Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Luận văn thạc sĩ thực trạng bao thanh toán tại ngân hàng TMCP ngoại thương việt nam giải pháp hoàn thiện và phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
---------♣---------

NGÔ THỊ TUYẾT MAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH - Năm 2008


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
---------♣---------

NGƠ THỊ TUYẾT MAI

Chuyên ngành: Kinh tế - Tài chính – Ngân hàng.
Mã số: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS PHAN MỸ HẠNH

TP. HỒ CHÍ MINH - Năm 2008


CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN
1.


BTT

Bao thanh toán

2.

BTTNK

Bao thanh toán nhập khẩu

3.

BTTXK

Bao thanh toán xuất khẩu

4.

CAD

Cash against document.

5.

D/A

Document against acceptant

6.


DN

Doanh nghiệp

7.

D/P

Document against payment.

8.

ĐLBTTNK

Đại lý bao thanh toán nhập khẩu

9.

ĐLBTTXK

Đại lý bao thanh toán xuất khẩu

10.

ĐBRRTD

đảm bảo rủi ro tín dụng

11.


FCI

Factors Chain International

12.

FDI

Foreign direct investment.

13.

GDP

Gross domestic product.

14.

L/C

Letter of credit.

15.

NH

Ngân hàng

16.


NHNN

Ngân hàng nhà nước

17.

NHNT

Ngân hàng ngoại thương.

18.

NHTM

Ngân hàng thương mại

19.

NHNT VN

Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.

20.

XNK

Xuất nhập khẩu.

21.


T/T

Telegraphic transfer.

22.

WTO

World trade oganization


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong xu thế tình hình kinh tế thế giới ngày càng toàn cầu hóa và hội nhập,
quan hệ thương mại, đầu tư giữa các nước trên thế giới trở nên rộng rãi và liên hiệp
với nhau trong phạm vi toàn thế giới hoặc từng khu vực. Việc Việt Nam gia nhập
WTO đã tạo ra một sân chơi mới, một môi trường mới thuận lợi hơn để phát triển
các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động của các tổ chức tài chính
nói riêng. thị trường tài chính đang mở rộng phạm vi hoạt động, vừa tạo điều kiện
tăng cường hợp tác, vừa cạnh tranh gay gắt.
Theo cam kết đàm phán song phương Việt - Mỹ về gia nhập WTO, ngày
1/4/2007 là mốc đánh dấu việc mở cửa hoàn toàn thị trường ngân hàng Việt Nam.
kể từ thời điểm đó, loại hình ngân hàng con 100% vốn nước ngoài được phép tồn tại
và được đối xử bình đẳng như các ngân hàng nội địa. Như vậy, thị trường ngân
hàng Việt Nam sẽ bao gồm các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng liên
doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân
hàng 100% vốn nước ngoài.
Trong tiến trình hội nhập, các ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng
phải cạnh tranh trực tiếp để tồn tại và phát triển. Để có thể tồn tại, để duy trì lợi
nhuận và tăng năng lực cạnh tranh đòi hỏi các ngân hàng trong nước phải đổi mới

và phát triển về mọi mặt, như: vốn, công nghệ, dịch vụ, cơ cấu tổ chức, trình độ
quản lý, nguồn nhân lực, chất lượng hoạt động của hệ thống quản trị rủi ro tín dụng
…. Trong giai đoạn nền kinh tế thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp,
tăng trưởng kinh tế sụt giảm, lạm phát tăng cao, lãi suất huy động cao trong khi lãi
suất cho vay bị khống chế, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc …, với chính sách thắt chặt
tiền tệ này đã làm cho hoạt động cho vay của ngân hàng hầu như không mang lại lợi
nhuận, thậm chí chấp nhận lỗ trong công tác huy động để đảm bảo tính thanh
khoản. Trước những diễn biến bất lợi từ hoạt động tín dụng, các ngân hàng tăng
cường cung cấp dịch vụ với chất lượng tốt nhất, nghiên cứu ứng dụng các sản phẩm
mới để đưa vào khai thác. Trong đó, bao thanh toán cũng là một sản phẩm dịch vụ


mới được phát triển tại thị trường Việt Nam. Vậy, bao thanh toán là gì? Nó mang lại
lợi ích gì cho người sử dụng? sản phẩm đã phổ biến ở Việt Nam chưa? Những thuận
lợi và khó khăn nào vấp phải khi triển khai sản phẩm? …. Chính vì vậy tôi chọn đề
tài “Thực trạng bao thanh toán tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Namgiải pháp hoàn thiện và phát triển” làm đề tài nghiên cứu.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Đề tài nghiên cứu giải quyết 3 vấn đề cơ bản như sau:
• Khái quát các vấn đề cơ bản về lịch sử hình thành, về các định nghĩa nghiệp
vụ bao thanh toán cũng như các lợi ích và hạn chế của nghiệp vụ này mang
lại, khách hàng mục tiêu của nghiệp vụ bao thanh toán và cách phân loại bao
thanh toán.
• Khái quát tình hình hoạt động bao thanh toán toàn cầu nói chung và bao
thanh toán trong nước nói riêng, sự cần thiết phải phát triển nghiệp vụ này tại
Việt Nam, quy trình hoạt động và một số khó khăn khi thực hiện nghiệp vụ
bao thanh toán tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam.
• Đề xuất một số giải pháp có thể áp dụng trong thực tiễn để phát triển và hoàn
thiện nghiệp vụ bao thanh toán tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:

• Đối tượng nghiên cứu: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
• Phạm vi nghiên cứu: Việc triển khai và thực hiện sản phẩm bao thanh toán
tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam nói riêng và các ngân hàng
trong cả nước nói chung.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp nghiên cứu
thống kê, so sánh, phân tích…đi từ cơ sở lý thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết
và làm sáng tỏ mục đích đặt ra trong luận văn.
5. KẾT CẤU LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia làm 3 chương, cụ thể:


Chương 1: Cơ sở lý luận chung về nghiệp vụ bao thanh toán (factoring)
Chương 2: Thực trạng hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam
Chương 3: Những giải pháp nhằm phát triển và hoàn thiện hoạt động bao thanh
toán tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam


1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ
BAO THANH TOÁN (FACTORING)

1.1

SƠ LƯỢC VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN (FACTORING)
1.1.1 Lịch sử hình thành
Nghiệp vụ BTT xuất phát từ hoạt động đại lý hưởng hoa hồng khoảng 2000


năm trước dưới thời đế chế La Mã. Là đại lý, họ nắm giữ quyền sở hữu hàng hóa
của bên ủy nhiệm – bên cung ứng sản phẩm nước ngoài – rồi giao hàng hoá đó cho
người mua trong nước, ghi sổ và thu nợ khi đến hạn, tiến hành chuyển dư nợ cho
bên ủy nhiệm sau khi đã trừ phần hoa hồng của mình
Sự phát triển của nền công nghiệp Anh quốc thế kỷ 14, 15 đã nâng cao tầm
quan trọng của các đại lý BTT. Khi các đại lý dần dần tin cậy vào thiện chí trả nợ,
vào uy tín của người mua trong nước, họ bắt đầu cấp tín dụng cho bên ủy nhiệm
mình (bên bán/nhà xuất khẩu) để thu được hoa hồng nhiều hơn. Với khoản hoa
hồng nhiều hơn này, các đại lý BTT bắt đầu bảo đảm khả năng trả nợ của người
mua bằng cách hứa trả nợ đúng hạn cho người ủy nhiệm trong tương lai, kể cả trong
trường hợp bên mua không trả được nợ đúng hạn. Các đại lý thanh toán dần lớn
mạnh và có đủ vốn bắt đầu ứng trước một phần cho bên ủy nhiệm mình dựa trên số
tiền phải thu của người mua trong tương lai. Dựa trên những khoản ứng trước này
mà đại lý hưởng hoa hồng tính thêm phí hoa hồng hay lãi suất. Để giảm thiểu rủi ro
không thanh toán hay hàng hóa bị hư hỏng, bị giao thiếu mà bên mua hàng không
thanh toán hoặc thanh toán không hết giá trị khoản phải thu mà đại lý BTT không
tạm ứng toàn bộ số tiền doanh thu bán hàng. Phần giữ lại sẽ được thanh toán hết khi
bên mua thanh toán hết cho đại lý BTT.
Vào thời điểm Columbus phát hiện ra Châu Mỹ năm 1492, đại lý BTT phát
triển với cả hai chức năng marketing và chức năng tài chính.
Đến thế kỷ 16, chế độ thực dân Mỹ ra đời và phát triển mạnh, hoạt động mua
bán thông thương phát triển mạnh và cùng với nó là vai trò ngày càng tăng và nhiều
cơ hội mới cho hoạt động BTT phát triển – nó đặc biệt hữu ích với những người


2

thiết lập hoạt động kinh doanh ở Mỹ. Khoảng cách giữa Châu Âu và Mỹ là rất lớn,
nhất là khi Mỹ mở rộng biên giới về phía Tây. Khoảng cách địa lý càng xa càng làm
vòng quay vốn lưu động của nhà sản xuất, người bán chậm lại – bắt đầu từ khâu sản

xuất, giao hàng, chờ thanh toán đến khi được thanh toán: đây là khoản thời gian dài,
các nhà sản xuất/người bán bị chôn vốn và có thể gây khó khăn cho hoạt động kinh
doanh tiếp theo. Do đó, nhà sản xuất/người bán ở Châu Âu thường ủy nhiệm cho
đại lý BTT ở Mỹ các khoản phải thu của mình. Với sự thông thạo thị trường và
những người mua hàng trong nước, các đại lý BTT ở Mỹ đã cung cấp cho các nhà
sản xuất Châu Âu những dịch vụ marketing và tài chính.
Đến cuối thế kỷ 19, Mỹ phát triển thành một quốc gia chủ quyền và ít bị phụ
thuộc vào hàng hóa nước ngoài. Công nghiệp sản xuất của Mỹ phát triển mạnh kéo
theo sự phát triển của hoạt động marketing đã làm cho vai trò marketing của các đại
lý BTT bị giảm đi. Tuy nhiên, một lần nữa các đại lý BTT lại phát triển và điều
chỉnh theo nhu cầu kinh tế mới trong nước, tập trung vào tài chính, tín dụng, thu nợ,
kế toán
Đầu thế kỷ 20, khi nền công nghiệp Mỹ phát triển các ngành may mặc, phụ
kiện, đồ nội thất và thảm thì các đại lý BTT cũng phát triển sang những lĩnh vực
này. Đến giữa thế kỷ 20, nghiệp vụ BTT của Mỹ phát triển sang các ngành như:
điện, hóa chất, sợi tổng hợp.
Ngày nay, nghiệp vụ BTT đã mở rộng ra nhiều ngành nghề khác như: giao
nhận, cung cấp nhân sự, quảng cáo, thiết kế đồ họa …
1.1.2 Khái niệm BTT
Có nhiều định nghĩa khác nhau về BTT:
Theo Từ điển kinh tế (Dictionary of economic – Christopher & Bryan Lones)
“BTT –factoring- là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một công ty tài chính chuyên
nghiệp (công ty mua nợ - factor firm) mua lại các khoản nợ của một công ty với một
số tiền ít hơn giá trị của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa
tiền thu được của số nợ đã mua và giá mua thực tế của món nợ đó. Lợi ích của công


