Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tạo hứng thú cho học sinh qua các hoạt động dạy học thực tiễn trong môn vật lý trường THCS hà tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 19 trang )

I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chon đề tài
Bộ môn Vật lí là bộ môn thực nghiệm. Tư tưởng chủ đạo của các sách
giáo khoa Vật lí phổ thông cơ sở là nội dung kiến thức mới được hình thành
phần lớn thông qua các thí nghiệm và thực hành. Điều đó không chỉ tích cực hoá
việc học tập của học sinh mà còn rèn luyện kĩ năng sử dụng thiết bị, đồ dùng
trong cuộc sống, rèn luyện thái độ, đức tính kiên trì, tác phong làm việc của
những người làm việc khoa học trong thời đại công nghiệp. Từ đó thực hiện
chương trình đổi mới phương pháp dạy học tích cực.
Môn Vật lí là một trong những môn học khá quan trọng trong nhà trường
phổ thông, đồng thời nó cũng được áp dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày
của mỗi chúng ta. Hơn nữa môn học này càng ngày lại càng yêu cầu cao hơn để
đáp ứng kịp với công cuộc CNH - HĐH đất nước, nhằm từng bước đáp ứng mục
tiêu GD đề ra “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” góp
phần xây dựng Tổ quốc ngày càng giầu đẹp hơn.
- Hơn nữa đội ngũ học sinh là một lực lượng dự bị nồng cốt và thật hùng hậu
về khoa học kỹ thuật, trong đó kiến thức, kỹ năng vật lí đóng góp một phần
không nhỏ trong lĩnh vực này.
- Qua những năm giảng dạy môn vật lí theo chương trình đổi mới phương
pháp và nghiên cứu nhiều tài liệu tôi nhận thấy:
a. Vật lí học nghiên cứu các hình thức vận động cơ bản nhất của vật chất,
cho nên những kiến thức vật lí là cơ sở của nhiều ngành khoa học tự nhiên, nhất
là hoá học và sinh học.
b. Vật lí học ở trường phổ thông chủ yếu là vật lí thực nghiệm. Phương
pháp chủ yếu của nó là phương pháp thực nghiệm. Đó là phương pháp nhận
thức có hiệu quả trên con đường đi tìm chân lí khách quan. Phương pháp thực
nghiệm xuất xứ từ vật lí học nhưng ngày nay cũng được sử dụng rộng rãi trong
nhiều ngành khoa học tự nhiên khác.
c. Vật lí học nghiên cứu các dạng vận động cơ bản nhất của vật chất nên
nhiều kiến thức vật lí có liên quan chặt chẽ với các vấn đề cơ bản của triết học,
tạo điều kiện phát triển thế giới quan khoa học ở học sinh.


d. Vật lí học là cơ sở lí thuyết của việc chế tạo máy móc, thiết bị dùng
trong sản xuất và đời sống.
e. Vật lí học là một khoa học chính xác, đòi hỏi vừa phải có kĩ năng quan
sát tinh tế, khéo léo tác động vào tự nhiên khi làm thí nghiệm, vừa phải có tư
duy lôgic chặt chẽ, biện chứng, vừa phải trao đổi thảo luận để khẳng định chân lí
Từ những lí do trên và qua những năm giảng dạy tôi đã chọn đề tài này để
viết sáng kiến kinh nghiệm. [1]
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Từ việc nhìn nhận thực trạng của vấn đề, tôi muốn đề xuất một số giải pháp đề
nâng cao hiệu quả chất lượng học tập của học sinh. Qua sáng kiến kinh nghiệm
này giúp cho học sinh cảm thấy hứng thú yêu thích môn học, biết vận dụng kiến
thức vào giải thích các hiện tượng thực tiễn.
1


- Thụng qua giỏo dc trong nh trng cỏc em cú s hiu bit ban u v khoa
hc, vai trũ ca mụn vt lớ l rt quan trng, vỡ nú giỳp cỏc em lm quen vi cỏc
kin thc mi, m rng s hiu bit ca mỡnh gii thớch mt s hin tng
xy ra trong thc t t ú hỡnh thnh nim tin v mụn hc v t duy hc tt cỏc
mụn hc khỏc.
- Giúp học sinh tham gia một cách tích cực chủ động vào học
tập phát huy tính năng động, sáng tạo của học sinh. Từ đó học
sinh thấy thích đợc học môn học nói chung cũng nh bộ môn
Vật lý nói riêng và ham muốn khám phá tri thức nhân loại.
1.3. i tng nghiờn cu
Hc sinh trng THCS H Tin trong lnh vc mụn hc Vt lý THCS.
1.4. Phng phỏp nghiờn cu
- Phng phỏp trũ chuyn: Thụng qua vic trũ chuyn vi hc sinh ly phiu
thm dũ kt qa, ý kin phn hi ca hc sinh.
- Phng phỏp c sỏch v ti liu tham kho: Phng phỏp ny c tin hnh

trc v trong quỏ trỡnh nghiờn cu: Nghiờn cu cỏc phng phỏp dy hc, cỏc
ti liu lý lun dy hc, phng phỏp dy hc tớch cc b mụn Vt lý, su tm
lit kờ cỏc hin tng, thớ nghim, cỏc nh Vt lý trong chng trỡnh Vt lý ph
thụng. Nghiờn cu cỏc ti liu trờn mng Internet
- Phng phỏp tng kt kinh nghim: T vic nm vn dng lý thuyt tin hnh
nghiờn cu thc nghm i vi hc sinh trong trng, iu tra tng hp kt qu
v a ra vn .
II. NI DUNG SNG KIN KINH NGHIM
2.1. C s lớ lun ca sỏng kin kinh nghim
Ngh quyt Trung ng 4 khúa VII/1993 ó ra nhim v i mi
phng phỏp dy hc tt c cỏc cp hc ,bc hc
Ngh quyt Trung ng 2 khúa VII/1996 nhn nh: Cụng tỏc qun lớ
GD&T cú nhng mt yu v bt cp; c ch qun lớ ca nghnh GD&T cha
hp lớ ..phng phỏp giỏo dc o o chm i mi, cha phỏt huy c tớnh
ch ng, sỏng to ca ngi hc
Ngh quyt 40/2000/QH 10 ngy 9/12/2000 ca Quc hi khúa X v i
mi chng trỡnh giỏo dc ph thụng ó khng nh mc tiờu ca vic i mi
chng trỡnh giỏo dc ph thụng ln ny l Xõy dng ni dung chng trỡnh,
phng phỏp giỏo dc, SGK ph thụng mi nhm nõng cao giỏo dc ton din
th h tr, ỏp ng yờu cu phỏt trin ngun nhõn lc phc v cụng nghip húa,
hin i húa t nc phự hp vi thc tin v truyn thng Vit Nam, tip cn
trỡnh giỏo dc ph thụng cỏc nc phỏt trin trong khu vc v trờn th gii
Mt trong cỏc gii phỏp phỏt trin giỏo dc a ra trong chin lc phỏt
trin giỏo dc 2001-2002 l phỏt trin i ng nh giỏo, i mi phng phỏp
giỏo dc
Ch th 40-CT/T v vic xõy dng, nõng cao cht lng i ng nh giỏo
v cỏn b qun lớ giỏo dc ghi rừ: c bit i mi mnh m v c bn
phng phỏp giỏo dc nhm khc phc kiu truyn th mt chiu, nng lý
2



