Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

“ một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng để xây dựng, củng cố và kiện toàn các tổ chức cơ sơ đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.11 KB, 28 trang )

A-MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo, Ban Chấp hành TƯ, Bộ Chính trị, Ban Bí thư TƯ Đảng
đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết lãnh đạo chỉ đạo việc xây dựng,
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất
lượng đội ngũ đảng viên. Thực hiện các nghị quyết của TƯ, các cấp ủy
đảng đã tạp trung chỉ đạo công tác xây dựng Đảng ở cơ sở, góp phần tích
cực trong sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất
nước. Nhiều tổ chức cơ sở đảng đã giữ vững và phát huy được vai trò hạt
nhân chính trị ở cơ sở; lãnh đạo cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và sự chỉ
đạo của cấp ủy cấp trên, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị, công tác
chuyên môn của địa phương, cơ quan, đơn vị. Đội ngũ cán bộ, đảng viên
tăng thêm về số lượng và chất lượng; trình độ, kiến thức các mặt được nâng
lên. Nhiều cấp ủy viên và cán bộ, đảng viên được rèn luyện, thủ thách,
trưởng thành qua thực tiễn công tác hoàn thành nhiệm vụ được giao; trong
đó, nhiều cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, có phẩm chất, năng lực tốt, từng
bước thích ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.

Tuy nhiên, trước

yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới, nhiều cấp ủy chưa thực sự coi trọng
vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng; hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn còn nhiều yếu kém, bất cập; không ít tổ chức cơ sở đảng
chưa nhận thức sâu sắc và chưa thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của
mình. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, khả năng nhận thức vận dụng, cụ
thể hóa và tổ chức thực hiện, các chủ trương đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và của cấp ủy cấp trên của nhiều tổ chức cơ


sở đảng còn yếu, chưa đủ giải quyết những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở.
Một bộ phận không nhỏ đảng viên đã phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí
chiến đấu, vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Tình trạng


suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên rất đáng lo ngại; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực
còn xảy ra ở nhiều nơi nhưng chậm được phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi có
hiệu quả. Cấp ủy và chi bộ chưa nắm chắc tình hình tư tưởng và phẩm chất
của cán bộ, đảng viên; chưa chủ động dự báo và chuẩn bị tư tưởng cho cán
bộ, đảng viên trước những diễn biến phức tạp và những vấn đề mới; chưa
có biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh và xử lý kịp thời
những đảng viên vi phạm.
Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hằng năm
còn hình thức, kết quả chưa phản ánh đúng thực chất. Công tác kết nạp
đảng viên còn chú ý nhiều đến số lượng mà chưa chú trọng đúng mức đến
chất lượng. Số đảng viên kết nạp ở địa bàn dân cư là công nhân trong các
thành phần kinh tế còn ít.
Trong giai đoạn hiện nay, việc cần làm gì và làm như thế nào để xây
dựng củng cố và kiện toàn các tổ chức cơ sơ đảng đang là vấn đề bất cập.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: “ Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng để
xây dựng, củng cố và kiện toàn các tổ chức cơ sơ đảng” để nghiên cứu.
2.Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu tình hình các tổ chức cơ sở đảng trong giai đoạn hiện nay.
Những vấn đề bất cập trong công tác của các tổ chức cơ sở đảng, từ đó đưa
ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của các tổ chức cơ sơ đảng.
3.Phương pháp nghiên cứu
Cơ sơ phương pháp luận là Chủ nghĩa Mác- Leenin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Các phương pháp cụ thể: phân tích, tổng hợp, chứng minh, điều tra xã

hội học đặc biệt là phương pháp tổng kết thực tiễn.
4.Kết cấu đề tài
Sau khi nghiên cứu, ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, tôi dự định
chia phần Nội dung đề tài gồm 3 phần:


I-Những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức cơ sơ đảng
II-Tình hình các tổ chức cơ sở đảng trong giai đoạn hiện nay
III-Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng để xây dựng, củng cố
và kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng. Liên hệ thực tế


B-NỘI DUNG
I-Những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức cơ sở đảng
1.Khái niệm tổ chức cơ sở đảng
Tổ chức cơ sở đảng ( chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định: “ Tổ chức cơ sở đảng
được thành lập tại đơn vị cơ sở hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc công
tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy huyện, quận, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh”; “ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị khác
có từ ba đảng viên chính thức trở lên lập tổ chức cơ sở đảng”.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng một nước Việt Nam
độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Để thực hiện
mục đích đó, Đảng phải được tổ chức theo một hệ thống chặt chẽ, thống
nhất từ TƯ đến cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng bao gồm chi bộ cơ sở và đảng bộ

cơ sở là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Đảng phải gắn bó, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, ở đâu có quần
chúng, ở đó cần có sự lãnh đạo của Đảng. Mọi tầng lớp nhân dân, ai cũng
đều sinh sống, lao động sản xuất, công tác, học tập ở một đơn vị cơ sở nhất
định trong hệ thống tổ chức xã hội. Vì vậy, tổ chức đảng phải được thành
lập, được tổ chức tại các đơn vị cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “ Ở
mỗi xưởng máy, hầm mỏ, xí nghiệp, cơ quan, trường học, đường phố, nông
thôn, đại đội – 3 đảng viên trở lên thì lập một chi bộ”. Theo tinh thần đó, tổ
chức cơ sở đảng được thành lập tương ứng với cấp hành chính nhà nước ở
cơ sở ( xã, phường, thị trấn); cơ quan, đơn vị sự nghiệp hoặc đơn vị cơ sở
trong Công an nhân dân và Quân đội nhân dân; tổ chức kinh tế ( các loại


hình hợp tác xã, các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài). Ở các cơ sở trên, nếu có từ ba đảng viên chính thức trở lên,
lập tổ chức cơ sở đảng; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp
trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.
Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua Đại hội
XI quy định:
- Tổ chức cơ sở đảng dưới 30 đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ
đảng trực thuộc.
-Tổ chức cơ sở đảng có từ 30 đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở, có
các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
Như vậy, tổ chức cơ sở đảng gồm chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở.
Việc lựa chọn mô hình tổ chức nào ( chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở) phụ
thuộc vào số lượng đảng viên chính thức và phải được cấp ủy cấp trên
( Quận, Huyện ủy hoặc tương đương) trực tiếp quyết định.
-Về tổ chức cơ sở đảng, Điều lệ Đảng quy định những trường hợp
sau đây, cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và được cấp ủy cấp trên trực tiếp
đồng ý mới được thực hiện:

+ Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ 30 đảng viên
+ Lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở có hơn 30 đảng viên
+ Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở.
Những năm gần đây, thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta có nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau. Do vậy, ngoài các loại hình tổ chức cơ sở đảng được tổ
chức tại đơn vị cơ sở hành chính ( xã, phường, thị trấn),các đơn vị sự
nghiệp, cơ quan, doanh nghiệp nhà nước,đơn vị cơ sở trong Công an, Quân
đội... còn xuất hiện tổ chức cơ sở đảng trong các đơn vị doanh nghiệp tư
nhân, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tất cả các tổ chức cơ sở
đảng trong các thành phần kinh tế đều phải thực hiện đúng nguyên tắc đã
được quy định trong Điều lệ Đảng.


2. Vị trí, vai trò tổ chức cơ sở đảng
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tổ chức cơ sở đảng (chi bộ
cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
a)Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng
- Xét trong hệ thống tổ chức của đảng, thì tổ chức cơ sở đảng là tổ
chức đanghr nhỏ nhất, số lượng nhiều nhất và gắn liền với các tổ chức hành
chính kinh tế, xã hội ở cơ sở. Vì vậy, tổ chức cơ sở đảng là “nền tảng”, là “
gốc rễ” của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Chi bộ là gốc rễ của
Đảng” và “ ...chi bộ nền tảng của Đảng, của cách mạng ở xã...”. “ Đảng
mạnh là do các chi bộ mạnh” và “ các chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh”.
- Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt của đời sống
xã hội, tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời cũng là
nơi góp phần phát triển và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước.
- Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó liên hệ mật thiết với nhân dân.

Trong mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, vai trò của tổ chức cơ sở đảng
là những “ sợi dây chuyền” trực tiếp nối liền giữa Đảng với nhân dân. Nói
về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “ Tác dụng của chi bộ là cực
kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng”.
b) Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị ở cơ sở
- Đảng là một thành viên của hệ thống chính trị, nhưng là thành viên
giữ vị trí, vai trò lãnh đạo hệ thống đó, đảm bảo cho mọi hoạt động ở cơ sở
theo đúng định hướng chính trị của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Mỗi chi bộ ta phải là một hạt nhân
vững chắc, lãnh đạo đồng bào thi đua yêu nước, cần kiệm xây dựng nước
nhà”. Rằng, “ Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần
chúng ở cơ sở...”. Người nhấn mạnh: “ Chi bộ là đồn lũy của Đảng chiến
đấu ở trong quần chúng”.


-Tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi giáo dục, tổ chức, động viên nhân
dân thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng một nước Việt Nam dân giàu ,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở là trung tâm đoàn kết, quy tụ, tập hợp
được mọi lực lượng ở cơ sở thành một khối thống nhất ý chí và hành động,
tạo ra sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của cơ sở.
3. Chức năng và nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
Tổ chức cơ sở đảng có hai chức năng quan trọng:
Một là, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ở cơ sở.
Hai là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, phát triển
sản xuất, kinh doanh, nâng cao hiệu quả công tác của cơ sở; chăm lo cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; động viên quần chúng hoàn
thành đầy đủ nghĩa vụ của cơ sở, đơn vị đối với Nhà nước.

Từ chức năng nói trên, Điều 23, Điều lệ Đảng đã quy định năm
nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng như sau:
Một là, chấp hành đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo
thực hiện có hiệu quả.
Hai là, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao
chất lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ
luật và tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo
dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức
cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công
tác phát triển đảng viên.
Ba là, lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành
chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội


trong sạch vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.
Bốn là, liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân
tham gia xây dựng và thực hiện đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước.
Năm là, kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh;
kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Đảng ủy cơ sở, nếu được cấp ủy cấp trên trực tiếp ủy quyền thì được
quyết định kết nạp Đảng và khai trừ đảng viên.
Năm nhiệm vụ trên đây là năm nội dung cơ bản chung nhất để thực
hiện chức năng lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng. Mỗi nhiệm vụ có vị trí và
yêu cầu riêng, không thể coi nhẹ nhiệm vụ nào. Các chi bộ phải bảo đảm

sinh hoạt thường kỳ hàng tháng, nâng cao chất lượng sinh hoạt, thực hiện
tốt việc phân công và kiểm tra công tác của đảng viên. Bộ Chính trị có chủ
trương: Đảng viên đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự
nghiệp phải thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở nơi cư
trú. Điều đó quy định rõ hơn trách nhiệm của cấp ủy đảng cơ sở đối với
đảng viên nơi cư trú, phải gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân. Ngoài
ra, còn có quy định tổ chức cơ sở đảng phải tổ chức để tất cả đảng viên
được học tạp nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ theo chương trình
hàng năm.
4. Phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng (chi bộ, đảng bộ cơ sở).
Phương thức lãnh đạo là hệ thống các phương pháp, hình thức, biện
pháp mà tổ chức đảng vận dụng để tác động vào hệ thống chính trị, các
tầng lớp nhân dân và các lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở, nhằm bảo
đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ,
nội dung công tác lãnh đạo của tổ chức đảng.