3

ty bán nợ là nhận được tiền ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ trả nợ, hơn nữa

lại tránh được những phiền toái và các chi phí trong việc theo đuổi các con nợ
chậm trả”.
Theo Công ước về BTT quốc tế UNIDROIT 1988 (Unidroit Convention on
Internatonal Factoring) thì: “BTT là một dạng tài trợ tín dụng bằng việc mua bán
các khoản nợ ngắn hạn trong giao dịch thương mại giữa tổ chức tài trợ và bên cung
ứng, theo đó tổ chức tài trợ thực hiện tối thiểu hai trong số các chức năng sau: tài
trợ bên cung ứng gồm cho vay và ứng trước tiền, quản lý sổ sách liên quan đến các
khoản phải thu, thu nợ của các khoản phải thu, bảo đảm rủi ro không thanh toán
của bên mua hàng”.
Theo tổ chức BTT quốc tế - FCI: BTT là một dịch vụ tài chính trọn gói bao
gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, phòng ngừa rủi ro tín dụng, theo dõi các
khoản phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là sự thỏa thuận giữa đơn vị BTT và người
cung ứng hàng hóa dịch vụ hay còn gọi là người bán hàng trong quan hệ mua bán
hàng hóa. Theo như thỏa thuận đơn vị BTT sẽ mua lại khoản phải thu của người
bán dựa trên khả năng trả nợ của người mua trong quan hệ mua bán hàng hóa hay
còn gọi là con nợ trong quan hệ tín dụng.
Ngoài ra, đối với một số tổ chức cung cấp dịch vụ BTT khác thì nghiệp vụ
BTT được định nghĩa là việc mua lại các khoản phải thu, hay việc cung cấp tài trợ
tài chính ngắn hạn thông qua việc trả các khoản phải thu ngay lập tức bằng tiền mặt
để cải thiện dòng ngân lưu của khách hàng đồng thời nhận lấy rủi ro tín dụng. Các
dịch vụ đi kèm gồm có quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, xếp hạng hạn mức tín
dụng và thu hộ.
Tóm lại, BTT là việc người bán hàng chuyển nhượng cho đơn vị BTT tất cả
các quyền và lợi ích liên quan tới những khoản phải thu ngắn hạn(1) của người bán
hàng phát sinh từ việc mua bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ giữa người bán và
người mua để người bán được đơn vị BTT cung cấp ít nhất một trong bốn chức
năng chủ yếu của BTT như sau:
(1)

Trong BTT, ngắn hạn thường được coi là khoảng thời gian từ 6 tháng trở xuống.



4

-

Theo dõi sổ sách bán hàng của người bán

-

Tài trợ dưới dạng tạm ứng cho người bán hàng dựa trên giá trị các khoản

phải thu.
-

Thu nợ hộ

-

Bảo hiểm rủi ro tín dụng 100% tổng giá trị các khoản phải thu.

Rủi ro tín dụng: là rủi ro người mua không thanh toán khoản phải thu đầy
đủ trong vòng 90 ngày(2) kể từ ngày khoản phải thu đó đến hạn thanh toán mà không
có bất kỳ tranh chấp nào giữa người mua và người bán.
Hợp đồng BTT là một hợp đồng, theo đó nhà cung cấp sẽ chuyển nhượng
các khoản phải thu (hay một phần các khoản phải thu) cho một đơn vị BTT để thực
hiện một trong các chức năng: kế toán sổ sách các khoản phải thu, thu nợ các
khoản phải thu, phòng ngừa rủi ro nợ xấu(3)
1.1.3 Các đối tượng tham gia trong nghiệp vụ BTT
Trong một nghiệp vụ BTT thông thường sẽ có ít nhất ba bên tham gia: đơn vị

BTT, khách hàng của đơn vị BTT, và con nợ của đơn vị BTT. Đối với nghiệp vụ
BTT quốc tế thì sẽ có hai đơn vị BTT, một đơn vị ở nước của nhà xuất khẩu, một ở
nước của nhà nhập khẩu. Khi một khách hàng ký hợp đồng thực hiện nghiệp vụ
BTT đối với đơn vị BTT, họ sẽ bán không phải một mà là một số các khoản phải
thu từ nhiều khách hàng khác nhau, do đó trong một nghiệp vụ BTT có thể có rất
nhiều con nợ của đơn vị BTT.
Người mua nợ hay đơn vị BTT: là NH, công ty tài chính chuyên thực hiện
việc mua bán nợ và các dịch vụ khác liên quan đến mua bán nợ.
Người bán nợ hay nhà xuất khẩu: là các DN sản xuất hàng hóa hay kinh
doanh dịch vụ có những khoản nợ chưa đến hạn thanh toán.
Người mắc nợ hay nhà nhập khẩu: là những người phải trả tiền, đó là những
người mua hàng hóa hay nhận các dịch vụ cung ứng.

(2)
(3)

Theo quy định của các hiệp hội BTT quốc tế.
Theo điều 1 của Quy định chung về hoạt động BTT quốc tế, ấn bản tháng 06/2004.


5

1.1.4 Phân loại
1.1.4.1 Dịch vụ BTT đầy đủ
BTT đầy đủ là dịch vụ cung cấp đầy đủ bốn chức năng chủ yếu của dịch vụ
BTT. Như vậy, người bán hàng trả phí và lãi suất cho đơn vị BTT để đổi lại những
lợi ích sau:
-

Không phải quản lý sổ sách bán hàng.


-

Không phải đòi nợ từ con nợ.

-

Không phải cấp tín dụng thương mại hoặc chỉ cấp một phần (ví dụ 20%

hay 30% cho người mua hàng)
-

Vẫn nhận 100% tiền hàng ngay cả khi người mua hàng không thanh toán,

trừ trường hợp có tranh chấp giữa người bán và người mua.
1.1.4.2 Các hình thức BTT khác
1.1.4.2.1 Căn cứ vào chức năng của BTT: có các loại hình BTT sau
Chiết khấu hoá đơn: là dịch vụ BTT chỉ cung cấp chức năng tài trợ (ứng
trước) mà không cung cấp các chức năng còn lại. Người bán tự theo dõi sổ sách bán
hàng, thu nợ từ người mua và chuyển tiền thanh toán cho đơn vị BTT. Người bán tự
chịu rủi ro khi người mua không thanh toán. Đôi khi, người ta hay gọi chiết khấu
hoá đơn là BTT kín vì người mua không hề hay biết gì về việc người bán đã chuyển
nhượng các khoản phải thu cho đơn vị BTT.
BTT trung gian: tương tự như nghiệp vụ chiết khấu hoá đơn, nhưng người
mua được thông báo về việc người bán đã chuyển nhượng các khoản phải thu cho
đơn vị BTT để tăng mức độ an toàn cho đơn vị BTT.
BTT đến hạn: là dịch vụ BTT cung cấp tất cả các chức năng BTT trừ chức
năng tài trợ.
BTT thu hộ: dịch vụ BTT này chỉ cung cấp chức năng thu hộ các khoản phải
thu phát sinh trong một khoảng thời gian nhất định trước ngày đơn vị BTT đồng ý

cung cấp dịch vụ. Người bán có trách nhiệm theo dõi sổ sách và thu nợ cho đến
ngày đó. Đơn vị BTT chỉ thu hộ tất cả các khoản phải thu hiện có tại thời điểm đồng