thuyết, ít khuyến khích tư duy sáng tạo; bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên
cứu tự giải quyết vấn đề, phát triển năng lực thực hành sáng tạo cho người
học…..” [2]
- Kinh nghiệm cho thấy rằng, để hình thành phát triển hứng thú nhận thức của
học sinh, cần có điều kiện sau đây:
+ Tiến hành dạy học ở mức độ thích hợp nhất đối với trình độ phát triển của
học sinh. Một nội dung quá dễ hoặc quá khó đều không gây hứng thú. Cần biết
dẫn dắt để học sinh luôn tìm thấy cái mới, có thể tự lực tìm thấy kiến thức, cảm
thấy mình mỗi ngày một trưởng thành.
+ Phát huy tối đa hoạt động tư duy tích cực của học sinh. Tốt nhất là tổ chức
những tình huống có vấn đề đỏi hỏi phải dự đoán, nêu giả thuyết tranh luận
những ý kiến trái ngược
+ Tạo không khí thuận lợi cho lớp học, làm cho học sinh hứng thú được đến
lớp. Muốn thế phải tạo sự giao tiếp thuận lợi giữa thầy và trò, giữa trò với trò.
Đây là 1 trong những yếu tố quan trọng của việc xây dựng môi trường thân thiện
trong trường học, tác nhân quan trọng cho hoạt động tích cực. Bằng trình độ
chuyên môn của mình, giáo viên tạo được uy tín cao, bằng tác phong gần gũi
thân mật, giáo viên chiếm được sự tin cậy của học sinh. Bằng cách tổ chức và
điều khiển hợp lí các hoạt động của từng cá nhân và tập thể học sinh, giáo viên
sẽ tạo được hứng thú cho cả lớp và niềm vui học tập của từng học sinh.
Cơ sở lí luận của sự chú ý đối với cái mới là sự phản xạ dò tìm, theo lệ
thường mọi cái mới chưa được biết đến đều là hấp dẫn.
- Vai trò của hứng thú đối với học tập và cách phát triển hứng thú của học sinh.
Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của quá trình
nhận thức, tăng sức làm việc. Vì thế cùng với nhu cầu hứng thú là 1 trong những
hệ thống động lực của nhân cách.
Trong bất kỳ hoạt động nào, tạo được hứng thú là điều cực kỳ quan trọng,
làm các em hăng say với công việc của mình, đặc biệt là học tập. Đối với môn
vật lí, có hứng thú các em sẽ có tinh thần học bài, tìm thấy cái lí thú, cái hay

trong môn học, không cảm thấy khô cứng, khó hiểu nữa. Từ đó tạo niềm tin say
mê học tập, đồng thời nó làm cho các em nhận thức đúng đắn hơn. Học sinh sẽ
biết coi trọng tất cả các môn học, sẽ biết có sự đầu tư, phân chia thời gian hợp lí
để kết quả học tập của mình có sự đồng đều, không coi nhẹ môn phụ hay môn
chính nào cả. Khi các em có sự phát triển đồng đều, như vậy sẽ tạo điều kiện để
phát triển nhân cách của các em.
Muốn học sinh hứng thú say mê hoạt động nào thì đối tượng của nó chứa
đựng những nội dung phong phú, hấp dẫn mới mẻ, càng tìm tòi học hỏi sáng tạo,
càng phát hiện trong hoạt động nhiều cái mới mẻ, cái hay có giá trị. [3]
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
a. Thực trạng
Qua giảng dạy môn Vật lý ở trường THCS, tôi đã nhận thấy một số thực
trạng đặt ra trong quá trình giảng dạy dẫn đến chất lượng học tập, lòng yêu thích
môn Vật lý của học sinh còn thấp là:
3


- Tình trạng học sinh quay lưng với những môn khoa học tự nhiên như lí, hóa,
sinh, khi mà học sinh học lí, hóa, sinh học không hào hứng mang tính chất đối
phó, chủ yếu làm những bài tập mang tính chất toán học (bài tập định lượng),
ngại làm những bài tập định tính.
- Khi nói đến môn Vật lý học sinh cảm thấy là môn học quá trừu tượng xa vời
với thực tế, những hiện tượng rất trừu tượng mà một tiết học học sinh không thể
hiểu hết được.
- Học sinh được giảng lí thuyết và vận dụng toán học để giải bài tập . Sau một
tiết học hoặc chương, học sinh phải nhớ một loạt các công thức, định luật, hiên
tượng, … nhưng không biết chúng dùng để làm gì hay có cũng chỉ là mơ màng,
nhớ chúng chỉ là để đối phó khi kiểm tra thi cử chứ không biết vận dung chúng
để làm gì. Nội dung hiện tượng, định luật, … đó học sinh không nhớ được lâu
và vận dụng nó vào trong cuộc sống sau này.

- Đặc biệt khi mà giới trẻ có nhiều thứ "cám dỗ" hơn. Học sinh muốn được làm
gì đó, muốn được thể hiện mình, muốn có những phá cách riêng biệt. Xã hội
càng phát triển thì lại càng có nhiều chương trình, trò chơi, … rất gây hứng thú
các em. Mà khi học các môn khoa học đặc biệt môn Vật lý học sinh cảm thấy
buồn chán.
b. Kết quả của thực trạng
b.1. Kết quả khảo sát thái độ lòng yêu thích môn học Vật lý.
Lớp

