Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TOÀN cầu hóa KINH tế, cơ hội và THÁCH THỨC của VIỆT NAM TRONG hội NHẬP KINH tế QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.05 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU:
Đề tài:
TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT
NAM TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Giảng viên hướng dẫn: GS, TS. Hoàng Thị Chỉnh
Học viên thực hiện:
Lớp:

Lê Công Điền
15CH05

tháng 6/2016


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Chữ viết tắt

Nguyên nghĩa

1

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á


2

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

3

TNCs

Các công ty xuyên Quốc gia

4

EU

Liên minh châu Âu

5

M&A

Mua lại và sát nhập

6

UNDP

Chương trình phát triển liên hiệp Quốc


7

UNCTAD

Hội nghị Liên Hiệp Ọuốc về hợp tác và phát triền

8

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

9

NAFTA

Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ

10

APEC

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương

11

ASEM

Diễn đàn họp tác Á Âu


12

IMF

Quỹ tiền tệ Quốc tế

13

WB

Ngân hàng thế giới

14

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Trong lịch sử từ xa xưa đến nay, không một cộng đồng, một quốc gia hay một dân
tộc nào có thể phát triển bình thường mà không quan hệ không trao đổi giao lưu trên các
lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng... với các cộng đồng dân tộc và các quốc
gia khác. Do đó quan hệ quốc tế xuất hiện với tư cách là quan hệ lâu đời và phổ biến. Nó
vừa là điều kiện, vừa là kết quả cần thiết cho mọi quá trình phát triển xã hội. Toàn cầu
hóa đã trở thành một xu thế khách quan. Trong hơn một thập kỷ lại đây xu thế toàn cầu

hóa nền kinh tế thế giới có sự gia tăng mạnh mẽ gắn liền với sự phát triển của khoa học
công nghệ, sự chấm dứt chiến tranh lạnh, thế giới chuyển sang thời kỳ mới - hòa bình
hợp tác và phát triển. Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hóa kinh tế kéo theo nó là những
cơ hội và thách thức mới cho các quốc gia khi tham gia vào quá trình đó.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc đẩy mạnh tham gia vào hội nhập kinh tế thế giới là
một nội dung, một khía cạnh quan trọng hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu sâu
về toàn cầu hóa kinh tế là vấn đề không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa
thực tiễn. Chính vì vậy mà em chọn đề tài “Toàn cầu hóa kinh tế, cơ hội và thách thức
của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài viết tiểu luận.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu toàn cầu hóa kinh tế, cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội
nhập kinh tế quốc tế nhằm mục đích tìm hiểu các tác động của toàn cầu hóa kinh tế đối
với Việt Nam và đẩy mạnh việc hội nhập sâu và rộng của Việt Nam.
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Tiểu luận tập trung vào nghiên cứu toàn cầu hóa kinh tế, cơ hội và thách thức của
Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: nghiên cứu toàn cầu hóa kinh tế, cơ hội và thách thức của Việt Nam
trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Thời gian: Từ thế kỷ XX đến nay.

4


4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích,
phương pháp quy nạp, phương pháp tổng hợp số liệu, phương pháp so sánh theo thời
gian.

5. Cấu trúc đề tài
Ngoài Phần mở đầu, phần kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục tài liệu
tham khảo, mục lục, khóa luận được trình bày trong 2 chương:
Chương 1: Toàn cầu hóa kinh tế.
Chương 2: Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 3: Giải pháp hội nhập kinh tế toàn cầu ở Việt Nam