6

ý cung cấp dịch vụ và sẽ không thu những khoản phải thu phát sinh sau thời điểm
này.
BTT có quyền truy đòi: là hình thức BTT mà đơn vị BTT có quyền truy đòi
lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi con nợ/bên mua hàng không có khả
năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán các khoản phải thu.
BTT miễn truy đòi: là hình thức BTT mà đơn vị BTT chịu toàn bộ rủi ro khi
bên mua hàng/con nợ không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán các khoản
phải thu. Đơn vị BTT chỉ có quyền đòi lại số tiền ứng trước cho người bán trong
trường hợp bên mua hàng từ chối thanh toán khoản phải thu do bên bán hàng giao
hàng không đúng hợp đồng hay vì một lý do nào khác mà không liên quan đến khả
năng thanh toán của bên mua hàng
1.1.4.2.2 Căn cứ vào phạm vi hoạt động địa lý: có hai loại
BTT trong nước: là hình thức cấp tín dụng của các NHTM hay công ty tài
chính chuyên nghiệp cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu
phát sinh từ việc mua bán hàng hóa đã được hai bên mua hàng và bên bán hàng thỏa
thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó bên bán hàng và bên mua hàng là
người cư trú trong cùng một quốc gia.
BTT quốc tế: là hình thức cấp tín dụng của các NHTM hay công ty tài chính
chuyên nghiệp cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát
sinh từ việc mua bán hàng hóa đã được bên mua hàng và bên bán hàng thỏa thuận
trong hợp đồng mua bán hàng hóa, mà việc mua bán hàng hóa vượt ra khỏi phạm vi
một quốc gia.
1.1.4.2.3 Căn cứ vào phạm vi áp dụng BTT đối với số lượng các hoá
đơn của một người bán hàng cụ thể: có hai loại

BTT toàn bộ: là dịch vụ BTT áp dụng đối với toàn bộ các hoá đơn thương
mại phát hành ra của một người bán hàng hoặc toàn bộ hoá đơn thương mại của
người bán phát ra để đòi tiền một hoặc một số người mua hàng.
BTT một phần: là dịch vụ BTT áp dụng đối với một số hoá đơn của người
bán phát hành để đòi tiền một hoặc một số người mua hàng.


7

1.1.4.2.4 Căn cứ vào phạm vi giao dịch của đơn vị BTT với người mua
hàng: có hai loại
BTT kín: là dịch vụ BTT cung cấp cho người bán nhưng người mua không
hay biết về việc người bán đã chuyển nhượng các khoản phải thu cho đơn vị BTT.
Người mua thanh toán tiền hàng cho người bán như thông lệ và người bán chuyển
số tiền hàng này cho đơn vị BTT.
BTT công khai: là dịch vụ BTT được cung cấp cho người bán đồng thời
người mua được thông báo về việc người bán chuyển nhượng các khoản phải thu
cho đơn vị BTT. Người mua thanh toán tiền hàng trực tiếp cho đơn vị BTT.
1.1.4.2.5 Căn cứ vào phương thức BTT: có ba loại
BTT từng lần: là hình thức BTT mà tương ứng với từng lần thực hiện mua
bán hàng hóa giữa bên bán hàng và bên mua hàng theo những thỏa thuận trong hợp
đồng mua bán, đơn vị BTT và bên bán hàng thực hiện các thủ tục cần thiết và ký
hợp đồng BTT đối với khoản phải thu của bên bán hàng.
BTT hạn mức: đơn vị BTT xem xét, đánh giá năng lực, uy tín của người bán
trên cơ sở đó sẽ cấp cho bên bán hàng một hạn mức BTT duy trì trong một khoảng
thời gian nhất định.
Đồng BTT: là phương thức BTT mà hai hay nhiều đơn vị BTT cùng thực
hiện hoạt động BTT cho một hợp đồng mua bán hàng hóa (do số tiền ứng trước cho
bên bán hàng lớn hơn tỷ lệ an toàn trên vốn điều lệ hoạt động của đơn vị BTT đó
theo quy định của pháp luật), trong đó một đơn vị BTT làm đầu mối thực hiện việc

tổ chức đồng BTT.
1.1.4.2.6 Căn cứ vào cách thức thực hiện
Phương thức BTT truyền thống: bên bán và bên mua sẽ liên hệ với đơn vị
BTT để biết chắc được rằng đơn vị BTT có mua lại các khoản phải thu cho bên bán
hay không trước khi thực hiện mua bán theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán.
Phương thức BTT đảo: theo đó đơn vị BTT sẽ tiến hành xây dựng những
tiêu chuẩn chung cho bên mua và bên bán đủ điều kiện thực hiện BTT tại đơn vị
BTT đó. Trên cơ sở chấm điểm xếp hạng DN, đơn vị BTT sẽ cấp hạn mức BTT cho


8

cả bên bán và bên mua. Nếu những giao dịch mua bán phát sinh mà bên mua và bên
bán nằm trong tiêu chuẩn chung thì đơn vị này sẽ tiến hành thực hiện BTT, miễn là
tổng số tiền ứng trước nằm trong hạn mức BTT đã cấp.
1.1.5 Những lợi ích và hạn chế của nghiệp vụ BTT.
1.1.5.1 Đối với người bán:
Lợi ích:
-

Duy trì được sức cạnh tranh thông qua việc cho phép người mua thanh

toán theo phương thức ghi sổ (người bán cung cấp tín dụng cho người mua)
-

Có thông tin đúng và kịp thời về người mua hàng, nắm được hạn mức tín

dụng thực tế của người mua hàng.
-


Thời gian liên lạc để thanh toán sẽ nhanh hơn do người mua hàng đã có

sẵn hạn mức.
-

Được tài trợ vốn lưu động trên cơ sở doanh thu bán hàng để quay vòng

sản xuất và tăng trưởng nhanh hơn.
-

Có nguồn tài chính mới mà không phụ thuộc vào các khoản vay NH,

không yêu cầu phải có tài sản đảm bảo.
-

Tăng dự trữ hàng tồn kho.

