Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tổ chức đa dạng các hoạt động học tập nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn hóa học 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.76 KB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LANG CHÁNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TỔ CHỨC ĐA DẠNG CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC
MÔN HÓA HỌC 9

Người thực hiện: Trịnh Thị Hải
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Thị Trấn
SKKN thuộc môn: Hóa học

THANH HÓA, NĂM 2017


MỤC LỤC
Đề mục
PHẦN I: MỞ ĐẦU

Trang

I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Đối tượng nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận.
II. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.


1. Thuận lợi.
2. Khó khăn.
3. Chất lượng HS.
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
1. Thực hiện các thí nghiệm vui lồng ghép vào bài học.
2. Kết hợp giải thích, liên hệ các hiện tượng trong thực tế có liên quan
đến bài học.
3. Tích hợp với kiến thức của các môn học khác.
4. Liên hệ các vấn đề thời sự đang nổi cộm trong cuộc sống.
5. Tổ chức các trò chơi kiến thức.
6. Sử dụng các câu thơ, các mẩu chuyện vui, các truyện ngắn lịch sử
lồng ghép vào kiến thức bài học.
7. Biểu diễn các thí nghiệm vui trong các buổi ngoại khóa hoặc sinh
hoạt tập thể đầu tuần.
8. Tổ chức “Sân chơi trí tuệ” lồng ghép vào mỗi sáng thứ 2 hàng tuần
trong tiết sinh hoạt tập thể đầu tuần.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận.
II. Kiến nghị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
1
2
2
2
3
3

3
3
3
3
5
9
10
11
13
15
16
17

18
19
20

2


PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
Hóa học là môn khoa học tự nhiên mà học sinh THCS được tiếp cận muộn
nhất, nhưng nó lại có vai trò rất quan trọng trong trường phổ thông. Môn Hóa học
cung cấp cho học sinh hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản và thiết thực, rèn cho
học sinh óc tư duy sáng tạo và khả năng trực quan nhanh nhạy. Hình thành cho
các em những đức tính cần thiết như cẩn thận, kiên trì, trung thực, tỉ mỉ và yêu
thích khoa học. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Hóa học ở
trường THCS. Qua nghiên cứu nội dung chương trình và quá trình học tập của
học sinh tôi nhận thấy đa số học sinh tiếp thu kiến thức môn Hóa học rất chậm, từ

chỗ khó tiếp thu ngay ban đầu sẽ dẫn đến sự hời hợt của học sinh trong môn Hóa
học ở những năm học sau. Nhiều học sinh hiện nay, bước vào bàn học với tâm
trạng ngao ngán, cố gắng nghiền ngẫm với mục đích "nuốt vào bụng" mớ công
thức hóa học, phương trình hóa học đầy số và chữ cái Latinh – ký hiệu. Đó là một
cách học tập rất tiêu cực, bị động khi các em không có hứng thú với nó và nhanh
chóng bị đè bẹp bởi hàng tá số liệu mau quên, dễ chán.
"Hãy làm những gì bản thân yêu thích, và yêu thích những gì bản thân
đang làm" là phương châm đang được giới trẻ hiện nay áp dụng nhiều và biến
thành quan điểm học tập, làm việc của mình.
Kết quả học tập chỉ đạt được tối đa khi học sinh thực sự có hứng thú với
môn học, chủ động tham gia vào các hoạt động học tập, tự lực giải quyết các
nhiệm vụ học tập theo yêu cầu của giáo viên. Để đạt được điều đó mỗi người
giáo viên trong ngành đã trăn trở, tìm tòi, từng bước thực hiện việc đổi mới
phương pháp giảng dạy theo yêu cầu của ngành giáo dục đề ra phù hợp với bộ
môn. Có thể tiến hành theo nhiều hướng khác nhau, nhưng các hướng đều đi đến
mục đích chung, đó là làm thế nào để có thể có những giờ dạy thật tốt, nhằm
giúp học sinh yêu thích bộ môn, nắm vững kiến thức, vận dụng kiến thức vào
thực tế, có hứng thú học tập bộ môn ngay từ những tiết học đầu tiên.
Với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc đổi mới phương pháp dạy học
nói chung và dạy môn Hóa học nói riêng, nâng cao chất lượng dạy và học, tôi
mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tổ chức đa dạng các hoạt động học tập
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Hóa học 9”.
Phương pháp giảng dạy phù hợp sẽ là con đường ngắn nhất giúp học sinh
tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả, phát huy trí lực và sự đam mê của người
học. Đây cũng chính là một trong những lý do quyết định giúp tôi viết sáng kiến
kinh nghiệm này.
II. Mục đích nghiên cứu.
Nâng cao chất lượng dạy và học môn Hóa học. Phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả
năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình

cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.
3


III. Đối tượng nghiên cứu.
1. Đối tượng nghiên cứu áp dụng đề tài là 46 học sinh khối 9 - Trường THCS
Thị Trấn Lang Chánh, học bộ môn Hóa Học năm học 2016- 2017.
2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu trong thời gian từ tháng 9 năm 2016 đến
tháng 4 năm 2017.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp quan sát khoa học.
Quan sát trực tiếp, theo dõi và phân loại HS (Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu,
Kém) để đưa ra giải pháp hợp lý cho từng đối tượng.
2. Phương pháp phỏng vấn.
Phỏng vấn, trao đổi trực tiếp với tổ trưởng tổ chuyên môn, tham khảo ý
kiến các giáo viên dạy giỏi về các vấn đề có liên quan đến đề tài.
3. Phương pháp lịch sử.
Là phương pháp nghiên cứu bằng cách đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá
trình phát triển, nguồn gốc của nguyên tố hóa học, nguồn gốc tên gọi, lịch sử các
nhà khoa học,...
4. Phương pháp thống kê toán học.
Sau khi thu thập các phiếu thăm dò ý kiến, dựa vào kết quả điều tra, tôi tiến
hành kiểm tra học sinh các kiến thức đã học, so sánh đối chiếu với từng năm, từ
đó rút ra tỉ lệ phần trăm, nhằm đánh giá thực trạng và định hướng nâng cao hiệu
quả của của việc dạy học môn Hoá học ở trường THCS.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận.
Thực hiện mục tiêu đào tạo những con người có khả năng đáp ứng những
nhu cầu đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội đó là thế hệ thanh niên chủ
động, sáng tạo và có khả năng thích ứng cao với cuộc sống thực tế. Như vậy, cần

chủ động nắm bắt kiến thức cơ bản, tự tìm hiểu và phát hiện những kiến thức
mới có liên quan là điều rất quan trọng đối với học sinh.
Trong lí luận về phương pháp dạy học cho thấy, sự thống nhất giữa sự hướng
dẫn của thầy và hoạt động học tập của trò có thể thực hiện được bằng cách quán
triệt quan điểm hoạt động. Dạy học theo phương pháp mới phải làm cho học sinh
chủ động suy nghĩ nhiều hơn, thực hành nhiều hơn trong quá trình chiếm lĩnh tri
thức. Quan điểm dạy Hóa học là phải dạy suy nghĩ, dạy khả năng quan sát thí
nghiệm và các hiện tượng trong tự nhiên,... để từ đó phân tích, tổng hợp, trừu
tượng hóa, khái quát hóa,... Trong đó, phân tích - tổng hợp có vai trò trung tâm, tự
mình phát hiện và nêu vấn đề, dự đoán được các kết quả và chứng minh được dự
đoán đó. Vì vậy, tổ chức đa dạng các hoạt động học tập trong bộ môn Hóa học 9
không những giúp học sinh nắm kiến thức vững chắc, sáng tạo mà còn kích thích,
tạo hứng thú học tập để học sinh say mê nghiên cứu, tìm tòi, phát hiện và giải
thích kiến thức. Từ đó, các em học tốt hơn, vững chắc và sâu sắc hơn.
4


II. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
1. Thuận lợi.
Thực hiện đề án 706 của UBND huyện Lang Chánh về việc xây dựng
trường THCS Thị Trấn thành trường trọng điểm chất lượng cao của huyện. Từ
năm học 2014 – 2015 nhà trường đã được đầu tư tương đối đầy đủ về cơ sở vật
chất phục vụ cho công tác giảng dạy.
Hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục đại trà và chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề được Hội đồng sư
phạm trường THCS Thị Trấn đặt lên hàng đầu. Với đội ngũ cán bộ, giáo viên
được đào tạo chuẩn và trên chuẩn, nhiệt tình trong công tác giảng dạy, đầu tư
nhiều thời gian và phương tiện cho việc thiết kế bài giảng để mỗi giờ giạy đều
đạt chất lượng tốt nhất.
Học sinh trường THCS Thị Trấn đa số các em ngoan, chủ yếu sống ở vùng