5


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TOÀN CẦU HÓA
1.1.1. Khái niệm toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền
kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các
tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong
phạm vi kinh tế, toàn cầu hóa hầu như được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói
chung và tự do hóa thương mại hay "tự do thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế,
người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương
mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hóa.
1.1.2. Bản chất của toàn cầu hóa.
Với tính cách là một xu thế lịch sử, toàn cầu hóa được quyết định bởi sự phát triển
mạnh mẽ, mang tính bước ngoặt của lực lượng sản xuất trong thời đại cách mạng khoa
học công nghệ.
Toàn cầu hóa vừa mang bản chất khách quan, vừa chứa đựng tính chất tự do tư
bản; vừa tích cực vừa tiêu cực; vừa đem lại thời cơ, thuận lợi và nguy cơ, thách thức đối
với các quốc gia dân tộc, nhất là các nước kém phát triển và đang phát triển.
Toàn cầu hóa là một quá trình vừa hợp tác rộng mở, vừa đấu tranh gay gắt, phức
tạp giữa các quốc gia, tập đoàn, cộng đồng, cá nhân với nhau.

Để bảo vệ lợi ích quốc gia trong quá trình tham gia toàn cầu hóa, các nước trên thế
giới đã và đang triển khai mạnh mẽ quá trình khu vực hóa.
1.1.3. Ý nghĩa của toàn cầu hóa.
Sự hình thành nên một ngôi làng toàn cầu - dưới tác động của những tiến bộ trong
lĩnh vực tin học và viễn thông, quan hệ giữa các khu vực trên thế giới ngày càng gần gũi
hơn, cộng với sự gia tăng không ngừng về các trao đổi và sự hiểu biết lẫn nhau cũng như
tình hữu nghị giữa các "công dân thế giới", dẫn tới một nền văn minh toàn cầu.
Tác động tiêu cực của các tập toàn đa quốc gia tìm kiếm lợi nhuận, việc sử dụng
các phương tiện luật lệ và tài chính mạnh mẽ và tinh vi để vượt qua giới hạn của các tiêu
chuẩn và luật pháp địa phương hòng lợi dụng nhân công và dịch vụ của các vùng phát
triển chưa đồng đều lẫn nhau.

6


Toàn cầu hóa thúc đẩy sự tăng trưởng của thương mại thế giới, tăng trưởng đầu tư
trực tiếp nước ngoài và sự hợp tác giữa các doanh nghiệp, thúc đẩy sự gia tăng lưu thông
quốc tế về vốn.
1.2. CÁC TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
1.2.1. Tác động tích cực của toàn cầu hóa kinh tế
Trước hết thông qua tự do hóa thương mại sự thu hút đầu tư và chuyển giao công
nghệ, nó tạo cơ hội cho sự phát triển của kinh tế toàn cầu nói chung và từng quốc gia nói
riêng.
Thứ hai, thúc đẩy quá trình cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ, buộc các nền kinh tế
phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp, mở rộng nền kinh tế thị trường, cải tiến kỹ
thuật, tăng năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh.
Thứ ba, tạo ra môi trường thuận lợi trong việc nắm bắt thông tin, tri thức mới, giao
lưu văn hóa thế giới.
Thứ tư, làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau thúc đẩy sự phát triển, tính xã hội hóa
của lực lượng sản xuất, đưa nền kinh tế toàn cầu hóa phát triển ngày càng cao hơn.

1.2.2. Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, toàn cầu hóa kinh tế bộc lộ những mặt tiêu cực:
Thứ nhất, khiến cho sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng, dẫn đến
tình trạng chủ quyền quốc gia từng bước bị suy giảm không chỉ lĩnh vực kinh tế mà còn
cả lĩnh vực chính trị, văn hóa, đặc biệt là đối với những nước chậm hoặc đang phát triển.
Thứ hai, tạo ra sự phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc hơn, khoảng cách giàu nghèo
ngày một tăng các tệ nạn xã hội, tội phạm và buôn lậu quốc tế gia tăng.
Thứ ba, sự phân phối không đều lợi ích thu được từ quá trình toàn cầu hóa kinh tế
tất yếu dẫn đến sự mâu thuẫn giữa các quốc gia. Mâu thuẫn này thể hiện rõ qua những
cuộc biểu tình rầm rộ, thậm chí dẫn đến bạo loạn đẫm máu trên đường phố ở một số nước
nhằm phản đối sự bất bình đẳng trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
Như vậy, toàn cầu hóa kinh tế là một quá trình phức tạp. Hiện nay toàn cầu hóa đã
diễn ra trên những chiều hướng trái ngược nhau, xu hướng tự do hóa kinh tế đồng hành
với xu hướng bảo hộ mậu dịch.
Đúng như văn kiện Đại hội IX của Đảng ta khẳng định: “toàn cầu hóa là xu thế
khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia xu thế này đang bị một số nước