Chi bộ, đảng bộ cơ sở thường áp dụng những phương pháp lãnh đạo
cơ bản sau: lãnh đạo bằng nghị quyế; lãnh đạo bằng tổ chức, cán bộ; lãnh
đạo bằng thuyết phục, nêu gương. Những phương thức cơ bản trên được
thể hiện và vận dụng cụ thể trong việc lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống
chính trị, lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở, lãnh đạo trong
nội bộ hệ thống tổ chức đảng.
Phương thức lãnh đạo của Đảng không ngừng đổi mới, phát triển
phù hợp với tình hình, nhiệm vụ cách mạng từng thời kỳ; được các tổ chức
đảng vận dụng phù hợp với đặc điểm của từng loại hình tổ chức, từng lĩnh
vực hoạt động. Mọi tổ chức cơ sở đảng đều thực hiện phương thức lãnh đạo
chung là đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
của đơn vị, nhưng mỗi loại hình tổ chức cơ sở đảng khi vận dụng cụ thể có
sự khác nhau.

II-Tình hình tổ chức cơ sở đảng trong giai đoạn hiện nay
1.Tình hình tổ chức cơ sở đảng trong giai đoạn hiện nay
Tính đến 31/12/2008, toàn Đảng có gần 54.000 tổ chức cơ sở đảng,
gồm gần 22.000 đảng bộ cơ sở, gần 32000 chi bộ cơ sở và hơn 210.000 chi
bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở với tổng số hơn 3,4 triệu đảng viên. Trong đó,
có 11.061 tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn với hơn 2 triệu đảng
viên; 16.941 tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan hành chính với 340.833
đảng viên; 6.717 tổ chức cơ sở đảng trong các đơn vị sự nghiệp với
190.241 đảng viên; hơn 8.300 tổ chức cơ sở đảng trong lực lượng vũ trang
với hơn 330.000 đảng viên; hơn 5.000 tổ chức cơ sở đảng trong các doanh
nghiệp nhà nước với 195.333 đảng viên; 3.902 tổ chức cơ sở đảng trong
các doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước với 131.120 đảng viên; 1.120 tổ
chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp tư nhân với 15.583 đảng viên; 210
tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với
6.923 đảng viên; 75 tổ chức cơ sở đảng với gần 400 chi bộ ở trong và ngoài


cơ quan đại diện của Việt Nam ở ngoài nước với tổng số hơn 6.000 đảng
viên.
Những năm qua, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế,số lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên trong Đảng tăng nhanh và có những thay đổi đáng kể; số tổ chức cơ sở
đảng ở khu vực xã, phường, thị trấn tăng do chia tách và thành lập mới; số
tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước giảm do cổ phần hóa và
giải thể; số tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân; doanh nghiệp
cổ phần và doanh nghiệp có vốn nhà nước lien doanh với nước ngoài tăng;
một số loại hình tổ chức cơ sở đảng có sự thay đổi về quy mô, hình thức tổ
chức, nội dung và phương thức hoạt động; một số loại hình tổ chức cơ sở
đảng mới được định hình và đi vào hoạt động ( tổ chức cơ sở đảng trong

doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, trong doanh nghiệp tư nhân, trong
trường học và bệnh viện ngoài công lập…).
Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của một số loại hình cơ sở đảng còn
bộc lộ những hạn chế, bất cập. Nhiều chi bộ thôn, khu phố có quá đông
đảng viên ( 11.591 chi bộ có từ 31 đến 50 đảng viên; 769 chi bộ có từ 51
đến 100 đảng viên; 174 chi bộ có trên 100 đảng viên); tổ chức của chi bộ
không đồng bộ với tổ chức chính quyền và các đoàn thể quần chúng. Đến
nay, trong cả nước vẫn còn 8.948 thôn, ấp, bản, làng chưa có chi bộ
(11,02%) và 1.210 thôn, bản (chủ yếu ở các vùng Tây Nguyên, Tây Bắc,
Tây Nam Bộ) chưa có đảng viên (1,49%); 20.897 tổ dân phố chưa có chi
bộ (46,95%) và 7.816 tổ dân phố chưa có đảng viên (17,56%). Nhiều doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có đông công
nhâm, lao động nhưng chưa có tổ chức đảng, các đoàn thể quần chúng.
Do đặc điểm, tính chất và chức năng, nhiệm vụ của mỗi loại hình tổ
chức cơ sở đảng khác nhau nên vai trò lãnh đạo và chất lượng hoạt động
của từng loại hình tổ chức cở đảng cũng khác nhau và không đồng đều:


-Các tổ chức cơ sở đảng trong lực lượng vũ trang: Có mô hình tổ
chức chặt chẽ, cơ bản đồng bộ, thống nhất theo hệ thống từ Trung ương đến
cơ sở; thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
đối với lực lượng vũ trang; các cấp ủy trong lực lượng vũ trang lãnh đạo
trực tiếp về mọi mặt công tác của đơn vị. Các tổ chức cơ sở đảng trong
quân đội thực hiện cơ chế chính ủy, chính trị viên làm bí thư; các tổ chức
cơ sở đảng trong công an nhân dân thực hiện cơ chế Thủ trưởng đơn vị làm
Bí thư, đồng chí cấp Phó thủ trưởng làm Phó bí thư phụ trách xây dựng lực
lượng. Nói chung, vị trí hạt nhân chính trị và vai trò lãnh đạo của tổ chức
cơ sở đảng trong các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang được thể hiện rõ nét.
Song, một số cấp ủy cơ sở chưa làm tốt công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng và đạo đức, phẩm chất cho cán bộ, đảng viên nhất là số chiến sĩ

mới, nên có một số cán bộ, đảng viên, chiến sĩ vi phạm đạo đức lối sống, vi
phạm pháp luật, ảnh hưởng đến uy tín của lực lượng vũ trang.
-Các tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn: được tổ chức cơ bản
thống nhất, đồng bộ với đơn vị hành chính và các tổ chức trong hệ thống
chính trị cùng cấp trên địa bàn. Tổ chức cơ sơ đảng lãnh đạo tất cả các lĩnh
vực công tác ở địa phương; có chuyển biến về lãnh đạo nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội; cả đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể chuyên
trách, vị trí hạt nhân chính trị và vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng được
khẳng định.
Tuy nhiên, nhiều tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn còn lúng
túng trong lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ chính trị và cụ thể hóa nhiệm vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn. Một số nơi buông lỏng lãnh đạo
công tác quản lý hành chính, xây dựng và quản lý đô thị, quản lý và sử
dụng đất đai; chưa làm tốt công tác vận động, thuyết phục quần chúng, dẫn
đến tình trạng tranh chấp đất đai khiếu kiện đông người xảy ra ở nhiều địa
phương gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mối quan


