Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Cuộc vận động “Học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.05 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
Cuộc vận động “Học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” thực chất là cuộc vận động văn hoá để xây dựng đạo đức, lối sống cho
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, tạo động lực tinh thần cho sự phát
triển và hiện đại hoá xã hội nước ta.
Đây là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong đời sống của
Đảng và của nhân dân ta, nhất là trong thời kỳ phát triển bước ngoặt hiện nay
của cách mạng nước ta.
Cuộc vận động sâu rộng và lâu dài trong suốt nhiệm kỳ đại hội X của
Đảng, đặt cơ sở cho sự phát triển bền vững những giá trị văn hoá tinh thần
trong Đảng và trong các tầng lớp nhân dân, trong các thế hệ người Việt Nam.
Đây thực chất là một cuộc vận động văn hóa để xây dựng tư tưởng, đạo đức,
lối sống và nhân cách từ cán bộ, đảng viên đến quần chúng nhân dân, tạo
động lực tinh thần cho sự phát triển đất nước theo định hướng XHCN.

1


NỘI DUNG
Từ chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, “văn hoá không ở bên ngoài mà ở trong
kinh tế và chính trị”, “văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”, “dân tộc Việt
Nam phải trở thành một dân tộc thông thái”, và “xây dựng chủ nghĩa xã hội là
xây dựng một xã hội văn hoá cao”...do đó, chúng ta cần tiếp tục nhận thức ý
thức sâu xa vai trò của khoa học trong xây dựng văn hoá để phát triển xã hội.
Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, theo đó
phải rất chú trọng giáo dục nhận thức, nâng cao trình độ tư tưởng, rèn luyện
năng lực tư duy sáng tạo cho toàn Đảng, toàn dân.
Đạo đức Hồ Chí Minh và tấm gương đạo đức của Người chứa đựng
trong đó sức mạnh của trí tuệ, động cơ và mục đích cao thượng của hoạt động
sống và tranh đấu của Người, tình yêu thương vô hạn và không bao giờ thay
đổi của người đối với đồng bào dân tộc mình và nhân dân các dân tộc trên


toàn thế giới. Đó là ngọn nguồn mãnh liệt và bền bì dẫn tới nghị lực phi
thường, tình cảm trong sáng, chân thành của người. Nó thấm đượm chất nhân
văn vị tha và khoan dung, biểu hiện một tâm hồn tinh tế và phong phú, lộng
gió thời đại. Lối sống giản dị, tự nhiên của Hồ Chí Minh được tạo nên từ
những giá trị đó, là sự kết tinh và thể hiện một bản lĩnh văn hoá. Đạo đức và
đời sống đạo đức của Hồ Chí Minh đã đạt tới sự mẫu mực của văn hoá đạo
đức, hài hoà Chân -Thiện - Mỹ, ở đó quyện chặt truyền thống, bản sắc dân tộc
với tinh hoa văn hoá thế giới và tinh thần thời đại.
Vì vậy, cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh cần được nhìn nhận là một quá trình công phu giáo dục và thực hành
văn hoá đạo đức đối với từng người, từng tổ chức và cả cộng đồng. Mỗi cán
bộ, đảng viên và tổ chức đảng phải đi đầu và làm gương mẫu trong công cuộc
vận động đó.
Nói và làm phải đi đôi với nhau, đã nói thì phải làm, nói ít làm nhiều,
cái chủ yếu là hành động, cái gì tốt cho dân, có lợi cho dân, cho nước, cái đó
là chân lý. Phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý một cách cao cả nhất. Làm
“công bộc” trung thành tận tuỵ của dân là thực hành một lẽ sống cao thượng
nhất. Cái gì có lợi cho dân thì quyết làm cho bằng được, cái gì có hại tới dân
thì quyết tránh cho bằng được. Cái nên làm thì không đợi ai thúc giục, cái
phải tránh thì không đợi ai nhắc nhở. Tính tự giác đó trở thành lý trí sáng
suốt và hành động tự giác đó phải trở thành một nhu cầu thường trực, thôi
thúc từ nội tâm. Đó là sự gắn liền và thúc đẩy lẫn nhau từ ý thức đạo đức tới
hành vi đạo đức, mà niềm tin và tình cảm là những động lực quan trọng của
đời sống đạo đức.
Đó là những chỉ dẫn rất quý báu của Hồ Chí Minh đối với chúng ta. Sự
thống nhất giữa nhận thức và hành động, sự nhất quán giữa nói và làm là
thước đo quan trọng nhất của tính trung thực đạo đức, của sự trưởng thành
đạo đức và nhân cách ở mỗi con người. Đó cũng chính là thước đo văn hoá
mà lúc sinh thời Hồ Chí Minh coi như triết lý nhân sinh và hành động - ở đời
thì phải thân dân, làm người thì phải chính tâm.