-

Giảm chi phí hành chính vì chỉ phải làm việc với một đơn vị BTT mặc dù

bán hàng đi nhiều vùng, nhiều nước khác nhau.
-

Những khó khăn về bất đồng ngôn ngữ được đơn vị BTT san sẻ.

-

Có thể giảm được rủi ro về tỷ giá hối đoái.


-

Được bảo hiểm rủi ro tín dụng 100% giá trị hóa đơn.

-

Loại trừ được tổn thất do nợ xấu.

-

Báo cáo tài chính sẽ không có những khoản nợ xấu, luồng tiền mặt ổn

định.
Hạn chế:
-

Mối quan hệ của DN với các khách hàng của mình có thể bị ảnh hưởng

bởi đơn vị BTT.


9

-

Khi có tranh chấp xảy ra giữa người mua và người bán đối với một hoặc

một số giao dịch, đơn vị BTT sẽ không thanh toán/tạm ứng hoặc truy đòi lại những
khoản đã thanh toán/tạm ứng cho những giao dịch tranh chấp đó. Tuy nhiên, đơn vị
BTT sẽ hỗ trợ người bán trong việc giải quyết tranh chấp với người mua.

1.1.5.2 Đối với người mua
Lợi ích:
Nhìn chung, lợi ích mà người mua thu được khi tham gia BTT không nhiều
như người bán. Song, đối với những người mua uy tín, thực sự muốn nhận hàng và
thanh toán tiền thì khi tham gia vào nghiệp vụ BTT sẽ được hưởng một số lợi ích
sau:
-

Có được niềm tin với đối tác bán hàng

-

Có thể mua hàng theo điều khoản thanh toán sau, sử dụng tín dụng người

bán để tài trợ vốn lưu động
-

Không tốn chi phí và thời gian để mở L/C;

-

Tăng sức mua hàng mà vẫn không vượt quá hạn mức tín dụng cho phép;

-

Có thể nhanh chóng đặt hàng mà không bị trì hoãn, không tốn phí thương

-

Trong trường hợp hàng hóa giao không đúng quy cách thì họ cũng hoàn


lượng
hoàn có thể từ chối nhận hàng mà không bị ràng buộc gì.
-

Đơn giản hóa thủ tục thanh toán vì đã có đơn vị BTT đảm nhận.

-

Được đơn vị BTT san sẻ những khó khăn về bất đồng ngôn ngữ.

Hạn chế:
Giá hàng thanh toán theo phương thức BTT có thể cao hơn so với việc sử
dụng các phương thức thanh toán L/C. Giá hàng tăng lên nhằm mục đích bù đắp cho
người bán phần phí thanh toán mà lẽ ra người mua phải chịu khi sử dụng phương
thức thanh toán L/C.
1.1.5.3 Đối với đơn vị BTT
Lợi ích:
-

Đa dạng hoá hoạt động của đơn vị BTT (thường là các NH, công ty tài

chính), làm tăng khả năng cạnh tranh.


10

-

Tăng thu nhập cho NH hay đơn vị BTT qua phí BTT, phí gia hạn, lãi suất


ứng trước.
-

Đơn vị BTT quản lý sổ cái bán hàng, hóa đơn bán hàng nên sẽ kiểm soát

được các khoản phải thu nhờ đó sẽ giảm thiểu rủi ro thu hồi nợ. Nếu thực hiện hoạt
động BTT thường xuyên thì tổ chức BTT sẽ kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh
doanh của khách hàng hiện có, mở rộng quy mô hoạt động và có thể tiếp thị được
những khách hàng tiềm năng trong tương lai.
-

Có thể giảm rủi ro thanh toán bằng cách áp dụng BTT có truy đòi.

-

Phát triển mạng lưới khách hàng trong nước và quốc tế.

-

Được hưởng lợi ích kinh tế theo quy mô: Các đơn vị BTT cung cấp dịch

vụ này cùng lúc cho nhiều khách hàng nên xét về quy mô sẽ giảm được chi phí cố
định liên quan đến các khách hàng đó. Các đơn vị BTT lớn nhất và nhiều kinh
nghiệm nhất sẽ đứng ra làm đơn vị cung cấp thông tin về tín dụng quy mô nhất, bổ
sung vào các dịch vụ tương tự hiện có của các trung tâm dữ liệu tín dụng thương
mại tư nhân và quốc doanh. Đơn vị này cũng sẽ hưởng được lợi ích kinh tế theo quy
mô nhờ trao đổi thông tin với các trung tâm trên.
Hạn chế:
• Khi quá hạn các khoản phải thu mà người mua không thanh toán hoặc

mất khả năng thanh toán:
-

Trong trường hợp dịch vụ BTT miễn truy đòi được áp dụng, đơn vị BTT

phải chịu toàn bộ rủi ro tín dụng.
-

Trong trường hợp áp dụng các dịch vụ BTT khác BTT miễn truy đòi, đơn

vị BTT tuy có quyền truy đòi lại các khoản tiền đã tạm ứng/thanh toán cho người
bán nhưng người bán không hoàn trả hoặc bị mất khả năng thanh toán.
• Khi có tranh chấp xảy ra giữa người mua và người bán:
-

Người bán bị chứng minh hoặc bị phán quyết là có lỗi, đơn vị BTT có

quyền truy đòi người bán số tiền đã tạm ứng/thanh toán nhưng người bán không
hoàn trả hoặc mất khả năng thanh toán.