hệ giữa Đảng và nhân dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với
Đảng.
-Các tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp: được tổ chức cơ bản thống nhất, đồng bộ với tổ chức của cơ quan
Nhà nước và các đoàn thể quần chúng; trình độ, kiến thức các mặt của đội
ngũ cán bộ, đảng viên khá cao; hầu hết các đồng chí Bí thư đều là thủ
trưởng hoặc là cán bộ lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Công tác xây dựng Đảng
được gắn với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn
của cơ quan, đơn vị.
Tuy nhiên, do các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp
hoạt động theo chế độ Thủ trưởng, tổ chức cơ sở đảng cơ quan không quyết
định nhiệm vụ chính trị và công tác cán bộ, bí thư và đội ngũ cấp ủy viên

đều kiêm nhiệm nên công tác xây dựng Đảng chưa được quan tâm đúng
mức. Nhiều cấp ủy, chi bộ sinh hoạt không đều, nội dung sinh hoạt chi bộ
thường trùng lặp với nội dung sinh hoạt chuyên môn; tinh thần đấu tranh tự
phê bình và phê bình yếu; vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở không
ít cơ quan, đơn vị bị hạn chế, có nơi bị vô hiệu hóa.
-Các tổ chức cơ sở đảng trong các tổ chức doanh nghiệp nhà nước và
có vốn nhà nước: tổ chức cơ sở đảng đã được thành lập ở hầu hết các doanh
nghiệp. Trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý, nhiều tổ chức cơ sở đảng
đã coi trọng việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, xây dựng
mối quan hệ giữa cấp ủy đảng với hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, giám
đốc doanh nghiệp để xác lập vai trò của tổ chức cơ sở đảng; tham gia cùng
hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc lãnh đạo việc tổ chức sản
xuất, đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường, thực hiện có kết quả nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh, hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước. Những
doanh nghiệp mà Chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc làm
Bí thư cấp ủy thì vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng mới phát huy tốt
vai trò của mình.


Vấn đề đáng quan tâm là công tác xây dựng Đảng trong các doanh
nghiệp có vốn nhà nước chưa đáp ứng kịp quá trình chuyển đổi cơ chế quản
lý và hoạt động của doanh nghiệp. Tổ chức cơ sở đảng chỉ “ tham gia”,
không quyết định nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và công tác cán bộ, nên
vai trò lãnh đạo của không ít tổ chức cơ sở đảng bị giảm sút. Những doanh
nghiệp nhà nước sau khi được cổ phần hóa nếu chủ tịch hội đồng quản trị
hoặc giám đốc không làm Bí thư và những đảng viên được của làm đại diện
phần vốn nhà nước thiếu trách nhiệm, tính đảng kém thì tổ chức cơ sở đảng
hoạt động gặp nhiều khó khăn.
-Các tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp liên doanh với nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và

các trường học, bệnh viện ngoài công lập: Sau 10 năm thực hiện chỉ thị số
07-CT/TƯ của Bộ Chính trị ( khóa VIII) về tăng cường công tác xây dựng
Đảng, các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, việc xây dựng tổ chức Đảng, phát triển đảng
viên, xây dựng các đoàn thể quần chúng trong các đơn vị này đã có một số
tiến bộ và đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, đây là những loại hình tổ chức cơ sở đảng mới được định
hình, nhiều nơi chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên. Ở những nơi
được cấp ủy cấp trên quan tâm chỉ đạo và chủ doanh nghiệp ủng hộ, thì tổ
chức cơ sở đảng được thành lập và thể hiện vai trò lãnh đạo, nhưng phần
lớn còn lúng túng về nội dung và phương thức hoạt động; vai trò của tổ
chức cơ sở đảng mờ nhạt; một số nơi chỉ tồn tại trên danh nghĩa, làm theo
sự chỉ đạo, điều hành của chủ doanh nghiệp.
-Các tổ chức cơ sở đảng ở ngoài nước: Các đảng bộ, chi bộ trong cơ
quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài được tổ chức gắn liền với tổ chức
và hoạt động của cơ quan đại diện; phần lớn các đồng chí thủ trưởng cơ
quan đại diện ( Đại sứ, Tổng lãnh sự...) làm Bí thư, nên công tác xây dựng
Đảng gắn với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan.


Đối với các đảng bộ, chi bộ ở ngoài cơ quan đại diện nhìn chung còn
lúng túng về nội dung và phương thức hoạt động; công tác theo dõi, quản
lý đảng viên hoạt động tự do không có tổ chức đảng nào quản lý.
2.Thực trạng hoạt động của tổ chức cơ sơ đảng
2.1.Ưu điểm
- Nhiều tổ chức cơ sở đảng đã giữ vững và phát huy được vai trò hạt
nhân chính trị ở cơ sở; lãnh đạo cán bộ, đảng viên, quần chúng thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và sự
chỉ đạo của cấp ủy cấp trên; thực hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị, công
tác chuyên môn của địa phương, cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở quán triệt và

