I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài nghiên cứu.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, vấn đề cơ bản nhất là
xây dựng và hoàn thiện con người thông qua hoạt động giáo dục và tự giáo
dục. Đảng, nhà nước và nhân dân đã tin tưởng và giao trọng trách cao quý cho
ngành giáo dục: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trong thời
kỳ hội nhập hiện nay để đáp ứng lòng mong muốn của Bác xây dựng đất nước
Việt Nam đoàng hoàng hơn, to đẹp hơn sánh vai với các cường quốc năm châu.
Nhiệm vụ của ngành giáo dục là đào tạo những con người lao động mới có đủ
tài năng, trí tuệ để tiếp thu những thành tựu khoa học kĩ thuật và công nghệ
tiên tiến của thế giới áp dụng vào việc phát triển kinh tế của đất nước. Từng
bước đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp mới. Để làm được điều đó
thì ngành giáo dục nói chung và mỗi người giáo viên nói riêng phải từng bước
đổi mới phương pháp giảng dạy, không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của bản thân. Việc bồi dưỡng nhân tài là một nhiệm vụ
rất quan trọng của ngành giáo dục và của mỗi người giáo viên. Bồi dưỡng nhân
tài phải được thực hiện sớm từ bậc tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông. Việc bồi dưỡng nhân tài ở bậc trung học phổ thông được thể hiện ở bồi
dưỡng học sinh giỏi, trong đó có bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí.
Thực tế môn Địa lí ít được nhiều người chú ý nhưng đây lại là một môn
học tương đối khó, để dạy tốt và học tốt môn Địa lí ở trường phổ thông là một
việc khó, thì việc phát hiện và dạy học sinh giỏi môn Địa lí lại càng khó hơn
gấp bội, đòi hỏi cả Thầy và Trò phải có một phương pháp dạy và học tập đúng
đắn, kết hợp với lòng nhiệt tâm cao thì mới đạt kết quả cao. Học sinh giỏi môn
Địa lí không giống như học sinh giỏi của các môn học khác, học sinh giỏi môn
Địa lí lại càng không phải là giỏi thuộc các bài Địa lí là được mà các em phải
có kiến thức các bộ môn khoa học tự nhiên như; Toán, Lí, Hóa, Sinh. Bởi vì kĩ
năng Địa lí cần phải có sự hỗ trợ của các môn học này. Đặc biệt là bộ môn
Toán học.
Là giáo viên giảng dạy môn Địa lí cấp trung học phổ thông, tôi có tham
gia vào công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí nhất là học sinh giỏi Địa lí
lớp 10 ở trường THPT Quan Sơn 2, bản thân tôi nhận thấy việc ôn luyện học
sinh giỏi luôn tác động tích cực tới cả thầy và trò. Đó là cơ hội để thầy tự bồi
dưỡng nâng cao trình độ cho bản thân, đối với trò đó là bệ phóng cho các em
có năng lực ở lĩnh vực này. Do vậy tôi đã chọn đề tài: “Hướng dẫn học sinh
lớp 10 trường THPT Quan Sơn 2 giải các bài tập địa lí tự nhiên đại cương
trong ôn thi học sinh giỏi môn Địa lí lớp 10 ” để góp phần nâng cao chất
lượng học tập môn Địa lí nói chung và việc ôn thi học sinh giỏi nói riêng ở
trường THPT Quan Sơn 2 ngày càng tốt hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trong khuôn khổ của đề tài, tôi đề xuất các bước hướng dẫn học sinh giải
các bài tập địa lý tự nhiên đại cương trong quá trình ôn thi học sinh giỏi lớp 10
từ mức độ dễ đến khó dần theo từng bài. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng
dạy học Địa lí nói riêng và chất lượng dạy học nhà trường nói chung. Giúp cho
1
bản thân người dạy cũng như đồng nghiệp bổ sung vào phương pháp dạy học
bộ môn của mình một số bài học thực tiễn. Góp phần đẩy mạnh phong trào tự
học, tự nghiên cứu của giáo viên và học sinh. Tạo đà phát triển cao hơn cho
việc bồi dưỡng đội tuyển trong các năm học tới.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Cách hướng dẫn học sinh giải các bài tập địa lí tự nhiên đại cương dành
cho ôn thi học sinh giỏi môn Địa lí lớp 10 ở trường THPT Quan Sơn 2.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu đề tài: Phương pháp nghiên cứu lý luận, phương
pháp nghiên cứu thực tiễn, phương pháp toán học.
Phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích tổng hợp, phân loại, hệ thống
hóa, cụ thể hóa.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: quan sát sư phạm, điều tra, lấy ý kiến
chuyên gia.
Phương pháp toán học: xử lý thông tin, số liệu thu thập bằng định tính, định
lượng.
2
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi, Giáo viên cần chú trọng khơi gợi
động cơ học tập giúp các em thấy được sự mâu thuẫn giữa những điều chưa biết
với khả năng nhận thức của mình, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh
trong việc lĩnh hội tri thức. Tình huống này phản ánh một cách lôgíc và biện
chứng trong quan niệm nội tại của bản thân các em. Từ đó kích thích các em
phát triển tốt hơn. Con người chỉ bắt đầu tư duy tích cực khi nảy sinh nhu cầu
tư duy khi đứng trước một khó khăn cần phải khắc phục. Vì vậy giáo viên cần
phải để học sinh thấy được khả năng nhận thức của mình với những điều mình
đã biết với tri thức của nhân loại.
Căn cứ vào quy luật phát triển nhận thức và hình thành các đặc điểm tâm lí
thì từ những lớp cuối của cấp THCS, học sinh đã bộc lộ thiên hướng, sở trường
và hứng thú đối với những lĩnh vực kiến thức, kĩ năng nhất định. Một số học
sinh có khả năng và yêu thích với các môn khoa học tự nhiên, số khác lại thích
thú với các môn khoa học xã hội, nhân văn khác. Ngoài ra còn có những học
sinh thể hiện năng khiếu trong những lĩnh vực đặc biệt…
Thực tế giảng dạy cho thấy phần đông học sinh sẽ yêu thích môn học nếu
được thầy định hướng chỉ bảo tận tình. Để giúp các em ôn thi học sinh giỏi tốt
hơn giáo viên cần tạo cho học sinh hứng thú học tập. Cần cho học sinh thấy
được nhu cầu nhận thức là quan trọng, con người muốn phát triển cần phải có
tri thức cần phải học hỏi. Qua đó người thầy cần biết phân loại, định hướng và
có các biện pháp phát triển phù hợp với học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Thông qua việc kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm của bộ môn Địa lí
thì số học sinh có kết quả học tập từ khá trở lên chiếm khoảng 35%. Trong số
đó có những em có triển vọng song chưa được đầu tư nhiều nên chưa thực sự
phát huy được khả năng của bản thân. Số học sinh đạt giải học sinh giỏi cấp
trường còn ít. Cụ thể: năm học 2015 – 2016 khi chưa áp dụng đề tài kết quả thi
học sinh giỏi cấp trường môn Địa lý lớp 10 có 10 em học sinh tham gia thì chỉ
có 2 giải khuyến khích.
