Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Triet hoc hy lạp , la mã cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.83 KB, 36 trang )

1

Mục lục
I.

Mở đầu...............................................................................................Trang 3

II.

Nội dung ............................................................................................Trang 4
A. Lý luận :
1.Hoàn cành lịch sử,địa lý,kinh tế xã hội ............................Trang 4
2.Đặc điểm:...........................................................................Trang 6
3.Nội dung.............................................................................Trang 7
a. Trường phái Mi lê....................................................Trang 7
b. Trường phái Py tha go.............................................Trang 10
c. Trường phái Ê lê .....................................................Trang 11
d. Trường phái Hêraclit...............................................Trang 14
e. Lơ xip và Đêmơcrit.................................................Trang 14
g. Xô crat và Pla ton:...................................................Trang 17
h. Arixtôt:....................................................................Trang 22
4. Ý nghĩa :...............................................................................Trang 27
B. Thực tiễn vận dụng.......................................................................Trang 27

III.

Kết luận..............................................................................................Trang 28

IV.

Tài liệu tham khảo :...........................................................................Trang 30





2

I.

MỞ ĐẦU :

• Lý do chọn đề tài:
Triết học Hy lạp và La mã đã tồn tại cách chúng ta hơn hai nghìn năm . Từ
đó đến nay, sự phát triển của xã hội cũng như nhận thức của con người đã trãi
qua những bước nhãy vọt dài và đạt được những thành tựu khổng lồ, vượt rất xa
thời kỳ mà chúng ta nghiên cứu. Nhưng lịch sử không đồng nghĩa với khái niệm
quá khứ “vĩnh viễn lùi vào dĩ vãng”. Nghiên cứu triết học cổ Hy lạp và La mã
không chỉ giúp chúng ta nắm được những điều kiện xã hội và văn hoá các quốc
gia cổ đại này – một trong những cái nôi của văn minh nhân loại – mà còn hiểu
được cội nguồn của tư tưởng và văn hóa phưong Tây tiếp theo đó . Mặc dù dưới
dạng sơ khai , nhưng triết học Hy lạp và La mã cổ đại đã chứa đựng những mầm
mống của mọi dạng thế giới quan sau nầy . Nhiều vấn đề do các nhà triết học
thời kỳ này đặt ra cho đến nay vẫn còn nhiều ý nghĩa chẳng hạn, những vấn đề
mà các Apôria của Dênon đặt ra cách đây hơn hai nghìn năm vẫn còn làm đau
đầu nhiều nhà toán học và triết học hiện nay .Nghiên cứu triết học Hy lạp và La
mã cổ đại chúng ta hiểu được cội nguồn lịch sử và bản chất của nhiều vấn đề
hiện đại.
Chính vì vậy , hiện nay nhiều nước trên thế giới vẫn xuất hiện các công
trình nghiên cứu những di sản quý báu của triết học cổ Hy – la . Những di sản ấy
có ảnh hưởng to lớn đối với tiến trình phát triển tư tưởng và văn hoá phương
Tây nói riêng và nhân loại nói chung . Có thể nói “Không có cái cơ sở của nền
văn minh Hy lạp và đế chế La mã thì không có châu Au hiện đại . Chúng ta

không bao giờ quên rằng tiền đề của toàn bộ sự phát triển kinh tế , chính trị và trí
tuệ của chúng ta là một trạng thái trong đó chế độ nô lệ cũng hoàn toàn cần thiết
giống như nó được tất cả mọi người thừa nhận ”.
• Giới thiệu nội dung đề tài:


3

Nội dung đề tài nghiên cứu những tư tưởng triết học cổ đại Hy – La , những
tư tưởng thế giới quan , nhận thức luận của triết học sơ khai . Tiêu biểu cho các
trường phái mang tư tưởng duy tâm chủ quan , duy tâm khách quan , các trường
phái duy vật chất phác mộc mạc thô sơ , các yếu tố biện chứng tự phát cũng
xuất hiện trong thời kỳ này.
• Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài: Nắm được hoàn cảnh ra đời , đặc
điểm nội dung của triết học cổ đại Hy – La giúp chúng ta biết được cội nguồn
lịch sử và bản chất của nhiều vấn đề hiện đại , biết được quá trình phát sinh và
phát triển của các học thuyết triết học , tạo điều kiện cho chúng ta hiểu rỏ hơn
học thuyết Mác – Lênin
II.

NỘI DUNG:
A. Lý luận:
1/. Hoàn cảnh lịch sử, địa lý, kinh tế , xã hội :
-Hoàn cảnh lịch sử và địa lý :
Hy lạp cổ đại là một vùng đất rộng lớn bao gồm : miền Nam bán đảo Ban
căng thuộc châu Au , nhiều hòn đảo ở biển Egiê và cả miền ven biển của bàn
đảo Tiểu Á . Điều kiện địa lý thuận lợi cho nên từ rất sớm các ngành nông
nghiệp , thủ công nghiệp , thương nghiệp cổ đại Hy lạp đã phát triển .
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ IX TrCN chế độ cộng sản nguyên thuỷ ở Hy lạp
cổ đại tan rã và hình thành chế độ chiếm hữu nôlệ . Thời kỳ này đã xãy ra sự

biến động lớn về kinh tế và thiết chế xã hội . Điều đó được phản ánh trong hai
tập thơ nỗi tiếng là Ilíat và Ođixê, do nhà thơ mù Hôme sáng tác .
Vào thế kỷ V TrCN đã xãy ra cuộc chiến tranh Hy lạp – Ba tư , kết thúc
bằng chiến thắng của Hy lạp . Chiến thắng nầy đã mở ra thời kỳ phát triển
hưng thịnh về kinh tế chính trị của Hy lạp cổ đại . Một liên minh gồm 300
quốc gia thành bang Hy lạp được thành lập . Trong đó Aten và Spác là hai
thành bang hùng mạnh nhất .


4

Thành bang Aten nằm ở vùng đồng bằng Attích , thuộc Trung bộ Hy lạp ,
có điều kiện địa lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế , văn hoá
của Hy lạp cổ đại và là cái nôi của triết học châu Au . Tương ứng với sự phát
triển kinh tế văn hoá là thiết chế chủ nô dân chủ Aten .
Thành bang Spác năm ở vùng bình nguyên Iacôni , đất đai rất thích hợp
với sự phát triển nông nghiệp , là dinh luỹ của bọn chủ nô quý tộc cha truyền
con nối . Để thực hiện sự cai trị theo truyền thống , Spác đã xây dựng một
thiết chế nhà nước quân chủ , thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ .
Do sự tranh giành quyền bá chủ toàn Hy lạp , nên các thành bang Aten và
Spác đã tiến hành cuộc chiến tranh tàn khốc Pôtôpône kéo dài hàng chục
năm , và cuối cùng dẫn tới sự that bại nặng nề của Aten . Cuộc chiến tranh
nầy đã làm đất nước Hy lạp suy yếu về kinh tế , chính trị và quân sự .
Trong điều kiện đó , vua Phi líp của nước Ma xê đoan ở phía Bắc Hy lạp
có lực lượng vũ trang hùng mạnh , đã đem quân xâm chiếm toàn bộ bán đảo
Hy lạp . Am mưu bá chủ của vua Phi líp đã được người con của ông ta là
Alếch xăng đrơ kế tục .
Lên ngôi kế vị cha từ năm 20 tuổi Alếch xăng đrơ , với tài thao lược quân
sự đã đánh chiếm nhiều nước , tiến tới phía bắc An độ , trong vòng 10 năm đã
thiết lập nên một đế chế rộng lớn nhất thời cổ đại , trong đó có đất Hy lạp .