thực hiện Quy định của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ
sở đảng, nhiều cấp ủy đã coi trọng việc vận dụng, cụ thể hóa chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các Nghị quyết
của cấp ủy cấp trên; ban hành các Nghị quyết chuyên đề và có chương trình
hành động cụ thể, phù hợp với tình cảnh của địa phương, cơ quan, đơn vị
để thực hiện. Trong các loại hình tổ chức cơ sơ đảng đã xuất hiện những
điển hình tiên tiến về lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh,
quốc phòng và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở.
-Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai
và bước đầu mang lại một số kết quả, dân chủ trong Đảng và trong xã hội
được mở rộng hơn. Nhiều cấp ủy cơ sở đã coi trọng việc xây dựng cơ chế
làm việc và thực hiện theo quy chế; duy trì chế độ giao ban định kỳ giữa
thường trực cấp ủy với chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở.
Một số tỉnh, thành phố đã thực hiện việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của
đại diện nhân dân đối với chức danh Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND xã,
phường, thị trấn và trưởng thôn, tổ trưởng dân phố.
-Công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ cán bộ cơ sở được
quan tâm, chú ý hơn. Đội ngũ cấp ủy và cán bộ, đảng viên ở cơ sở được
tăng thêm về số lượng và chất lượng; trình độ, kiến thức các mặt được nâng


lên. Nhiều cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, có phẩm chất, năng lực tốt, có
khả năng thích ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một số tỉnh, thành phố
có chính sách thu hút, tổ chức đào tạo, thi tuyển và tiếp nhận sinh viên tốt
nghiệp đại học và cao đảng về công tác ở xã, phường, thị trấn đã góp phần
nâng cao trình độ và từng bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ cấp xã ( toàn quốc
đã tiếp nhận gần 10.000 sinh viên về xã, phường, thị trấn công tác). Hầu hết
số cán bộ này đã và đang phát huy tác dụng tốt, một số được tín nhiệm bầu

vào cấp ủy và giữ các chức danh lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở. Một số thành
phố lớn đã xây dựng chương trình và lộ trình đào tạo cán bộ sau đại học
chuẩn bị cho những năm tiếp theo.
-Nhiều cấp ủy viên và cán bộ, đảng viên ở cơ sở đã được rèn luyện,
thử thách, trưởng thành qua thực tiễn công tác; kiên định lập trường giai
cấp công nhân, trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối đổi mới của Đảng; gương mẫu thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thể hiện vai trò
tiền phong gương mẫu, có tinh thần trách nhiệm, khắc phục khó khăn, hoàn
thành nhiệm vụ được giao; có quan hệ mật thiết với nhân dân, được nhân
dân tín nhiệm.
-Công tác kết nạp đảng viên được cấp ủy các cấp quan tâm chỉ đạo
và đạt được một số kết quả tích cực. Số đảng viên được kết nạp qua các
năm đều tăng và năm sau cao hơn năm trước. Năm năm qua, toàn Đảng đã
kết nạp 801.945 đảng viên mới; kết nạp được đảng viên tại 1.912 thôn,
làng, bản, tổ dân phố, trường học và doanh nghiệp trước đây chưa có đảng
viên.
2.2.Hạn chế
Tuy có những ưu điểm nêu trên nhưng năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở sơ sở


còn nhiều mặt yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của tình
hình mới, chưa bảo đảm vững chắc vai trò lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Cụ
thể là:
-Chưa thực sự coi trọng vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng;
chưa dành thời gian, công sức thỏa đáng để tập trung xây dựng, chỉ đạo,
củng cố tổ chức cơ sở đảng. Không ít tổ chức cơ sở đảng chưa nhận thức
sâu sắc vị trí của tổ chức cơ sở đảng, chưa thực hiện đúng và đầy đủ chức
năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng theo quy định, chưa phát huy được

vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở. Việc phổ biến, quán triệt các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn hời hợt, hình
thức, chất lượng thấp; công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý
tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở còn làm
qua loa, chiếu lệ, tính định hướng, tính chiến đấu và tính thuyết phực chưa
cao.
-Năng lực vận dụng, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước của các tổ chức cơ sở đảng nhìn chung
còn yếu. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở
đảng còn yếu kém, chưa đủ sức giải quyết nhiều vấn đề phức tạp diễn ra ở
cơ sở; một số tổ chức cơ sơ đảng bị tê liệt; một số tổ chức cơ sở đảng vì lợi
ích cục bộ đã có những chủ trương, quyết định trái với chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Một số cấp ủy cấp trên
của tổ chức cơ sở đảng còn quan liêu, hữu khuynh, thiếu sâu sát cơ sở;
chưa tích cực đổi mới phương pháp lãnh đạo đối với cơ sở; công tác kiểm
tra còn buông lỏng, thiếu thường xuyên, chưa thành nề nếp.
-Nhiều cấp ủy, đảng bộ, chi bộ chưa thực hiện nghiêm túc nề nếp,
chế độ sinh hoạt đảng, nội dung sinh hoạt chi bộ còn theo lối mòn, chậm
đổi mới; chưa tập trung vào công tác xây dựng Đảng và giải quyết những
nhiệm vụ trọng tâm, bức xúc trước mắt; chưa coi trọng đổi mới phương
thức lãnh đạo và phong cách, lề lối làm việc; nguyên tắc tập trung dân chủ


trong Đảng còn thực hiện chưa tốt, có nơi còn hình thức; bệnh thành tích
còn nặng và khá phổ biến. Việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở chưa nghiêm túc; nhiều vụ việc xảy ra ở cơ sở
nhưng không được giải quyết triệt để, còn đùn đẩy lên cấp trên hoặc cơ
quan khác. Một số cấp ủy viên và đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
các cấp ít quan tâm chỉ đạo công tác xây dựng Đảng; còn tư tưởng cục bộ
ngành, địa phương, dân tộc, dòng họ, lợi dụng chức trách, nhiệm vụ để vụ

lợi, vi phạm pháp luật của Nhà nước.
-Nhiều tổ chức cơ sở đảng trong công ty cổ phần, doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lúng
túng về nội dung và phương thức hoạt động nhưng chưa được hướng dẫn
kịp thời. Vai trò của tổ chức cơ sở đảng mờ nhạt, có nơi chỉ tồn tại trên
danh nghĩa; một số cấp ủy, cán bộ, đảng viên còn theo đuôi, ủng hộ cho
những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật của Giám đốc, chủ doanh
nghiệp.
-Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế, yếu kém.
Một bộ phận đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu, tinh
thần đấu tranh, tự phê bình và phê bình yếu; hiện tượng nể nang, thấy đúng
không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh đang phổ biến trong
Đảng. Tình thương yêu đồng chí bị giảm sút. Bệnh cơ hội thực dụng và tình
trạng mê tín dị đoan trong đội ngũ cán bộ, đảng viên có xu hướng ngày
càng gia tăng. Tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên rất đáng lo ngại; tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn xảy ra ở nhiều nơi nhưng chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi; chưa có cơ chế khuyến khích, bảo vệ những người
thẳng thắn phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Tình hình
trên nếu không được khắc phục kịp thời sẽ làm hạn chế năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và là nguy cơ dẫn đến sự suy vong
của Đảng.


-Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, giáo dục, rèn luyện đội ngũ
cán bộ, đảng viên ở cơ sở bị buông lỏng. Cấp ủy và chi bộ không nắm chắc
tình hình tư tưởng và phẩm chất của cán bộ, đảng viên; chưa chủ động dự
báo và chuẩn bị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên trước những vấn đề mới;
chưa có biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh và xử lý kịp
thời những đảng viên vi phạm.

-Công tác kết nạp đảng viên còn chạy theo thành tích, số lượng theo
kế hoạch; chưa quan tâm đúng mức việc giáo dục, bồi dưỡng động cơ, lý
tưởng cách mạng và rèn luyện thử thách đối với quần chúng phấn đấu vào
đảng. Cơ cấu và chất lượng đảng viên mới còn nhiều mặt hạn chế chưa đáp
ứng yêu cầu; số đảng viên được kết nạp ở địa bàn dân cư là công nhân, lao
động trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn thấp. Một số đảng
viên nhận thức chính trị còn thấp, một số vào Đảng với động cơ vụ lợi, mục
đích vào Đảng là để có điều kiện tiến thân, khi không đạt được mục đích,
nguyện vọng cá nhân thì sinh ra tư tưởng “ an phận thủ thường”, trung bình
chủ nghĩa, nói không đi đôi với làm, không thể hiện vai trò tiền phong
gương mẫu của người đảng viên trước quần chúng.
-Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm
còn hữu khuynh, hình thức và chạy theo thành tích, kết quả chưa phản ánh
đúng thực chất. Một số tổ chức cơ sở đảng tuy đạt danh hiệu trong sạch,
vững mạnh, thậm chí trong sạch, vững mạnh trong nhiều năm liền, nhưng
sau khi có đơn thư tố cáo, cấp trên kiểm tra thì phát hiện có cán bộ, đảng
viên tham nhũng, tiêu cực, vi phạm đạo đức, lối sống, phải xử lý kỷ luật;
khi có vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở thì không thể hiện được vai trò lãnh
đạo của tổ chức đảng.
III-Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng để xây dựng, củng
cố và kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng. Liên hệ thực tế
1.Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng để xây dựng, củng cố,
kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng trong giai đoạn hiện nay


1.1.Đổi mới phương thức lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ cơ sở
Một là, đổi mới việc ra nghị quyết của đảng bộ, chi bộ của cấp ủy
đảng theo hướng dân chủ hóa, khoa học hóa quá trình hình thành nghị
quyết, nhất là đối với những vấn đề lớn, liên quan tới cuộc sống và quyền
lợi của đông đảo nhân dân. Khi xây dựng nghị quyết cần nắm vững quan

điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của TƯ, tổng kết thực tiễn về vấn
đề ra nghị quyết, hình thành dự thảo nghị quyết, lấy ý kiến đóng góp của
nhân dân, của các tổ chức chính trị - xã hội.
Những chủ trương công tác thuộc thẩm quyền quyết định của chính
quyền và đoàn thể thì chính quyền và đoàn thể chủ động đề xuất, cấp ủy
đảng bàn và có ý kiến về những nội dung quan trọng.
Hai là, xây dựng và thực hiện quy chế làm việc giữa bí thư cấp ủy
với chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND, chủ tịch UBMTTQ và những người
đứng đầu các đoàn thể để bàn và giải quyết kịp thời những công việc quan
trọng và bức xúc trên địa bàn, bảo đảm cho cấp ủy đảng quán xuyến được
các mặt công tác ở cơ sở.
Ba là, đảng bộ, chi bộ và cấp ủy đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ gồm nhiều thế hệ bổ sung, kế tiếp nhau thông qua việc rèn luyện đội ngũ
đảng viên có đức, có tài, có thể đảm đương các vị trí công tác trong hệ
thống chính trị. Dựa vào dân và thông qua hoạt động thực tiễn ở cơ sở để
phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và kiểm tra cán bộ.
Bốn là, bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng đối với các cuộc
bầu cử ở cơ sở, trước hết là bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng
nguyên tắc, tiêu chuẩn.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành nghị
quyết của Đảng; kiểm tra công tác, đồng thời kiểm tra tư cách đảng viên.
Chú trọng tìm hiểu, lắng nghe ý kiến nhận xét, đánh giá của quần chúng đối
với đảng viên và tổ chức đảng thông qua việc thực hiện quy chế dân chủ ở


cơ sở. Hàng năm, bí thư cấp ủy, chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND tự phê
bình trước đại diện của nhân dân.
1.2.Chăm lo phát triển tổ chức cơ sở đảng, nhất là ở những địa bàn,
lĩnh vực trọng yếu những nơi chưa có tổ chức đảng
Những địa phương còn nhiều thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, trường học,

doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng cần thực hiện một số biện pháp sau:
Một là, tập trung lãnh đạo xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng
hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức
Công đoàn và các tổ chức xã hội khác để tập hợp quần chúng, xây dựng cốt
cán. Thông qua hoạt động của các đoàn thể mà phát hiện, lựa chọn những
đoàn viên, hội viên ưu tú để bồi dưỡng, tạo nguồn kết nạp đảng viên;
Hai là, cấp ủy cấp trên trực tiếp của cơ sở phân công cấp ủy viên và
đảng viên là cán bộ lãnh đạo các ban, ngành, đoàn thể phụ trách từng đơn
vị. Cấp ủy cơ sở giao nhiệm vụ cụ thể cho các chi bộ có điều kiện thuận lợi
nhất, phân công đảng viên thực hiện việc phát hiện, bồi dưỡng, giúp đỡ
quần chúng phấn đấu vào Đảng, hoặc luân chuyển cán bộ, đảng viên từ nơi
khác đến để góp phần thành lập chi bộ;
Ba là, những đảng viên đã làm việc ổn định, lâu dài ( từ một năm trở
lên) trong trường học, bệnh viện ngoài công lập, doanh nghiệp ngoài quốc
doanh nhưng vẫn sinh hoạt đảng ở nơi cư trú phải chuyển sinh hoạt đảng vè
nơi làm việc ( nếu nơi đó có tổ chức đảng); ở những nơi chưa có tổ chức
đảng, cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng thành lập chi bộ
riêng đặt trực thuộc đảng ủy cơ sở thuận lợi nhất để đảng viên tham gia
sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
1.3.Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức và nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ theo Chỉ thị của Ban Bí thư
Một là, các chi ủy, chi bộ phải duy trì và thực hiện nghiêm túc, có
nền nếp chế độ sinh hoạt định kỳ theo quy định của Điều lệ Đảng và thực
hiện việc đóng đảng phí vào các buổi sinh hoạt chi bộ hàng tháng. Các buổi


sinh hoạt chi bộ nhất thiết phải bố trí thư ký để ghi chép trung thực, đầy đủ
ý kiến thảo luận của đảng viên và kết luận của đồng chí chủ trì hội nghị.
Cuối buổi sinh hoạt, chi bộ phải thông qua nghị quyết hoặc ý kiến kết luận
của đồng chí chủ trì; đồng chí chủ trì và thư ký hội nghị phải ký vào sổ ghi

biên bản cuộc họp chi bộ.
Hai là, chi ủy mà trước hết là đồng chí bí thư chi bộ phải chủ động
và chuẩn bị kỹ nội dung sinh hoạt chi bộ, đồng thời báo trước nội dung,
thời gian, địa điểm cho đảng viên biết để chủ động bố trí thời gian dự sinh
hoạt và chuẩn bị ý kiến phát biểu. Chi ủy cần thông qua nhiều kênh, nhiều
nguồn thông tin khác nhau để nắm tình hình tư tưởng, việc thực hiện nhiệm
vụ của đảng viên và những vấn đề có liên quan đến phẩm chất, đạo đức của
cán bộ, đảng viên, quần chúng trong đơn vị. Kịp thời biểu dương, động
viên những đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; nhắc nhở, giúp đỡ
những đảng viên vi phạm.
Ba là, các cấp ủy, đảng bộ, chi bộ cơ sở và chi bộ trực thuộc đảng ủy
cơ sở thực hiện nghiêm túc, có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng định kỳ; tích
cực đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt cho thiết thực, phù hợp với tình
hình cụ thể của chi bộ trong từng loại hình tổ chức cơ sở đảng.
Bốn là, trong sinh hoạt chi bộ phải thực sự mở rộng và phát huy dân
chủ; mọi đảng viên phải thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân
chủ; chi bộ cần giành nhiều thời gian thỏa đáng để đảng viên trong chi bộ
phát biểu và thể hiện chính kiến của mình. Những vấn đề cần biểu quyết
nhưng đang còn có những ý kiến khác nhau, chi bộ nên trao đổi, thảo luận
kỹ để tạo sự thống nhất trước khi biểu quyết. Trong khi trao đổi mọi đảng
viên đều có quyền phát biểu và thể hiện chính kiến của mình, nhưng khi chi
bộ đã biểu quyết thông qua thì mọi đảng viên đều phải nói và làm theo
nghị quyết của chi bộ, không được tuyên truyền quan điểm, ý kiến của
riêng mình.


Năm là, chi ủy cần chủ động chuẩn bị nội dung và tăng cường hình
thức sinh hoạt chi bộ theo chuyên đề để nội dung sinh hoạt chi bộ phong
phú, hấp dẫn, tránh xơ cứng, đơn điệu và góp phần nâng cao nhận thức cho
đảng viên.

Sáu là, cấp ủy cấp trên cần thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ, kinh
nghiệm thực tiễn và cập nhật những thông tin, kiến thức mới cho các cấp
ủy viên, mà trước hết là bí thư các chi bộ.
1.4.Quán triệt nguyên tắc đánh giá đúng chất lượng tổ chức cơ sở
đảng hàng năm
Một là, cấp ủy cấp trên, nhất là cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức
cơ sở đảng phải tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiển tra và thẩm
định chặt chẽ việc tổ chức thực hiện ở cơ sở, đồng thời phải chịu trách
nhiệm trước cấp ủy cấp trên về kết quả đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở
đảng.
Hai là, trong nội dung đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng phải
tiến hành liên hệ, kiểm điểm, đánh giá về nhận thức, trách nhiệm lãnh đạo,
chỉ đạo và những kết quả cụ thể trong việc tổ chức thực hiện Cuộc vận
động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của cấp ủy, tổ
chức đảng.
Ba là, đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng phải căn cứ vào kết
quả thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao; chất lượng hoạt động và sự
vững mạnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở; đồng thời kết
hợp với phương pháp chấm điểm và thông báo công khai để cán bộ, đảng
viên, nhân dân biết, tham gia ý kiến trước khi cấp ủy có thẩm quyền quyết
định công nhận.
Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng theo hướng dẫn mới
được xếp thành bốn mức sau:
-Tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh: là những đảng bộ, chi
bộ thực hiện tốt bốn nội dung đánh giá và đạt từ 90 điểm trở lên, đồng thời