Thị trấn nên rất thuận tiện cho việc đi lại, học tập.
Nhiều học sinh cũng đã chủ động nghiên cứu tìm tòi khám phá kiến thức,
có sự đầu tư cao cho học tập bộ môn.
2. Khó khăn.
Một bộ phận không nhỏ học sinh chưa hứng thú khi học tập bộ môn Hóa
học – môn học được tiếp cận muộn và kiến thức khá trừu tượng. Do đó, các em
chưa có phương pháp học tập hợp lí để chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động.
Nhiều học sinh lười học, lười tư duy trong quá trình học tập.
Vấn đề thực hiện các thao tác làm thí nghiệm hóa học và vận dụng vào
thực tiễn nhằm tăng khả năng tư duy của học sinh sau khi học xong lí thuyết
hoặc khi nghiên cứu kiến thức mới là hết sức khó khăn.
Thời gian dành cho HS hoạt động trong một tiết học là quá ít, kể cả hoạt động
tay chân và hoạt động tư duy.
3. Chất lượng HS.
Chất lượng môn Hóa học của học sinh lớp 9 trước khi áp dụng đề tài:
(tháng 9 năm 2016)
Chất lượng HS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Tổng số HS

46

SL
1

%


SL

%

SL

%

2,17

4

8,7

21

45,6
5

SL

%

15 32,61

SL

%


5

10,87

III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
1. Thực hiện các thí nghiệm vui lồng ghép vào bài học.
Thực nghiệm là một phương pháp đặc trưng không thể thiếu của bộ môn
Hóa học. Để thực hiện một thí nghiệm thành công, đòi hỏi giáo viên phải có sự
chuẩn bị kỹ lưỡng. Tuy nhiên thay vì làm thí nghiệm thông thường, tùy từng thí
5


nghiệm, nếu có thể được, giáo viên nên tăng sự hứng thú cho học sinh bằng cách
biến đổi một chút, để thí nghiệm trở nên hấp dẫn, kích thích sự chú ý của các
em. Khi thí nghiệm vui diễn ra, giáo viên sẽ gợi ý cho học sinh về mảng kiến
thức có trong thí nghiệm vui vừa biểu diễn có liên quan đến bài học.
Ví dụ 1: Bài 7 – TÍNH CHẤT HÓA HỌC CỦA BAZƠ
Sau khi dạy xong phần 1 của bài, giáo viên biểu diễn thí nghiệm: Cho Na vào
thuyền giấy nhỏ bỏ vào chậu nước có pha một ít dung dịch phenolphtalein.
Sau đây cô có món quà tặng lớp. Đó là một trò ảo thuật: “Làm đắm chiến
thuyền của địch”.
- Thuyền của địch đang tiến gần sát bờ biển quần đảo Hoàng Sa.
- Các chiến sỹ cảnh sát biển của Việt Nam đã anh dũng chiến đấu.
- Bùm! Bùm! Bùm!... Chiến thuyền của địch đã bị cháy, rồi chìm dần xuống biển.
- Quân địch chết và bị thương rất nhiều, máu của chúng nhuộm đỏ màu nước biển.
- Chúng ta đã chiến thắng rồi!...
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát và giải thích hiện tượng. Sau khi quan
sát và giải thích thì học sinh được tái hiện cả kiến thức đã học ở lớp 8 về tính
chất hóa học của nước và củng cố tính chất làm đổi màu chất chỉ thị màu của
dung dịch bazơ.

(Thực ra, giáo viên đã chuẩn bị và tiến hành như sau:
Ðổ 50ml nước cùng vài giọt phenolphtalein vào một cốc có dung tích
100ml. Lấy một miếng Natri cạo sạch, nhỏ bằng hạt đậu, bỏ vào chiếc thuyền
bằng giấy (chọn loại giấy thấm nước) đã chuẩn bị sẵn. Sau một thời gian ngắn,
có khí thoát ra nhiều, tàu tự bốc cháy, dung dịch chuyển thành màu đỏ.
Giải thích: Nước thấm qua giấy, tác dụng với natri, theo phương trình phản ứng
sau:
2Na + 2H2O
2NaOH + H2
Phản ứng trên tỏa nhiều nhiệt, làm cho khí H 2 thoát ra tự bốc cháy, đồng
thời NaOH tạo thành làm cho phenolphtalein không màu chuyển sang màu đỏ.
Chú ý: Trong thí nghiệm trên, mẩu Natri nhất thiết chỉ được lấy to bằng hạt
đậu xanh. Nếu lấy to hơn, phản ứng xảy ra mãnh liệt, sẽ nổ, nguy hiểm).
Ví dụ 2: Bài 9 – TÍNH CHẤT HÓA HỌC CỦA MUỐI
Khi dạy phần 2: Muối tác dụng với axit.
Cho nhóm học sinh tiến hành thí nghiệm: Bóc vỏ trứng không cần dùng tay.
Dụng cụ, hóa chất: Cốc thủy tinh, Kẹp lấy hóa chất, một quả trứng gà đã được
luộc chín, dung dịch HCl.
Cách tiến hành: Cho khoảng 50ml dung dịch HCl vào cốc, sau đó bỏ quả trứng vào.
Hiện tượng: Có bọt khí thoát ra, sau một thời gian, lấy quả trứng ra thấy không
còn vỏ trứng như lúc đầu.
Giải thích: Khi cho quả trứng vào cốc, HCl trong cốc đã phản ứng với CaCO 3
(thành phần chính trong vỏ trứng), khí sinh ra là CO2.
6


PTHH:
2HCl + CaCO3
CaCl2 + CO2 + H2O
Ví dụ 3: Bài 38 – AXETILEN

Khi dạy về phản ứng cháy của axetilen, giáo viên có thể biểu diễn thêm thí
nghiệm vui: Đốt nước đá cháy.
Lấy một ít đá bỏ vào một chén sứ miệng rộng, rồi bật diêm đốt. Thật kỳ lạ!
Nước đá bốc cháy.
Cách làm: Trong chén sứ, trước khi bỏ nước đá thì bỏ sẵn một ít CaC2.
Do có phản ứng: CaC2 + 2H2O
C2H2 + Ca(OH)2
Khí C2H2 thoát trên mặt nước đá, khi đốt nó sẽ cháy giống hệt nước đá cháy.
t
2C2H2 + 5O2 →
4CO2 + 2H2O
Ví dụ 4: Bài 52- TINH BỘT VÀ XENLULOZO
Khi dạy phần: Tính chất hóa học của Tinh bột và Xenlulozơ, giáo viên biểu
diễn cho học sinh quan sát thí nghiệm: Phát hiện dấu tay.
Để điều tra các vụ án mạng hay trộm cắp, công an thường rắc bột để phát
hiện dấu tay của thủ phạm.Ta cũng có thể biểu diễn thí nghiệm vui này.
Giáo viên đưa một tờ giấy trắng và sạch cho học sinh và yêu cầu học sinh bí mật
in đầu ngón tay cái và ngón tay trỏ ở 2 bàn tay của một người nào đó lên tờ giấy.
Giáo viên thu lại tờ giấy và mang đậy úp lên miệng lọ đựng cồn iot. Sau một
thời gian lấy ra, các dấu tay xuất hiện trên giấy.
Giải thích: Khi ta in tay lên giấy, tay ta sẽ để lại trên giấy vết mỡ của da. Iot sẽ
hòa tan vết mỡ của da này làm xuất hiện dấu tay.
0