11

-

Người mua bị chứng minh hoặc bị phán quyết là có lỗi, người mua phải

thanh toán toàn bộ tiền hàng và các chi phí kiện tụng nhưng người mua không thanh
toán hoặc bị mất khả năng thanh toán.
1.1.5.4 Đối với nền kinh tế:

Lợi ích:
-

BTT tạo ra môi trường kinh doanh ổn định hơn cho toàn bộ nền kinh tế,

tạo tâm lý yên tâm, tự tin cho các DN khi sản xuất kinh doanh.
-

BTT đẩy mạnh thương mại, sản xuất và đặc biệt là XNK của quốc gia,

tăng thu nhập cho nền tài chính.
-

BTT thúc đẩy đầu tư có hiệu quả nguồn vốn của nền kinh tế, bao gồm

nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.
1.1.5.5 Đối với xã hội
BTT giúp tạo ra một nền kinh tế ổn định hơn và vì thế sẽ cho một hệ quả tất
yếu là xã hội sẽ ổn định hơn với việc tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, chất
lượng lao động sẽ ngày được nâng cao.
1.1.6 Khách hàng mục tiêu của dịch vụ BTT.
BTT chỉ được áp dụng cho một số ngành nghề nhất định, chứ không phải tất
cả các DN và tất cả các sản phẩm đều sử dụng được dịch vụ BTT. Do đó, một số
tiêu chuẩn được đưa ra để xác định “tính BTT được” của một sản phẩm và một DN.
1.1.6.1 Tính có thể BTT được của sản phẩm.
Việc phát triển dịch vụ BTT nhằm đáp ứng nhu cầu cấp tín dụng thương mại
ngắn hạn của người bán cho người mua, nên những sản phẩm có thể BTT được phải
đảm bảo:
-


Các khoản nợ phát sinh từ việc bán các sản phẩm đó có thể thu được từ

người mua một cách không điều kiện mà không cần có sự tham gia của người bán.
Những sản phẩm phù hợp nhất với dịch vụ BTT là nguyên vật liệu, linh kiện và
hàng tiêu dùng. Những sản phẩm này không yêu cầu các dịch vụ hậu mãi và bảo trì,
bảo hành. Nghĩa là các sản phẩm này được sản xuất, bán đi và người bán không
phải quan tâm đến sản phẩm đó nữa. Vì vậy, một sản phẩm có thể BTT được phải là


12

những hàng hóa hữu hình/dịch vụ hoàn chỉnh (toàn bộ hàng hóa/dịch vụ phải được
hoàn thành vào thời điểm giao hàng hoặc nghiệm thu dịch vụ).
-

Các hóa đơn phải chuyển nhượng được, phải thu nợ được một cách

không điều kiện. Hóa đơn phải đại diện cho một giao dịch bán hàng thực sự của một
sản phẩm hoặc một hàng hóa hữu hình/dịch vụ hoàn chỉnh.
-

Trong trường hợp người bán bị phá sản, những hóa đơn đến hạn phải giữ

được giá trị của chúng, nghĩa là chúng sẽ không có tranh chấp, kiện tụng và do đó
sẽ không bị mất giá trị.
1.1.6.2 “Tính có thể BTT được” của DN.
• Đối với DN bán hàng
-

Sản phẩm có thể BTT được


-

Đang bán hàng hoặc đang bị người mua yêu cầu bán hàng theo phương

thức thanh toán ghi sổ hoặc D/A.
-

Tình hình tài chính, kinh doanh tốt.

-

Trình độ quản lý tốt.

-

Có kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu sản phẩm.

-

Có mối quan hệ truyền thống tốt với các bên mua hàng (thời gian, khối

lượng và chất lượng giao dịch, phương thức thanh toán thường sử dụng, tình hình
thanh toán giữa các bên).
-

Truyền thống giao dịch tốt với NH, các đơn vị BTT, bảo hiểm rủi ro, tín

dụng khác.
• DN mua hàng

-

Tình hình tài chính, kinh doanh và uy tín tín dụng tốt.

-

Có uy tín và kinh nghiệm trên thị trường về sản phẩm được BTT.

-

Trình độ quản lý tốt.

Đơn vị BTT phải xem xét “tính có thể BTT được” của cả người mua và
người bán để đưa ra quyết định của mình. Trong BTT quốc tế, do mức độ phức tạp
và khó khăn hơn BTT nội địa nên ngoài các tiêu chuẩn chung của BTT, các khách


13

hàng tiềm năng còn phải thỏa mãn các tiêu chí đánh giá chặt chẽ và chi tiết hơn của
BTT quốc tế.
Các khoản phải thu sau đây không được BTT:
-

Phát sinh từ hợp đồng mua bán các hàng hóa bị pháp luật cấm

-

Phát sinh từ các giao dịch, các thỏa thuận bất hợp pháp


-

Phát sinh từ các giao dịch, các thỏa thuận đang có tranh chấp

-

Phát sinh từ các hợp đồng bán hàng dưới hình thức ký gửi

-

Phát sinh từ các hợp đồng mua, bán hàng hóa có thời hạn còn lại dài hơn

180 ngày.

1.2

-

Các khoản phải thu đã được gán nợ hoặc cầm cố thế chấp.

-

Các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng mua, bán hàng.

Tình hình hoạt động BTT trên thế giới
Trên thế giới đến cuối năm 2007 đã có hơn 1.000 đơn vị BTT với hai hiệp

hội BTT quốc tế là FCI và IFG. Trong đó FCI có hơn 236 thành viên thuộc 63 quốc
gia và vũng lãnh thổ. Theo số liệu cập nhật của FCI thì tổng doanh thu BTT năm
2007 của thế giới là 1,299,127 triệu EUR, trong đó BTT nội địa đạt 1,153,131 triệu

EUR, BTT quốc tế 145,996 triệu EUR.
Bảng 1.2 Doanh số BTT thế giới (2003-2007)

ĐVT: triệu

EUR
Loại hình

2003

2004

BTT nội địa

712,657

791,950

BTT quốc tế

47,735
760,392

Tổng số

2005

% tăng

2006


2007

930,061

1,030,598

1,153,131

11,89

68,265

86,486

103,690

145,996

40,80

860,215

1,016,547

1,134,288

1,299,127

14,53


so 2006

Nguồn: www.factors-chain.com
Doanh số BTT nội địa năm 2007 tăng 11,89% so với cùng kỳ năm 2006,
trong khi đó doanh số BTT quốc tế năm 2007 lại tăng 40,80% so với cùng kỳ năm
2006. Điều này cho thấy BTT quốc tế đang ngày càng được nhiều khách hàng sử
dụng.