7


phát triển và tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối chứa đựng nhiều mâu thuẫn
vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”.
Chương 2: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. VAI TRÒ CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là một trong những v ấn
đề thời sự đối với hầu hết các nước. Xu hướng toàn cầu hóa được thể hiện rõ ở sự phát
triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới về thương mại và về tài chính.
Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hóa các nước giàu luôn có những lợi thế về lực
lượng vật chất và kinh nghiệm quản lý. Còn các nước nghèo có nền kinh tế yếu kém dễ bị

thua thiệt, thường phải trả giá đắt trong quá trình hội nhập.
Là một nước nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm bị chiến tranh tàn phá, Việt
Nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị
trường, từ một nền kinh tế tự túc nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếp xúc với nền kinh tế thị
trường rộng lớn đầy rẫy những sức ép, khó khăn.
Đứng trước xu thế phát triển tất yếu, nhận thức được những cơ hội và thách thức
mà hội nhập đem lại, Việt Nam là một bộ phận của cộng đồng quốc tế không thể khước
từ hội nhập. Chỉ có hội nhập mới giúp Việt Nam khai thác hết những nội lực sẵn có của
mình để tạo ra những thuận lợi phát triển kinh tế.
Chính vì vậy mà đại hội Đảng VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1991 đã đề
ra đường lối chiến lược: “Thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại”. Đến đại hội đảng VIII, nghị quyết TW4 đã đề ra nhiệm
vụ: “giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng
một nền kinh tế mới, hội nhập với khu vực và thế giới”.
2.2. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM KHI HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ
2.2.1. Cơ hội của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
2.2.1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu của
Việt Nam
Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau, vì vậy, khi Việt Nam gia
nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được

8


hưởng ưu đãi về thuế quan, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã
tạo điều kiện cho hàng hóa của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới.
Bên cạnh đó, cơ cấu đối tác xuất khẩu của Việt Nam có sự điều chỉnh lớn:
Thứ nhất: là việc tiếp cận sâu hơn đối với các thị trường mới ở khu vực châu Phi.
Thứ hai: là cân bằng hơn đối với các đối tác thương mại chính.

2.2.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước
ngoài, viện trợ phát triển chính thức
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị
trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và
công nghệ vào nước ta, sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta làm ra sản
phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có cơ hội mở
rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để
doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Viện trợ phát triển chính thức (ODA): Tính đến cuối năm 2010, các nhà tài trợ đã
cam kết cung cấp ODA cho Việt Nam trên 64 tỷ USD. Những năm gần đây, lượng vốn
ODA cam kết năm sau đều cao hơn năm trước, lên tới khoảng 8 tỷ USD mỗi năm, thể
hiện sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào khả năng phát triển (và trả nợ) của Việt Nam.
2.2.1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hòa bình ổn định, tạo dựng
môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế
Trước đổi mới, Việt Nam chỉ có quan hệ ngoại giao chủ yếu với Liên Xô và các
nước Đông Âu. Hiện nay, nước ta có quan hệ ngoại giao với 179 quốc gia trên thế giới, là
thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế trong tất cả các lĩnh vực.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tham gia ngày càng tích cực vào các công việc
của ASEAN, ASEM, APEC, WTO, đảm đương thành công vai trò Ủy viên không thường
trực Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và Chủ tịch ASEAN năm
2010. Trong năm 2010, Việt Nam đã chính thức tham gia quá trình đàm phán về Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP); ký tắt Hiệp định Đối tác và Hợp tác (PCA) với Liên minh
Châu Âu và chuẩn bị khởi động đàm phán về Khu vực mậu dịch tự do với Liên minh
Châu Âu.
Những thành tựu đó đã góp phần tạo dựng và duy trì môi trường hòa bình, ổn định
thuận lợi cho phát triển, đồng thời đóng góp trực tiếp vào quá trình nâng cao sức mạnh