Bảng số liệu học sinh tham gia dự thi học sinh giỏi lớp 10 năm học 2015 –
2016
Stt
Họ và tên
Điểm Giải
1
Nguyễn Thị Mai Nương 10,5
2
Nguyễn Thanh Thảo
11,0
3
Hà Văn Hân
10,0
4
Nguyễn Thị Tuyết
10,5
5
Vi Thị Tuyết
9,5
6
Lộc Thị Nghệ
8,5
7
Lương Thị Hương
9,0
8
Phạm Bá Nhiệm
12,5
KK
9
Lê Biên Cương
10,0
10
Lương Thị Nga
12,0
KK
3
Các bài giảng ôn thi học sinh giỏi môn Địa lí chưa thật sự phổ biến trong
thư viện nhà trường nên quá trình học tập, giảng dạy của giáo viên và học sinh
còn gặp nhiều khó khăn. Môn Địa lí là môn học khó (vừa có kiến thức tự nhiên
vừa có kiến thức xã hội). Không phải là môn học thuộc lòng nên học sinh chưa
thật sự yêu thích. Học sinh chưa nhận thức đúng, chưa có phương pháp học tập
thích hợp.
2.3. Các giải pháp giải quyết vấn đề.
2.3.1. Đối với học sinh
Để tự tin và học giỏi môn Địa lí trong nhà trường, học sinh cần có
phương pháp học tập sao cho khoa học, hợp lý như:
Đọc và soạn bài kỹ trước khi đến lớp. Chú ý ghi lại những từ ngữ quan
trọng, những vấn đề còn chưa rõ trong bài để khi đến lớp khi nghe thầy cô
giảng bài học sinh sẽ tiếp thu nhanh hơn. Phải mạnh dạn hỏi ngay những gì
còn chưa hiểu . Về nhà làm tất cả các bài tập trong sách giáo khoa và sách bài
tập. Muốn vậy phải học đều tất cả các môn, đặc biệt là môn Toán, vì đây là
môn học giúp ta có được tư duy logic và tính toán chính xác, rất cần trong việc
giải các bài tập Địa lí. Cần có lòng yêu thích môn học, có yêu thích mới có
hứng thú trong học tập. Đây là một trong những yếu tố rất cần thiết để học tốt
môn này. Vậy bằng cách nào? Phải thường xuyên đọc sách Địa lí vui, tham gia
các hoạt động liên quan đến Địa lí như tham gia câu lạc bộ Địa lí ở trường, trên
Internet,… Luôn đặt câu hỏi "Tại sao?" trước những vấn đề, những tình huống
thuộc môn Địa lý dù là đơn giản để từ đó khơi gợi tính tò mò, đòi hỏi phải
được lý giải. Như vậy dần dần sẽ tìm thấy được những cái hay, cái thú vị của
bộ môn này mà yêu thích nó.
Rèn luyện một trí nhớ tốt vì có như thế mới nắm bắt được bài mới ở lớp
cũng như các kiến thức đã học trước đó. Rèn luyện như thế nào? Đó là : trước
khi học bài mới nên xem lại các bài học cũ. Như thế sẽ mất nhiều thời gian
chăng? Câu trả lời là "Không" vì những bài đó mình đã học, đã biết, đã nhớ
nên xem lại sẽ rất nhanh. Khi được tái hiện lần nữa, sẽ giúp nhớ được lâu hơn,
chắc hơn.
Luôn tìm tòi mở rộng kiến thức. Chương trình trong sách giáo khoa vốn là
kiến thức chuẩn, căn bản nhưng không thể giải thích cặn kẽ hết mọi vấn đề vì
thời lượng chương trình không cho phép. Cho nên, để hiểu rõ và nắm chắc
kiến thức trong sách giáo khoa chúng ta cũng cần tìm đọc thêm sách tham khảo
(không phải là sách giải bài tập). Đồng thời, nên làm bài tập thật nhiều, bắt đầu
từ những bài đơn giản rồi đến những bài tập khó…Việc làm bài tập nhiều sẽ
giúp rèn luyện tư duy nhanh, tích luỹ thêm kiến thức bổ sung cho lý thuyết;
đọc thêm nhiều sách thì mới nắm chắc và hiểu đúng, sâu sắc hơn những kiến
thức.
2.3.2. Đối với giáo viên
- Lựa chọn đúng đối tượng học sinh:
Ngay từ đầu năm học cần tổ chức thi chọn lọc qua vài vòng loại để lựa
chọn chính xác đối tượng học sinh vào bồi dưỡng.
4
Giáo viên cần đánh giá học sinh một cách khách quan, chính xác, không
chỉ qua bài thi mà cả qua việc học tập bồi dưỡng hằng ngày. Việc lựa chọn
đúng không chỉ nâng cao hiệu quả bồi dưỡng, mà còn tránh bỏ sót học sinh
giỏi và không bị quá sức đối với những em không có tố chất.
- Xây dựng chương trình bồi dưỡng
Hiện nay có rất nhiều sách nâng cao và các tài liệu tham khảo, Internet,...
song chương trình bồi dưỡng chưa có sách hướng dẫn chi tiết, cụ thể từng tiết,
từng buổi học như trong chương trình chính khoá. Vì thế soạn thảo chương
trình bồi dưỡng là một việc làm hết sức quan trọng và rất khó khăn nếu như
chúng ta không có sự tham khảo, tìm tòi và chọn lọc tốt. Giáo viên cần soạn
thảo nội dung bồi dưỡng dẫn dắt học sinh từ cái cơ bản của nội dung chương
trình học chính khoá, tiến dần tới chương trình nâng cao (tức là trước hết phải
khắc sâu kiến thức cơ bản của nội dung học chính khoá, từ đó vận dụng để mở
rộng và nâng cao dần).
Cần soạn thảo chương trình theo vòng xoáy: Từ cơ bản tới nâng cao, từ
đơn giản tới phức tạp. Đồng thời cũng phải có ôn tập củng cố. Ví dụ: Cứ sau 2,
3 tiết củng cố kiến thức cơ bản và nâng cao thì cần có một tiết luyện tập để
củng cố kiến thức; và cứ sau 5, 6 tiết thì cần có một tiết ôn tập để củng cố khắc
sâu. Khi soạn thảo một tiết học chúng ta cần có đầy đủ những nội dung:
+ Kiến thức cần truyền đạt (lý thuyết, hay các công thức có liên quan
đến tiết dạy)
+ Bài tập vận dụng.
+ Bài tập về nhà luyện thêm (tương tự bài ở lớp).
2.3.3. Các dạng bài tập địa lí tự nhiên đại cương cần hướng dẫn cho học
sinh.
2.3.3.1. Dạng bài tập vận dụng hệ quả chuyển động tự quay quanh trục của
Trái đất.
Dạng 1. Tính giờ.
Để giải các bài tập địa lí tự nhiên liên quan đến tính giờ học sinh cần nắm
được các kiến thức cơ bản về hệ quả tự quay quanh trục của Trái đất.