Đến thế kỷ II TrCN , Hy lạp bị La mã chinh phục , nhưng văn hoá Hy lạp
cổ đại

đã có thời kỳ phát triển rực rỡ , cho nên tuy đế quốc La mã chinh

phục được Hy lạp , nhưng lại bị Hy lạp chinh phục về văn hoá
Quá trình lịch sử đó gắn liền với sự hình thành và phát triển kinh tế - xã
hội và tư tưởng triết học của Hy lạp cổ đại .
-Hoàn cảnh Kinh tế – Xã hội:
Triết học Hy lạp cổ đại phát triển vào thế kỷ VI TrCN . Cơ sở kinh tế của
nền triết học đó là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất của người


5

nô lệ . Nếu như trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ , cuộc sống của mọi người
“hoà tan ”vào cuộc sống cộng đồng , thì giờ đây , khi xuất hiện chế độ tư hữu
về của cải , buộc mỗi người ý thức về bản thân mình , cần có một quan điển
sống phù hợp với hoàn cảnh mới . Nhu cầu đó đòi hỏi sự ra đời của triết học .
Xô crát đã nhận thấy điều đó khi

ông coi triết học là sự ý thức của con

người về chính bản thân mình .
Xã hội phân chia thành giai cấp , có sự phân công giữa lao động trí óc và
lao động chân tay , dẫn tới sự hình thành một bộ phận các nhà trí thức
chuyên nghiên cứu triết học – khoa học , làm phá vỡ ý thức hệ thần thoại và
tôn giáo nguyên thuỷ .
Nhưng nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất thủ công nghiệp , nông nghiệp ,
thương nghiệp và hàng hải ở Hy lạp cổ đại quyết định sự phát sinh và phát

triển của những tri thức về khoa thiên văn , khí tượng , toán học và vật lý học .
Những tri thức nầy tuy là hình thái sơ khai nhưng đều được trình bày trong
hệ thống triết học – tự nhiên của các nhà triết học cổ đại . Khoa học lúc đó
chưa phân ngành , các nhà triết học , đồng thời là các nhà toán học , vật lý học
, thiên văn học … Như vậy triết học Hy lạp cổ đại , ngay từ khi ra đời đã gắn
với nhu cầu thực tiễn và gắn với khoa học .
2/ Đặc điểm :
-Triết học Hy lạp cổ đại có thế giới quan là thế giới quan của chủ nô
thống trị xã hội Hy lâp và La mã lúc bấy giờ . Như vậy ngay từ đầu đã mang
tính chấy giai cấp sâu sắc . Bất chấp mọi bất công và tệ nạn xã hội thời đó
,triết học cổ Hy – La là một cộng cụ lý luận nhằm duy trì trật tự xã hội theo
kiểu chiếm hữu nộ lệ , bảo vệ sự thống trị của giai cấp chủ nô . Vì thế dẽ hiểu
tại sao phần lớn các nhà triết học thời kỳ này đều coi nô lệ không phải là con
người mà chỉ là công cụ biết nói .


6

-Tính bao trùm trong triết học Hy – La là phép biện chứng tự phát ngây
thơ . Mặc dù ngay thời kỳ này sự phân chia khuynh hướng triết học đã khá rỏ
rệt nhưng nhìn chung nó mang tính duy vật tự phát . Ngay khi mới ra đời , nó
đã tìm cách giải thích thế giới như một chỉnh thể thống nhât trong đó các sự
vật vận động và biến đổi không ngừng . Hêcralit đã nhận ra một chân lý nổi
tiếng : Trong cùng một thời điểm sự vật đồng thời vừa là nó lại vừa là cái
khác . Vì vậy “không thể tắm hai lần trong một dòng sông ”đã trở thành luận
điểm bất hủ của ông.
-Đề cao vai trò trí tuệ , vai trò của tư duy lý tính thể hiện trình độ tư duy
trừu tượng hết sức cao
- Coi con người là trọng tâm nghiên cứu của triết học , . Mặc dù giữa các
nhà triết học vẫn còn nhiều bất đồng về vấn đề này nhưng nhìn chung họ đều

khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hoá . Tư tưởng nầy
được thể hiện qua luận điểm nổi tiếng của Pytago “Con người là thước đo tất
thảy mọi vật” Triết học Xôcrat đánh dấu một bước ngoặc trong sự phát triển
tư tưởng của triết học Hy – La cổ đại , từ chổ nó chủ yếu bàn về vấn đề căn
nguyên , bản chất của thế giới và sự nhận thức chúng tới việc coi triết học là
tự ý thức của con người về chính bản thân mình . Từ đây những vấn đề thiết
thực của cuộc sống con người trở thành một trong những đề tài chính của
triết học .
-

Gắn liền với thành tựu khoa học tự nhiên . Do nhu cầu của nền sản

xuất thủ công , nông nghiệp , thương nghiệp và hàng hải những kiến thức
thiên văn học , khí tượng , vật lý , toán học đã phát triển khá mạnh . Như vậy
triết học cổ Hy – La ra đời và phát triết gắn liền với nhu cầu thực tiễn và
khoa học .
-Bị ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo và thần học . Quá trình hình thành và
phát triển của triết học Hy – La cổ đại gắn liền với cuộc đấu tranh giữa tri


7

thức khoa học và mê tín . Các nhà triết học duy vật bảo vê những quan điểm
khoa học tự nhiên , các nhà triết học duy tâm căm thù chủ nghĩa vô thần , bảo
vệ mê tín
-Có sự đan xen về mặt tư tưởng giữa phương Đông và phương Tây. Vào
thời kỳ khoa học phát sinh và phát triển ở Hy lạp , thì phương Đông đã tích
luỹ đáng kể những kiến thức về thiên văn học , hình học , đại số , y học …
phần lớn các nhà triết học của Hy lạp đã tới Ai cập , Babilon để nghiên cứu
học tập.

Nhìn chung , triết học Hy – La cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và
biện chứng sơ khai . Đời sống chính trị của Hy lạp bấy giờ sôi động , những
quan hệ thương mại với nhiều nươc khác nhau trên Địa trung hải , sự tiếp
xúc với điều kiện sinh hoạt và những tri thức muôn vẻ của nhân dân các
nước ấy , sự quan sát các hiện tượng tự nhiên một cách trực tiếp như một
khối duy nhất và long mong muốn giải thích chúng một cách khoa học đã
góp phần quy định và làm phát triển thế giới quan duy vật và biện chứng sơ
khai của Hy lạp cổ đại.
3/. Nội dung:
a.-Trường phái Milê: Đại diện tiêu biểu cho trường phái Mi lê là Ta- lét,
Anaxamanđrơ và Anaximen
+Talét(625-547 TrCN )
Talet xuất thân từ một gia đình thương nhân giàu có , ông có điều kiện đi du
lịch ờ nhiều nước như Ai cập , Babilon , quen biết nhiều nhà triết học phương
Đông , qua đó tiếp thu được nhiều kiến thức mới mẻ và công lao của ông là
nâng tri thức đó lên trình độ khoa học .
Từ một số phương pháp đo đạc ruộng đất sau mỗi trận lụt do sông Nil
gây ra ở Ai cập , Talét đã làm cho hình học trở thành môn khoa học . Trong đó
định lý Talét trong toán học đến nay nay vẫn còn nguyên giá trị . Từ những