Sĩ số

9A
8B
7B
6B

37
38
35
36

Yêu thích môn học
SL
Tỷ lệ
2
5,4
3
7,9
3
8,6

4
11,1

b.2. Kết quả khảo sát chất lượng.
Sĩ số
Giỏi + Khá
Lớp
9A
8B
7B
6B

37
38
35
36

SL
3
3
4
4

Tỷ lệ
8,1
7,9
11,4
11,1

Bình thường

SL
Tỷ lệ
25
67,6
22
57,9
21
60,2
24
66,7

Không thích
SL
Tỷ lệ
10
27
13
34,2
11
31,2
8
22,2

Trung bình

Yếu + kém

SL
24
25

23
23

Tỷ lệ
64,9
65,8
65,7
63,9

SL
10
10
8
9

Tỷ lệ
27
26,3
22,9
25

2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1. Các biện pháp tổ chức thực hiện
1- Ngay trong qua trình giảng dạy lý thuyết, tôi đã gắn những tình huống trong
thực tế để đưa ra tình huống có vấn đề tạo sự hấp dẫn của bài học.
2 - Trong quá trình ra bài tập cho học sinh tôi luôn lựa chọn các bài tập mang
tính chất thực tế, nội dung bài tập gần gũi với cuộc sống thường ngày, câu chữ
của đề bài phải luôn gần với thực tế, rễ hiểu để học sinh hiểu được vật lý không
xa với thực tế
4



3- Có kế hoạch, chọn các bài trong chương trình dạy để tổ chức cho học sinh
làm các đồ dùng học tập, thí nghiệm vui, … mà bài học đó có liên quan ví dụ
như:
- Bài Đo độ dài - Vật lý 6 thì tôi tổ chức cho học sinh làm thước kẻ, thước mét,
thước dây.
- Bài Đo thể tích chất lỏng - Vật lý 6 thì tổ chức cho học sinh làm bình chia độ,
4- Lên kế hoạch xin nhà trường tổ chức các buổi hoạt động ngoại khoá nhỏ làm
thí nghiệm vật lý, làm đồ chơi mang tính chất Vật lý, hoặc tổ chức trò chơi mang
tính chất Vật lý ví dụ như:
- Sau bài gương phẳng - Vật lý 7 có thể tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Xạ
kích qua gương”.
- Sau bài Đối lưu - Bức xạ nhiệt – Vật lý 8, thì tổ chức cho học sinh làm đèn kéo
quân.
- Sau khi học xong bài Máy phát điện - Vật lý 9, thì tổ chức cho học sinh làm
một máy phát điện nhỏ.
- Sau bài Thấu kính hội tụ; Ảnh của vật tạo bởi thấu kính hội tụ - Vật lý 9, có thể
tổ chức cho học sinh làm kính thiên văn, …
2.3.2. Các giải pháp thực hiện
1. Gắn nội dung dạy học vật lí với những bối cảnh cuộc sống thường ngày
Đây là cách dạy gắn liền với những bối cảnh thực, với những sở thích của học
sinh. Chẳng hạn các tiết học không diễn ra tuần tự theo như đề mục sách giáo
khoa mà mỗi bài giảng là một bối cảnh thực trong cuộc sống. Những bối cảnh
đó gắn liền với những kiến thức có sẵn theo yêu cầu. Với những bối cảnh như
vậy giáo viên đã không chỉ kéo học sinh "trở lại" với vật lý mà còn phát triển ở
học sinh nhiều năng lực, nhiều kiến thức sống động.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “ Định luật phản xạ ánh sáng” Vật lí 7
Tạo tính huống có vấn đề cho bài học: Giáo viên cầm một chiếc gương soi và
hỏi. Em hãy tìm cách chiếu ánh sáng mặt Trời vào trong gầm một cái bàn để tìm

một chiếc kim mà giáo viên đã đánh rơi vào trong đó “không có đèn pin”. Khi
đó học sinh sẽ nêu cách làm là dùng chiếc gương chiếu ánh sáng Mặt Trời vào
trong gầm bàn. Vậy khi ta chiếu ánh sáng như vậy đã dựa vào định luật vật lý
nào?
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Ứng dụng định luật truyền thẳng của ánh sáng” (SGK
Vật Lí 7)
Trước khi học bài này giáo viên yêu cầu học sinh về nhà quan sát thật kĩ
bóng của mình khi đi ngoài trời nắng hoặc bóng của người khác, bóng của bàn
tay khi bị bóng đèn điện chiếu in lên tường vào ban đêm,....(chú ý quan sát sự
đậm nhạt của viền ngoài so với bên trong).
Khi vào tiết dạy giáo viên yêu cầu 1– 2 học sinh nêu kết quả quan sát.
GV: Tại sao lại có hiện tượng đó?
HS: Lúng túng không biết trả lời thế nào.
GV: Để giải thích được vấn đề trên, ta cùng nghiên cứu vào bài mới.
HS: Sẽ chú ý vào bài mới để tìm cách trả lời câu hỏi trên.
5


TL:Vùng phía sau không nhận được ánh sáng chiếu tới thì có màu đậm( bóng
tối) Vùng phía sau chỉ nhận được một phần ánh sáng chiếu tới gọi là vùng nữa
tối (viền mờ )
Ví dụ 3: Chẳng hạn khi học bài “ Lực ma sát” Vật lí 8
Ta có thể tổ chức cho học sinh học bài này ngay ngoài trời bằng những thí
nghiệm thực tế về các lực ma sát bằng chiếc xe đạp cho một học sinh đi sau đó
bóp phanh gấp làm cho xe trượt trên đường khi đó giáo viên xây dựng khái niệm
lực ma sát lăn và ma sát trượt. Còn lực ma sát nghỉ cho một học sinh dùng một
ngón tay đẩy một chiếc xe máy mà chiếc xe không nhúc nhíc khi đó cho học
sinh xây xựng lực ma sát nghỉ. Phần lực ma sát trong đời sống và kỹ thuật cho
học sinh quan sát ở chiếc xe đạp và xe máy để nêu lợi ích và tác hại của lực ma
sát.