- Giờ địa phương (giờ Mặt Trời) là giờ của các địa điểm khác nhau thuộc các
kinh tuyến khác nhau. Cùng một thời điểm, người đứng ở các kinh tuyến khác
nhau sẽ có giờ khác nhau, do đó các địa điểm thuộc các kinh tuyến khác nhau
sẽ có giờ khác nhau.
- Giờ múi: Các địa phương nằm trong cùng một múi giờ sẽ thống nhất một giờ,
gọi là giờ múi. Chia bề mặt Trái Đất thành 24 múi giờ (đánh số từ 0 đến 23 từ
Đông sang Tây). Mỗi múi giờ rộng 15 0 kinh tuyến. Múi giờ số 0 có kinh tuyến
gốc đi qua ở giữa.
- Giờ quốc tế (giờ GMT) là giờ được tính từ múi số 0. Việt Nam thuộc múi giờ
số 7. Nếu đi từ Tây sang Đông qua kinh tuyến 180º thì lùi lại 1 ngày lịch - và
nguợc lại nếu đi từ Đông sang Tây qua kinh tuyến 180º thì tăng thêm 1 ngày
lịch.
Dạng 2: Vận dụng lực Côriôlit
Để vận dụng Côriôlit vào giải các bài tập địa lí tự nhiên học sinh cần nắm
các kiến thức cơ bản về lực Côriôlit.
5
- Khái niệm Lực Coriolít : Khi Trái Đất tự quay quanh trục, mọi địa điểm
thuộc các vĩ độ khác nhau (trừ hai cực) đều có vận tốc dài khác nhau và hướng
chuyển động khác nhau. Do vậy các vật thể chuyển động trên bề mặt Trái Đất
đều bị lệch hướng so với hướng ban đầu. Lực làm lệch hướng đó gọi là lực
Côriôlit. Ở BCB lệch về tay phải so với hướng chuyển động ban đầu, BCN
lệch về tay trái so với hướng chuyển động ban đầu.
2.3.3.2. Dạng bài tập vận dụng hệ quả chuyển động tịnh tiến xung quanh
Mặt Trời của Trái đất.
Dạng 1: Chuyển động biểu kiến hằng năm của Mặt Trời: là chuyển động
không có thực nhưng được quan sát thấy bằng mắt.
Nguyên nhân: Do Trái đất chuyển động quanh Mặt Trời, trục luôn nghiêng
về một phía không dổi nên nguời ta có ảo giác hàng năm mặt trời di động biểu
kiến giữa hai chí tuyến.
Dạng 2: Hiện tượng mùa và ngày đêm dài ngắn theo mùa
+ Hiện tượng mùa: Mùa là một phần thời gian của năm, có những đặc điểm
riêng về thời tiết và khí hậu. Một năm thường có 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông.
Nguyên nhân : Do trục Trái đất nghiêng với mặt phẳng quỹ đạo của Trái
đất và trong suốt năm trục trái đất nghiêng không đổi phương trong quá trình
chuyển động, nên có thời kì BCB ngả về phía Mặt Trời, có thời kỳ BCN ngả về
phía Mặt Trời, làm cho thời gian chiếu sáng và thu nhận lượng bức xạ ở mỗi
bán cầu đều thay đổi trong năm.
+ Hiện tượng ngày đêm dài ngắn theo mùa
Nguyên nhân: khi chuyển động xung quanh Mặt Trời, trục trái đất nghiêng
không đổi phương trong quá trình chuyển động làm cho vị trí vòng phân chia
sáng tối thay đổi, gây ra hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa và theo vĩ
độ.
2.3.4. Hướng dẫn học sinh giải các bài tập địa lí tự nhiên đại cương cụ thể.
2.3.4.1. Bài tập vận dụng hệ quả chuyển động tự quay quanh trục của Trái
Đất.
Dạng 1. Tính giờ
Bước1: Tính múi giờ
A thuộc bán cầu đông Kinh độ A:15= x
A thuộc bán cầu tây : (360- A):15 = y
Hoặc A:15 = x thì A thuộc múi 24-x
Bước 2: Áp dụng công thức : Tm = T0 + m
(1)
Trong đó Tm: giờ địa phương
T0 : giờ quốc tế
m: là múi giờ
Từ công thức (1) ta có: T0 = Tm – m (2)
m = Tm – T0 (3)
Bài tập vận dụng:
Bài số 1: Biết giờ ở kinh tuyến số 1050 Đ là 10 giờ ngày 20/10/2016. Tính giờ
ở các địa điểm có kinh tuyến là: 1350 Đ, 750 T ,750 Đ, 1250 T?
Bài làm
0
+ Kinh tuyến 105 Đ thuộc múi giờ: 105 : 15= 7. Nên thuộc múi giờ 7
6
Vậy ở múi giờ số 7 là 10 giờ, thì ta có giờ quốc tế lúc này là:
Áp dụng công thức (2) ta có: T0 = Tm – m → T0 = 10 – 7 = 3 giờ.
Với T0 = 3 giờ, thì áp dụng công thức (1) ta có:
+ Kinh tuyến 1350Đ thuộc múi giờ : 135 : 15 = 9, thuộc múi giờ số 9.
→ Tm = 3 + 9 = 12 giờ ngày 20/10/2016
+ Kinh tuyến 750T thuộc múi giờ : (360 – 75) : 15 = 19, thuộc múi giờ số 19.
→ Tm = 3 +19 = 22 giờ ngày 19/10/2016
+ Kinh tuyến 1250T thuộc múi giờ : (360 – 125) : 15 = 16, thuộc múi giờ số
16.
→ Tm = 3 +16 = 19 giờ ngày 19/10/2016
+ Kinh tuyến 750Đ thuộc múi giờ : 75 : 15 = 5, thuộc múi giờ số 5.
→ Tm = 3 + 5 = 8 giờ ngày 20/10/2016
Bài số 2 : Một hành khách du lịch đi chuyến bay từ nước mình (A) tới sân bay
Nội Bài – Việt Nam (B) vào lúc 20h ngày 24/10/2016 . Hành khách đó nhận
thấy đồng hồ của mình kém với giờ Việt nam là 6 giờ cùng ngày . Hỏi ông ta đi
từ quốc gia có thủ đô thuộc múi giờ bao nhiêu?
Bài làm
- Cách 1:
+ Như vậy múi giờ nơi xuất phát chênh với múi giờ Việt Nam là 6 múi về phía
Tây. Việt Nam ở múi giờ số 7.
+ Vậy thủ đô nước đó ở múi giờ 7 – 6 = 1 (múi giờ số 1).
- Cách 2:
+ Từ công thức (2) T0= Tm – m , ta có ở Việt Nam thuộc múi giờ số 7, lúc này
là 20 giờ, vậy lúc này giờ quốc tế sẽ là : T0 = 20 – 7 = 13 giờ.
+ Giờ của địa điểm khi hành khách xuất phát kém giờ tại Việt Nam là 6 giờ,
vậy khi đó tại thủ đô A là: 20 – 6 = 14 giờ
+ Vậy thủ đô lúc hành khách xuất phát ở múi giờ: m = T m – T0 = 14 – 13 = 1
(múi giờ số 1)
Dạng 2: Vận dụng lực Côriôlit.