14

Biểu đồ 1: Doanh số BTT thế giới (2003-2007)

Doanh số BTT (triệu EUR)

1,400,000
1,200,000
1,000,000
BTT nội địa

800,000

BTT quốc tế

600,000

Tổng số

400,000

200,000
0
2003

2004

2005

2006

2007

Bảng 1.3: Doanh số BTT của các châu lục (2002-2007)

ĐVT: triệu

EUR
Châu lục

2002

2003

2004

2005

2006

2007


Châu Âu

522,851

546,935

612,504

715,486

806,983

929,756

Châu Mỹ

115,301

104,542

110,094

135,630

140,944

150,219

Châu Á


69,850

89,096

111,614

135,814

149,995

174,667

Châu Úc

9,992

13,979

18,417

23,380

27,853

33,780

Châu Phi

6,203


5,840

7,586

6,237

8,513

10,705

724,197

760,392

Tổng số

860,215 1,016,547 1,134,288 1,299,127

Nguồn: www.factors-chain.com


15

Biểu đồ 2: Doanh số BTT của các châu lục (2002-2007)

Doanh số BTT (triệu EUR)

1,000,000
900,000

800,000
700,000

Châu Âu

600,000
500,000

Châu Mỹ

400,000

Châu Úc

300,000

Châu Phi

Châu Á

200,000
100,000
0
2002

2003

2004

2005


2006

2007

Doanh số BTT của Châu Âu luôn dẫn đầu và chiếm khoảng 70% tổng doanh
số BTT toàn thế giới, tiếp theo là Châu Á, Châu Mỹ, Châu Úc và cuối cùng là Châu
Phi.
Tại Châu Á, nghiệp vụ BTT phát triển liên tục trong những năm trở lại đây,
năm 2003 Châu Á xếp hạng 3 sau Châu Âu và Châu Mỹ về doanh số BTT nhưng từ
năm 2004 trở lại đây, châu lục này đã vượt lên đứng hàng thứ hai sau Châu Âu.
Bảng 1.4: Doanh số BTT các quốc gia thuộc khu vực ASEAN (2003-2007)
ĐVT: triệu EUR
Quốc gia

2003

2004

2005

2006

2007

Singapore

2,435

2,600


2,880

2,955

3,270

Thái Lan

1,425

1,500

1,640

1,925

2,240

Philipines

0

0

141

150

150


Indonesia

1

0

1

50

50

Việt Nam

0

0

2

16

43

3,861

4,100

4,664


5,096

5,753

4,33

3,67

3,43

3,39

3,29

Tổng cộng
% so với Châu Á

Nguồn: www.factors-chain.com


16

Qua bảng số liệu trên cho chúng ta thấy doanh số BTT tại các quốc gia thuộc
khu vực ASEAN tăng trưởng qua các năm

chứng tỏ dịch vụ BTT đang được

nhiều khách hàng sử dụng.
1.3


Hoạt động BTT tại Việt Nam

1.3.1 Sự cần thiết phải phát triển sản phẩm BTT tại các NHTM Việt Nam nói
chung và NH TMCP Ngoại thương Việt Nam nói riêng.
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, nhất là khi Việt Nam đã trở thành
thành viên của tổ chức thương mại thế giới –WTO- và hiệp định thương mại Việt
Mỹ có hiệu lực hoàn tòan thì các DN của Việt Nam không còn có sự ưu đãi bảo hộ
so với các DN của nước ngoài. Do đó, các DN của Việt Nam có tồn tại và đứng
vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay được hay không là do sự
nỗ lực của chính bản thân DN quyết định. Đứng trước yêu cầu đó đòi hỏi các DN
Việt Nam phải nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và đa dạng hoá
hoạt động kinh doanh, đặc biệt là các DN đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực tài
chính - tiền tệ. Đây là lĩnh vực hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế. Nếu các tổ
chức tài chính của Việt Nam không nhanh chóng cải tiến và nâng cao chất lượng
dịch vụ cũng như đưa ra nhiều sản phẩm mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh,
giảm nguy cơ thu hẹp thị phần do sự cạnh tranh của các chi nhánh NH nước ngoài,
các NH 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam trong tương lai. Do đó, để đảm bảo hiệu
quả hoạt động, duy trì và tăng trưởng thị phần trong tương lai cũng như giảm bớt sự
phụ thuộc vào mảng cho vay nhiều rủi ro thì các NHTM trong nước cần nhanh
chóng đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các sản phẩm tài chính mới mà các nước
phát triển và đang phát triển khác đã áp dụng trong đó có nghiệp vụ BTT.
Từ năm 2004, khi NHNN ban hành quy chế 1096/2004/QĐ-NHNN về hoạt
động BTT đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã có hơn 20 tổ chức tín dụng đăng ký
và triển khai thực hiện BTT, gồm có: NH TMCP Ngoại thương Việt Nam
(Vietcombank), Á Châu, Techcombank, Sacombank, Habu bank, Agribank,
Eximbank, NH CP Quốc tế, NH CP Phương Đông, Citi bank, Deusche bank, UFJ


17


bank, NH Hàng Hải… . Trong đó Vietcombank, Á Châu, Techcombank là thành
viên của FCI
Các NHTM Việt Nam chủ yếu thực hiện BTT trong nước, doanh số giao
dịch vẫn còn rất khiêm tốn, đối tượng khách hàng thì hạn chế trong phạm vi một số
khách hàng quen thuộc đã hoặc đang có quan hệ tín dụng tại NH, doanh số BTT
quốc tế rất hạn chế và hiện chỉ có Vietcombank và NH Á Châu thực hiện.
Bảng 1.5 : Doanh số BTT tại Việt Nam (2005-2007)
Loại hình