2


Cuộc vận động, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
đặc biệt chú trọng thực hành đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm chính, chí
công vô tư theo gương sáng Hồ Chí Minh. Nhận thức đúng là cơ sở của hành
động tích cực, tự giác và sáng tạo. Hành động phải thiết thực, cụ thể ,hữu ích,
chống hình thức, phù phiếm, khoa trương, phải hướng đích vào kết quả, hiệu
quả. Mỗi cá nhân, tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể trong hệ thống
chính trị cần đạt tới qua cuộc vận động này là, phát huy tác dụng thúc đẩy của
những tấm gương “người tốt, việc tốt”, làm cho cái tốt, cái tích cực và tiến bộ
trở thành chủ đạo trong đời sống xã hội, đẩy lùi được cái xấu, cái tiêu cực và
lạc hậu, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh không chỉ về chính trị, tư
tưởng, tổ chức mà còn về đạo đức, lối sống, thực sự xứng đáng là một đảng
cách mạng chân chính, có đủ năng lực và phẩm chất của một đảng cầm
quyền.
Cùng với luật pháp, Nhà nước phải được bảo đảm bởi đạo đức, trước
hết là đạo đức công chức và kỷ luật công vụ trong hoạt động của bộ máy và
trong hành vi của những người được dân ủy quyền, phòng chống tham nhũng
và thực hành tiết kiệm để Nhà nước thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì
dân. Các tổ chức đoàn thể góp sức cùng với Đảng và Nhà nước làm lành
mạnh đời sống xã hội, đẩy mạnh giáo dục truyền thống đạo đức dân tộc để
chấn hưng đạo đức xã hội. Làm được như vậy chính là chúng ta thực hiện lời
dạy của Hồ Chí Minh “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sách chủ nghĩa cá
nhân”. Tâm nguyện này của Người còn được nói rõ trong Di chúc một cách
thiết tha và cảm động, nhất là những lời căn dặn toàn Đảng, phải giữ gìn sự
đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt mình, phải có tình đồng chí thương
yêu lẫn nhau, thật sự trau dồi đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm chính, chí
công vô tư, thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của
nhân dân.

Tình trạng nói nhiều làm ít, lời nói không đi đối với việc làm, thậm chí
nói mà không làm vẫn còn trong không ít cán bộ, đảng viên, mà đại hội X của
Đảng đã nghiêm khắc phê bình và phải được nhanh chóng khắc phục. Đó là
đòi hỏi rất bức xúc của Đảng mà cũng là đòi hỏi của nhân dân đối với Đảng
lúc này. Hơn nữa đòi hỏi đó vô cùng hệ trọng, nó liên quan đến sự sinh tồn
của Đảng, sự thành bại của cách mạng, sự mất còn của chế độ.
Hồ Chí Minh suốt đời nêu gương tu dưỡng và thực hành đạo đức cách
mạng, dành không ít nỗ lực và tinh lực của đời mình vào việc giáo dục, đào
tạo cán bộ, cả đức lẫn tài, mà đức là “gốc”.
Làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phần quan trọng nhất
chính là bảo đảm đạo đức cho sự thành công của phát triển kinh tế thị trường
của đổi mới hệ thống chính trị với xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng một
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phát huy quyền làm chủ thật sự của
nhân dân, tạo dựng một nền tảng văn hoá đủ sức vượt qua mọi thách thức,
nguy cơ cả trong lẫn ngoài, để phát triển bền vững trong xu thế hiện nay.
Cách tốt nhất và có ý nghĩa nhất lúc này tiếp tục làm cho tốt hơn những gì đã
3