Với dạng bài tập này, giáo viên cho học sinh quan sát bản đồ các dòng
biển trên thế giới, yêu cầu học sinh quan sát sự di chuyển của dòng biển
nóng,biển lạnh.
Bài tập áp dụng: Dựa vào bản đồ các dòng biển, hãy rút ra quy luật chung
và sự phân bố các dòng biển?
* Khái niệm : Nước ở đại dương chuyển động thành các dòng , tương tự dòng
sông trong lục địa đó là hải lưu (dòng biển)
* Nguyên nhân sinh ra : Do gió, nhiệt độ, độ mặn...
* Mô tả về các dòng biển:
- Các dòng biển nóng
+ Trong vùng nhiệt đới 2 bên xích đạo có những dòng hải lưu nóng chảy theo
hướng Tây - Đông.
+ Gặp lục địa các dòng biển nóng chuyển hướng về phía Bắc ở BCB và phía
Nam ở BCN nhưng lệch ít vì lực nhỏ
+ Đến vĩ độ 30 ảnh hưởng của lực Côriôlít mạnh dần nên lệch sang tay phải ở
BCB và tay trái ở BCN.
7
- Các dòng biển lạnh :
+Xuất phát từ vòng cực về phía XĐ ở BCB lệch tay phải so với nơi xuất phát
BCN lệch tay trái so với nơi xuất phát.
2.3.4.2. Bài tập vận dụng hệ quả chuyển động tịnh tiến quanh Mặt Trời của
Trái Đất.
Dạng 1: Tính ngày Mặt Trời lên thiên đỉnh ở các vĩ độ
Muốn tính ngày Mặt Trời lên thiên đỉnh của điểm A có A 0 vĩ, ta cần nắm số
ngày từ lúc Mặt Trời lên thiên đỉnh tại xích đạo 0 0 đến chí tuyến 23027’đi mất ở
BCB: 93 ngày. Ở NBC: 90 ngày. Mỗi ngày Mặt Trời đi được ở BCB: 15,1’ ở
BCN: 15,6’.
Bước 1: Đổi vĩ độ của điểm A ra giây (1)
Bước 2: Tính số ngày Mặt Trời lên thiên đỉnh từ xích đạo đến vĩ độ của
điểm A bằng cách lấy (1): 15,1’ (906’’) (ở BBC) hoặc 15,6’ (936’’) (ở NBC)
(2)
Bước 3: Tính ngày Mặt Trời lên thiên đỉnh
Ở BCB: lần I: Từ 21/3 + số ngày đến A. lần II: 23/9 - số ngày đến A.
Ở BCN: lần I: Từ 23/9 + số ngày đến A. lần II: 21/3 - số ngày đến A.
Lưu ý : số ngày trong các tháng có liên quan: Các tháng có 31 ngày là: tháng I,
III , V, VII, VIII, X, XII. Các tháng có 30 ngày là: tháng IV, VI, IX, XI.Tháng
II chỉ có 28 ngày, năm nhuận có 29 ngày.
Bài tập vận dụng
Bài tập 1: Mặt Trời sẽ lên thiên đỉnh vào những ngày tháng nào trong năm ở
những địa điểm sau: Cà Mau (8030’B), Thành phố Hồ Chí Minh (10047’B), Đà
Nẵng (160B), Hà Nội (210’B), Lạng Sơn (230B).
Bài làm
Từ ngày 21/3 – 22/6 Mặt Trời chuyển động biểu kiến từ xích đạo lên Chí tuyến
Bắc đi được một góc = 23027’ (trong 93 ngày)
Vậy Mặt Trời sẽ chuyển động biểu kiến hết: 23027’ x 60’ = 1407’
Do đó khi chuyển động 93 ngày sẽ hết 1407’, vậy trong 1 ngày Mặt Trời sẽ di
chuyển hết: 1407 : 93 = 15,1’
+ Tại Cà Mau: 8034’B sẽ nằm trong vùng nội chí tuyến nên trong năm sẽ
có 2 lần mặt trời lên thiên đỉnh
Số thời gian di chuyển hết: 8030’ x 60’ = 510’
Số ngày di chuyển hết: 510’ : 15,1 = 34 ngày
Lần 1: 21/3 + 34 ngày = ngày 24/4
Lần 2: 23/9 – 34 ngày = ngày 20/8
+ Tại TP Hồ Chí Minh: 10 047’B sẽ nằm trong vùng nội chí tuyến nên trong
năm sẽ có 2 lần mặt trời lên thiên đỉnh
Số thời gian di chuyển hết: 10047’ x 60’ = 647’
Số ngày di chuyển hết: 647’ : 15,1 = 43 ngày
Lần 1: 21/3 + 43 ngày = ngày 3/5
Lần 2: 23/9 – 43 ngày = ngày 10/8
+ Tại Đà Nẵng 16 0B sẽ nằm trong vùng nội chí tuyến nên trong năm sẽ có
2 lần mặt trời lên thiên đỉnh
Số thời gian di chuyển hết: 160 x 60’ = 960’
8
Số ngày di chuyển hết: 960’ : 15,1 = 64 ngày
Lần 1: 21/3 + 64 ngày = ngày 14/5
Lần 2: 23/9 – 64 ngày = ngày 21/7
+ Tại Hà Nội (21 0B) sẽ nằm trong vùng nội chí tuyến nên trong năm sẽ có
2 lần mặt trời lên thiên đỉnh
Số thời gian di chuyển hết: 210 x 60’ = 1260’
Số ngày di chuyển hết: 1260’ : 15,1 = 83 ngày
Lần 1: 21/3 + 83 ngày = ngày 12/6
Lần 2: 23/9 – 83 ngày = ngày 1/7
+ Tại Lạng Sơn (23 0B) sẽ nằm trong vùng nội chí tuyến nên trong năm sẽ
có 2 lần mặt trời lên thiên đỉnh
Số thời gian di chuyển hết: 230 x 60’ = 1380’
Số ngày di chuyển hết: 1380’ : 15,1 = 91 ngày
Lần 1: 21/3 + 91 ngày = ngày 20/6
Lần 2: 23/9 – 91 ngày = ngày 24/6
Bài tập 2: Khi nào Mặt Trời mọc đúng hướng đông và lặn đúng hướng tây?
Tại sao như vậy?
Bài làm
Mặt Trời mọc đúng hướng đông và lặn đúng hướng tây vào lúc chiều tà thì
lúc 12 giờ trưa Mặt Trời phải ở đỉnh đầu người quan sát. Vì thế chỉ có trong
khu vực Mặt Trời lên thiên đỉnh (nội chí tuyến) mới có hiện tượng này. Tuy
nhiên, không phải ngày nào trong khu vực nội chí tuyến đều có Mặt Trời mọc
đúng hướng đông và lặn đúng hướng tây, mà chỉ đúng vào ngày tại địa điểm có
Mặt Trời lên thiên đỉnh thì mới thấy có Mặt Trời mọc đúng hướng đông và lặn
đúng hướng tây. Vì vậy ngày 21/3 và 23/9 do Mặt Trời chiếu vuông góc với
xích đạo nên bất cứ địa điểm nào trên Trái Đất cũng thấy Mặt Trời mọc đúng
hướng Đông lặn đúng hướng Tây, vì Mặt Trời chiếu vuông góc với xích đạo
mà tia Mặt Trời song song. Tại CTB là ngày 22/6, CTN là ngày 22/12.