8

kinh nghiệm chiêm tinh , phỏng đoán thiên văn học Babilon , ông đã giải thích
đúng hiện tượng nhật thực , khám phá ra lịch một năm có 12 tháng và có 365
ngày . Ong cho rằng trái đất như một các đĩa khổng lồ trôi trên nước và có 5
vùng . Hiện tượng động đất được ông giải thích là sự đụng chạm giữa trái đất
và sóng biển trong bão tố . Đó là cách giải thích ngây thơ chưa có cơ sở khoa
học , nhưng ở thời bấy giờ , nó có ý nghĩa về thế giới quan duy vật . Talét hiểu
biết rộng và tinh thông nhiều nghề : Ong là người đầu tiên của Hylạp chế tạo

được đồng hồ chạy bằng thuỷ lực , ông còn là nhà thiết kế tượng đài , nhà
thờ , xây dựng cầu cống , chế tạo vũ khí .
Thành tựu nổi bật của Ta lét là quan niệm triết học duy vật . Ông cho rằng
nước là yếu tố đầu tiên , là bản nguyên của mọi vật trong thế giới . Mọi vật
đều sinh ra từ nước và khi phân huỷ lại biến thành nước .Theo Ta lét , vật chất
( nước ) tồn tại vĩnh viễn , còn mọi vật do nó sinh ra thì biến đổi không ngừng
, sinh ra và chết đi . Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất , trong đó
mọi vật biến đổi không ngừng mà nước là nền tảng .
Những quan niệm triết học duy vật của ông giải thích giới tự nhiên tuy còn
mộc mạc thô sơ , nhưng có ý nghĩa vô thần , chống lại thế giới quan tôn giáo
đương thời và chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng tự phát .
Ta lét xứng đáng được người đời sau gọi ông là “nhà triết học đầu
tiên””nhà toán học đầu tiên””nhà thiên văn học đầu tiên”. Song , nhà khoa học
đầu tiên nầy cũng chưa thoát khỏi ảnh hưởng của quan niệm thần thoại và
tôn giáo nguyên thuỷ khi ông cho rằng , thế giới đầy rẫy những vị thần và khi
không giải thích được hiện tượng từ tính của nam châm , ông khẳng định nó
có linh hồn.
+Amaximanđrơ ( 610 –546 TrCN ):
Anaximăngđrơ là nhà triết học duy vật , bạn của Ta lét . ông là người sáng tạo
ra đồng hồ mặt trời , vẽ bản đồ địa lý về bề mặt trái đầt về biển Hy lạp , làm


9

ra quả địa cầu giúp cho ông việc xác định phương hướng trong các cuộc hành
trình. Ong là người theo thuyết địa tâm , coi quả đất là trung tâm của vũ trụ .
Sự vận động xoay tròn của quả đất là nguyên nhân sinh ra nóng lạnh
Anaximanđrơ là người Hy lạp đầu tiên nghiên cứu vấn đề phát sinh và phát
triển của các loài động vật . Theo ông , động vật phát sinh ở dưới nước , sau
nhiều năm biến hoá và sau nhiều biến động của thiên nhiên , một số giống loài

dần thích nghi với đời sống trên cạn , phát triển trở nên phong phú và hoàn
thiện dần . Con người hình thành từ sự biến hoá của cá . Phỏng đoán nầy còn
chưa có căn cứ khoa học , song tính chất biện chứng về sự phát triển của các
giống loài động vật được ông đề cập đến , đã bác bỏ quan niệm mục đích luận
Khác với Ta lét khi giải quyết vấn đề bản thể luận triết học , ông cho rằng ,
cơ sở của sự hình thành vạn vật trong vũ trụ là từ một dạng vật chất đơn
nhất , vô định , vô hạn và tồn tại vĩnh viễn – Đó là Apâyrôn. Các tác giả thời
cổ đại đã có những giải thích khác nhau về Apâyrôn : Đó là cái mang tính vật
chất , là hỗn hợp các yếu tố như đất , nước , lữa , không khí ,là các trung gian
giữa lữa và không khí , là cái không xác định .
Theo Anximanđrơ , Apâyrôn không chỉ là nguồn gốc sinh ra vạn vật mà
đồng thời là cơ sở vận động của vạn vật , nhờ Apâyrôn nãy ra những mặt đối
lập nhau như : nóng- lạnh , khô – ướt , sinh ra – chết đi … Như vậy ông đã
bác bỏ quan niệm về sự đồng nhất tuyệt đối , không có khác biệt của sự vật .
Anaximanđrơ cũng là người đầu tiên nêu ra và giải quyết quan hệ giữa cái
toàn thể và cái bộ phận . Theo ông , cái bộ phận luôn luôn biến đổi , còn cái
toàn thể thì bất biến , ông cho rằng , tổng thể vật chất thì không thể chuyển
thành một tổng thể vật chất nào khác nó , còn các dạng vật chất cụ thể thì
thường xuyên biến đổi , chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác.
Như vậy nếu so với Ta lét , Anaximanđrơ có một bước tiến xa hơn trong
sự khái quát trừu tượng về phạm trù vật chất . ở Ta lét , vật chất đầu tiên là


10

nước mang ít tính trừu tượng hơn so với Anaximanđrơ là Apâyrôn – một chất
vô định hình mà người ta không thể trực quan thấy được . Lần đầu tiên trong
lịch sử triết học Hy lạp cổ đại vật chất không bị đồng nhất với một vật thể cụ
thể . Đó là một bước tiến mới về trình độ tư duy trừu tượng của người Hy lạp
Cổ đại .

+Anaximen ( 585 – 525 TrCN )
Anaximen là học trò và là người kế tục sự nghiệp của Anaximanđrơ . Đứng
trên quan điểm duy vật chất phác , ông nghiên cứu thiên văn học và triết học .
Đồng quan điểm với thầy mình về thuyết địa tâm,Anaximen cho rằng , mặt
trời , mặt trăng , và các tinh tú đều từ trái đất mà ra , do trái đất quay nhanh
mà bắn ra . Điều này cho đến nay đã bị bác bỏ , nhưng ở thời bấy giờ có giá trị
lớn trong việc đấu tranh chống những quan niệm duy tâm , tôn giáo về vũ trụ ,
về cuộc sống xã hội . ông cũng có những tiên đoán : trái đất có hình thù như
cái trống , tự xoay quanh mình nó . Mưa đá là kết quả đóng thành băng của
những tia nước trên cao , và khi băng đó bị không khí làm tan ra thì tạo thành
tuyết .
Theo ông , không khí là nguồn gốc,là bản chất của mọi vật và là bản
nguyên của thế giới vì nó giữ vai trò quan trọng trong đời sống tự nhiên và
con người : ngay cả các vị thần thánh cũng đều sinh ra từ không khí . Ong
cho rằng , hơi thở chính là không khí , người ta không thể sống nếu như không
thở , tâm hồn con người rung động theo hơi thở mạnh , yếu . Không khí là cái
vô định hình , mà bản thân Apâyrôn cũng chỉ là một tính chất của không khí .
Không khí sinh ra mọi vật bằng hai cách loãng ra và cô đặc lại . Không khí
loãng ra thì trở thành lữa , đặc lại thì trở thành gió , thành mây , đặc nữa thì
trở thành nước , đặc hơn nữa thì trở thành đất , đá .
Tóm lại : trường phái triết học Milê là trường phái triết học duy vật . Cái
mà họ quan tâm và gắng công là tìm ra một bản nguyên vật chất để giải thích