làm được, sửa chữa những gì làm chưa đúng, chưa tốt trước đây, khắc phục
những gì đã làm sai, làm hỏng để đưa sự nghiệp cách mạng tiến tới mục tiêu
cuối cùng.
Cách mạng phải biết tự bảo vệ. Một trong những nguồn sức mạnh
không thể thiếu để cách mạng có thể tự bảo vệ, đó là sức mạnh của đạo đức,
cốt lõi của văn hoá mà chúng ta không bao giờ được xa rời. Hơn nữa, sức
mạnh của cách mạng là lòng dân, là mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân
dân. Đó là cơ sở xã hội của Đảng, Nhà nước và chế độ. Một khi cách mạng và
người cách mạng được dân hiểu, dân tin, dân ủng hộ, dân giúp đỡ và dân bảo
vệ thì cách mạng sẽ đủ sức chiến thắng mọi kẻ thù. Ngược lại, nếu xa dân và
hành động không thuận lòng dân thì phong trào cách mạng sẽ suy yếu, lâm

vào khó khăn và khó tránh khỏi thất bại. Có dân thì có tất cả, mất dân thì mất
tất cả. Bởi thế, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở đây
trước hết phải là giáo dục và thực hành văn hoá đạo đức Hồ Chí Minh ở trong
Đảng, trong toàn Đảng, nhất là ý thức trách nhiệm và sự gương mẫu của cấp
uỷ các cấp.
Trên thực tế gương mẫu là cách lãnh đạo tốt nhất. Lãnh đạo bằng sự
gương mẫu là cách thức, phương thức lãnh đạo quan trọng có tác dụng và ảnh
hưởng sâu rộng không chỉ trong Đảng mà còn trong xã hội, trong dân chúng.
Đó là lãnh đạo bằng trí tuệ khoa học và sự gương mẫu đạo đức của cơ quan
lãnh đạo và người lãnh đạo. Một tấm gương tốt còn quý hơn hàng trăm bài
diễn văn. Hồ Chí Minh đã từng nói như vậy.
Hướng mục đích vào hành động, vào thực hành rèn luyện đạo đức, lối
sống xây dựng văn hoá đạo đức, văn hoá chính trị ở trong Đảng, phát triển và
hoàn thiện văn hoá của Đảng làm nòng cốt cho việc xây dựng đạo đức và văn
hoá đạo đức trong xã hội cho toàn dân.
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng, là người đứng đầu ban lãnh đạo
tối cao của Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh từ sáu thập kỷ trước đây đã nêu
rõ mười hai điều xây dựng Đảng chân chính cách mạng. Thấm nhuần trong
mọi điều ấy là sự gắn liền làm một giữa chính trị - đạo đức và văn hoá, là văn
hoá chính trị của Đảng cầm quyền, kết hợp lý luận khoa học với đạo đức cách
mạng trong hành động.
Đảng ta là đạo đức, là văn minh – đó là sự tổng kết cô đúc nhất, nói lên
bản chất và trình độ văn hóa của đảng mà ngày nay Đảng tiếp tục giữ gìn phát
huy và phát triển theo tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh.
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là một cuộc
vận động lớn về đạo đức. Sau hơn hai tháng phát động, cuộc vận động đã
được sự hưởng ứng rộng rãi trong Đảng và trong nhân dân, trong các ngành
và các cấp.
Để hiểu thật rõ và làm thật tốt cuộc vận động, chúng ta thử cùng nhau
phân tích một số điểm như sau: Thế nào là tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức?

Thế nào là tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh? Thế nào là học tập và làm theo?
Và ý nghĩa cuộc vận động này là ở đâu?
4