Dạng 2: Tính góc nhập xạ của các vĩ độ
Công thức tổng quát: h0 = 900 - φ ± δ
Trong đó:
* φ: độ vĩ của điểm cần tính.
* δ: độ lệch của góc chiếu so với xích đạo.
- Vào 2 ngày 21/3 và 23/9 Mặt trời lên thiên đỉnh ở xích đạo nên δ = 0.
- Ngày 22/6 và 22/12 Mặt trời lên thiên đỉnh ở xích đạo nên ở CTB hoặc CTN
nên δ = ± 23027’.
Ngày 21/3 và 23/9 tại xích đạo h0 = 900 – 00 = 900 và giảm từ xích đạo về 2
cực.
Ngày 22/6: Mặt trời lên thiên đỉnh tại CTB (23 027’ B), nên mọi vĩ độ ở ngoài
vùng nội chí tuyến BCB có δ = + 23027’ xích đạo và BCN có δ = - 23027’.
Ngày 22/12: Mặt trời lên thiên đỉnh tại CTN (23027’ N), nên mọi vĩ độ ở ngoài
vùng nội chí tuyến NBC có δ = + 23027’ xích đạo và BBC có δ = - 23027’.
Bài tập vận dụng:
Bài tập 1: Cho 3 địa điểm sau đây: Hà Nội (210B), Tp Hồ Chí Minh
(10047'B), Buôn Ma Thuột (120 41’B).
9
a. Tính ngày Mặt trời lên thiên đỉnh ở Buôn Ma Thuột?
b. Tính góc nhập xạ của tia sáng Mặt trời ở Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh khi Mặt trời lên thiên đỉnh ở Buôn Ma Thuột?
Bài làm
a) Ngày Mặt Trời lên thiên đỉnh trong năm tại Buôn Ma Thuột vĩ độ 12 0
41’B.
Từ ngày 21/3 – 22/6 Mặt Trời chuyển động biểu kiến từ xích đạo lên Chí
tuyến Bắc đi được một góc = 23027’ (trong 93 ngày)
Vậy Mặt Trời sẽ chuyển động biểu kiến hết: 23027’ x 60’ = 1407’
Do đó khi chuyển động 93 ngày sẽ hết 1407’, vậy trong 1 ngày Mặt Trời sẽ di
chuyển hết: 1407 : 93 = 15,1’
+ Tại Buôn Ma Thuột: 12041’B sẽ nằm trong vùng nội chí tuyến nên trong
năm sẽ có 2 lần mặt trời lên thiên đỉnh
Số thời gian di chuyển hết: 12041’ x 60’ = 761’
Số ngày di chuyển hết: 761’ : 15,1 = 50 ngày
Lần 1: 21/3 + 50 ngày = ngày 10/5
Lần 2: 23/9 – 50 ngày = ngày 4/8
b) Góc nhập xạ tại Hà Nội và TP.HCM khi MT lên thiên đỉnh tại Buôn Ma
Thuột là:
- Ở Hà Nội:
Hà Nội: nằm phía Bắc của Buôn Ma Thuột góc nhập xạ được tính bằng công
thức sau:
hA = 900 - ϕA + α (α vĩ độ nơi Mặt Trời lên thiên đỉnh) ( ϕA là vĩ độ
cần tính)
Thay số:
hA = 900 – 210 + 120 41’
→ hA (Hà Nội) = 810 41’
- Ở Tp Hồ Chí Minh:
Tp Hồ Chí Minh nằm phía Nam của Buôn Ma Thuột góc nhập xạ ở Tp Hồ
Chí Minh được tính bằng công thức sau:
hA = 900 + ϕA - α (α vĩ độ nơi Mặt Trời lên thiên đỉnh) ( ϕA là vĩ độ
cần tính)
Thay số:
hA = 900 + 10047' - 120 41’
→ hA(TP.HCM) = 880 06’
Dạng 3: Tính vĩ độ (φ) khi biết góc nhập xạ
Từ công thức tổng quát tính góc nhập xạ:
h0=900 - φ ± δ mà φ = 900 – h0 ± δ
Đối với vùng nội chí tuyến: φ = h0 - 900 + δ
Đối với vùng ngoại chí tuyến: φ = 900 – h0+ δ
Đối với tất cả các độ vĩ ở BCN: vào ngày 22/6
Công thức tổng quát là φ = 900 – h0 – δ
Bài tập vận dụng:
Bài tập 1: Tính φ của điểm A nằm trong vùng nội chí tuyến BCB vào ngày
22/6 khi biết h0= 700
φA = (700 - 900) + 23027’ = 13027’ = 3027’B.
10
Bài tập 2: Tính φ của điểm B nằm trong vùng nội chí tuyến BCB vào ngày
22/6 khi biết h0 = 800.
φB = 800 - 900 + 23027’ = 13027’B
Bài tập 3: Tính φ của điểm C có h0 = 43006’ vào ngày 22/6.
φ C = 900 – h0 + δ = 900 – 43006’ + 23027’ = 71001’B.
Bài tập 4: Tính φ của điểm D khi biết h0 = 43006’
φ D = 900 – h0 – δ = 900 – 43006’ – 23027’ = 23027’N.
2.3.4.3. Dạng bài tìm tọa độ địa lý
- Tọa độ địa lý của một điểm chính là vĩ độ và kinh độ của điểm đó
- Nắm các dữ kiện tính vĩ độ, kinh độ
Bài tập áp dụng
Bài tập 1: Xác định tọa độ địa lí của A (BCB) khi độ cao của Mặt Trời trên
đường chân trời tại A lúc 12h trưa ngày 22/6 là 41 030’B và ở Việt Nam
(1050Đ) lúc đó là 7h20’?
Bài làm
Xác định vĩ độ của A: Vào ngày 22/6 góc tới tại điểm A là 41 030’B nên
vị trí nằm ngoài chí tuyến Bắc: hA = 900 - ϕ + 23027’ ⇒ ϕA = 900 – h0 + 23027’ =
900 – 41033’ + 23027’ = 71057’B
Xác định kinh độ của A:
Giờ điểm A chênh lệch so với Việt Nam : 12h – 7h20’ = 4h40’
Số kinh độ chênh lệch: 4h40’ x 150 = 700
Do A có giờ sớm hơn Việt Nam nên nằm về phía đông so với Việt Nam
Kinh độ của A: λA = 1050 + 700 = 1750Đ
⇒ Tọa độ địa lý của A (71057’B, 1750Đ)
Bài tập 2: Xác định tọa độ của 2 điểm A và B khi biết : Khi giờ gốc là 20h
ngày 15/8/2016 thì ở các địa điểm đó lần lượt là 5g30’ngày 16/8/2016 và
14g15’ ngày 15/8/2016. Góc nhập xạ tại A vào lúc 12g ngày 22/6 là 61 003’, và
góc nhập xạ vào lúc 12g ngày 22/12 tại B là 49027’
Bài làm
- Xác định kinh độ
A có giờ sớm hơn giờ gốc nên A ở kinh độ Đông.