2. Kết hợp giải thích, liên hệ các hiện tượng trong thực tế có liên quan đến
bài học.
Bằng việc đàm thoại, thảo luận, sử dụng các tài liệu trực quan thông qua
tranh ảnh hoặc những đoạn phim ngắn, bằng lời giải thích, kể chuyện, đọc tài
liệu, giáo viên có thể lồng ghép vào bài học các hiện tượng thực tế kết hợp giáo
dục ý thức bảo vệ môi trường ứng phó với biến đổi khí hậu... Điều này cần phụ

thuộc vào mỗi bài giảng cụ thể, điều kiện từng trường và còn căn cứ vào phong
cách lên lớp của từng người. Vì hiệu quả giáo dục với nội dung đề tài này,
những kinh nghiệm có thể áp dụng cho người này nhưng cũng có thể không phù
hợp với người khác. Bởi lẽ phong cách lên lớp của mỗi người nó như “tính
cách” của mỗi con người không thể ai cũng giống ai. Tuy nhiên, mục đích cuối
cùng thì như nhau đó là đảm bảo được nội dung của bài giảng và không ảnh
hưởng đến tính đặc thù của dạy học hóa học.
2.1. Trường hợp thứ nhất, giáo viên có thể lồng ghép việc giải thích các hiện
tượng, vấn đề trong thực tế bằng cách đưa vào phần “Khởi động” đầu tiết học.
Giáo viên nêu các câu hỏi gợi mở hoặc yêu cầu học sinh đưa ra ý kiến nhận
xét về các vấn đề liên quan đến nội dung kiến thức trong bài học mới. Cũng có
thể tạo những tình huống đột nhiên có khả năng xuất hiện, rất hay và sinh động
hấp dẫn, người học cảm thấy tình huống đó tới một cách tự nhiên, và tự giác
7


nhận thức vấn đề là một biện pháp độc lập, có thể dùng câu hỏi, nêu sự việc,
hoặc một câu chuyện gây sự tò mò để làm xuất hiện tình huống có vấn đề.
Giáo viên hướng dẫn tiến trình hoạt động khởi động của học sinh thông qua
hoạt động cá nhân hoặc nhóm được tổ chức linh hoạt, phù hợp với từng nội dung
bài học sao cho vừa giúp các em huy động kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản
thân, vừa xây dựng được ý thức hợp tác, tinh thần học tập lẫn nhau trong học sinh.
Việc trao đổi với giáo viên có thể thực hiện sau khi đã kết thúc hoạt động nhóm.
Ví dụ 1: Bài 27- CACBON
Giáo viên cho học sinh khởi động bằng tình huống đặt ra: Đã bạn nào từng
nấu cơm giúp bố mẹ trong những ngày mất điện mà bị cháy hay bị khê chưa?
Làm sao để chữa cơm khê? (Các em đưa ra rất nhiều cách); còn cách chữa cháy
của cô là thêm ít than củi vào nồi cơm đó. Liệu phương án này của cô có đúng
không ta sẽ tìm hiểu trong bài học hôm nay.
Giải thích: Vận dụng tính hấp phụ của than củi, nên nó hấp phụ được mùi khét

và khê của nồi cơm, làm cơm đỡ có mùi khê. Đây là một tính chất vật lý khá
quan trọng của Cacbon được nhắc tới trong chương trình.
Ví dụ 2: Bài 28 – CÁC OXIT CỦA CACBON
Giáo viên cho học sinh khởi động bằng tình huống đặt ra: Vì sao khi mở
chai nước ngọt có ga lại có nhiều bọt khí thoát ra?
HS có thể có nhiều cách giải thích khác nhau. Sau khi có một vài phương
án trả lời của học sinh, giáo viên chốt phương án cuối cùng: Nước ngọt không
khác nước đường mấy, chỉ có khác là có thêm khí cacbonic CO 2. Ở các nhà máy,
khi sản xuất nước ngọt có ga, người ta dùng áp lực lớn để ép khí CO 2 hòa tan
vào nước, sau đó nạp vào chai hoặc lon và đóng kín lại. Khi bạn mở nắp chai
hoặc lon nước ngọt, áp suất bên ngoài thấp hơn bên trong nên khí CO 2 lập tức
bay ra ngoài. Vì vậy các bọt khí thoát ra giống như lúc ta đun nước sôi. Về mùa
hè, người ta thường thích uống nước ngọt ướp lạnh. Khi ta uống nước ngọt vào
dạ dày, dạ dày và ruột không hề hấp thụ khí CO 2. Ở trong dạ dày nhiệt độ cao
nên CO2 nhanh chóng theo đường miệng thoát ra ngoài, nhờ vậy nó mang đi bớt
một nhiệt lượng trong cơ thể làm cho người ta có cảm giác mát mẻ, dễ chịu.
Ngoài ra khí CO2 có tác dụng kích thích nhẹ thành dạ dày, tăng cường việc tiết
dịch vị, có lợi cho tiêu hóa.
Để tìm hiểu thêm các kiến thức liên quan đến CO 2 cũng như oxit khác của
Cacbon, chúng ta cùng tìm hiểu qua bài học hôm nay.
Ví dụ 3: Bài 26 – CLO
Trước hết giáo viên tái hiện cho học sinh kiến thức cũ có liên quan: Clo là khí độc.
Sau đó giáo viên đưa tình huống làm xuất hiện mâu thuẫn: Tại sao lại dùng clo
để khử trùng nước sinh hoạt?
Sau khi học sinh dự đoán câu trả lời, giáo viên cung cấp thêm cho học sinh:
Trong hệ thống nước máy ở thành phố, người ta cho vào một lượng nhỏ khí clo,
không ảnh hưởng đến sức khỏe con người nhưng có tác dụng diệt khuẩn:
8



Cl2

+

H2O



¬



HCl

+ HClO

Axit hipoclorơ HCl sinh ra có tính oxi hóa rất mạnh nên có tác dụng khử trùng,
sát khuẩn nước. Phản ứng thuận nghịch nên clo rất dễ thoát ra khỏi dung dịch và
bay một ít vào không khí, do đó khi ta sử dụng nước thì ngửi được mùi khí clo.
Vậy Clo còn có tính chất và ứng dụng nào khác? Chúng ta cùng tìm hiểu
qua bài học hôm nay.
Ví dụ 4: Bài 45 – AXIT AXETIC
Giáo viên có thể đặt câu hỏi: Em hãy cho biết vai trò của giấm ăn đối
với mỗi gia đình?
Sau khi học sinh trả lời có thể còn chưa đầy đủ. Giáo viên cung cấp thêm:
Giấm ăn đối với mỗi gia đình là không thể thiếu vì nó có vai trò tương đối quan
trọng: Làm nước chấm, khử mùi hôi, khử mùi tanh cá,…
- Làm nước chấm: Nếu ăn ốc luộc, phồng tôm rán mà chấm nước giấm thanh
thì không gì ngon bằng.
Cách chế biến : Hành khô tỏi, gừng đập nhỏ, mỡ phi già cho gia vị vào đảo cho

thơm. Giấm+ đường+ nước cho vừa phải đủ vị chua ngọt đổ vào chảo đun sôi.
- Khử mùi hôi: Người mắc bệnh hôi miệng cho một chút giấm vào cốc nước
nguội súc miệng trước khi đi ngủ và sau khi ngủ dậy.
- Khử mùi tanh cá: Cá là thực phẩm sạch ăn ngon lại giàu dinh dưỡng. Nhược
điểm khi ăn xong rất tanh miệng. Nguyên nhân là do cá có nhiều cacbilamin
chất gây tanh (nhất là cá mè).
Cách khử : Lấy chậu nước sạch cho vào đó 1 muôi giấm. Cá mua về cho cả túi
vào ngâm sau đó vừa mổ cá vừa ngâm vào giấm làm như vậy khi mổ cá xong
caccbilamin đã hết, cá hết tanh đem rửa sạch và chế biến theo ý thích....
Giấm ăn chính là dung dịch axit axetic 2 – 5%. Vậy ngoài ứng dụng làm
giấm ăn, axit axetic còn có những ứng dụng nào khác, axit axetic có cấu tạo và
tính chất như thế nào? Chúng ta cùng tìm hiểu qua bài học hôm nay.
2.2. Trường hợp thứ hai, giáo viên có thể lồng ghép việc giải thích các hiện
tượng, vấn đề trong thực tế vào mỗi phần phù hợp trong tiết học.
Ví dụ 1: Khi dạy các bài 3, 4, 7,8 - Hóa học 9 giáo viên có thể sử dụng những
câu hỏi sau:
Câu 1: Vì sao sau khi ăn trái cây không nên đánh răng ngay?
Giải thích : Vì chất chua (axit hữu cơ) có trong trái cây sẽ kết hợp với những
thành phần có trong kem đánh răng theo bàn chải sẽ tấn công các kẽ răng và gây
tổn thương cho lợi. Bởi vậy, cần để khoảng 30 phút sau khi nước bọt trung hòa
lượng axit trong trái cây nhất là táo, cam, nho, chanh...
Áp dụng : Sử dụng câu hỏi trên để mở rộng tính chất hóa học của axit khi tác
dụng với bazơ (phản ứng trung hòa) trong bài 3 hoặc bài 7 – Hóa học 9.
Câu 2 : Vì sao nước rau muống đang xanh, khi vắt chanh vào thì chuyển sang màu đỏ?
9