Ý nghĩa cuộc vận động.
Nhiều năm qua, đặc biệt là từ sau các Đại hội VII, VIII và IX của Đảng
đến nay, Đảng ta đã liên tiếp phát động những cuộc vận động nghiên cứu và
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Những cuộc vận động ấy đã góp phần quan
trọng vào việc làm quán triệt trong Đảng và trong nhân dân tư tưởng Hồ Chí
Minh, qua đó vận dụng và phát triển sáng tạo, phục vụ ngày càng tốt sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa, xác định
những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và về con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
là tiếp nối các cuộc vận động trước theo một chủ để cụ thể hơn là chủ đề vèe
đạo đức. Nó nhằm khơi dậy và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt
đẹp, đấu tranh khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống; chặn đứng, đẩy lùi
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội; hình thành phát triển
các giá trị đạo đức của chủ nghĩa xã hội, xây dựng con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng con người Việt Nam có nhân cách cao đẹp, bản lĩnh
chính trị vững vàng, lối sống văn minh, xây dựng các quan hệ xã hội lành
mạnh, tiến bộ.
Cuộc vận động này không chỉ tiến hành trong một thời gian ngắn mà
kéo dài trong nhiều năm, mở đầu từ năm 2007 và kết thúc vào năm 2011.Đợt
mở đầu diễn ra bằng những cuộc tổ chức học tập tập trung ở từng đảng bộ cơ
sở, cơ quan quản lý hành chính nhà nước về tư tưởng và tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh. Cấp uỷ, lãnh đạo cơ quan phối hợp tổ chức chặt chẽ việc thảo
luận, liên hệ học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện
nay. Trên cơ sở đó, đề ra những tiêu chuẩn đạo đức cụ thể để phấn đấu, rèn

luyện thường xuyên. Từ năm 2008 trở đi, hàng năm cuộc vận động được sơ
kết vào dịp 19-5 và đến đầu năm 2011 sẽ được tổng kết.
Ý nghĩa sâu xa của cuộc vận động là ở chỗ, xét cho cùng, đạo đức là cái
quý nhất, là linh hồn của một con người, một xã hội, một chế độ và một nền
văn minh. Đạo đức cách mạng là tiền đề tiên quyết, là giá trị thuộc về nhân
cách mỗi con người, là sức mạnh để người cách mạng thực hiện lý tưởng,
mục tiêu của mình.
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là một cuộc
vận động lớn về đạo đức, với mục đích là nhằm khơi dậy và phát huy các giá
trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, đấu tranh khắc phục sự suy thoái về đạo đức,
lối sống; chặn đứng, đẩy lùi quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã
hội; hình thành, phát triển các giá trị đạo đức của chủ nghĩa xã hội, xây dựng
con người Việt Nam XHCN có nhân cách cao đẹp, bản lĩnh chính trị vững
vàng, lối sống văn minh, xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh, tiến bộ.
Như vậy, nội dung cốt lõi của cuộc vận động là giáo dục và rèn luyện cho cán
bộ, đảng viên và cho mọi thành viên trong xã hội là đạo đức cách mạng, đạo
đức của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
5


Trước lúc đi xa, Bác Hồ đã dặn chúng ta, trong Di chúc của Người,
năm 1969: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần , kiệm, liêm chính, chí
công vô tư”.
Đó cũng là điều Người trăn trở từ hai mươi năm trước. Cuối tháng 5
đầu tháng 6 – 1949, để cổ vũ phong trào thi đua ái quốc và xây dựng đời sống
mới, Bác viết bài “cần, kiệm, liêm, chính”, chỉ rõ rằng “... Cần, kiệm, liêm,
chính là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc”.
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liệm, chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người”.
Cần, kiệm, liêm, chính là những điều người xưa từng nói, sách xưa
từng viết, các bậc thày xưa về đạo đức từng dạy. Nhưng ở Bác Hồ, những câu
nói và viết đó, những lời dạy đó đã trở nên sống động hơn, thắm đượm hơn,
có hiệu ích hơn, bởi tất cả đều chứa đựng một nội hàm mới, vừa có kế thừa
vừa có phát triển, có bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với việc xây dựng
con người mới trong thời đại mới.
CẦN là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng kéo dài, cần thì việc gì, dù khó
khăn đến mấy, cũng làm được. Chữ cần chẳng có nghĩa hẹp như: Tay siêng
làm thì hàm siêng nhai. Nó còn có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả
nước đều phải Cần. Muốn cho chữ Cần có nhiều kết quả hơn thì phải có kế
hoạch cho mọi công việc. Kế hoạch lại phải di đôi với phân công. Cần và
Chuyên phải đi đôi với nhau. Cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ,
cả năm cả đời. Nhưng không làm quá trớn. Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và
lực lượng của mình, để làm việc cho lâu dài. “Trong hai mươi triệu đồng bào
ta, cho mười triệu là thanh niên và thành nhân có sức làm việc. Nếu mỗi
người, mỗi ngày làm thêm một tiếng đồng hồ thì: mỗi tháng sẽ thêm 300 triệu
giờ. Mỗi năm thêm lên 3.600 triệu giờ... cứ tính một giờ làm đáng giá một
đồng bạc, thì mỗi năm nước ta đã có thêm được 3.600 triệu đồng. Đưa số tiền
đó thêm vào kháng chiến, thì kháng chiến ắt mau thắng lợi, thêm vào kiến
quốc, thì kiến quốc ắt mau thành công”.
KIỆM là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Cần
và Kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của con người. Cần mà không
Kiệm thì “làm chừng nào xào chừng ấy” cũng như một cái thùng không có
đáy, nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không.
Kiệm mà không Cần thì không phải tăng thêm, không phát triển được. Mà vật
gì đã không tiến tức thì phải thoát... Tiết kiệm về vật chất phải đi đôi với tiết

