còn liên quan cả đến quan hệ ngoại giao, hợp tác
quốc tế… do đó mà VPHC trong du lịch cũng rất phức tạp vì vậy bên cạnh cơ quan
quản lý nhà nước chuyên ngành về du lịch còn có sự tham gia của nhiều cơ quan
nhà nước và người được giao thẩm quyền khác trong việc xử lý VPHC trong lĩnh
vực du lịch như Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lich, Thanh tra chuyên ngành
liên quan, Hải quan, Kiểm lâm,… những người có thẩm quyền bao gồm: Chủ tịch
Ủy ban nhân dân các cấp, Thanh tra viên, Chánh thanh tra sở, Chánh thanh tra bộ,

25


×