A có giờ sớm hơn giờ gốc: 9g30’.
+ Kinh độ A: 9g30’ x 150 =
1420 30’ Đ
B có giờ muộn hơn giờ gốc nên B ở kinh độ Tây.
B có giờ muộn hơn giờ gốc: 5g45’
+ Kinh độ B: 5g45’ x 150 =
860 15’ T
- Xác định vĩ độ:
+ Vĩ độ A: Ngày 22/6 Mặt trời chiếu thẳng góc CTB nên góc nhập xạ CTB
=900
Với góc nhập xạ là 610 03’, có 2 trường hợp xảy ra:
A thuộc vùng nội chí tuyến của NBC
61003’ = 900 - ( φ + α)
61003’ = 900 - φ - 230 27’
φ = 50 30’N
11
A thuộc vùng ngoại chí tuyến của BBC
61003’ = 900 - ( φ - α)
φ = 900 - 61003’ + 230 27’ = 520 24’B
+ Vĩ độ B: Ngày 22/12 Mặt trời chiếu thẳng góc CTN nên góc nhập xạ CTN
=900. Với góc nhập xạ là 490 27’, có 2 trường hợp xảy ra:
B thuộc vùng nội chí tuyến của BBC
49027’ = 900 - ( φ + α)
= 900 - φ - 230 27’
φ
= 900 - 49027’- 230 27’ = 170 06’B
B thuộc vùng ngoại chí tuyến của NBC
49027’ = 900 - ( φ - α)
φ = 900 - 49027’ +230 27’ = 640 N
→ Tọa độ địa lý của A: A(5030’N, 1420 30’Đ)
A(52024’B, 1420 30’Đ
→ Tọa độ địa lý của B: B(170 06’B, 860 15’T)
B(640 00’N, 860 15’T
2.3.4.4. Khai thác kiến thức từ hình ảnh.
- Bước 1: Cho học sinh quan sát tranh ảnh để xác định một cách khái quát nội
dung tranh ảnh cần khai thác.
- Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi, nêu vấn đề, tổ chức hướng dẫn học sinh tìm
hiểu nội dung từ tranh ảnh,lược đồ.
- Bước 3: Học sinh trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh ảnh ,lược đồ, sau
khi đã quan sát và nhận xét, kết hợp gợi ý của giáo viên và tìm hiểu nội dung
trong bài học.
- Bước 4: Giáo viên nhận xét, bổ sung nội dung trả lời của học sinh, hoàn thiện
nội dung khai thác tranh ảnh cung cấp cho học sinh
Bài tập 1:
a, Nêu tên của hình vẽ?
b, Xác định khu vực nào trên trái đất có hiện tượng mặt trời lên thiên đỉnh một
năm 2 lần, khu vực nào 1 lần, khu vực ngoại chí tuyến có hiện tượng mặt trời
lên thiên đỉnh không?
Bài làm
GV yêu cầu HS quan sát hình vẽ và xác định những nội dung trong hình
vẽ bao gồm: vĩ độ địa lí (xích đạo, chí tuyến bắc, chí tuyến nam), thời gian các
12
tháng trong năm (12 tháng), các ngày đặc biệt trong năm (21/3, 22/6, 23/9,
22/12) và đường chuyển động biểu kiến của Mặt Trời (đường biểu diễn). Sau
đó trả lời câu hỏi trên.
a. Hình vẽ mô tả đường biểu diễn chuyển động biểu kiến của Mặt Trời trong
năm.
Mặt Trời lên thiên đỉnh là hiện tượng xảy ra ở những địa điểm trong vùng
nội chí tuyến (từ chí tuyến Bắc (CTB) đến chí tuyến Nam (CTN) lúc 12h (giữa
trưa) Mặt Trời ở ngay trên đỉnh đầu của một điểm, tia sáng Mặt trời thẳng góc
với đường chân trời của địa phương đó vào những ngày khác nhau.
Nguyên nhân của hiện tượng này là do trục Trái Đất nghiêng một góc
0
66 33’ không đổi so với mặt phẳng quỹ đạo trong khi chuyển động tịnh tiến
trên quỹ đạo quanh Mặt Trời, làm cho Mặt Trời lên thiên đỉnh lần lượt các
điểm trong vùng nội chí tuyến bán cầu Bắc đến bán cầu Nam .
b.
Từ ngày 21/3 (Xuân Phân) đến ngày 23/9 (Thu Phân), BCB ngã về phía
Mặt Trời nên Mặt Trời lên thiên đỉnh lần lư ợt tại các điểm trong vùng nội chí
tuyến BCB, xa nhất là tại CTB (23 027’B).Từ sau ngày 23/9 đến ngày 21/3 năm
sau BCN ngã về phía Mặt Trời nên Mặt Trời lần lượt lên thiên đỉnh ở vùng nội
chí tuyến BCN, xa nhất là tại CTN (23027’N).
Mọi điểm trong vùng nội chí tuyến trong 1 năm đều có 2 lần Mặt Trời lên
thiên đỉnh nhưng vào các ngày khác nhau. Càng xa xích đạo khoảng cách giữa
2 lần Mặt Trời lên thiên đỉnh càng gần nhau. Tại 2 chí tuyến sẽ có 1 lần Mặt
Trời lên thiên đỉnh, tại chí tuyến Bắc ngày 22/6, chí tuyến Nam là ngày 22/12.
Vùng
ngoại chí tuyến không có hiện tượng này.
Bài tập 2:
a, Nêu tên của hình vẽ là gì ?
b, Hình vẽ mô tả những nội dung gì? Giải thích ý nghĩa của các ngày có trong
hình vẽ?
Bài làm
13
GV yêu cầu học sinh quan sát hình và xác định 4 vị trí đặc biệt trong năm
của Trái Đất khi chuyển động biểu kiến quanh Mặt Trời, sau đó trả lời các câu
hỏi trên.
a. Tên của hình vẽ: Các mùa theo dương lịch ở bán cầu Bắc
b. Hình vẽ mô tả các mùa theo dương lịch ở bán cầu Bắc.
- Mùa là một phần thời gian của năm, nhưng có những đặc điểm riêng về
thời tiết, khí hậu.
- Nguyên nhân gây ra các mùa là do trục Trái Đất nghiêng với mặt phẳng
quĩ đạo của Trái Đất và trong suốt năm, trục của Trái Đất không đổi phương
trong không gian, nên có thời kì bán cầu Bắc ngả về phía Mặt Trời, có thời kì
bán cầu Nam ngả về phía Mặt Trời. Điều đó làm cho thời gian chiếu sáng và sự
thu nhận bức xạ Mặt trời ở mỗi bán cầu đều thay đổi trong năm.
Người ta chia 1 năm ra 4 mùa. ở bán cầu Bắc, thời gian bắt đầu và kết
thúc của các mùa của các nước theo dương lịch. Các nước theo dương lịch ở
bán cầu Bắc lấy 4 ngày: Xuân phân (21/3), hạ chí (22/6), thu phân (23/9), đông
chí (22/12) là bốn ngày khởi đầu của 4 mùa.