11

thế giới như một chỉnh thể thống nhất của các sự vật muôn màu muôn vẻ .
Mặc dầu mộc mạc , ngây thơ , song các tư tưởng của họ đã đặt nền móng cho
sự phát triển của duy vật trong triết học về sau.
b. Trường phái Py-ta- go (547 471 TrCN )

Do Py- ta - go sáng lập , đây là trường phái triết học duy tâm , trường phái
nầy gắn liền triết học của họ với tôn giáo và ra sức bảo vệ thần học .
Phái Py ta go đã có những cống hiến giá trị về toán học và khoa học tự
nhiên như xây dựng định lý về tổng các gốc của một tam giác , định lý Py ta
go . Về âm nhạc phái nầy đã giải thích độ cao âm thanh của một sợi dây chấn
động là phụ thuộc vào độ dài của dây ấy . Về lý luận nghệ thuật tạo hình phái
nầy đã có những đóng góp giá trị về quy định tỷ lệ số lượng đúng đắn giữa các
bộ phận của những toà nhà, những công trình kiến trúc . Phái nầy cũng đã nêu
lên tư tưởng về tính quy luật của các hiện tượng tự nhiên bằng lý thuyết về
“sự nhịp nhàng của các cầu thế ”, mà theo Lê nin , phái Py tha go đã phỏng
đoán về sự giống nhau giữa thế giới vĩ mô và thế giới vi mô .
Về mặt triết học , phái Py tha go đặc biệt quan tâm tới vấn đề bản chất và
khởi nguyên của thế giới . Nếu như trường phái Milê coi cơ sở của thế giới là
những nguyên thể vật chất nước , lữa , không khí , thì phái Py tha go coi bản
chất và nguyên khởi của mọi sự vật là những “con số ”. Mọi các trên thế giới
đều chỉ là hiện thân của các con số và con số có trước mọi vật.
Py tha go cho rằng : Số 1 ( đơn vị ) sinh ra điểm , số 2 sinh ra đường , số 3
tạo ra diện tích , số 4 tạo ra thể tích .
Trong khi luận giải về những con số , phái Py tha go đã thần thánh hoá
chúng . Họ coi số 4 là số kỳ lạ , có tính chất thần thánh , con số 10 là số hoàn
thiện nhất , là cơ sở tính toán mọi vật . Đơn vị là nguồn gốc phát sinh chung
nhất , phổ biến nhất của mọi sự vật , coi đơn vị là “người mẹ thần thánh”. Phái
Py tha go không chỉ coi con số là khởi nguyên của mọi sự vật , hiện tượng tự


12

nhiên , mà còn là nền tảng , bản chất của các hiện tượng ý thức . Linh hồn con
người cũng được cấu thành từ các con số . Con số tồn tại vĩnh viễn thì linh
hồn con người cũng bất tử , linh hồn chỉ tạm trú trong cơ thể sống , và sau khi

chết , linh hồn nhập vào một cơ thể khác theo luật luân hồi .
Trong khi sùng bái con số , biến chúng thành những lực lượng thần bí
thống trị hiện thực , phái Py tha go cũng có những quan niệm biện chứng về
mối quan hệ giữa số chẳn và số lẻ , số hữu hạn và số vô hạn , giữa tính thống
nhất và tính nhiều vẻ, vận động và đứng im . Xuất phát từ cặp đối lập số chẳn
và số lẻ , họ nêu ra 10 cặp đối lập cơ bản : Giới hạn và không giới hạn – Chẳn
và lẻ – Đơn và đa – Phải và trái – Đực và cái – Động và tĩnh – Thẳng và cong
– Sáng và tối – Tốt và xấu – Tứ giác và đa diện .
Nhìn chung phái Py tha go là một trong những trường phái triết học mang
tính duy tâm khách quan , bao chứa những yếu tố tư duy khoa học , pha trộn
với ảo tưởng tôn giáo thần bí.
c. Trường phái Ê-lê :
Trường phái Ê lê là một trường phái triết học ra đời trong cuộc đấu tranh
gay gắt giữa phe chủ nô quý tộc chuyên chế và phe dân chủ chủ nô . Những
quan điểm triết học của phái nầy phải trãi qua một quá trình tiến hoá nhất
định . Trong học thuyết của Xê nô phan – người sáng lập ra phái Ê lê – còn có
những yếu tố duy vật , đến Pác mê nic , Dê nông là những đại biểu chủ yếu
của phái Ê lê thì chủ nghĩa duy tâm đã rõ rệt . Trường phái triết học Ê lê xuất
hiện đã đánh dấu một dạng thế giới quan mới được hình thành , nó chú ý tới
những vấn đề triết học theo nghĩa hẹp của danh từ này .
+Xê nô phan ( 570 –478 TrCN )
Xê nô phan là nhà thơ kiêm triết gia , sinh ở Iônia, nhưng khi lớn lên ông
đã đi nhiều và sống ở nhiều thành phố của Hy lạp . Ong là người sáng lập ra
trường phái triết học Ê lê . Quan điểm triết học của ông không viết bằng văn


13

xuôi mà viết bằng thơ . Tác phẩm chủ yếu của ông là Châm biếm gồm 5 tập .
Ngày nay người ta chỉ sưu tầm được một số đoạn thơ của ông được trích

trong tác phẩm của Arixtôt .
Xê nô phan đưa ra quan niệm thế giới là một khối duy nhất bất sinh bất
diệt . Thế giới không phải do thần thánh sáng tạo ra . Ong là người đầu tiên
cho rằng , không phải thần thánh sáng tạo ra con người , mà chính con người
đã nghỉ ra , sáng tạo ra các vị thần thánh theo trí tưởng tượng và theo hình
tượng của mình . Vì thế , mỗi dân tộc có quan niệm riêng về thần thánh của
mình , “Nếu như bò , hoặc ngựa , hoặc sư tử cũng có tay và nếu cũng giống
như con người có thể dùng tay để vẽ thì ngựa đã quan niệm thần như ngựa ,
bò đã hình dung những đấng bất tử theo hình ảnh bò ”. Tư tưởng nầy của Xê
nô phan có yếu tố hợp lý về bản chất của tôn giáo , về ảnh hưởng của các
điều kiện xã hội , văn hoá tới tôn giáo .
Xê nô phan thừa nhận thế giới không do thần thánh sinh ra . Nhưng ông
lại thần thánh hoá giới tự nhiên , coi giới tự nhiên chính là thánh và thánh gắn
liền với tất cả , không do ai sinh ra và tồn tại vĩnh viễn .Thánh đặc trưng cho
sự thống nhất tối cao của toàn bộ thế giới . Do hạn chế lịch sử , Xê nô phan
chưa phải là nhà duy vật triệt để . Có nhà nghiên cứu cho rằng , học thuyết về
thánh của Xê nô phan chính là phiếm thần luận , đó chỉ là hình thức có tính
chất cổ điển để diễn đạt tư tưởng vô thần của ông . Xê nô phan đóng vai trò
quan trọng trong việc chuẩn bị cho chủ nghĩa vô thần cổ Hy lạp.
+ Pác mê nít ( Cuối TK VI – đầu tk V TrCN )
Pác mê nít là học trò của Xê nô phan , xuất thân trong một gia đình
thượng lưu trí thức ở Ê lê . Những quan điểm triết học của ông được trình bày
bằng thơ . Ong là nhân vật trung tâm của trường phái Ê lê .