phải bảo đảm các tiêu chí sau: Hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị
đề ra, nhất là những nhiệm vụ trọng yếu; tổ chức chính quyền và các tổ
chức chính trị - xã hội ở cơ sở đạt tiêu chuẩn vững mạnh hoặc tiên tiến xuất

sắc, không có cấp ủy viên, cán bộ là cấp trưởng, cấp phó của tổ chức chính
quyền, các tổ chức chính trị xã hội ở cơ sở bị xử lý kỷ luật từ khiển trách
trở lên. Tỷ lệ đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt từ 80% trở
lên; nếu là đảng bộ cơ sở phải có từ 80% trở lên số chi bộ trực thuộc đạt
trong sạch, vững mạnh, không có chi bộ yếu kém, các chi bộ sinh hoạt đều,
đúng quy định và tỷ lệ đảng viên dự sinh hoạt bình quân trong năm đạt từ
80% trở lên.
-Tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ là những đảng bộ, chi
bộ thực hiện tốt bốn nội dung đánh giá nhưng chưa đạt mức trong sạch,
vững mạnh và đạt được từ 70 đến dưới 90 điểm.
-Tổ chức cơ sở đảng hoàn thành nhiệm vụ là những đảng bộ, chi bộ
cơ bản thực hiện được bốn nội dung đánh giá và đạt từ 50 đến dưới 70
điểm.
-Tổ chức cơ sở đảng yếu kém là những đảng bộ, chi bộ có tổng số
điểm dưới 50 hoặc có một trong những khuyết điểm sau: không hoàn thành
nhiệm vụ chính trị được giao; nội bộ mất đoàn kết hoặc có các vụ tiêu cực
xảy ra nhưng không để tồn đọng kéo dài, không xử lý kiên quyết, dứt điểm.
Để xảy ra tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, thất thoát vốn, tài sản của Nhà
nước, của tập thể hoặc để xảy ra những vụ việc gây thiệt hại về người và tài
sản đến mức có cán bộ, đảng viên phải xử lý kỷ luật. Đảng bộ cơ sở có từ
1/3 trở lên số chi bộ trực thuộc xếp loại yếu kém.
2.Liên hệ thực tế
Đảng bộ huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định có 115 chi bộ với 3.100
đảng viên. Các tổ chức cơ sở đảng và chi bộ ở thôn được củng cố, sắp xếp
hợp lý. Đến nay, 100% số thôn của huyện có chi bộ độc lập. Lãnh đạo và
chuyên viên các Ban xây dựng Đảng duy trì tốt chế độ tham gia sinh hoạt


chi bộ ở cơ sở, vì vậy chất lượng sinh hoạt chi bộ được nâng cao, nhất là
sinh hoạt các chuyên đề gắn với nội dung thực hiện Cuộc vận động Học tập

và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Qua đó, đảng viên phản ánh
kịp thời tâm tư, nguyện vọng với cấp ủy. Công tác phát triển đảng viên
được quan tâm, nhất là những thôn có ít đảng viên, năm 2010 đã kết nạp
180 đảng viên và quý I, năm 2011, kết nạp thêm 29 đảng viên mới. Công
tác đánh giá tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được chú trọng, sát với tình
hình thực tế. Năm 2010 có 35/42 tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững
mạnh, chiếm 83%, trong đó có 7 tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh
tiêu biểu.
Bên cạnh những thuận lợi, công tác xây dựng, phát triển đảng viên ở
huyện Nghĩa Hưng vẫn gặp không ít khó khăn. Với chỉ tiêu hàng năm kết
nạp từ 170 đến 200 đảng viên nhưng rất thiếu nguồn để giới thiệu cho
Đảng, vì lực lượng chủ yếu là thanh niên, song phần lớn là họ đi làm ăn
xa...Trong thời gian tới, Huyện ủy sẽ tổ chức các buổi tọa đàm, đối thoại
trực tiếp với đoàn viên, thanh niên địa phương để nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng của họ, từ đó tìm cách khắc phục những khó khăn để tìm nguồn phát
triển đảng viên.


C-KẾT LUẬN
Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ
sở. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phụ thuộc vào chất lượng
của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Tổ chức cơ sở đảng vững
mạnh sẽ là yếu tố quyết định để lãnh đạo xây dựng cơ sở vững mạnh.
Trong những năm qua, quán triệt Nghị quyết của TƯ, của Đảng ủy
Khối về công tác xây dựng Đảng, việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở
đảng trên cả ba mặt chính trị , tư tưởng và tổ chức ở các tổ chức cơ sở đảng
trong Đảng bộ Khối đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nhiều tổ chức cơ sở
đảng đã nắm vững chức năng, nhiệm vụ, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị; góp
phần tích cực và thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và

Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an
ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; thể hiện vai trò hạt nhân chính
trị ở cơ sở, giữ vững lòng tin của quần chúng đối với Đảng.
Tuy nhiên, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ
sở đảng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; việc xây dựng chương
trình, kế hoạch, cụ thể hóa nghị quyết của cấp trên, nhiệm vụ của cơ quan,
bộ, ngành, Mặt trận, các đoàn thể cơ quan trong Khối vào thực tế của cơ
quan, đơn vị còn hạn chế, chưa làm tốt việc lãnh đạo chính quyền các đoàn
thể quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị; công tác kiểm tra, giám sát,
tổng kết thực tiễn chưa có chất lượng cao; chất lượng, nội dung sinh hoạt
Đảng còn hạn chế; tự phê bình và phê bình yếu; một số tổ chức đảng còn
mất đoàn kết nội bộ; việc phối hợp giữa cấp ủy đảng, lãnh đạo cơ quan và
các đoàn thể chưa được thường xuyên, đồng bộ; một bộ phận cán bộ, đảng
viên ngại va chạm, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải, chống chủ nghĩa cá
nhân, chống xa rời quần chúng, chủ quan, tự mãn, bảo thủ, trì trệ, mắc bệnh
thành tích, số khác thiếu tâm huyết với công việc, thiếu gương mẫu, nói


×