kiệm về thời giờ. “Thời giờ là tiền bạc” ai đem vàng bạc vứt đi là người điên
rồ. Thì ai đưa thì người vứt đi, là người ngu dại. Tiết kiệm không phải là bủn
xỉn. Khi không nên tiêu thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc
6


đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn
bao nhiêu của cũng vui lòng. Như thế mới đúng là Kiệm.
LIÊM là trong sạch, không tham lam. Ngày xưa, dưới chế độ phong
kiến, những người làm quan không đục khoét dân, thì gọi là Liêm, chữ Liêm
ấy chỉ có nghĩa hẹp. Cũng như ngày xưa, Trung là trung với Vua, hiếu là hiếu
với cha mẹ mình thôi. Ngày nay, nước ta là Dân chủ cộng hoà, chữ Liêm có
nghĩa rộng hơn, là mọi người đều phải Liêm. Cũng như Trung là trung với Tổ
quốc, Hiếu là hiếu với nhân dân, ta thương cha mẹ ta mà phải thương cha mẹ
người, phải cho mọi người đều phải biết thương cha mẹ.
Chữ Liêm phải đi đôi với Kiệm – cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với
chữ Cần. Có Kiệm mới có Liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam. Tham tiền
của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là bất liêm...
mỗi người phải nhận rằng tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có
tội với đất nước với dân. Cán bộ thi đua thực hành Liêm khiết, thì sẽ gây nên
tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết Cần, Kiệm, biết Liêm là một
dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần là một dân tộc văn minh, tiến bộ.
CHÍNH là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn,
thẳng thắn tức là tà. Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của chính, Nhưng một cây cần
phải có gốc rễ, lại cần phải có nhành, lá, hoa quả mới là hoàn toàn. Một
người phải Cần, Kiệm, Liêm nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn.
Trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia
làm hai hạng: người Thiện và người Ác. Trong xã hội, có trăm công, nghìn
việc. Song những công việc ấy có thể chia làm 2 thứ: Việc chính và việc tà.
Làm việc chính là người thiện. Làm việc tà là người ác. Siêng năng (Cần),

tần tiện (kiệm) trong sạch (liêm), chính là thiện. Lười biếng xa xỉ, tham lam là
tà, là ác...
Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.
Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có
lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm. MỖi ngày cố làm một việc lợi
cho nước (lợi cho nước tức là lợi cho mình) dù là việc nhỏ, thì một năm ta
làm được 365 việc. Nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to. Cả hai mươi triệu đồng
bào đều làm như vậy, thì nước ta nhất định mau giàu, dân ta nhất định nhiều
hạnh phúc.
Cần, Kiệm, Liêm, Chính đối lập với tham ô, lãng phí, quan liêu như
nước với lửa. Cần, Kiệm, Liêm, Chính là vầng sáng của đạo đức con người.
Tham ô, lãng phí, quan liêu là bóng tối của sự tha hoá. Về ba thứ bệnh này,
Bác Hồ đã phê phán hết sức nghiêm khắc, nói đi nói lại nhiều lần, trong
nhữngthời điểm khác nhau và cho những đối tượng khác nhau.
Tham ô là hành động xấu xa nhất của con người. Nhân dân ta làm lụng
“đổ mồ hôi, sôi nước mắt” để góp phần xây dựng của công của nhà nước và
tập thể. Của công ấy là nền tảng vật chất của chế độ XHCN, là nguồn gốc chủ
yếu để nâng cao đời sống vật chất của nhân dân ta. Tham ô là lấy trộm của
công, chiếm của công làm của tư. Nó có hại đến sự nghiệp xây dựng nước
7