14

Khái niệm trung tâm trong triết học của Pác mê ních là “tồn tại “ hết sức
trừu tượng , mà theo đánh giá của Hê ghen là điểm xuất phát thực sự của triết
học.

Theo Pác mê nít có hai cách nhìn thế giới :
Một là : “với cách nhìn cảm tính”thì thế giới vô cùng đa dạng phong phú ,
mọi sự vật biến đổi không ngừng và vô cùng sinh động . Nhưng bằng con
đường cảm tính đơn thuần không thể khám phá ra bản chất đích thực của thế
giới .
Hai là:với cách nhìn triết học phù hợp với trí tuệ lý tính , tức là chân lý ,
thì khám phá ra bản chất đích thực của thế giới.
Pác mê nít

cho rằng , bản chất của mọi vật trong thế giới là “tồn tại “,

“tồn tại”là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của thế giới , bởi vì , mọi
sự vật dù rất khác nhau vẫn có điểm chung là tồn tại , tức chúng có thực ,
không thể có cái không tồn tại , bởi vì ,chúng ta không thể hình dung được nó
là cái gì . Bản chất của tồn tại là bất biến , vĩnh viễn và không thể mất đi
được . Nó là sự đồng nhất với chính bản thân nó . Tồn tại được chứa trong
không gian , làm đầy không gian . Nó là hữu hạn và có quãng tính . Không
gian cũng có giới hạn và bất biến , tồn tại được chứa trong không gian hoàn
toàn bất biến , không lớn lên cũng không nhỏ đi .
Tồn tại là cái chỉ có thể nhận thức bởi tác dụng lý tính . Tư duy bao giờ
cũng là tư duy về tồn tại . Tư duy và tồn tại đồng nhất với nhau , chúng là
một.
Học thuyết về tồn tại của Pác mênit đánh dấu một giai đoạn mới trong sự
phát triển tư tưởng triết học Hy lạp cổ đại . Điều đó thể hiện ở chỗ , ông
không coi khởi nguyên của thế giới là một sự vật cụ thể như các triết học thời
đó quan niệm mà là tồn tại một khái niệm triết học mang tính khái quát cao .
Nhưng hạn chế trong học thuyết về tồn tại của ông là ở chỗ, đã đồng nhất


15


tuyệt đối giữa tư duy và tồn tại , chưa có sự phân biệt giữa tư tưởng về đối
tượng với đối tượng của tư tưởng . Quan niệm nầy gần gũi với chủ nghĩa duy
tâm , vì chưa phân biệt được ranh giới tương đối giữa tinh thần và vật chất ,
và mang tính chất siêu hình , vì ông cho rằng “tồn tại”là bất biến.
Về nhận thức luận , Pác mê nit đã sai lầm cho rằng , người ta không thể
nhận thức tồn tại bằng giác quan . Ong nói “Đừng tin vào sự chỉ dẫn của thị
giác và của thính giác ”
+ Dê non ( 490 – 430 TrCN )
Dê non là học trò của Pác mê nit , sinh ở Ê lê . Ong dành nhiều công sức
để bảo vệ và lý giải học thuyết về tồn tại của thầy mình.
Bằng con đường phản chứng , Dê non chứng minh rằng , tồn tại là duy
nhất , là bất biến , là thuần khiết không có tính bội đa , tí nh đa dạng . Ong đưa
ra hàng loạt nghịch lý , có tên gọi là Apôria , nghĩa là cái khó lý giải, không có
lối thoát , hay là những Angtinômi , tức là những mâu thuẩn không thể giải
quyết được . Theo ông cái bội đa là một tổng thể bao gồm những đơn vị , là
đơn vị thì có thể chia nhỏ thành điểm , thành cái không có đại lượng , tức hư
vô . Mỗi cái bội đa gồm nhiều các hư vô , mà tổng những các hư vô sẽ bằng
hư vô , như vậy bội đa = hư vô .Đó là phi lý không thể chấp nhận được.
Đưa ra nhiều lập luận “phân đôi”, “Asin và con rùa”, “mũi tên bay”… ông
muốn chứng minh rằng : không thể dùng trực quan cảm tính để nhận thức sự
vật , mà phải dùng tư duy trừu tượng mới thấy được thực chất sự vật là gì . Sai
lầm cơ bản của ông ở chổ đã tuyệt đối hoá tính gián đoạn của vận động ,
không thấy rằng vận động là một quá trình thống nhất biện chứng giữa vận
động và đứng im .Công lao to lớn của ông là đặt ra nhiều vấn đề biện chứng
sâu sắc về mối liên hệ giữa tính thống nhất và nhiều vẻ cuả thế giới, giữa vận
động và đứng im , giữa tính gián đoạn và liên tục của thời gian và không gian
, giữa tính hữu hạn và tính vô hạn



16

d. Trường phái Hê raclít ( 540 – 480 TrCN )
Theo những nhà kinh điển Mác – Lênin , Hêraclít là người sáng lập ra
phép biện chứng , hơn nữa ông là người xây dựng phép biện chứng trên lập
trường duy vật . Phép biện chứng của Hêraclit chưa được trình bày dưới dạng
một hệ thống các luận điểm khoa học như sau này , nhưng hầu hết các luận
điểm cốt lõi của phép biện chứng đã được ông đề cập dưới dạng các câu
danh ngôn mang tính thi ca và triết lý . ông đã nêu lên những tư tưởng sau :
Một là, quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất . Theo Hêraclit
không có sự vật hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối , mà trái lại ,
tất cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược
lại .
Hai là , Hêcraclit đã nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu
thuẩn trong mọi sự vật , hiện tượng . Điều đó thể hiện trong những phỏng
đoán của ông về vai trò của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến
của tự nhiên, về “ sự trao đổi của những mặt đối lập” , về sự tồn tại và thống
nhất của các mặt đối lập .
Ba là , theo Hêraclit , sự vận động phát triển không ngừng của thế giới do
quy luật khách quan ( mà ông gọi là logos ) quy định . Logos khách quan là
trật tự khách quan của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ . Logos chủ quan là
từ ngữ , học thuyết , lời nói , suy nghỉ của con người . Logos chủ quan phải
phù hợp với logos khách quan , nhưng nó biểu hiện ở từng người có khác
nhau . Người nào càng tiếp cận được nhiều logos khách quan bao nhiêu thì
càng thông thái bấy nhiêu .
Lý luận nhận thức của Hêraclit mang tính chất duy vật và biện chứng sơ
khai .Nhưng cơ bản là đúng đắn .
Mác và Angghen đã đánh giá một cách đúng đắn giá trị triết học của
Hêraclit , coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy lạp cổ đại .