Bài tập 3:
a. Nêu tên hình vẽ?
b. GV yêu cầu học sinh mô tả sự chiếu sáng của Mặt Trời trên Trái Đất vào
ngày 22/6 và ngày 22/12, từ đó giải thích nguyên nhân và rút ra kết luận về
hiện tượng ngày, đêm dài ngắn khác nhau theo mùa và theo vĩ độ?
c. Giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ Việt Nam :
“ Đêm tháng năm, chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười, chưa cười đã tối”
Bài làm
GV hướng dẫn học sinh nắm rõ các đối tượng được thể hiện trên hình vẽ
như trục Trái Đất, đường phân chia sáng tối, tia sáng Mặt Trời, các vĩ tuyến, kí
hiệu ngày và đêm. Sau đó GV yêu cầu học sinh mô tả sự chiếu sáng của Mặt
Trời trên Trái Đất vào ngày 22/6 và ngày 22/12, từ đó giải thích nguyên nhân
và rút ra kết luận về hiện tượng ngày, đêm dài ngắn khác nhau theo mùa và
theo vĩ độ.
14
a. Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn khác nhau theo mùa và theo vĩ độ ( Ví dụ
trong các ngày 22/6 và 22/12)
b.
+ Trái Đất chuyển động xung quanh Mặt Trời sinh ra hệ quả ngày, đêm dài
ngắn khác nhau theo mùa và theo vĩ độ. Quan sát hình 6.3 ta thấy được hình vẽ
biểu diễn trên hai vị trí đặc biệt của Trái Đất trên quỹ đạo chuyển động xung
quanh Mặt Trời đó là ngày 22/6 và 22/12.
+ Vì Trái Đất hình cầu nên ánh sáng Mặt Trời luôn chia bề mặt Trái Đất làm 2
phần bằng nhau, nhưng do trục Trái Đất nghiêng trên mặt phẳng quỹ đạo trong
khi chuyển động tịnh tiến quanh Mặt Trời nên vòng phân chia sáng – tối luôn
thay đổi vị trí.
+ Phần được chiếu sáng là ban ngày (màu trắng), phần bị che khuất là ban đêm
(màu đen). Khoảng thời gian ban ngày và ban đêm tại 1 điểm bất kì trên bề
mặt Trái Đất được thể hiện bằng những đoạn thẳng vẽ từ điểm đó và song song
với đường xích đạo thuộc màu trắng hoặc màu đen. Trong khoảng thời gian từ
22/3 đến 22/9, bán cầu Bắc sẽ ngả về phía Mặt Trời, vòng phân chia sáng tối đi
qua sau cực Bắc và trước cực Nam. Mặt Trời ở trên mặt phẳng xích đạo, do đó
ở bán cầu Bắc diện tích được chiếu sáng nhiều hơn bị che khuất. Riêng ngày
22/6 Mặt Trời lên thiên đỉnh tại chí tuyến Bắc lúc 12 giờ trưa, trong ngày này
mọi địa điểm ở bán cầu Bắc đều có ngày dài nhất, đêm ngắn nhất trong năm,
càng gần cực Bắc ngày càng dài đêm càng ngắn. Trong khoảng thời gian từ
24/9 đến 20/3 bán cầu Nam sẽ ngả về phía Mặt Trời, vòng phân chia sáng tối
đi qua trước cực Bắc và sau cực Nam. Mặt Trời ở dưới mặt phẳng xích đạo, do
đó ở bán cầu Nam diện tích được chiếu sáng nhiều hơn bị che khuất. Riêng
ngỳ 22/12 Mặt Trời lên thiên đỉnh tại chí tuyến Nam lúc 12 giờ trưa, trong
ngày này mọi địa điểm ở bán cầu Nam đều có ngày dài nhất, đêm ngắn nhất
trong năm, càng gần cực ngày càng dài đêm càng ngắn. Qua quan sát hình ảnh
ta có thể thấy:
Ngày 22/6( Hạ chí)
Ngày 22/12 (Đông chí)
Xích đạo
Ngày, đêm có độ dài bằng Ngày, đêm có độ dài bằng
nhau
nhau
Chí tuyến Bắc
Ngày dài hơn đêm
Ngày ngắn hơn đêm
Vòng cực Bắc
Ngày dài 24 giờ
Đêm dài 24 giờ
Chí tuyến Nam
Ngày ngắn hơn đêm
Ngày dài hơn đêm
Vòng cực Nam
Đêm dài 24 giờ
Ngày dài 24 giờ
c. Giải thích ý nghĩa câu tục ngữ:
+ Ý nghĩa của câu tục ngữ: khoảng thời gian trong câu tục ngữ là thường tính
theo âm lịch nên tháng 5 âm lịch tức là khoảng tháng 6 – 7 dương lịch có ngày
dài đêm ngắn. Còn tháng 10 âm lịch là khoảng tháng 11 – 12 dương lịch có
ngày ngắn đêm dài. Đây chính là hiện tượng ngày đêm dài, ngắn khác nhau
theo mùa do sự chuyển động xung quanh Mặt Trời của Trái Đất.
+ Câu tục ngữ này chỉ đúng trong trường hợp ở bán cầu Bắc, còn ở bán cầu
Nam thì ngược lại.
+ Giải thích: Do Trái Đất chuyển đông xung quanh Mặt Trời và trong quá
trình chuyển động trục Trái Đất luôn nghiêng 66 033’ so với mặt phẳng Hoàng
15
đạo và không đổi phương trong quá trình chuyển động. Trong khoảng thời gian
tháng 6 -7 bán cầu Bắc sẽ ngả về phía Mặt Trời, vòng phân chia sáng tối đi qua
trước cực Bắc và sau cực Nam. Mặt Trời ở trên mặt phẳng xích đạo, do đó ở
bán cầu Bắc diện tích được chiếu sáng nhiều hơn bị che khuất nên ngày dài
hơn đêm. Trong khoảng tháng 11 -12 bán cầu Nam sẽ ngả về phía Mặt Trời,
vòng phân chia sáng tối đi qua trước cực Bắc và sau cực Nam nên bán cầu Bắc
có ngày ngắn đêm dài.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Áp dụng sáng kiến này trong công tác bồi dưỡng HSG năm học 2016 2017 tôi đã tiến hành nghiên cứu và thấy được những kết quả khả quan.
Năm học 2014-2015 số học sinh đạt giải học sinh giỏi cấp trường là 2 học
sinh, trong đó là 2 giải khuyến khích.
Năm học 2015-2016 số học sinh đạt giải học sinh giỏi cấp trường là 2 học
sinh, trong đó là 2 giải khuyến khích.
Năm học 2016 - 2017 số học sinh đạt giải học sinh giỏi cấp trường là 6 học
sinh, trong đó có 1 giải 3 và 5 giải khuyến khích.