Giải thích: Có một số hợp chất hoá học gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho
dung dịch thay đổi màu khi độ axit thay đổi. Trong rau muống (và vài loại rau
khác) có chất chỉ thị màu này. Trong chanh có chứa 7% axit xitric. Vắt chanh

vào nước rau làm thay đổi độ axit, do đó làm thay đổi màu nước rau. Khi chưa
vắt chanh, nước rau muống có màu xanh lét là chứa chất kiềm.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học
của axit hoặc bazơ khi tác dụng với quỳ tím ở bài 3 hoặc bài 7 – Hóa học 9.
Câu 3 : Vì sao khi pha loãng axit H2SO4 đặc phải đổ axit vào nước chứ không
nên làm ngược lại?
Giải thích: Vì axit H2SO4 đặc rất háo nước, tan vô hạn trong nước và khi tan tỏa
rất nhiều nhiệt. Do đó, nếu cho nước vào axit H 2SO4 đặc thì hiện tượng “tranh
cướp nước” của các phân tử axit sẽ xảy ra mãnh liệt, đồng thời tỏa nhiều nhiệt
làm nước sôi và bắn tung tóe kèm theo những phân tử H2SO4 nên rất nguy hiểm.
Ngược lại, khi bạn cho H2SO4 đặc vào nước thì tình hình sẽ khác: H 2SO4
nặng hơn nước, nếu cho từ từ axit vào nước, nó sẽ chìm xuống dưới, sau đó
phân bố đều trong dung dịch làm nhiệt lượng sinh ra cũng được phân bố đều
trong dung dịch, nhiệt độ sẽ tăng lên từ từ và không làm nước sôi một cách quá
nhanh. Một lưu ý nữa là không nên pha vào các bình thủy tinh vì thủy tinh có
thể bị vỡ do quá trình tăng nhiệt độ khi pha.
Áp dụng: Vấn đề an toàn khi làm thí nghiệm luôn được đặt lên hàng đầu trong
những tiết dạy có sử dụng hóa chất. Đặc biệt khi tiếp xúc với H 2SO4 đặc rất nguy
hiểm. Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên khi dạy phần tính chất vật lí của axit
H2SO4 bài 4- Hóa học 9. Từ đó giáo dục học sinh ý thức bảo vệ môi trường khi
làm thí nghiệm và thau, rửa dụng cụ thí nghiệm có những hóa chất độc hại [1] .
Ví dụ 2: Khi dạy bài 11: Phân bón hóa học, giáo viên có thể sử dụng những câu hỏi:
Câu 1: Vì sao người ta thường dùng tro bếp để bón cho cây?
Giải thích: Trong tro bếp có chứa muối K2CO3 cung cấp nguyên tố kali cho cây.
Câu 2: Tại sao khi nông nghiệp phát triển thì các vi khuẩn, nấm, giun tròn sống
trong đất, nước... giảm đi rất nhiều?
Giải thích: Một số phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, thậm chí thuốc diệt cỏ có thể
tiêu diệt các loại sinh vật có hại này. Ví dụ trước khi trồng khoai tây một tuần, người
ta đưa vào đất một lượng urê (1,5kg/m2) thì các mầm bệnh bị tiêu diệt hoàn toàn.
Hiện tượng dễ thấy là không còn đỉa trong nước ở nhiều nơi như ngày trước nữa.

Câu 3: Tại sao khi đi gần các sông, hồ bẩn vào ngày nắng nóng, người ta ngửi
thấy mùi khai?
Giải thích: Khi nước sông, hồ bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ giàu đạm
như nước tiểu, phân hữu cơ, rác thải hữu cơ... thì lượng urê trong các chất hữu
cơ này sinh ra nhiều. Dưới tác dụng của men ureaza của các vi sinh vật, urê bị
phân hủy tiếp thành CO2 và NH3 theo phản ứng:
(NH2)2CO + H2O
CO2 + 2NH3
10


NH3 sinh ra bị hòa tan trong nước dưới dạng cân bằng động. Như vậy, khi trời
nắng, nhiệt độ cao, NH3 sinh ra trong phản ứng trên sẽ ít bị hòa tan vào nước
mà chủ yếu tách ra bay vào không khí làm cho không khí xung quanh có mùi
khai khó chịu, gây ô nhiễm môi trường. Từ đây, giáo viên có thể cho học sinh
liên hệ biện pháp khắc phục.
Câu 4: Quá lạm dụng phân bón hóa học và quá trình sản xuất phân bón hóa học
gây ra những tác hại gì?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên bổ sung và đi đến kết luận: Từ vấn đề ô
nhiễm môi trường không khí, ô nhiễm nguồn nước do lạm dụng phân bón hóa
học và quá trình sản xuất phân bón hóa học gây ra có thể khắc phục bằng cách
sử dụng một số chất tự nhiên để cải tạo đất trồng, làm phân bón, tránh việc lạm
dụng các hợp chất hóa học.
Áp dụng: Giáo viên dùng những câu hỏi trên để liên hệ thực tế trong bài 11 –
Hóa học 9 [ 2] .
3. Tích hợp với kiến thức của các môn học khác.
Tùy bài học mà giáo viên đưa các hiện tượng, yếu tố liên quan tới bộ môn
khác như: Toán, Văn, Sinh, Vật lý,... lồng ghép vào để lôi cuốn học sinh hơn.
Ví dụ 1: Bài 30 – SILIC. CÔNG NGHIỆP SILICAT.
Vì sao Silic dẫn điện kém mà lại được sử dụng chế tạo linh kiện điện tử?

(HS liên hệ môn Vật lý để trả lời)
Giải thích: Silic là một chất bán dẫn, ở nhiệt độ thường độ dẫn điện của tinh thể
silic kém, nhưng khi nhiệt độ tăng độ dẫn điện tăng theo nhiệt độ. Linh kiện điện
tử được chế tạo bởi tinh thể silic cực kỳ tinh khiết.
Ví dụ 2: Bài 44 – RƯỢU ETYLIC
Uống rượu, bia có lợi hay có hại như thế nào? (Học sinh liên hệ kiến thức
môn Sinh học, môn Giáo dục công dân để trả lời)
Trả lời: Uống rượu, bia nhiều, lượng độc tố trong cơ thể vượt quá khả năng khử
độc của gan, ức chế xung thần kinh dẫn truyền đến tiểu não, tăng nguy cơ ung
thư, gây vô sinh và sảy thai, thúc đẩy lão hóa da, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ tim,
làm tăng huyết áp, tăng nguy cơ mắc bệnh thận, … Như vậy, uống rượu, bia có
hại, xấu vì vừa tốn tiền, tốn thời gian, hại sức khỏe, không tự chủ được bản thân,
làm khổ gia đình, gây tệ nạn xã hội, gây tai nạn giao thông,…. Do đó, những
người nghiện rượu nên cai rượu dần dần bằng cách hạn chế uống rượu, tham gia
tập thể thao để tăng cường sức khỏe và quên đi những cơn nghiện rượu.
Ví dụ 3: Bài 15- TÍNH CHẤT VẬT LÝ CỦA KIM LOẠI
Vì sao nhôm được sử dụng làm dây dẫn điện cao thế? Còn đồng được sử
dụng làm dây dẫn điện trong nhà? (Học sinh liên hệ môn Vật lý để trả lời)
Giải thích: Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng của
nhôm là 2,7g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là 8,9g/cm 3). Do đó,
nếu như dùng đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây các cột điện
11


sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi về mặt kinh tế.
Còn trong nhà thì việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh hưởng lớn lắm.
Hơn nữa nhôm bền trong không khí và rẻ hơn đồng. Vì vậy ở trong nhà thì ta dùng
dây đẫn điện bằng đồng, còn nhôm thì thường được dùng làm dây dẫn điện cao thế.
Ví dụ 4: Bài 11- PHÂN BÓN HÓA HỌC
Sau khi dạy xong phần Phân đạm, giáo viên đưa ra câu hỏi:

Tại sao một số ngư dân vẫn dùng phân đạm urê để bảo quản hải sản? Có
ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu dùng không? (Học sinh liên liên hệ kiến
thức môn Sinh học để trả lời).
Trả lời:
+ Khi urê hòa tan trong nước thì thu một lượng nhiệt khá lớn, giúp hải sản giữ
được lạnh và ức chế vi khuẩn gây thối do vậy hải sản không bị ươn, hỏng, làm
cho hải sản tươi lâu.
+ Giá thành mua phân đạm urê rẻ hơn so với mua các chất bảo quản khác.
- Khi ăn phải các loại rau hoặc hải sản có chứa dư lượng phân urê cao thì người
ăn có thể bị ngộ độc cấp tính với các triệu chứng đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy
và có thể dẫn tới tử vong. Nếu ăn rau hoặc hải sản có hàm lượng urê ít nhưng
trong một thời gian dài sẽ bị ngộ độc mãn tính, thường xuyên đau đầu không rõ
nguyên nhân, giảm trí nhớ và mất ngủ. Khi hàm lượng nitơ vượt quá ngưỡng
cho phép, có thể dẫn đến suy giảm hô hấp của tế bào, làm tăng sự phát triển của
các khối u và là tiền đề gây ra bệnh ung thư.
4. Liên hệ các vấn đề thời sự đang nổi cộm trong cuộc sống.
Giáo viên liên hệ những vấn đề có tính thời sự trong thực tế, những tai nạn
thương tâm, nếu được trang bị về kiến thức Hóa học thì có thể tránh khỏi.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 28: CÁC OXIT CỦA CACBON, giáo viên có thể liên hệ
thông tin:
Hai người chết ngạt dưới giếng
Thấy người đàn ông ngạt khí dưới đáy giếng, hai người khác leo xuống cứu
cũng bị bất tỉnh.
Sáng 29/5/2016, trong lúc leo xuống giếng trong rẫy tiêu sửa chữa máy bơm
nước, anh Vũ Minh Tâm (36 tuổi, xã Trà Tân, huyện Đức Linh, Bình Thuận) bị
bất tỉnh. Người vợ đứng ở trên phát hiện, hô hoán mọi người đến cứu chồng.
Ông Lê Minh Tài (58 tuổi) và anh Nguyễn Việt Hùng (28 tuổi) đang ở gần
đó liền chạy đến, leo xuống cứu anh Tâm, cũng lần lượt bất tỉnh dưới đáy giếng.
Ông Phạm Văn Học (Công an viên thôn 5, xã Trà Tân) cùng người dân huy động
quạt gió làm thoáng không khí, đưa các nạn nhân lên khỏi giếng. Ông Tài tử

vong tại chỗ. Anh Tâm được chở đi cấp cứu nhưng cũng không qua khỏi. Còn
anh Hùng may mắn sống sót, đang nằm điều trị tại bệnh viện.
12


Gia đình ông Tài có hoàn cảnh rất khó khăn. Sáng sớm hôm đó, ông đang đi hái
lá cho dê ăn thì nghe tri hô và chạy vào cứu người, không may tử vong, để lại người
vợ mù không người chăm sóc.
Nguyên nhân: Đây là giếng khoan có hầm âm sâu 4 m. Miệng giếng có nắp đậy
kín. Vùng này nắng nóng kéo dài, trong lòng giếng không đủ không khí. Hơn
nữa, các khí độc (CO, CO2, CH4, H2S...), có nhiều ở những nơi có sự phân hủy
các chất hữu cơ. Các nạn nhân chết vì thiếu oxi và hít phải các khí độc tích tụ lại
trong lớp nước dưới đáy giếng. Những giếng khơi sâu cũng dễ là nơi tích tụ
nhiều loại khí này. Đặc biệt khí CO 2 nặng hơn không khí nên càng ở dưới sâu,
hàm lượng khí này càng đậm đặc, dẫn đến ngạt thở [ 3] .
Ví dụ 2: Bài 44- RƯỢU ETYLIC, giáo viên đặt câu hỏi liên hệ:
Mọi người nên sử dụng rượu, bia như thế nào cho tốt?
Sau khi chốt câu trả lời đúng, giáo viên lồng ghép thêm những quy định mới: Mọi
người chỉ nên sử dụng rượu, bia khi có liên hoan lớn và chỉ sử dụng một lượng ít.
Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 05/9/2016 của Thủ tướng
Chính phủ về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà
nước các cấp, trong đó có việc nghiêm cấm uống rượu bia trong giờ làm việc, giờ
nghỉ trưa,… Chỉ thị số 04-CT/TU ngày 18/10/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
Thanh Hóa về xiết chặt kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan Đảng, Nhà nước,
đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội; nghiêm cấm sử dụng rượu, bia, chất
có cồn trong giờ làm việc, giờ nghỉ trưa của ngày làm việc, ngày trực.
Ví dụ 3: Bài 20 – HỢP KIM SẮT: GANG – THÉP
Giáo viên liên hệ việc sản xuất gang thép nếu không xử lý chất thải có thể
gây ô nhiễm môi trường.
Hiện tượng cá chết hàng loạt bất thường ở miền Trung xảy ra từ ngày 6-42016, bắt đầu xuất hiện tại khu vực cảng Vũng Áng và các xã Kỳ Lợi, Kỳ Hà của

thị xã Kỳ Anh - Hà Tĩnh, sau đó tiếp tục xảy ra tại các tỉnh: Quảng Bình ngày 104, Thừa Thiên - Huế ngày 15-4, Quảng Trị ngày 16-4 với số lượng và tần suất
theo thời gian tại từng tỉnh khác nhau và kéo dài đến khoảng ngày 4-5-2016.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã mời chuyên gia từ Đức, Mỹ, Israel tham
gia điều tra nguyên nhân cá chết, đồng thời lập đoàn liên ngành gồm đại diện
các Bộ và địa phương tổng kiểm tra Khu kinh tế Vũng Áng, nơi Công ty TNHH
Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh, có hệ thống ngầm xả thải ra biển.
Ngày 30/6, Formosa đã thừa nhận là nguyên nhân trực tiếp gây ra thảm họa cá
chết và cam kết bồi thường 500 triệu USD để khắc phục hậu quả và cải tạo môi trường
[ 4] .
5. Tổ chức các trò chơi kiến thức.
Giáo viên lồng ghép các trò chơi với nội dung câu hỏi khá sát với bài dạy,
không yêu cầu độ khó quá cao nhằm ôn lại kiến thức cho các em. Phần này có
thể thay thế cho kiểm tra bài cũ đầy áp lực, hoặc củng cố bài cho học sinh một
cách hiệu quả. Giáo viên cũng có thể lồng ghép các trò chơi khi tiết học quá
13


nặng nề hoặc vừa có những kiến thức nâng cao, để các em có thể thư giãn trước
khi tiếp thu kiến thức mới. Phương pháp này vừa giúp các em thoải mái tiếp thu
kiến thúc mới vừa giúp các em rèn luyện thêm nhiều kỹ năng như hoạt động
nhóm, thảo luận, phản xạ nhanh,...
Ví dụ 1: Bài 37 – ETILEN
Giáo viên có thể củng cố bằng việc tổ chức trò chơi: “Quay bao lì xì”
Chia lớp thành bốn đội chơi, mỗi đội được lựa chọn một câu hỏi tương ứng với
một “Bao lì xì” với số tiền lì xì hiện trên màn hình máy chiếu, khi trả lời xong,
nếu đúng đội chơi sẽ được hưởng số tiền tương ứng trong bao lì xì (hưởng trên
danh nghĩa), nếu trả lời sai thì không được hưởng số tiền lì xì đó và quyền trả lời
chuyển cho đội khác. Kết thúc cuộc chơi, đội nào có tổng số tiền lì xì cao hơn sẽ
chiến thắng.
Các câu hỏi của trò chơi:

Câu 1: Trong phân tử etilen giữa hai nguyên tử cacbon có:
A. Một liên kết đơn
B. Một liên kết đôi
C. Một liên kết ba
D. Hai liên kết đôi
Câu 2: CH4 và C2H4 có tính chất hóa học giống nhau là:
A. Tham gia phản ứng cộng với dd brom
B. Tham gia phản ứng cộng với khí hiđro
C. Tham gia phản ứng trùng hợp
D. Tham gia phản ứng cháy với oxi
Câu 3: Hóa chất dùng để phân biệt khí metan và etilen là:
A. Dung dịch brom
B. Dung dịch phenolphtalein
C. Dung dịch nước vôi trong
D. Dung dịch Natrihiđroxit
Câu 4: Những chất nào sau đây làm mất màu dung dịch brom và tham gia phản
ứng trùng hợp?
A. CH4
B. CH2 = CH2
D. CH3 – CH3
E. CH2 = CH – CH3
Ví dụ 2: Bài 46: MỐI LIÊN HỆ GIỮA ETILEN, RƯỢU ETYLIC VÀ AXIT AXETIC
Giáo viên có thể thiết kế trò chơi “Đố vui để học”
Chia lớp thành bốn đội chơi, mỗi đội được lựa chọn một câu đố hiện trên màn
hình máy chiếu, khi trả lời xong, nếu đúng đội chơi sẽ được tính mười điểm, nếu
14


trả lời sai thì không được điểm và quyền trả lời chuyển cho đội khác. Kết thúc
cuộc chơi, đội nào có tổng số điểm cao hơn sẽ chiến thắng.