17

Tuy nhiên Mác và Angghen cũng vạch rỏ những hạn chế , sai lầm đó là tính
chất phản dân chủ , thù địch với nhân dân của Hêraclit.
e. Trường phái Lơ- xíp và Đê mô rít :
+ Lơ xíp ( 500 –440 TrCN )
Lơxip là người đầu tiên ở Hy lạp cổ đại nêu lên học thuyết nguyên tử .
Các tác phẩm trình bày học thuyết của ông không được lưu giữ , người ta biết
ông qua Đêmôcrit hoặc qua các nhà triết học khác .
Lơxip cho rằng , mọi sự vật đều được cấu thành từ những nguyên tử . Đó
là những vật chất tuyệt đối không thể phân chia được , nó vô hạn về số lượng
và vô hạn về hình thức , nó vô cùng nhỏ bé , không thể thẩm thấu được ,
không có chất lượng , các nguyên tử khác nhau về kích thước và hình thức ,
sở dĩ có những sự vật khác nhau là vì có hình thức sắp xếp khác nhau của
các nguyên tử .
Lơxip đã đề cập đến tính nhân quả tất yếu trên quan điểm quyết định luận
duy vật , chống lại mục đích luận của chủ nghĩa duy tâm . Ong khẳng định
“Không một sự vật nào phát sinh một cách vô cớ mà tất cả đều phát sinh
trên một căn cứ nào đấy , và do tính tất nhiên”.
+ Đêmôcrít ( 460 – 370 TrCN )
Ở thể kỷ V TrCN , Hy lạp cổ đại đã phát triển rực rỡ về chính trị, kinh tế ,
văn hoá . Tuy vậy trong xã hội vẫn chứa đựng nhiều mâu thuẫn không chỉ
giữa các giai cấp chủ nô và nô lệ , mà ngay cả giữa các tầng lớp khác nhau của
giai cấp chủ nô , giữa những người bảo vệ nền dân chủ chủ nô và những lực
lượng chống lại nó . Điều đó cũng được thể hiện trong lĩnh vực tư tưởng ,
triết học giữa những người theo phái duy vật , tiêu biểu là Đêmôcrit và những
người theo lập trường duy tâm , tiêu biểu là Pythago , Platon …
Đêmôcrit xây dựng học thuyết nguyên tử luận về thế giới . Theo ông khỡi
nguyên của thế giới không phải là một sự vật cụ thể nào đó như nhiều học



18

thuyết trước đó đã quan niệm mà là các nguyên tử ( theo tiếng Hy lạp cổ :
nguyên tử – atoma – nghĩa là các phần tử nhỏ nhất , đơn vị ) tức tồn tại và
khoảng không , tức cái không – tồn tại . Nếu như các nhà triết học phái E lê
phủ nhận các không-tồn tại , thì Đêmôcrit và các nhà nguyên tử luận – theo
nhận xét của Aritốt- thậm chí còn cho rằng “cái tồn tại có thực không hơn gì
cai không – tồn tại, bởi vì sự vật tồn tại không mảy may hơn gì khoảng
không , và cả hai đều là nguyên nhân vật chất”. Cái không – tồn tại chính là
khoảng không trống rỗng , nó không ảnh hưởng gì tới các sự vật ( tức là tồn
tại ) trong nó cả .
Giữa tồn tại ( tức là các nguyên tử ) và cái không tồn tại ( tức khoảng
không ) có nhiều đặc tính khác nhau . Các nguyên tử thì đậm đặc hoàn toàn ,
còn khoảng không thì hoàn toàn trống rỗng . Các nguyên tử thì rất đa dạng
trong khi khoảng không thì thuần nhất . các nguyên tử bao giờ cũng có kích
thước , hình dạng nhất định , nhưng khoảng không lại vô tận và không có hình
dạng nào cả.
Nguyên tử , theo Đêmôcrit , là hạt vật chất nhỏ nhất , tới mức không thể
phân chia thêm được nữa . Chúng tồn tại vĩnh viễn , và trong lòng chúng
không hề có vận động . Các nguyên tử có nhiều hình dạng khác nhau như hình
cầu , hình tam giác , hình cong , hình lõm…Chính sự đa dạng về hình thức
của chúng là yếu tố tạo nên sự đa dạng của các sự vật mà chúng cấu thành
.Các nguyên tử không chỉ khác nhau về hình dạng mà cả về trình tự và thể
trạng nữa . Chúng không có màu sắc , âm thanh , mùi vị ….Các đặc tính nầy
là kết quả sự tác động của các nguyên tử lên các giác quan con người . các
nguyên tử không thể biến thành nhau . Chúng vận động trong khoảng không
tựa như những hạt bụi trong chuyển động trong không khí mà chúng ta nhìn
thấy được qua những tia nắng mặt trời . Chính nhờ có khoãng không mà có

chổ để cho các nguyên tử vận động . Vận động là bản chất của các nguyên


19

tử , diễn ra do sự va chạm giữa chúng và cũng tồn tại vĩnh viễn như bản thân
nguyên tử vậy .
Dưới con mắt của Đêmôcrit , mọi sự vận động trong thế giới chúng ta đều
được tái tạo từ các nguyên tử và khoảng không . Sự xuất hiện hay mất đi của
vật này hay vật khác là kết quả việc kết hợp hay phân tán của các nguyên tử .
Mọi biến đổi của sự vật thực chất là sự thay đổi trình tự sắp xếp của các
nguyên tử tạo nên chúng . Còn bản thân mỗi nguyên tử thì không thay đổi gì
cả . Như vậy , một mặt Đêmôcrit duy trì các ngiyên lý bảo tồn “tồn tại” của
Pácmênit , coi các nguyên tử là bất biến , vĩnh viễn , mặt khác lại ủng hộ quan
điểm của Hêcralit cho rằng mọi sự vật đều biến đổi không ngừng .
Vũ trụ nói chung , theo Đêmôcrit , là khoãng không vô cùng tận trong đó
chứa đựng vô số thế giới khác nhau được cấu thành từ vô vàn các loại nguyên
tử . Không bàn đến các vấn đề nguồn gốc của các nguyên tử và vũ trụ nói
chung , Đêmôcrit tìm cách giải thích sự hình thành các thế giới khác nhau
trong vũ trụ . Theo ông , các thế giới nầy sinh ra đều có căn nguyên của chúng
. Vì mức độ phân bố các nguyên tử trong khoảng không đều không đều nhau ,
nên ở khoảng không nào chứa nhiều nguyên tử thì chúng thường xuyên va
chạm vào nhau , tạo thành các luồng gió xoáy tròn , đẩy các nguyên tử nặng
và to quy tụ vào thành tâm . Các nguyên tử nhẹ và nhỏ hơn thì bị đẩy ra vùng
ngoại biên . Nhờ đó , các hành tinh , kể cả trái đất được tạo nên . Lữa, không
khí , ánh sáng , nhờ những luồng gió xoáy –do chuyển động của các nguyên tử
theo hình xoáy tròn – đã tạo ra bầu trời . Các hành tinh cũng thuộc về thế giới
chúng ta . Mỗi thế giới tựa như một hình cầu được khép kín bởi các nguyên
tử hình cong . Các thế giới cũng nằm trong quá trình biến đổi , vận động
không ngừng.

g. Xôcrát và Pla- ton
+Xô crát ( 469 – 399 TrCN )