ĐVT: tr.EUR

Năm 2005

Nămà2006

Năm 2007

BTT nội địa

ò

5,57

41

BTT quốc tế

0


0,43

2

Tổng cộng

2

16

43

Nguồn: www.factors-chain.com
Biểu đồ 3: Doanh số BTT tại Việt Nam (2005-2007)

Doanh số BTT (triệu EUR)

50
45
40
35
30
25

BTT trong nước

20

Tổng cộng


BTT quốc tế

15
10
5
0
2005

2006

2007

Mặc dù có hơn 20 NH cung ứng dịch vụ BTT, nhưng chỉ mới có 6 NH phát
sinh nghiệp vụ, trong đó có Vietcombank. Tổng doanh số BTT năm 2007 là 43 triệu
EUR, tăng 1,69 lần so với cùng kỳ năm 2006, trong đó BTT trong nước đạt 41 triệu
EUR, 2 triệu EUR BTT quốc tế là doanh số của Vietcombank và NH Á Châu.
Các NHTM ở Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh triển khai, quảng bá và đưa
sản phẩm BTT vào ứng dụng rộng rãi vì những lý do sau:


18

-

BTT phát triển từ rất lâu trên thế giới và đã được áp dụng rộng rãi tại

nhiều quốc gia trên thế giới thông qua các công ty tài chính, đặc biệt là NH. Đây là
công cụ tài chính thể hiện nhiều ưu điểm nổi bật, nhất là trong nền kinh tế hội nhập
sẽ đặt ra các vấn đề về gia tăng nhu cầu vốn lưu động, các dịch vụ nhờ thu và quản
lý rủi ro.

-

Đa dạng hóa dịch vụ của NH, tổ chức tài chính nhằm nâng cao năng lực

cạnh tranh với các NH, các chi nhánh NH nước ngòai trong điều kiện Việt Nam đã
là thành viên chính thức của WTO.
-

Hơn 90% các DN tại Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, đặc điểm của loại

hình DN này là cung cách làm ăn sáng tạo, linh hoạt trong cơ chế thị trường, nắm
bắt tốt nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, đa phần các DN này có quy mô vốn nhỏ và
rất khó tiếp cận nguồn vốn NH vì họ không có đủ tài sản đảm bảo, tâm lý ngại thủ
tục vay mượn rườm rà…, BTT sẽ giúp cả NH và DN giải quyết những khó khăn,
vướng mắc về vốn mà hình thức cho vay truyền thống không thể thực hiện được. Sử
dụng dịch vụ BTT, nguồn vốn của DN sẽ được cải thiện còn phía NH bên cạnh việc
đa dạng hóa dịch vụ NH còn giảm thiểu rủi ro trong cho vay vì trong dịch vụ BTT,
tài sản đảm bảo chính là khoản phải thu của khách hàng.
-

Các DN xuất khẩu Việt Nam thường ở thế yếu trong đàm phán mua bán

ngoại thương, do đó muốn bán được hàng các DN xuất khẩu thường phải chấp nhận
cho người mua trả chậm, trong khi sự hiểu biết về thị trường xuất khẩu, về tình hình
tài chính, về thực lực, về uy tín của người mua rất hạn chế. Thêm vào đó là bên mua
không muốn mở L/C vì sẽ tốn phí mở, phí thanh toán, lại phải ký quỹ cho NH.
Người mua muốn dùng phương thức thanh toán ghi sổ vì nó linh hoạt hơn. Do đó,
BTT trở thành phương thức thanh toán hiệu quả giúp DN xuất khẩu áp dụng trong
phương thức bán hàng trả chậm mà vẫn an toàn, vẫn đảm bảo đủ vốn lưu động cho
sản xuất kinh doanh vì các NH có thể ứng trước đến 90% trị giá hợp đồng mua bán,

số còn lại sẽ được thanh toán khi NH thu được tiền của người mua hàng.
-

DN còn tiết giảm được chi phí về tiền lương phải trả cho bộ phận thu nợ,

chi phí điện nước, điện thoại, văn phòng, quản lý, thời gian…


19

-

Xu thế thanh toán quốc tế mới hiện nay là: phương thức ghi sổ chiếm đa

số với 81%, phương thức L/C là 10%, D/A, D/P là 6%, 3% còn lại là những phương
thức thanh toán khác

đây chính là cơ hội để phát triển BTT

1.3.2 Các quy định về BTT tại Việt Nam
1.3.2.1 Luật áp dụng.
Hoạt động BTT tại Việt Nam phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt
Nam, các quy định, thông lệ quốc tế của các tổ chức BTT quốc tế mà các đơn vị
BTT tại Việt Nam tham gia cũng như các quy định nội bộ khác có liên quan của
từng đơn vị BTT, theo nguyên tắc sau:
-

Áp dụng các điều ước quốc tế về BTT mà nước CHXHCN Việt Nam ký kết

hoặc tham gia trong trường hợp các điều ước quốc tế đó có quy định khác với quy

định của pháp luật Việt Nam
-

Tuân thủ các quy định, thông lệ quốc tế của các tổ chức BTT quốc tế mà đơn

vị BTT đó tham gia nếu các quy định, thông lệ đó không trái với pháp luật Việt
Nam.
-

Tuân thủ các quy định nội bộ khác có liên quan của đơn vị BTT
Các văn bản pháp lý của Việt Nam chi phối hoạt động BTT:
-

Luật các tổ chức tín dụng 02/1997/QH10 ngày 12/12/1997 và luật sửa đổi

bổ sung một số điều của luật các tổ chức tín dụng số 20/2004/QH11 ngày
15/06/2004.
-

Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của NHNN về

việc ban hành quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng; quyết định sửa đổi bổ sung
quy chế cho vay số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005.
-

Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 của NHNN ban hành

quy chế hoạt động BTT của các tổ chức tín dụng.
-


Công văn số 676/NHNN-CSTT ngày 28/06/2005 của NHNN về việc cơ

cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn đối với hoạt động BTT của tổ chức tín
dụng.


×