Ví dụ 4: Khi dạy bài:Bài 20 : Nguyên tử, phân tử chuyển động hay đứng yên?
(Vật lý 8)
- GV: Cầm 1 lọ nước hoa đứng ở đầu lớp và xịt nước hoa
- Tất cả học sinh ở trong lớp đề ngửi thấy mùi nước hoa rất thơm
- GV: Tại sao cô đứng ở đầu lớp xịt nước hoa thì các bạn đều ngửi thấy mùi
thơm kể cả các bạn ở cuối lớp.
- HS: Sẽ có rất nhiều ý kiến khác nhau như: Nước hoa bay khắp lớp, gió
thổi nước hoa bay đi……
GV: Nhưng trong phòng lúc này không có gió
- GV: Để giải thích chính xác ta đi bài mới
Ví dụ 5: Khi dạy bài “Quán tính ” ( SGK Vật lý 8)
GV: Đặt một cốc nước đầy lên trên một tờ giấy mỏng để trên bàn nhanh tay giật
mạnh tờ giấy ra khỏi đáy cốc thì cốc nước vẫn đứng yên
HS: Chăm chú theo dõi
GV: Em nào giải thích được hiện tượng trên
HS: ???
GV: Để trả lời câu hỏi trên chúng ta đi nghiên cứu bài học mới .
Ví dụ 6: Khi dạy bài “ Dẫn nhiệt ” ( SGK Vật Lí 8 )
Ngay khi vào lớp giáo viên xin một học sinh nữ hai sợi tóc.
GV: Theo các em khi Cô cho sợi tóc vào lửa thì hiện tượng gì xảy ra?
HS: Tóc sẽ cháy.
GV: Các em có tin rằng Cô dùng lửa đốt mà mà sợi tóc không cháy không ?
HS: Nghi ngờ về khẳng định của giáo viên .
GV: Dùng sợi tóc quấn chặt vào thanh kim loại đồng hình trụ tròn rồi hơ vào
ngọn lửa cho học sinh quan sát. Sau đó tháo sợi tóc ra cho học sinh quan sát lại.
HS: Sẽ rất ngạc nhiên khi sợi tóc bị đốt mà không bị cháy.
GV: Đặt vấn đề: Em nào cho Cô biết vì sao sợi tóc bị đốt mà không cháy?
Từ đó kích thích tính tò mò của học sinh, học sinh sẽ chú ý ngay vào bài học.
TL: Vì thanh đồng là vật truyền nhiệt rất tốt nên khi đốt sợi tóc, nhiệt truyền
sang thanh đồng nhanh, trong khi đó tóc đẫn nhiệt kém nên không đủ nhiệt độ

để cháy. Tuy nhiên không phải tất cả các bài chúng ta đều thực hành được thí
6


nghiệm tạo tình huống có vấn đề vào bài, nhưng với những bài có thể thì giáo
viên nên tìm những thí nghiệm thật gần gũi nhưng đặc sắc để đưa lên đầu bài
nhằm tạo tình huống có vấn đề, gây hứng thú học tập cho học sinh.
Với những bối cảnh như vậy giáo viên đã không chỉ kéo học sinh "trở lại" với
vật lý mà còn phát triển ở học sinh nhiều năng lực, nhiều kiên thức sống động.
Ví dụ 7: Khi dạy bài “Thấu kính hội tụ”(SGK Vật Lí 9)
GV: Một nhóm các nhà thám hiểm Bắc cực, khi đi quên mang theo lửa. Họ đã
nghĩ ra một cách dùng những tảng băng để lấy lửa. Liệu rằng họ có lấy được lửa
từ những tảng băng lạnh giá đó không?
HS: Bỡ ngỡ vì có thể chưa nghe thấy bao giờ và tự đặt ra câu hỏi: Băng nó lạnh
như thế thì lấy lửa làm sao được?
GV: Để giải thích được vấn đề trên, ta cùng nghiên cứu vào bài mới.
HS: Sẽ chú ý vào bài mới để tìm cách trả lời câu hỏi trên.
Sau khi học xong bài GV có thể hướng dẫn HS trả lời câu hỏi như sau:
Những nhà thám hiểm đã dùng tảng băng trong suốt, gọt tròn tựa như một thấu
kính hội tụ, chỉ cần đưa thấu kính băng hướng vào ánh sáng mặt trời để ánh sáng
tích tụ chiếu qua thấu kính băng rồi đặt các chất đễ cháy như giấy, đống lá khô,
ở tiêu điểm và thế là… lửa bùng cháy.
2. Tổ chức cho học sinh các hoạt động tiểu ngoại khoá Vật Lý
Do đặc điểm của bộ môn vật lí, ngoại khoá có tác dụng bổ sung kiến thức
lí thuyết, kĩ năng thực hành, giới thiệu những ứng dụng của vật lí vào khoa học
và kĩ thuật, quá trình phát triển của vật lí học ... cho học sinh, làm tăng hứng thú
của học sinh đối với môn học, rèn luyện khả năng phân tích và giải quyết vấn đề
của họ. Ngoại khoá vật lí giúp học sinh hiểu rõ hơn các hiện tượng vật lí, thấy
được vai trò to lớn của vật lí trong thực tế đời sống, trong sản xuất và khoa học
công nghệ. Việc tham gia hoạt động ngoại khoá sẽ giúp học sinh mạnh dạn hơn,

tư duy logic chặt chẽ hơn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng học tập môn vật
lí.
Nội dung của tiểu ngoại khoá vật lí có thể là những kiến thức nằm trong
phạm vi chương trình vật lí THCS, hoạt động gắn với nội khoá với mục đích
giúp học sinh nắm chắc hơn các kiến thức, kĩ năng cơ bản. Nội dung của ngoại
khoá có thể là những kiến thức mở rộng vượt ra ngoài nội dung chương trình,
giúp học sinh tăng hiểu biết, phát huy óc sáng tạo.
Để tổ chức được hoạt động này yêu cầu cần phải có sự bố chí chuyên môn của
phân phối chương trình bộ môn cũng như của nhà trường và sự tâm huyết của
giáo viên bộ môn. Việc tổ chức được chương trình này cần phải có được kế
hoạch cụ thể cho buổi ngoại khoá từ việc giáo viên chọn chủ đề cho đến địa
điểm tổ chức, cách thức tổ chức,… chủ đề của buổi ngoại khoá. Ví dụ như một
số chủ đề sau:
Ví dụ 1: Tổ chức cuộc thi “ Em yêu Vật lý” Cho mỗi lớp sau đó cho cả khối.
Hình thức tổ chức cuộc thi như chương trình “Đường lên đỉnh Ôlympia” …
Ví dụ 2: Hoặc tổ chức trò chơi mang tính chất vật lý như làm tên lửa nước [4]