20

Là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời cổ đại , người thầy của Pla
ton –theo nhận xét của Hê ghen “là một bước ngoặc lịch sử vĩ đại”trong triết
học cổ đại Hy lạp và La mã , rất tiếc là ông không để lại cho chúng ta tác
phẩm nào.
Cũng như các nhà nguỵ biện ,Xôcrát đặc biệt quan tâm đến vấn đề con
người , coi đó là chủ đề chính trong các cuộc đàm thoại triết học của mình .
Theo nhận xét của Điôgien Laécxơ , Xôcrát khác với những nhà triết học
trước đây , thờ ơ với những vấn đề về thế giới tự nhiên , về khởi nguyên của
vũ trụ…. , mà chỉ lưu tâm đến vấn đề con người . Ong là người đầu tiên hiểu
rằng triết học không là gì khác hơn là sự nhận thức của con người về chính
bản thân mình . Luận điểm nổi tiếng “Con người , hãy nhận thức chính mình ”
trở thành câu nói cửa miệng trong các buổi tranh luận triết học của ông . Tư
tưởng của Xôcrát thực sự là một bước tiến mới trong sự phát triển của triết
học Hy – La cổ đại . Trước ông , các nhà triết học chủ yếu bàn đến những vấn
đề khởi nguyên của thế giới , về nhận thức luận .Bắt đầu từ Xôcrát , đề tài con
người trở nên một trong những chủ đề trọng tâm của nghiên cứu triết học .
Đối với Xôcrát , nhận thức chính mình – tức là nhận thức bản thân mình –
không chỉ như một nhân cách , mà còn như một con người nói chung . Là học
trò của các nhà nguỵ biện nhưng Xôcrát không nhất trí với họ coi ý kiến chủ
quan của mọi người là tiêu chuẩn chân lý . Để có thể đàm thoại được thì giữa
những người tham gia đàm thoại phải có một “tiếng nói chung ”, một “ngôn
ngữ chung ”nhất định . “Ngôn ngữ chung ” đó mang tính khách quan , là nền
tảng khách quan , nhờ đó con người khám phá ra chân lý một cách đích thực
mà ai cũng phải thừa nhận . Xôcrát dường như tìm thấy các tầng khác nhau

trong ý thức con người . Ngoài những yếu tố chủ quan , thì trong ý thức con
người có một nội dung khách quan, ông tìm cách chứng minh rằng chính nội
dung khách quan đó là cái cơ bản trong ý thức. Phần nầy của ý thức được coi


21

là lý tính . Nó không chỉ có khả năng đưa lại ý kiến cá nhân mà cả những tri
thức phổ biến mang lại tính tổng quát . Nhưng mỗi người chỉ có được những
tri thức chung đó bằng nổ lực của mình .Và Xôcrát khẳng định đó là cơ sở
chung , là chân lý khách quan trong các cuộc đàm thoại mà ai cũng phải thừa
nhận . Do vậy mỗi người không phải hoàn toàn tự do và tuỳ tiện trong việc lựa
chọn các ý kiến trái ngược nhau về sự vật , mà phải dựa vào nền tảng chung
khách quan đó.
Đối lập với các nhà nguỵ biện , Xôcrát cho rằng mỗi người đều có thể có ý
kiến , lập trường riêng của mình , nhưng chân lý thì chỉ có một – đó là cơ sở
khách quan chung của tri thức mà ai cũng phải thừa nhận .
Khám phá ra chân lý – theo Xôcrát – nghĩa là định nghĩa sự vật một cách
chặt chẽ ,xây dựng khái niệm về nó . Nếu như các nhà triết học trước kia về
cơ bản sử dụng khái niệm một cách tự phát thì Xôcrát là người đầu tiên nhấn
mạnh vai trò đặc biệt của tri thức khái niệm trong nhận thức . theo ông , nhận
thức sự vật nghĩa là phải biết nó là cái gì . Chẳng hạn ,người nào dù nói về cái
thiện hay đến đâu chăng nữa , nhưng không định nghĩa được cái thiện là gì thì
tức là anh ta chẳng biết cái thiện là gì cả . Do đó , nếu không có khái niệm thì
cũng coi như không có tri thức . Khám phá ra chân lý đích thực về bản chất sự
vật tức là phải hiểu nó ở mức độ khái niệm . Tuy vậy ông cũng nhận thấy đây
là một công việc không đơn giản và bản thân ông vẫn thường khiêm tốn nói
“Tôi biết rằng tôi không biết gì cả”.
Luận điểm nổi tiếng “Hãy nhận thức chính mình ” còn có nghĩa là xây
dựng những khái niệm về chuẩn mực đạo đức chung của mọi người . Triết học

là sự nhận thức thế nào về cái thiện , thế nào là các ác …Đặc biệt đề cao vai
trò của tri thức khái niệm trong hoạt động của con người , Xôcrát coi tri thức
là nền tảng của đức hạnh . Theo lới Diôgian Láecxơ, “Xôcrát nói rằng , chỉ
mỗi điều thiện đó là tri thức , và mỗi điều ác đó là sự dốt nát . Của cải và danh


22

tiếng chẳng mang lại phẩm giá gì , ngược lại , chỉ đem đế những điều ngu
xuẩn”. Mọi hành vi vô đạo đức đều là kết quả của sự dốt nát , kém hiểu biết ,
bởi lẽ nếu người nào biết thế nào là tốt thì anh ta không bao giờ làm điều
xấu . Vì vậy , con đường đi đến trí thức cũng chính là con đường đi đến hoàn
thành nhân cách đạo đức con người , con đường hướng con người tới cái thiện
, cái hạnh phúc .
Xuất phát từ việc thừa nhận tri thức khách quan , Xôcrát đi đến khẳng
định tính khách quan của các chuẩn mực đạo đức . Khác với các nhà nguỵ
biện , ông coi cái thiện và cái ác là hoàn toàn khác biệt nhau , cũng như không
đồng nhất hạnh phúc với cái lợi , mà coi hạnh phúc là đức hạnh . Chỉ có người
nào biết đức hạnh là gì mới thực sự có hạnh phúc . Cái ác và bất hạnh là kết
quả của sự không hiểu biết cái thiện.
Như vậy, triết học của Xôcrát chủ yếu bàn về con người dưới khía cạnh
đạo đức . Nhận thức chân lý , tri thức là nền tảng đạo đức học của ông . Công
lao của Xôcrát là đã bước đầu nhận thấy mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
trong hoạt động đạo đức của con người . Nhưng ngoài khía cạnh nhận thức
luận , vấn đề còn liên quan đến các hoàn cảnh xã hội nữa . Đạo đức học duy
lý của Xôcrát sau nầy bị Aríxtốt phản đối , cho rằng việc hiểu biết về cái thiện
và cái ác cũng như việc vận dụng chúng trong từng tình huống cụ thể là hai
việc khác nhau .
Mặc dầu vậy , triết học Xôcrát vẫn là một bước ngoặc lịch sử phát triển tư
tưởng triết học phương Tây cổ đại với việc coi con người là trung tâm của các

vấn đế thế giới quan . Đánh giá cao điều đó , C. Mác đã gọi các quan niệm
của Xôcrát là :”biểu tượng của triết học”.
+ Platon ( 427 – 347 TrCN ).
Là một trong những nhà triết học , nhà tư tưởng kiệt xuất của thời cổ đại ,
người mà theo Hê ghen có ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát triển tư tưởng