Các câu hỏi trong trò chơi:
Câu 1: Chất nào tác dụng được với Na nhưng không tác dụng với NaOH?
Câu 2: Hợp chất hữu cơ nào làm quỳ tím hóa đỏ.
Câu 3: Axit axetic tác dụng với rượu etylic tạo thành sản phẩm gì?
Câu 4: Chất khí nào là nguyên liệu điều chế polietilen?
Ví dụ 3: Bài 47 – CHẤT BÉO
Giáo viên có thể củng cố bằng việc tổ chức trò chơi: “Giải ô chữ”
Các câu hỏi hoặc thông tin gợi ý cho các ô chữ:

Ngoài các trò chơi ở trên, giáo viên có thể tham khảo thêm nhiều phần
mềm làm trò chơi ô chữ, hoặc các trò chơi theo chủ đề khác nhau tùy sự sáng
tạo. Giáo viên có thể sưu tập nhiều dạng trò chơi ô chữ khác nhau để tránh sự
nhàm chán trong các tiết học: Trò ô chữ có từ khóa hàng dọc. Trò ô chữ có đoạn
băng hình, đoạn phim, hình ảnh có liên quan tới bài học. Các câu hỏi trong phần
trò chơi nên ở mức dễ hoặc căn bản.
6. Sử dụng các câu thơ, các mẩu chuyện vui, các truyện ngắn lịch sử lồng
ghép vào kiến thức bài học.
Giáo viên tìm hiểu sưu tập các câu thơ, mẩu chuyện vui, hài hước có liên
quan tới bài học, hoặc lịch sử phát hiện ra nguyên tố, hợp chất. Hoặc câu chuyện
vui có liên quan tới qúa trình tìm kiếm nguyên tố, phát hiện của các nhà khoa
học… gây thêm hứng thú, giúp học sinh tiếp thu bài tốt hơn.
Ví dụ 1: Bài 11 – PHÂN BÓN HÓA HỌC
Giáo viên dùng những vần thơ sau để giới thiệu về các loại phân bón hóa
học thường dùng:
Đừng nghe tên gọi mà kinh
"Phân bón hóa học" cho mình bội thu
Chọn phân bón đúng từng khu
Đúng lúc, đúng cách để bù cho cây
15



Quả to, củ chắc, hạt dầy
Sau mỗi mùa vụ chất đầy góc sân
Này là phân đạm, phân lân
Kali, vi lượng cũng cần lắm thay
Phức hợp, hỗn hợp rất hay
Nhiều dinh dưỡng trong chất này em ơi
Dùng thuốc kích thích sinh lời
Coi thường tính mạng, con người hại nhau
Để sự sống mãi bền lâu
Dùng phân hợp lí là câu ghi lòng.
Ví dụ 2: Bài 17 – DÃY HOẠT ĐỘNG HÓA HỌC CỦA KIM LOẠI
Để học sinh dễ nhớ thứ tự trong dãy hoạt động hóa học của kim loại, giáo
viên có thể hướng dẫn cách nhớ theo vần:
K Na Ba Ca Mg Al Zn Fe Ni Sn Pb H Cu Hg Ag Pt Au
Khi Nào Bạn Cần May Áo Dài Phái Người Sang Phố Hỏi Cửa Hàng Á Phi Âu.
Hoặc:
K
Na
Li
Ba
Ca
Mg Al
Không Nói Li
Biệt Chiều Mưa Ấy
Mn
Zn Fe
Co
Ni
Sn

Pb
Mắt
Zõi Phương Cũ Nhớ Thương Chờ
H
Cu Bi
Hg Ag
Pt Au
Hỏi
Có Biết Hay Ai
Phố Vắng
Chín nhớ mười thương vào tận mơ…
Ví dụ 3: Bài 39 – BEZEN
Giáo viên có thể chốt phần tính chất hóa học bằng mấy vần thơ sau:
Ben zen là hợp chất vòng
Dễ thế khó cộng anh không nhớ à
Oxi hoá - khử khó mà
Tính chất hoá đó gọi là tính thơm
Ví dụ 4: Bài 21:
SỰ ĂN MÒN KIM LOẠI VÀ BẢO VỆ KIM LOẠI KHÔNG BỊ ĂN MÒN
Khi dạy phần III.2. Chế tạo hợp kim ít bị ăn mòn, giáo viên kể cho học
sinh nghe mẩu chuyện: PHÁT MINH TỪ TRONG ĐỐNG SẮT GỈ
Thời kỳ chiến tranh lần thứ nhất, nhà khoa học Anh là Brearley được giao
nhiệm vụ nghiên cứu cải tiến vũ khí, đặc biệt là vấn đề các nòng súng bị mài
mòn rất nhanh. Brearley cố nghĩ cách chế ra hợp kim không dễ mài mòn để chế
tạo súng. Năm 1913, ông đã thử pha crom vào thép, song chưa vừa ý vì lí do nào
đó, bèn quẳng mẫu thử lẫn vào đống sắt gỉ ngoài phòng thí nghiệm.
16


Rất lâu sau, tình cờ Brearley nhận thấy mẫu thử ấy vẫn sáng long lanh trong khi

đống thép gỉ hết cả. Ông đem mẫu này nghiên cứu tỉ mỉ, thấy thứ thép pha crom này
chẳng hề sợ môi trường, khí hậu hay thời tiết nào, ngay cả khi ngâm vào axit và kiềm!
Năm 1913, Brearley đã được nhận bằng phát minh độc quyền của nước Anh.
Ông đã tổ chức sản xuất thép không gỉ ở quy mô lớn và thực sự trở thành “người
cha của thép không gỉ”.
Câu chuyện này đặt ra một điều suy nghĩ: Gặp những điều kì dị nào đó thì cũng
chẳng nên lơ đãng bỏ qua mà nên tự hỏi “Vì sao thế” để rồi tìm ra căn nguyên của nó.
Ví dụ 5: Bài 19 – SẮT
Mở đầu bài học giáo viên kể chuyện: Một câu chuyện cảm động nhưng...
Hồi đầu thế kỉ XIX, các nhà bác học đã phát hiện ra sắt có trong máu người. Một
sinh viên khoa Hóa đã quyết định tặng người yêu một chiếc nhẫn bằng sắt,
nhưng không phải bằng sắt thông thường mà bằng sắt lấy từ chính máu của
mình. Cứ định kì lấy máu ra, chàng trai thu được một hợp chất mà từ đó tách sắt
ra bằng phương pháp hóa học. Nhưng chiếc nhẫn đã không bao giờ được đeo
trên tay cô gái như một bằng chứng của tình yêu bởi nó chưa được làm ra thì
chàng trai đã chết vì bị mất máu quá nhiều, cho dù lượng sắt lấy ra khỏi cơ thể
chàng chưa tới 3 gam. Các chàng trai, cô gái ngày nay vẫn nhớ câu chuyện này.
Nhưng chẳng ai chứng tỏ tình yêu bằng cách này nữa, cho dù nó thật cảm động.
Để thực hiện thành công cách này, giáo viên nên tạo không khí vui vẻ khi
bước vào lớp, giọng kể vui vẻ thoải mái, pha chút hài hước.
7. Biểu diễn các thí nghiệm vui trong các buổi ngoại khóa hoặc sinh hoạt
tập thể đầu tuần.
Để tạo thêm hứng thú khi học tập môn hóa học, giúp học sinh nâng cao và
mở rộng học vấn, kích thích sự tò mò nghiên cứu trong thực tiễn, giáo viên có
thể lồng ghép việc biểu diễn các thí nghiệm hóa học vui vào các buổi sinh hoạt
ngoại khóa hoặc sinh hoạt tập thể đầu tuần.
Ví dụ 1: KHÔNG CÓ LỬA MÀ LẠI CÓ KHÓI
- Hóa chất: HCl, NH3 đặc, bông ytế
- Dụng cụ: Đũa thủy tinh, cốc thủy tinh
- Cách tiến hành: Lấy hai đũa thủy tinh ở đầu có quấn một ít bông. Nhúng đũa

thứ nhất vào dung dịch HCl đậm đặc. Nhúng đũa thứ hai vào dung dịch NH 3
đâm đặc, đưa hai đũa lại gần nhau.
- Hiện tượng: Xuất hiện khói trắng.
- Giải thích: Dung dịch HCl đặc là axit dễ bay hơi và dung dịch NH 3 là bazơ
yếu, dễ bay hơi. Khi để hai dung dịch này gần nhau thì các phân tử HCl và NH 3
ở dạng khí sẽ kết hợp với nhau để tạo thành các phân tử NH 4Cl là những tinh thể
màu trắng.
HCl
+ NH3
NH4Cl
Ví dụ 2: ĐỐT CHÁY BÀN TAY- ĐỐT KHĂN KHÔNG CHÁY
- Hoá chất: Axeton
17