7


Ví dụ 3: Tổ chức trò chơi “ Xạ kích qua gương”
Mục đích của trò chơi.
Củng cố định luật phản xạ ánh sáng trên gương phẳng. Thi khả năng nhằm
thẳng, khả năng ước lượng các góc bằng mắt thường và khả năng bình tĩnh khi
tham gia chơi.
Dụng cụ và vật liệu
Một đèn pin (S) đã bịt kín pha (hoặc nguồn laser) làm nguồn sáng. Chỉ cho ánh
sáng lọt qua một lỗ nhỏ để một chùm mảnh và song song. Hai gương phẳng G 1
và G2 có thể xoay hướng dễ dàng trên giá đỡ. Một tấm bìa Đ có các vòng điểm
như trên những bia để tập ngắm bắn trong quân đội; mặt phẳng của bia cũng có

thể xoay dễ dàng (hình vẽ).
Bố trí và nguyên tắc chơi
Đặt gương G1 và G2 có mặt phản xạ hướng vào nhau (nhưng không song song
với nhau), cách nguồn sáng S vào khoảng 1,5m. Bia Đ ở cách các gương vào
khoảng 0,5m, sao cho khi nhìn vào gương G1 dễ dàng trông thấy ảnh của bia Đ
đối với gương G2 (hình vẽ). Người tham gia trò chơi sẽ hướng trục của nguồn
sáng vào gương G1 (nhưng chưa được bật đèn sáng), ước lượng tia tới, pháp
tuyến, tia phản xạ đối với gương G 1, rồi đối với gương G2, ước lượng khả năng
tia sáng bắn trúng hồng tâm của bia qua hai lần phản xạ. Sau đó đựợc bật đèn
sáng để "bắn" thử một lần kiểm tra khả năng ước lượng của mình. Nếu mắt ước
lượng tốt, có thể tia sáng rọi trúng vòng 9 hoặc 10.
Mỗi người được chính thức "Bắn" ba lần, cộng điểm và đánh giá theo các mức:
- Giỏi: Từ 27 điểm trở lên
- Khá: Từ 21 điểm trở lên [5]

8


Ví dụ 4: Trò chơi trắc nghiệm Vật lí
Nguyên tắc: Các câu trắc nghiệm được lựa chọn trong chương trình học
sách giáo khoa hoặc các hiện tương vật lí liên quan đến kiến thức bài học, mỗi
câu có một lựa chọn đúng nhất trong 4 lựa chọn A, B, C, D.
Các đội sẽ được chuẩn bị trước các bảng trả lời với các chữ cái “A, B, C,
D”. Mỗi đội sẽ thảo luận trong thời gian qui định và đưa ra đáp án đúng nhất
bằng cách giơ đáp án trả lời theo yêu cầu của ban tổ chức (có thể là 10 giây sau
khi nghe ban tổ chức đọc xong câu hỏi). Đội nào có số câu trả đúng nhiều hơn sẽ
chiến thắng.
Phương tiện tổ chức: Thiết kế các câu trắc nghiệm, quy định thời gian trả lời
câu hỏi trên powerpoint và trình chiếu trên máy tính.
Hình thức chơi: Chia đội.

Chú ý: Trò chơi này có thể có một vài học sinh yếu gần như không tham gia. Để
khắc phục tình trạng này giáo viên cần quan sát nhanh để yêu cầu các em này
giải thích sự lựa chọn của đội mình.
Có thể lần đầu em học sinh này không trả lời được, nhưng lần chơi sau em đó
sẽ chú ý và tham gia nhiều hơn.
Ví dụ 5: Trò chơi lật hình
- Nguyên tắc: Khuất sau các câu hỏi là một bức tranh của nhà Khoa học hoặc nội
dung mà chúng ta cần truyền tải kiến thức tới học sinh. Chia bức tranh thành
nhiều mảnh nhỏ tùy theo số câu hỏi, mỗi mảnh sẽ mang nội dung của một câu
hỏi đố vui.
Nếu học sinh trả lời đúng thì phần khuất sau câu hỏi đó sẽ hiện ra và các em
có thể đoán nội dung của bức tranh. Khi đã đoán đúng nội dung bức ảnh thì trò
chơi kết thúc.
- Phương tiện tổ chức: Thiết kế trò chơi trên powerpoint và trình chiếu trên máy
tính hoặc in trên giấy khổ lớn, hay có thể sử dụng bảng dính.
9


- Hình thức chơi: Chia đội. Các đội chọn câu hỏi và trả lời theo lượt. Đội nào
không trả lời được sẽ chuyển câu hỏi cho khán giả. Đội nào có nhiều câu trả lời
đúng sẽ chiến thắng.
Chú ý: Các câu hỏi ở các mảnh ghép nên có liên quan đến hình ảnh cần truyền
tải để rèn cho học sinh sự liên hệ, xâu chuỗi các vấn đề. Trò chơi này được áp
dụng giống một trong các lần chơi của trương trình đuổi hình bắt chữ rất nổi
tiếng trên truyền hình.
Ví dụ 6: Trò chơi miêu tả Vật lí
- Nguyên tắc: Người chơi sẽ cầm trên tay danh sách từ (hay khái niệm vật lí) mà
ban tổ chức yêu cầu miêu tả.
Khi đó, người miêu tả có nhiệm vụ dùng bất kì từ ngữ hoặc hành động nào (có
thể là dùng định nghĩa, từ đồng nghĩa, trái nghĩa, …, liệt kê các từ cùng nhóm

hoặc có liên quan đến từ trong danh sách) để diễn đạt cho đồng đội mình đoán
đúng từ trong danh sách.
Người miêu tả không được nói bất kì từ nào trong danh sách với đồng đội của
mình. Đội nào đoán đúng nhiều từ hơn trong khoảng thời gian qui định sẽ chiến
thắng.
- Phương tiện tổ chức: Viết các từ cần miêu tả vào các tờ giấy và xếp lại để
người chơi bốc thăm ngẫu nhiên.
- Hình thức chơi: Chia đội. Có thể chia mỗi lớp học thành 2 đội.
Ví dụ 7: Đố vui ô chữ Vật lí
- Nguyên tắc: Cách tạo ô chữ thường: Để có ô chữ vật lý có ý nghĩa và hay thì
chúng ta nên chọn chủ đề cho ô chữ. Chủ đề đó chính là nội dung của ô chữ
hàng dọc. Từ ô chữ hàng dọc này, chúng ta đặt từ khóa cho các ô hàng ngang.
Dựa vào từ khóa để đặt câu hỏi cho từng hàng ngang.
Ô chữ ở mức độ khó hơn: Tương tự như trên nhưng chủ đề của ô chữ không
nhất thiết phải đặt trong ô hàng dọc mà đặt trong từng ô riêng rẽ của ô hàng
ngang. Mỗi câu hỏi trả lời đúng ở ô hàng ngang sẽ cung cấp một từ khóa cho
chủ đề.
Khi các từ khóa từ từ hiện ra thì chúng được xếp theo trình tự giải đáp, sau đó
người chơi phải sắp xếp lại tất cả các từ khóa và dự đoán chủ đề của ô chữ.
Chú ý, người chơi không nhất thiết phải trả lời hết các câu hỏi, khi đoán đúng
chủ đề thì trò chơi kết thúc. Đội nào có số câu trả lời đúng nhiều nhất sẽ chiến
thắng .
- Phương tiện tổ chức: Sử dụng phần mềm powerpoint để thiết kế trò chơi và
trình chiếu trên máy tính.
- Hình thức chơi: Chia đội hoặc sử dụng chơi cho cả lớp vào cuối tiết học để
củng cố bài.
10