Bảng số liệu học sinh tham gia dự thi học sinh giỏi lớp 10 năm học
2014 – 2015
Stt
Họ và tên
Điểm Giải
1
Phạm Quang Huy
10,0
2
Vi Thị Hồng
12,0
KK
3
Hà Hoài Sơn
10,0
4
Lộc Thị Ngoạn
9,5
5
Vi Thị Tiếng
9,5
6
Lò Văn Đức
12,0
KK
7
Lương Mạnh Cường
8,0
8
Vi Thị Nhung
10,5
9
Lò Văn Tú
8,0
10
Lương Hồng Lưu
9,0
Bảng số liệu học sinh tham gia dự thi học sinh giỏi lớp 10 năm học
2015 – 2016
Stt
Họ và tên
Điểm Giải
1
Nguyễn Thị Mai Nương 10,5
2
Nguyễn Thanh Thảo
11,0
3
Hà Văn Hân
10,0
4
Nguyễn Thị Tuyết
10,5
5
Vi Thị Tuyết
9,5
6
Lộc Thị Nghệ
8,5
7
Lương Thị Hương
9,0
8
Phạm Bá Nhiệm
12,5
KK
9
Lê Biên Cương
10,0
10
Lương Thị Nga
12,0
KK
Bảng số liệu học sinh tham gia dự thi học sinh giỏi lớp 10 năm học
2016 – 2017
16
Stt
Họ và tên
Điểm Giải
1
Ngân Thị Dung
14,0
Ba
2
Lê Thị Thảo
12,0
KK
3
Lương Thị Tâm
12,5
KK
4
Lương Thị Dung
10,5
5
Khương Mai Linh
9,5
6
Hà Thị Xuyến
10,5
7
Lò Thị Hiền
12,5
KK
8
Phạm Nhật Nam
12,5
KK
9
Lương Thái Nhật
10,0
10
Lộc Thu Trang
12,0
KK
Qua bảng số liệu trên ta thấy được sau khi áp dụng sáng kiến không chỉ số
giải học sinh giỏi tăng lên, mà mức điểm trung bình qua các năm cũng đã được
tăng lên rõ rệt. Điểm trung bình năm học 2014 -2015 là: 9,85 điểm; điểm trung
bình năm học 2015 -2016 là: 10,35 điểm; điểm trung bình năm học 2016 -2017
là: 11,6 điểm. Nếu được đầu tư kĩ lưỡng đây sẽ là một sáng kiến có tính ứng
dụng thực tiễn cao phục vụ thiết thực cho công tác giảng dạy thu hút được
nhiều giáo viên có niềm đam mê nghiên cứu về lĩnh vực này. Quan trọng hơn
học sinh đã cảm thấy hứng thú hơn với môn học, không bị áp lực bởi khối
lượng kiến thức thi học sinh giỏi mà chất lượng được nâng lên.
Đối với bản thân tôi, việc hoàn thành đề tài nghiên cứu này sẽ là một tài
liệu hữu ích, giúp cho công tác ôn luyện đội tuyển HSG lớp 10 nói riêng và
dạy học Địa lí nói chung sẽ đạt được nhiều kết quả tốt hơn. Đối với đồng
nghiệp, đây sẽ là một tài liệu có giá trị.
17
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua những năm bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi nhận thấy rằng: Người thầy cần
không ngừng học hỏi và tự học hỏi để nâng cao trình độ đúc rút kinh nghiệm,
thường xuyên xây dựng, bổ sung chương trình và sáng tạo trong phương pháp
giảng dạy.
Để đưa con thuyền đến bến bờ vinh quang thì vai trò của người cầm lái
thật vô cùng quan trọng. Muốn công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả,
trước hết phải có giáo viên vững về kiến thức, kĩ năng thực hành... Thường
xuyên học hỏi trau dồi kiến thức, tích lũy được một hệ thống kiến thức phong
phú. Có phương pháp nghiên cứu bài, soạn bài, ghi chép giáo án một cách
thuận tiện, khoa học. Tham khảo nhiều sách báo, tài liệu có liên quan, giao lưu,
học hỏi các đồng nghiệp có kinh nghiệm và các trường có nhiều thành tích.
Thực sự yêu nghề, tâm huyết với công việc bồi dưỡng HS giỏi. Luôn thân
thiện, cởi mở với HS, luôn mẫu mực trong lời nói, việc làm, thái độ, cử chỉ, có
tấm lòng trong sáng, lối sống lành mạnh để HS noi theo. Học sinh cần có nhiều
loại sách để tham khảo. Luôn phối hợp với gia đình để tạo điều kiện tốt nhất
cho các em tham gia học tập.
Áp dụng sáng kiến này trong công tác bồi dưỡng HSG năm học 2016 –
2017 tôi đã tiến hành nghiên cứu và thấy được những kết quả khả quan. Nếu
được đầu tư kĩ lưỡng đây sẽ là một sáng kiến có tính ứng dụng thực tiễn cao
phục vụ thiết thực cho công tác giảng dạy thu hút được nhiều giáo viên có
niềm đam mê nghiên cứu về lĩnh vực này. Quan trọng hơn học sinh đã cảm
thấy hứng thú hơn với môn học, không bị áp lực bởi khối lượng kiến thức thi
học sinh giỏi mà chất lượng được nâng lên.
Tạo ra tâm thế hứng thú, thúc đẩy quá trình lĩnh hội tri thức môn học và
bồi dưỡng học sinh giỏi. Thông qua việc giải các bài tập địa lí tự nhiên phục vụ
công tác giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi từ đó góp phần thúc đẩy tính
tích cực tư duy của học sinh, nâng cao chất lượng học tập. Nếu có nhiều hình
thức tổ chức dạy học kết hợp với đồ dùng dạy học sẽ trở lên hấp dẫn và người
học thấy được ý nghĩa của môn học. Qua việc nghiên cứu giải các bài tập địa lí
tự nhiên đại cương giúp chúng ta có có khả năng sáng tạo và vận dụng linh
hoạt tri thức trong tình huống sư phạm, đồng thời tạo điều kiện cho học sinh
phát triển môn học. Rèn luyện cho chúng ta, kĩ năng, thói quen, tính kỉ luật
trong công việc. Đồng thời có ý thức thường xuyên học hỏi trau rồi chuyên
môn để tìm ra phương pháp phù hợp.
Muốn vậy người giáo viên phải nhiệt tình, say mê, có lòng nhiệt huyết yêu
nghề có kiến thức chuyên môn vững.
Giúp các em có những định hướng trong việc ôn thi học sinh giỏi, biết vận
dụng kiến thức một cách linh hoạt vào giải quyết các loại bài tập. Tạo hứng thú
cho việc học tập. Có ý thức học tập, hiểu vấn đề một cách sâu sắc.
3.2. Kiến nghị
Đối với nhà trường nên tạo điều kiện cho giáo viên có năng lực có điều
kiện để nghiên cứu. Có sự hỗ trợ về kinh phí và có sự động viên kịp thời khi
giáo viên đưa ra những đề tài, ý tưởng có tính khả thi cao.
18
Đối với sở giáo dục: nên có những buổi sinh hoạt chuyên đề nhằm trao đổi
kinh nhiệm về chuyên môn và những vấn đề có liên quan, từ đó có thể rút ra
các gải pháp phù hợp với từng môn học và với đối tượng học sinh.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 25 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Trịnh Thị Huyền
19