- Cách làm: Xắn tay áo rồi nhúng cả bàn tay và cổ tay vào chậu nước. Sau đó
nhỏ vài giọt axeton vào lòng bàn tay và châm nhanh ngọn lửa đèn cồn. Bàn tay
sẽ bắt lửa và bốc cháy. Bạn đừng sợ, axeton sẽ cháy rất nhanh và chỉ một loáng
là cháy hết, ngọn lửa sẽ tắt. Bạn chỉ thấy hơi nóng chứ không hề bị bỏng.
- Giải thích: Axeton là những chất bay hơi rất nhanh và bắt lửa rất mạnh. Với
vài giọt các chất trên, khi cháy nhiệt lượng toả ra chỉ đủ để làm bay hơi một
phần nước trên da tay. Vì thế, ta chỉ cảm thấy hơi nóng chứ không bị bỏng.
Tương tự, ta có thể làm thí nghiệm “đốt khăn không cháy” như sau: nhúng ướt
một khăn mùi soa, sau đó nhỏ lên khăn vài giọt axeton rồi đốt. Khi khăn cháy,
cầm một góc khăn vung mạnh. Một lúc sau lửa tắt, chiếc khăn vẫn nguyên vẹn.
Ví dụ 3: CHÂM NẾN KHÔNG CẦN LỬA
- Hoá chất: KMnO4, H2SO4 đặc
- Dụng cụ: đèn cồn, đũa thuỷ tinh
- Cách làm: Lấy đũa thuỷ tinh nhúng vào axit H 2SO4 đặc và chất rắn KMnO 4 rồi
châm vào bấc đèn cồn, nó sẽ tự bùng cháy.

- Giải thích:
H2SO4 + 2KMnO4
K2SO4 + 2HMnO4
Dưới tác dụng của H2SO4 đặc, HMnO4 mất nước tạo Mn2O7. Mn2O7 có tính oxi
hoá cực mạnh, rượu etylic (cồn) bốc cháy khi tiếp xúc với Mn2O7.
Ví dụ 4: NÚI LỬA PHUN TRÀO
- Tiến hành:
+ Lấy 100g mạt sắt mịn cùng với 50g lưu huỳnh bột. Trộn kĩ và đổ vào một chút
ít nước nóng cho đến khi hỗn hợp trở nên sền sệt.
+ Đặt hỗn hợp lên đĩa hoặc khay sắt và lấy đất sét nhão trộn với những hòn sỏi
nhỏ, đắp phủ lên hỗn hợp mạt sắt và lưu huỳnh, sao cho giống như một ngọn núi
thức sự. Dùng que gỗ chọc từ miệng núi một lỗ, qua lớp đất sét.
- Hiện tượng: Sau 10 – 12 phút núi lử tí hon bắt đầu hoạt động. Từ miệng phun,
khói bốc mù mịt và “dung nham” phun trào ra dữ dội, giống hệt một ngọn núi
lửa trong thiên nhiên, chỉ thiếu tiếng nổ.
- Giải thích: Fe và S sau khi tiếp xúc với nhau một thời gian ngắn, bắt đầu phản
t
ứng tạo thành FeS:
Fe + S
FeS
→
Phản ứng tỏa nhiệt mạnh làm nước bốc hơi và cũng nhờ nhiệt phản ứng mạnh,
làm cả khối “sôi” trào ra ngoài.
0

8. Tổ chức “Sân chơi trí tuệ” lồng ghép vào mỗi sáng thứ 2 hàng tuần trong
tiết sinh hoạt tập thể đầu tuần.
Cứ mỗi sáng thứ 2 hàng tuần, trong tiết sinh hoạt tập thể (Chào cờ), ngoài
những nhận xét, xếp loại và đánh giá tuần học trước, triển khai kế hoạch tuần
học mới thì Liên đội thường giành ra khoảng 15 phút để tổ chức “Sân chơi trí

tuệ”. Nội dung của hoạt động này là học sinh trả lời các câu hỏi thuộc các môn
học trên lớp với phần kiến thức liên quan trong tuần học trước. Mục đích giúp
các em củng cố lại kiến thức của các môn học dưới dạng học mà chơi, chơi mà
18


học. Mỗi câu trả lời đúng thì các em đều được động viên bằng một món quà nhỏ
và được cộng một điểm thi đua cho lớp mình trong tuần đó.
VÍ DỤ CÂU HỎI “SÂN CHƠI TRÍ TUỆ”
Câu 1: Vì sau khi bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau? Ngoài ra ta có thể
bôi những chất nào khác?
Trả lời: Do trong nọc độc của ong, kiến, nhện và một số côn trùng khác có chứa
axit (một loại axit hữu cơ: Axit formic HCOOH), vôi là chất bazơ nên trung hòa
axit làm ta đỡ đau.
Ngoài ra, ta có thể dùng: Kem đánh răng, mật ong, giấm, nước cốt chanh, sữa
tươi, đá lạnh… cũng có tác dụng giảm đau.
Câu 2: Vì sao khi luộc rau muống nên cho một ít muối ăn vào nước luộc, rau sẽ
xanh hơn và nhanh chín hơn?
Trả lời: Nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1atm là 100 0C, nếu ta thêm muối ăn
(NaCl) lúc đó làm nhiệt độ sôi của nước muối khi sôi (dd NaCl loãng) > 100 0C.
do nhiệt độ sôi của nước muối lớn hơn nhiệt độ sôi của nước nên rau chín nhanh
hơn, rút ngắn thời gian luộc, ít mất vitamin hơn nên rau mềm hơn và xanh hơn.
Câu 3: Vì sao ta hay dùng bạc để “đánh gió” khi bị bệnh cảm?
Trả lời: Khi bị bệnh cảm, trong cơ thể con người sẽ tích tụ một lượng khí H 2S
tương đối cao. Chính lượng H2S sẽ làm cho cơ thể mệt mỏi. Khi ta dùng Ag để
đánh gió thì Ag sẽ tác dụng với khí H2S. Do đó lượng khí độc trong cơ thể giảm
đi và dần dần sẽ khỏi bệnh. Miếng Ag sau khi đánh gió sẽ có màu xám đen.
4Ag + 2H2S + O2
2Ag2S + 2H2O
(xám đen)

Câu 4: Tại sao phải ăn muối Iot?
Giải thích: Trong cơ thể người có tồn tại một lượng iot tập trung ở tuyến giáp
trạng. Ở người trưởng thành, lượng iot này khoảng 20-25mg. Hàng ngày ta phải
bổ sung lượng iot cần thiết cho cơ thể bằng cách ăn muối iot. Iot có trong muối ăn
dạng KI và KIO3. Nếu lượng iot không cung cấp đủ thì sẽ dẫn đến tuyến giáp trạng
sưng to thành bướu cổ, nặng hơn là đần độn, vô sinh và nhiều chứng bệnh khác.
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên mở rộng thêm, giúp học sinh hiểu được
ích lợi của việc ăn muối iot và tuyên truyền cho cộng đồng.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã thu được những kết quả khả quan nhất định:
Ngày càng có nhiều học sinh yêu thích môn Hóa học, hầu hết các tiết dạy
học sinh bị thu hút vào bài giảng, lớp học sôi nổi hơn, học sinh hăng say phát
biểu xây dựng bài, giúp nâng cao khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh và
cảm hứng của giáo viên dạy bộ môn. về nhà các em chịu khó học bài cũ, làm
bài tập về nhà. Bước đầu xây dựng cho học sinh sự ham tìm hiểu, học hỏi để
khám phá những điều lí thú diễn ra xung quanh mình. Mặt khác, giúp các em
19


có định hướng rõ ràng trong việc đưa ra cách học sao cho phù hợp, nâng cao
khả năng tư duy trong việc tiếp thu kiến thức để vận dụng vào giải các bài tập
được hiệu quả hơn.
Tỉ lệ học sinh khá - giỏi tăng, tỉ lệ học sinh yếu - kém giảm. Chọn lọc được đội
tuyển học sinh giỏi đam mê bộ môn Hóa học và đạt thành tích cao trong các kỳ thi.
* Chất lượng môn Hóa học của học sinh lớp 9 tại thời điểm tháng 9 năm 2016:
Chất lượng HS
Tổng số HS

46


Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém

SL %

SL %

SL %

SL %

SL %

1

45,6 15 32,61 5
10,87
5
Khai thác những điều kiện thuận lợi, khắc phục những khó khăn, áp dụng đề
tài vào giảng dạy thực tế trong năm học 2016 - 2017, tôi đã từng bước nâng cao
được chất lượng học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Đồng thời, bản thân cũng tích lũy được thêm nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy.