Qui trình tổ chức trò chơi Vật lí

Để thực hiện một trò chơi vật lí, người dạy vật lí cần phải thực hiện theo một qui
trình cụ thể như sau:
Bước 1: Xây dựng thể lệ trò chơi. Thể lệ có thể dựa trên nguyên tắc đã nêu, cũng
có thể bỏ bớt hay bổ sung thêm tùy điều kiện thực tế.
Bước 2: Lựa chọn nội dung, chủ đề cần tuyên truyền. Muốn xác định được chủ
đề thì phải trả lời câu hỏi: “Trò chơi đem đến cho học sinh kiến thức mới gì?
Hay khắc sâu nội dung gì mà giáo viên cần truyền tải, nhấn mạnh?”
Bước 3: Xây dựng hình thức và kết cấu câu hỏi.
Bước 4: Thiết kế trò chơi trên phần mềm. Lựa chọn phần mềm thích hợp, sao
cho đảm bảo dễ thiết kế, dễ sửa chữa, hiệu chỉnh, giao diện đẹp. Phải thiết kế
sao cho thí sinh lựa chọn từ câu hỏi một cách ngẫu nhiên.
Mỗi lần thí sinh chọn câu hỏi nào thì câu đó đổi màu hoặc nhấp nháy đồng thời
xuất hiện nội dung gợi ý. Nếu học sinh trả lời đúng, đáp án sẽ được mở ra,
ngược lại, câu hỏi đó vẫn là bí mật nhưng màu sắc phải khác để thông báo với
người chơi rằng câu hỏi này đã được chọn.
Nên thiết kế trên một trang màn hình. Cần thiết lập hiệu ứng thời gian, chuông
đồng hồ, chấm điểm để trò chơi thêm sinh động, gay cấn và hấp dẫn hơn.
Bước 5: Tổ chức trò chơi.
Bước 6: Tổng kết và rút kinh nghiệm.
Xuất phát từ thực tế giảng dạy, từ khả năng vận dụng của học sinh và khả
năng xử lí tình huống của học sinh, tôi thấy cần phải lồng ghép vào một phương
pháp dạy học mới để giúp học sinh hiểu sâu hơn kiến thức bài học trong sách
giáo khoa. [6]
3. Bài tập Vật lý gắn liền với cuộc sống hàng ngày của học sinh
Những bài tập vật đã có tiếng khó, trừu tượng mà những bài tập trong sách
giáo khoa và sách bài tập nhiều bài tập thì lại dùng những tính huống và từ ngữ
khá trừu tượng ví dụ như: Một vật A có khối lượng m, một khối trụ nổi trên mặt
nước, vật chuyển động với vận tốc 40km/h, … mà tại sao không lấy những tình
huống cụ thể hơn trong thực tế để giúp học sinh học yếu, học trung bình dễ
tưởng tượng hơn, dễ tiếp thu hơn. Ví dụ như tính vận tốc trung bình của một bạn

nào đó đi từ nhà đến trường,…
Khi học theo quan điểm này thì những bài tập đưa ra sẽ không còn là: cho một
vật khối lượng M = ... , vận tốc v
Mà khi đó sẽ là: Tính vận tốc trung bình của em sáng nay khi em đi từ nhà
đến trường.
Trong từng bài dạy từng bài tập ra cho học sinh làm giáo viên cố gắng gắn
những tình huống, những sự vật gần gũi với các em hơn thì khi đó các em cảm
11


thấy thích thú học bộ môn hơn. Mặt khác nên tăng cường các bài tập định tính
và các câu hỏi thực tế để thể hiện tính chất vật lý của từng bài.
Ví dụ: Phần điện một chiều Vật lý 9 ở mỗi bài ta nên đưa ra các bài tập định tính
và câu hỏi thực tế như:
- Bài định luật Ôm - Điện trở dây dẫn - Biến trở có thể cho học sinh trả lời các
câu hỏi sau:
Bài 1. Đèn bàn dùng cho học sinh có một núm vặn để điểu chỉnh độ sáng của
bóng đèn. Núm vặn đó thực chất là gì? Vẽ mạch điện của đèn bàn gồm một
bóng đèn một khoá và núm điều chỉnh độ sáng của đèn. Muốn bóng đèn tăng độ
sáng phải làm thế nào.
HDTL: Núm vặn thực chất là tay quay của một biến trở. Muốn đèn sáng hơn
phải làm giảm điện trở của biến trở

K

Bài 2. Vì sao trên thực tế người ta thường làm dây dẫn điện bằng đồng hoặc
nhôm mà không làm bằng kẽm, sắt?
HDTL: Đồng và nhôm có điện trở suất nhỏ hơn nên dây dẫn làm bằng đồng
hoặc nhôm có điện trở nhỏ hơn nên đỡ hao phí điện năng hơn so với kẽm và
sắt.

- Những bài điện năng – Công – Công suất của dòng điện - Định luật Jun –
Lenxơ
Bài 1. Khi quạt đang quay ta không nên giữ cánh quạt lại, làm như vậy quạt sẽ
cháy. Vì sao vậy? Hãy dùng kiến thức về điện để giải thích?
HDTL: Giữ cánh quạt tức không cho điện năng biến thành cơ năng, lúc đó điện
năng chỉ biến thành nội năng (nhiết năng) làm quạt nóng lên và cháy.
Bài 2. Đun nước trong một ấm điện. Một học sinh cho rằng dòng điện đã truyền
trực tiếp nội năng cho nước. Ý kiến như vậy có đúng không? Theo em, quá trình
chuyển hoá năng lượng đã diễn ra như thế nào?
HDTL: Không phải như thế. Dòng điện trực tiếp làm tăng nội năng cho dây may
so, còn nước nóng lên là tiếp xúc với dây may so (bằng hình thức truyền nhiệt).
Bài 3. Khi đi mua quạt điện, người ta thường cho quạt chạy thử trong một thời
gian ngắn, sau đó dùng tay sờ quạt thử có nóng không. Vì sao người ta thường
làm như vậy? Người ta sẽ chọn chiếc quạt nóng lên nhiều hay chiếc quạt nóng
ít?
HDTL: Khi quạt quay, điện năng chuyển hoá thành cơ năng làm cho cánh quạt
quay và thành nội năng làm cho quạt nóng lên. Phần điện năng chuyển hoá
thành nội năng là năng lượng hao phí. Quạt sẽ càng tốt nếu phần hao phí càng
nhỏ, vì vậy nên chọn loại quạt ít bị nóng khi quay. [7]
12