23

nói chung , tới văn hoá tinh thần của nhân loại . ông là học trò của Xôcrát .
Hiện nay hầu như chúng ta còn giử lại được phần lớn các tác phẩm của Pla ton
.
*Học thuyết về ý niệm - quan niệm về thế giới của Pla ton xuất phát về
những lập luận chính của ông .
Thứ nhất, xét về khía cạnh nhận thức luận , ông tiếp thu các quan niệm
của Xô crát , đặc biệt đề cao vai trò của tri thức khái niệm trong nhận
thức , cho rằng tri thức chân chính không dừng lại ở các tri thức về các sự
vật cảm tính đơn lẽ, mà là các tri thức lý tính mang tính chất bao quát .
Không dừng lại ở đó , Pla ton đẩy quan niệm của Xô crát đi đến cực đoan ,
cho rằng mọi sự vật trong thế giới chúng ta đều chỉ tồn tại dưới dạng đơn
lẻ, nhất thời , do đó các tri thức mang tính chất chung và bao quát là thuộc
về lĩnh vực tinh thần thuần tuý chứ không phải là tri thức thuộc về các sự
vật đó. Từ đây nhà triết học biến các tri thức của con người thành cái
không phải là sự phản ánh các sự vật , mà trái lại là bản chất của chúng .
Đối với ông tri thức , ý niệm về cai bàn chẳng hạn được coi là bản chất của
những cái bàn cụ thể mà hằng ngày chúng ta nhìn thấy . Do đó ngoài thế
giới các sự vật , vật chất chung quanh ta còn tồn tại một thế giới khác đó là
thế giới của các ý niệm .
Thứ hai , xét về phương diện bản thể luận , nếu giả sử trên thế gian
chỉ tồn tại duy nhất các sự vật vật chất thôi thì theo Pla ton như thế` thế giới

chúng ta là một sự hổn độn , ô hợp . Đều nầy là không thể được . Trên thực tế
mọi vật đều phát triển theo những trình tự chung nhất định . Và ông coi các ý
niệm là cơ sở quy định những trình tự đó. Sự vật chỉ là hiện thân của ý niệm .
Các ý niệm , theo cách hiểu của Pla ton đó là các khái niệm , tri thức đã
được khách quan hoá . Chúng bị rứt ra khỏi ý thức của con người , hoà trộn
vào thế giới tư tưởng được coi là tổng thể các ý niệm tương tự . Các ý niệm


24

được coi là tồn tại nói chung , bất biến và vĩnh viễn . Chúng không phải được
sinh ra từ cái gì đó hay mất đi , mà tồn tại mãi mãi như thế từ xưa đến nay . Vì
vậy những ý niện chung , những tri thức mang tính khái quát cao đó cần phải
tách biệt khỏi thế giới các sự vật cảm tính đang sinh thành và biến đổi không
ngừng . Ong nói”Cần phải ngăn ngừa toàn bộ linh hồn khỏi những cái đang
sinh thành . Khi đó khả năng nhận thức của con người sẽ có thể trực giác được
tồn tại”.
Như vậy phát triển quan niệm của Xô crát theo lập trường duy tâm khách
quan , Pla ton cho rằng , chỉ có các ý niệm là tồn tại thực sự . Cũng như Pác
mênít , ông coi tồn tại là vĩnh viễn bất biến , luôn luôn đồng nhất với chính
bản thân mình. Nó là cái không phân chia được và chỉ được nhận thức duy
nhất bằng lý tính , đồng thời cách biệt khỏi thế giới các sự vật cảm tính .
Nhưng khác với Pácmênit, Pla ton không coi tồn tại là một cái gì đó hoàn toàn
thuần nhất , mà là tổng thể của nhiều ý niệm khác nhau như ý niệm đạo đức ,
thẩm mỹ , khoa học . Dù số lựong chúng không phải là vô hạn . Không phải
bất kỳ mọi hành động , sự vật nào cũng đều có ý niệm . Hơn nữa ở Pla ton thế
giới ý niệm chủ yếu mang tính đạo đức . Nó đối lập với thế giới hiện thực
không chỉ tựa như sự đối lập giữa bản chất với hiện tượng , giữa bản chính
với bản sao , mà còn thể hiện như sự đối lập giữa phúc lợi và cái ác . Cho nên
trong số tất cả các ý niệm thì ý niệm phúc lợi là tối cao nhất . Đó là ý niệm

của các ý niệm , là ngọn nguồn của chân lý , của các đẹp và sự hiền hoà trong
vũ trụ .Nó tựa như mặt trời dọi sáng , ban sức sống cho mọi ý niệm khác cũng
như cho mọi vật trong thế giới chúng ta . Ý niệm phúc lợi được coi là đấng tối
cao của hiệnthực . Sau nầy các học trò của Pla ton ví ý niệm phúc lợi của ông
như thượng đế , coi nó là thượng đế .
Coi các ý niệm là tồn tại nói chung , là tồn tại thực sự, Pla ton vẫn khẳng
định rằng các không- tồn tại cũng có thực . Cái không tồn tại chẳng phải là


25

một cái gì đó hoàn toàn đối lập với tồn tại , mà nó cũng là một khía canh của
tồn tại . Bản thân cái tồn tại cũng bao hàm cả “cái khác”với nó , tức cái
không- tồntại , Ví dụ vật chất ( theo tiếng cổ Hy lạp là Hylè ) theo Pla ton là
cái không- tồn tại , bởi vì trên thực tế không bao giờ chúng ta thấy vật chất tồn
tại dưới dạng thuần tuý cả. Nhưng thứ nhất vẫn có khái niệm vật chất nói
chung ; Thứ hai bản thân sự vật cảm tính vẫn là dạng biểu hiện cụ thể của vật
chất . Vì vậy dưới con mắt của Pla ton , bản thân vật chất nói chung cũng tồn
tại vĩnh viễn và không phải do thế giới ý niệm sản sinh ra , mặc dù nó không
là các gì cả nhưng vẫn cần thiết .
Chính các ý niệm và vật chất là hai cơ sở tạo nên mọi sự vật trong thế giới
chúng ta . Nếu như các ý niệm là bản chất chung của mọi sự vật , đem lại sinh
khí cho chúng . Đồng thời là cơ sở thống nhất của toàn vũ trụ , thì vật chất là
căn nguyên tạo ra hình thù chất liệu cụ thể của mỗi sự vật , làm cho chúng đa
dạng , cá biệt , nhất thời và biến đổi không ngừng . Vì vậy các sự vật là một
dạng trung gian giữa ý niệm và vật chất .
Mối quan hệ cụ thể giữa thế gới ý niệm và thế giới các sự vật không được
Pla ton nói một cách rõ ràng . Ong chỉ thường xuyên nhần mạnh các ý niệm là
những cái có trước và là bản chất của mọi sự vật . Tuy nhiên trong quan niệm
của ông cũng toát lên các khía cạnh sau về mối quan hệ giữa chúng : Thứ

nhất mọi sự vật đều là sự mô phỏng các ý niệm , luôn hướng tới các ý niệm
như là bản chất chung và nền tảng nội tại của mình , là bản sao của các ý niệm
. Thứ hai mọi sự vật đều liên quan đến các ý niệm , bất kỳ sự vật nào cũng đều
xuất hiện trong mối liên hệ với các ý niệm .
Để hiểu rỏ thêm quan niệm của Pla ton về thế giới , chúng ta hãy xem
minh hoạ của ông qua ví dụ “hang động ”. Thế giới ý niệm tưa như đoàn
người đi qua hang động . Các sự vật cảm tính tựa như những cái bóng của
đoàn người đó in trên vách đá . Còn vật chất thì tựa như những chất liệu tạo


×