nhà, có hại đến công việc cải thiện đời sống của nhân dân, có hại đến đạo đức
cách mạng.
Lãng phí và tham ô tuy khác nhau, ở chỗ lãng phí thì không trực tiếp
ăn cắp, ăn trộm của công, nhưng kết quả tai hại đến tài sản của Nhà nước,
của tập thể thì lãng phí cũng có tội... Lãng phí có nhiều hình thức: hoặc vì lập
kế hoạch không chu đáo, ví dụ là một ngôi nhà không hợp thức, làm xong
rồi phải phá đi làm lại. Hoặc vì tính toán không cẩn thận, điều động hàng
trăm, hàng nghìn người đến công trường nhưng chưa có việc làm hoặc người

nhiều việc ít, phải để họ trở về. Hoặc vì xa xỉ, phô trương, hình thức, nào liên
hoan, nào “báo chí” nào kỷ niệm, sắm sửa lu bù, xài tiền như nước... nói tóm
lại, lãng phí vì thiếu tinh thần trách nhiệm, không có ý thức quý trọng sức của,
sức người của nhà nước, của nhân dân.
Quan liêu là cán bộ phụ trách xa rời thực tế, không điều tra, nghiên cứu
đến nơi đến chốn những công việc cần phải làm, việc gì cũng nắm không
vững, chỉ đạo một cách đại khái, chung chung... Vì vậy, bệnh quan liêu là
nguồn gốc sinh ra lãng phí, tham ô.
Bác chỉ rõ rằng bệnh quan liêu luôn luôn đi đôi với bệnh mệnh lệnh.
Nguyên nhân của bệnh quan liêu mệnh lệnh là do:
Xa nhân dân: do đó không hiểu tâm lý, nguyện vọng của nhân dân.
Khinh nhân dân: cho là “dân ngu cu đen” bảo sao làm vậy, không hiểu
được chính trị, lý luận cao sang như mình.
Sợ nhân dân: khi có sai lầm, khuyết điểm thì sợ nhân dân phê bình, sợ
mất thể diện, sợ phải sửa chữa.
Không tin cậy nhân dân: Họ quên rằng không có lực lượng nhân dân,
thì việc nhỏ mấy, dễ mấy cũng không làm xong; có lực lượng nhân dân, thì
việc khó mấy, to mấy cũng làm được.
Không hiểu biết nhân dân: Họ quên rằng nhân dân trông thấy lợi ích
thiết thực (lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích bộ
phận và lợi ích toàn cuộc) đối với nhân dân, không thể lý luận suông, chính trị
suông.
Không yêu thương nhân dân: Do đó, họ chỉ biết đòi hỏi nhân dân,
không biết thực lòng giúp đỡ nhân dân có nơi, bệnh quan liêu mệnh lệnh trầm
trọng đến nỗi cán bộ lừa phỉnh dân, doạ nạt dân!
Sự phê phán nghiêm khắc và thái độ kiên quyết của Bác Hồ trong đấu
tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và
mang tính thời sự nóng hổi.
Tệ tham ô cộng với sự nhũng nhiễu, hạch sách dẫu gọi chung là tệ tham
nhũng đã trở thành quốc nạn. Tham nhũng và lãng phí làm tiêu hao một khối

lượng lớn của cải của nhà nước và của nhân dân. Hàng vạn cán bộ công chức
đã bị truy tố trước pháp luật hoặc bị xử lý kỷ luật dưới nhiều mức độ khác
nhau do phạm tội tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm làm thất thoát lớn
của công. Bệnh quan liêu, xa dân cũng là một phổ biến.

8


Báo cáo chính trị đại hội X của Đảng chỉ rõ: “tình trạng suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên cán
bộ gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng” đó là một
trong những thách thức lớn đối với sự sống còn của chế độ, làm tổn hại đến
uy tín của Đảng và nhà nước ta.
Tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng
phí, quan liêu là cuộc đấu tranh biểu thị quyết tâm chính trị cao của toàn
Đảng, toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội ta. Cuộc đấu tranh ấy đòi hỏi phải
có một hệ thống các biện pháp hiệu lực, từ giáo dục chính trị và tư tưởng đến
hoàn thiện các cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế, xã hội, cải cách hành
chính và tăng cường kỷ cương, pháp luật.
Nêu cao đạo đức Cần, Kiệm, Liêm, Chính và đấu tranh kiên quyết
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu là hai mặt của một vấn đề: Xây dựng
đạo đức mới và con người mới, con người Việt Nam XHCN. Đây cũng chính
là một trong những mục tiêu và cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” hướng tới.
Trong Di chúc năm 1969, cuối phần nói về Đảng, chủ tịch Hồ Chí
Minh viết “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự Cần, Kiệm, Liêm,
Chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Đó là di chúc chính trị, cũng là di chúc về đạo đức chỉ vẻn vẹn trong 57