4. Tổ chức cho học sinh làm những thí nghiệm, đồ dùng, đồ chơi có liên quan
đến bài học.
Đây là cách tổ chưc cho học sinh làm những thí nghiệm nhỏ mà hay diễn ra
hàng ngày có liên quan đến bài học. Hoặc làm những đồ chơi, đồ dùng phục vụ
trong cuộc sống. Đối với cách làm này giáo viên lựa chọn những bài trong
chương trình học, khi học đến bài đó giáo viên chia nhóm hướng dẫn học sinh
làm, hướng dẫn học sinh tìm và chuẩn bị dụng cụ. Có thể cho học sinh làm ở
nhà trước hoặc tổ chức một buổi nào đó cho các nhóm làm có sự hướng dẫn của

giáo viên. Từ những thí nghiệm, đồ dùng đó tổ chức cho học sinh giải thích hiện
tượng dựa vào kiến thức vừa học. Đây là hoạt đọng mà học sinh rất thích và rất
tích cực tham gia ví dụ như tôi đã tổ chức cho học sinh làm một số đồ dùng hay
thí nghiệm sau:
Ví dụ 1:
- Trong bài Đo độ dài trong chương trình Vật lý 6 , giáo viên có thể tổ chức cho
học sinh làm đồ dung học tập là thước kẻ hoặc thước mét, thức dây.
- Hoặc trong bài Đo thể tích chất lỏng trong chương trình Vật lý 6, giáo viên
có thể tổ chức cho học sinh làm bình chia độ.
- Hoặc bài Khối lượng – Trong lượng – Lực kế trong chương trình Vật lý 6,
có thể tổ chức cho học sinh làm chiếc cân lò xo dựa vào cấu tạo của lực kế.
Ví dụ 2: [8]
Sau khi học xong bài Đối lưu trong chương trinh Vật Lý 8, có thể tổ chức cho
học sinh làm chiếc đèn kéo quân. Từ đó dựa vào kiến thức vật lý mới học có thể
giải thích hoạt động của chiếc đèn kéo quân trong những dịp tết trung thu.
Chuẩn bị những nguyên liệu sau:
- Que tre
- Giấy nến (còn gọi là giấy can)
- Băng dính 2 mặt , giấy bìa trắng
- Kim, chỉ, dao rọc giấy, kéo, thước,
bút chì
Bước 1 : Vót 6 nan tre dài 30cm và 6
nan tre khác dài 20 cm.
Bước 2 : Buộc tre lại thành khung đèn như hình sau:
Bước 3: Cắt giáy bìa thành hình tròn
có đường kính khoảng 18 cm
Bước 4 : - Cắt thêm một băng giấy có
bề rộng là 3 cm và dài bằng chu vi
13



hình cầu.
Ghép và dán bìa vừa cắt cùng với
thành hình dạng quả cầu hút gió.
Bước 5 : - Cắt 2 vòng xoay có đường
Kính khoàng 17 cm , hình cắt tùy ý.
Bước 6 :
- Dán 2 vòng xoay với chong chóng
phía trên bằng dây chỉ và keo.
Bước 7 :
- Buộc chong chóng , vòng xoay vào
khung đèn .
Bước 8 :
- Dán giấy nến vào khung đèn

14


Ví dụ 3:
Sau khi học song bài Máy phát điện xoay chiều trong chương trình Vật lý 9 tôi
đã tổ chức cho học sinh làm máy phát điện nhờ gió hoặc sức nước dựa vào
những vật dụng dễ tìm cụ thể như sau:
+ Chuẩn bị: Yêu cầu học sinh chuẩn bị về
+ Vật liệu: Dây dẫn bằng đồng có vỏ bọc cách điện ( dây để quấn quạt điện),
Nam châm ( loa đài hỏng), đèn LED, nan hoa, bìa cứng, Mô tơ điện (ở trong đài,
đầu quay, quạt thổi bếp,… đã hỏng), đĩa CD, keo dính.
+ Dụng cụ: Kìm, tuavít, dao nhỏ, …
- Thực hiện: Lựa chọn một buổi nào đó tổ chức, hướng dẫn cho học sinh làm
theo nhóm của mình đã chuẩn bị.
- Kết quả học sinh đã làm được một số sản phẩm không chỉ theo sự hướng

dẫn của giáo viên mà còn sáng tạo thêm theo cách của mình mang đặc trưng
của nhóm mính và được thể hiện qua những hình ảnh sau mà tôi đã thu lại:

Ví dụ 4. [9]
Sau bài thấu kính hội tụ Vật lý 9 tôi có thể tổ chức cho học sinh làm Kính
Thiên Văn đơn giản như sau:
Phần 1 – Những thứ cần mua, chuẩn bị
1. Kính vật là kính viễn có độ tụ +1 đi ốp, đường kính 65mm
2. Kính mắt là kính lúp, đường kính khoảng 40mm (nhỏ hơn thì càng tốt)
3. 1m ống nhựa đường kính 60mm
4. Cái chuyển bậc 65-60
5. Cái chuyển bậc 60-50
6. 20cm ống nhựa đường kính 42mm
7. 1 cuộn băng dính trong loại nhỏ
8. Xin 1 ít đất sét hoặc nếu không có thì phải đi mua.
15


9. Chuẩn bị giấy, kéo, thước dây và 1 cái cưa nhỏ để cưa ống nước
Phần 2 – Lắp ráp kính thiên văn
10. Ngắm thử kính vật và kính mắt để xác định khoảng cách giữa 2 kính cho ảnh
rõ nét
11. Lắp kính vật vào cái chuyển bậc 65-60, dùng đất sét cố định nó lại
12. Tháo kính mắt ra khỏi tay cầm, dùng giấy và băng dính cố định nó vào ống
nhựa 20cm
13. Dùng giấy và băng dính độn vào bên trong cái chuyển bậc 60-50 sao cho
ống nhựa 20cm nói trên có thể di chuyển được trong nó (đừng chặt quá
cũng như đừng lỏng quá)
14. Vẽ phác sơ đồ cấu tạo của kính ra giấy, ước tính thử chiều dài của thân ống
nước (chú ý chiều dài này khoảng 80-90cm vì ta còn phải tính thêm

chiều dài của ống nhỏ mang kính mắt nữa)
15. Cưa ống nhựa chính theo chiều dài đã tính toán
16. Lắp tất cả 3 bộ phận ở (11), (13) và (15) lại với nhau. Ngắm thử và điều
chỉnh lại (cưa hoặc nối các ống nhựa) nếu cần thiết.