* Chất lượng môn Hóa học của học sinh lớp 9 tính đến tháng 4 năm 2017
Chất lượng HS
Tổng số HS

46

2,17 4

8,7 21

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém

SL %

SL %

SL %

SL %

SL %


4

10

8,7

21,74 27

58,6
9

5

10,87 0

0

PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận.
Là một giáo viên khi đứng trên bục giảng, ai cũng muốn truyền đạt một
cách hay nhất, học sinh dễ hiểu nhất những kiến thức của bài học. Tuy nhiên, để
có được những tiết học đạt hiệu quả cao không phải là đơn giản, nó luôn là sự
trăn trở, là mục đích hướng tới của từng người thầy có lương tâm và trách nhiệm
nghề nghiệp. Riêng tôi, nhận thức được vai trò của người giáo viên: "Thắp sáng
ngọn lửa" tri thức của học sinh, để học sinh chủ động nắm bắt kiến thức cũng đã
có những nỗ lực của bản thân và muốn chia sẻ với đồng nghiệp một số kinh
nghiệm qua đề tài “Tổ chức đa dạng các hoạt động học tập nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học môn Hóa học 9 ”.
Nội dung của đề tài đề cập tới một số kinh nghiệm tổ chức các hoạt động
dạy học mà bản thân đã áp dụng và kết quả thu được là tạo hứng thú và khơi dậy

niềm đam mê bộ môn trong mỗi tiết học, phù hợp với đặc trưng bộ môn và liên
quan tới nhiều vấn đề thực tế. Tuy nhiên để kết quả tiết học đạt kết quả tốt nhất

20


thì cần phải có sự kết hợp khéo léo của nhiều phương pháp và nhiều phương tiện
trong hoạt động giảng dạy sao cho có hiệu quả nhất.
Qua thăm dò ý kiến của một số giáo viên và học sinh, tôi thấy cả hai phía
đều tán thành với phương pháp dạy học trên. Các em học sinh rất hào hứng và
thích thú, giáo viên cũng rút được kinh nghiệm cho giờ dạy môn của mình.
Nhưng dù sao đó cũng chỉ là kinh nghiệm của cá nhân tôi qua nhiều năm
liền, khi trực tiếp giảng dạy và đi dự giờ thăm lớp cũng như tham khảo qua
nhiều nguồn thông tin, tư liệu khác nhau, dï ®· rÊt cè g¾ng song kh«ng
thÓ tr¸nh khái nh÷ng khiếm khuyết. Tôi xin trình bày như trên với mong
muốn là nhận được nhiều ý kiến trao đổi, chỉ bảo của các bạn đồng nghiệp và
những người làm công tác chuyên môn ở các cấp quản lý, để sáng kiến của tôi
được hoàn thiện hơn. Trong khi mọi giáo viên đều đang cố gắng đổi mới phương
pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động của người học thì cá nhân tôi muốn
đóng góp một kinh nghiệm nhỏ cùng đồng nghiệp.
II. Kiến nghị.
Để thực hiện được đề tài và thực hiện có hiệu quả cao các phương pháp,
hình thức tổ chức hoạt động dạy học, tôi có những kiến nghị sau:
Đối với giáo viên: Phải kiên trì, tâm huyết, tự học hỏi nâng cao kiến thức,
tìm hiểu và giải thích các hiện tượng có liên quan đến bộ môn trong thực tế, gần
gũi với học sinh. Vận dụng sáng tạo các phương pháp dạy học tích cực, tổ chức
các hoạt động dạy học linh hoạt, học hỏi đồng nghiệp để có bài giảng lôi cuốn
được học sinh. Trang bị công nghệ thông tin để thực hiện linh hoạt sáng kiến.
Đối với nhà trường: Cần đầu tư mua sắm thêm dụng cụ, hóa chất phục vụ
cho bộ môn, sửa sang, nâng cấp phòng thực hành, phòng để hóa chất để phục vụ

tốt hơn cho công tác dạy và học./.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 14 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Trịnh Thị Hải

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. [1] Tham khảo từ sáng kiến kinh nghiệm xếp giải B cấp tỉnh năm 2015
“Nâng cao hiệu quả dạy và học môn hóa học 9 bằng việc giải thích các hiện
tượng thực tiễn và tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường có liên quan đến bài
học”. Tác giả : Trịnh Thị Hải – Giáo viên trường THCS Thị Trấn.
2. [2] Tham khảo từ sáng kiến kinh nghiệm xếp giải B cấp tỉnh năm 2015
“Nâng cao hiệu quả dạy và học môn hóa học 9 bằng việc giải thích các hiện
tượng thực tiễn và tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường có liên quan đến bài
học”. Tác giả : Trịnh Thị Hải – Giáo viên trường THCS Thị Trấn.
3. [3] Tham khảo trên thông tin thời sự - Báo VNEXPRESS ngày 29/5/2016.
4. [4] Tham khảo trên thông tin thời sự – Báo Người lao động ngày 30/6/2016.
5. Những thí nghiệm đơn giản bạn có thể làm ở nhà
Tập 1, Tập 2, Tập 3
Tác giả: TOMISLAV SENCANSKI. Nhà xuất bản: NXB Kim Đồng
6. 385 câu hỏi và đáp về hóa học với đời sống
Tác giả: Nguyễn Xuân Trường. Nhà xuất bản: NXB Giáo dục

7. Đố vui hóa học
Tác giả: Huỳnh Văn Út. Nhà xuất bản: NXB Giáo Dục
8. Sách giáo khoa hóa học 8. Nhà xuất bản: NXB Giáo dục
9. Sách giáo khoa hóa học 9. Nhà xuất bản: NXB Giáo dục
10. Nguồn thông tin trên mạng Internet.

22


PHỤ LỤC

Một số hình ảnh làm thí nghiệm trong giờ Hóa học của học sinh lớp 9 – Trường
THCS Thị Trấn – Lang Chánh. Năm học: 2016 – 2017.

Quá lạm dụng phân bón hóa học có thể gây ô nhiễm môi trường
Một đoạn mương bị ô nhiễm do chất thải

Các Slide trên powerpoint thể hiện trò chơi “Quay bao lì xì”

23


Slide trên powerpoint thể hiện trò chơi “Giải ô chữ”

24


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD VÀ ĐT, CẤP SỞ GD VÀ ĐT

HOẶC CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Thị Hải
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Ttrường THCS Thị Trấn

TT

Tên đề tài SKKN

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

Biện pháp nâng cao chất lượng dạy
1.

học thí nghiệm thực hành hoá học ở

Cấp Sở

B


2006 - 2007

Cấp Phòng

B

2008 - 2009

Cấp Phòng

A

2009 - 2010

Cấp Sở

C

2011 - 2012

Cấp Sở

B

2013 - 2014

Cấp tỉnh

B


2014 - 2015

trường THCS.
Nâng cao hiệu quả hoạt động hợp
2.

tác theo nhóm nhỏ trong giờ hoá
học.
Sử dụng kết hợp giáo án điện tử để

3.

4.

nâng cao chất lượng giờ dạy môn
Hoá học ở trường THCS.
Phương pháp giải bài tập kim loại
tác dụng với dung dịch muối.
Nâng cao hiệu quả dạy và học môn
hóa học 9 bằng việc giải thích các

5.

hiện tượng thực tiễn và tích hợp giáo
dục bảo vệ môi trường có liên quan
đến bài học.
Nâng cao hiệu quả dạy và học môn
hóa học 9 bằng việc giải thích các


6.

hiện tượng thực tiễn và tích hợp giáo
dục bảo vệ môi trường có liên quan
đến bài học.

25


×