từ, Bác Hồ đã khái quát yêu cầu bản chất nhất về đạo đức của cán bộ, đảng
viên và yêu cầu đó là xuất phát từ bản chất cách mạng của đảng ta, từ mối
quan hệ máu thịt giữa đảng với nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.Theo
cách hiểu thông thường về mặt chính trị, lãnh đạo và phục vụ là hai phạm trù
có nội hàm khác nhau; người lãnh đạo và người đầy tớ (người phục vụ) cũng
có những chức trách không giống nhau.Thế nhưng, đối với Đảng Cộng sản
Việt Nam, một đảng ra đời từ phong trào cách mạng của nhân dân, có thiên
chức lãnh đạo cuộc cách mạng ấy vì mục đích phục vụ nhân dân, lợi ích của
nhân dân làm lợi ích cao nhất của mình, thì hoàn toàn không có một bức
tường ngăn cách nào giữa nhiệm vụ lãnh đạo và nhiệm vụ phục vụ .
Ngày 3/3/1951 trong lời kết thúc buổi lễ ra mắt của Đảng lao động Việt
Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
“Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, nghĩa là những người thợ thuyền dân cày và lao động trí óc kiên
quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc
và nhân dân. Những người mà:
- Giàu sang không thể quyến rũ.
- Nghèo khó không thể chuyển lay
- Uy lực không thể khuất phục”.
Bác còn nói: “Nói về người cách mạng và Đảng cách mạng nhà đại văn
hào Trung Quốc là ông Lỗ Tấn có câu thơ
9


“Hoành my lãnh đối thiên phu chỉ
Phủ thủ cam vi nhũ tử ngưu”
Xin tạm dịch là:
“Chợt mắt xem khinh nghìn lực sĩ
Cúi đầu làm ngựa các nhi đồng”
Ý nghĩa của hai câu thơ đó được được Bác giải thích như sau: “Nghìn

lực sĩ có nghĩa là n hững kẻ địch mạnh, ví dụ: lũ thực dân Pháp, bọn can thiệp
Mỹ cũng có nghĩa là những sự khó khăn gian khổ. (Các nhi đồng) nghĩa là
quần chúng nhân dân hiền lành đông đảo. Cũng có nghĩa là những công việc
ích quốc lợi dân. Và Bác kết luận: Đảng lao động Việt Nam không sợ kẻ địch
nào dù cho chúng hung tợn đến mấy, không sợ nhiệm vụ nào dù nặng nề nguy
hiểm đến mấy, nhưng Đảng lao động Việt Nam sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa,
làm tôi tớ trung thành của nhân dân. Tháng 1/1960 tại buổi lễ kỷ niệm 30 năm
ngày thành lập Đảng ta, Bác Hồ lại nói: Thắng đế quốc và phong kiến là
tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó khăn hơn nhiều. Ngày nay ở
miền Bắc hoàn toàn giải phóng, đảng đoàn kết và lãnh đạo nhân dân ta thi đua
kiến thiết CNXH xây dựng đời sống vui tươi, no ấm và mỹ tục thuần phong.
Hễ còn một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau
thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa là lo
tính công việc lớn nhưng đổi nền kinh tế và văn hoá lạc hậu của nước ta thành
một nền kinh tế và văn hoá tiên tiến, đồng thời lại luôn quan tâm đến những
việc nhỏ như tương, cà mắm muối cần thiết cho đời sống hàng ngày của nhân
dân. Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời nó gần gũi tận
trong lòng mỗi đồng bào ta. Đảng ta vĩ đại vì ngoài lợi ích của giai cấp, của
nhân dân, của dân tộc Đảng ta không còn có lợi ích gì khác.

10


11



×