16


2.4. Hiu qu ca sỏng kin kinh nghim
Để khảo sát, nghiên cứu hứng thú học tập môn Vật lí THCS
và kt qu hc tp mụn vt lý ca hc sinh sau khi ỏp dng sỏng kin kinh
nghim ca bn thõn, lan hai tôi vaón tiến hành lập phiếu điều
tra và ra kim tra trong 45 phỳt.
Sau khi thu thập số liệu, tôi thu đợc kết quả:
1/ Nhn thc, hng thỳ ca hc sinh i vi mụn vt lớ
Để khảo sát hứng thú học tập môn Vật lí THCS, tôi vn tip
tc tiến hành lập phiếu điều tra, lớp 9A, 8B,7B và lụựp 6B Trờng THCS Hà Tin.
Tôi đặt câu hỏi Em có thích học môn Vật lí không Sau khi
thu thập số liệu, tôi thu đợc kết quả nh sau:
Lp
9A
8B
7B
6B

S s
37
38
35
36


Yêu thích
môn học
SL
T l
13
35,1
13
34,2
13
37,1
15
41,7

Bình thờng
SL
T l
20
54,1
22
57,9
19
54,3
19
52,7

Không thích
SL
T l
4

10,8
3
7,9
3
8,6
2
5,6

Qua bảng số liệu thu thập: Đối với môn vật lý thì tỷ lệ thp
nhất là % ý kiến "không thích ", tiếp đến là " Không thích
lắm" và cao nht l "rt thích ", Điều này thể hiện quan điểm
của học sinh về môn vật lí ó tng lờn rt cao.
Ngoi cỏc s liu thu trờn ,qua quan sỏt thc t trong cỏc gi hc, hc sinh
tr nờn tớch cc hn, tit hc sụi ng hn.
Hc sinh thng xuyờn t nhng cõu hi v nhng hin tng liờn quan n
kin thc, yờu cu giỏo viờn cho cỏc cõu hi, bi tp thớ nghim vt lớ gn gi
thc t cuc sng.
Tt c nhng s liu, nhng thụng tin trờn khng nh 1 ln na vai trũ quan
trng ca vic to hng thỳ cho hoc sinh qua cỏc hot ng thc tin, gúp phn
lm cho hc sinh tr nờn thớch thỳ i vi mụn hc.
2/ Kt qu hc tp mụn vt lý ca hc sinh
T vic hc sinh ho hng i vi mụn vt lý ,tụi ra tip 1 kim tra ,cho
hc sinh lm bi trong 45 phỳt, kt qu nh sau:
Lp
S s
Giỏi + Khá
Trung bình
Yếu + kém
9A
8B

7B
6B

37
38
35
36

SL
11
13
15
17

T l
29,7
34,2
42,9
47,2

SL
23
21
18
17

T l
64,9
63,2
51,4

47,2

- Nh vy kt qu hc tp ca hc sinh c ci thin rừ rt
III. KT LUN KIN NGH
17

SL
2
1
2
2

T l
5,4
2,6
5,7
5,6


3.1. Kt lun
Khi s dng cỏc bin phỏp nờu trong SKKN tụi nhn thy:
+ Hc sinh hot ng tớch cc, ch ng hn.
+ Phỏt huy c nng lc sỏng to, tớch cc ca HS.
+ Gõy c s hng thỳ cho HS trc khi i vo mt ni dung mi
ca bi hc.
+ Hc sinh lnh hi tri thc mt cỏch d dng, cú nim tin vo khoa
hc. Tuy nhiờn, dy hc theo phng phỏp ny tn nhiu thi gian vỡ
khi phỏt huy tớnh tớch cc ca cỏc em cng cao thỡ cú th xy ra nhiu
tỡnh hung khỏc vi d kin ca GV. Do ú ũi hi ngi GV cn cõn
nhc, xỏc nh hot ng trng tõm t vn , phõn b thi gian

hp lớ iu khin hot ng hc tp ca HS.
Trờn dõy l mt s kinh nghim m bỏn thõn tụi ó rỳt ra c t
thc t qua quỏ trỡnh ging dy b mụn Vt lớ trng THCS H Tin.
Tuy nhiờn vỡ iu kin thi gian, cng nh tỡnh hỡnh thc t nhn thc
ca hc sinh a phng v nng lc cỏ nhõn cú hn, nờn vic thc
hin SKKN ny chc chn khụng trỏnh khi thiu sút. Rt mong quý
thy cụ gúp ý giỳp tụi hon thin hn na trong chuyờn mụn.
Hi vng vi kinh nghim ging dy trờn ca bn thõn cỏc ng chớ cú th
ỏp dng trong quỏ trỡnh ging dy trng mỡnh 1 cỏch cú hiu qu v luụn
luụn sỏng to, tỡm tũi nhiu cỏch khỏc na thu hỳt hc sinh ngy cng am
mờ mụn vt lớ v kt qu mụn vt lớ ngy cng c nõng cao.
3.2. Kin ngh
Trong quá trình giảng dạy môn Vật lí tôi có một số kiến nghị
sau:
- Vật lí là một môn học khó, thời lợng tiết lí thuyết thì nhiều,
bài tập nhiều ở trên lớp một tiết học giáo viên không có thời gian
hớng dẫn hết. Nên tôi có kiến nghị là nên tăng số tiết bài tập v
lm thớ nghim cho môn Vật lí.
- Môn Vật lí là môn học thực nghiệm nên trong phõn phi chng
trỡnh nờn b trớ nhng bui hot ng ngoi khoỏ nh hc sinh c vn
dng kin thc ó hc vo nhng tỡnh hung thc t v khc sõu kin thc hn.
18


- Trong mụn vt lý nờn cú b trớ cỏc bui tham quan thc t hc sinh nõng
cao nhn thc cng nh nm rừ bi hc hn.
Trên đây là một vài giải pháp, kinh nghiệm nhỏ của bản
thân trong quá trình dạy học môn Vật lí, rất mong đồng
nghiệp xem và đóng góp ý kiến để góp phần nâng cao chất
lợng dạy và học môn Vật lí. Tụi xin chõn thnh cm n!

XC NHN CA TH TRNG N V

H Trung, ngy 15 thỏng 03 nm 2017
Tụi xin cam oan õy l SKKN ca mỡnh
vit, khụng sao chộp ni dung ca ngi
khỏc.
Ngi vit:

Lờ Thanh i

19



×