9



tổng hợp của đất nước. Hội nhập đã tranh thủ nguồn lực bên ngoài rất quan trọng cho
công cuộc xây đựng đất nước. Đồng thời, việc chúng ta tham gia tích cực vào việc giải
quyết các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế, đóng góp vào quá trình xây dựng luật lệ
và các chuẩn mực quốc tế đã và đang góp phần bảo đảm hòa bình và an ninh cho chính
mình.
2.2.1.4. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa
học, công nghệ tiên tiến
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, với đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp nhận vốn, tiếp thu tri thức khoa học,
công nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của nước ngoài để
nhanh chóng tăng cường năng lực Khoa học và Công nghệ quốc gia, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội. Lao động Việt Nam có cơ hội tham gia sâu rộng vào phân công
lao động toàn cầu, tiếp cận với khoa học kĩ thuật tiên tiến, nâng cao trình độ, tăng thu
nhập.
2.2.1.5. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng Khoa học và Công nghệ hiện đại,
nước ta có thể đi thẳng vào những công nghệ hiện đại để rút ngắn quá trình C ông nghiệp
hóa, Hiện đại hóa và khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước. Với tiềm
năng trí tuệ dồi dào, nếu có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực đúng đắn, nước ta
có thể sớm đi vào một số lĩnh vực của kinh tế tri thức.
2.2.1.6. Hội nhập kinh tế thế giới tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển Khoa học và Công nghệ trong thời gian tới
Quá trình đổi mới đất nước đã tạo ra những tiền đề mới cho sự phát triển Khoa học
và Công nghệ của nước ta trong thời gian tới. Nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng
cao, liên tục trong thời gian qua là điều kiện thuận lợi để tăng đầu tư cho phát triển Khoa
học và Công nghệ, đồng thời thúc đẩy đổi mới công nghệ và ứng dụng thành tựu Khoa
học và Công nghệ trong nền kinh tế, nhất là trước sức ép về cạnh tranh trong điều kiện
hội nhập khu vực và quốc tế.

2.2.2. Thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích mà còn đặt nước
ta trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó tốt thì sự thua thiệt

10


về kinh tế và xã hội có thể rất lớn. Ngược lại, nếu chúng ta có chiến lược thông minh,
chính sách khôn khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt, dành được lợi ích nhiều hơn cho đất
nước.
2.2.2.1. Môi trường kinh doanh đầu tư ở Việt Nam mặc dù đang được cải tiến
song nhìn chung chưa thuận lợi, còn nhiều khó khăn
Khuôn khổ pháp lý chưa đảm bảo cho cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế, sự độc quyền trong một số lĩnh vực của một số tổng công ty nhà nước, hệ thống
tài chính ngân hàng còn yếu kém, sự thiếu minh bạch về cơ chế chính sách, chế độ
thương mại còn nặng về bảo hộ, thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa thông thoáng. Các
thể chế thị trường như thị trường vốn, sức lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất
động sản... còn sơ khai, chưa hình thành đồng bộ.
2.2.2.2. Nguồn nhân lực Việt Nam dồi dào nhưng tay nghề kém, lợi thế về lao
động rẻ có xu hướng mất dần
Trước mắt, do giá nhân công còn rẻ và đang có thị trường rộng lớn nên ngành may
mặc và giầy da là hai ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất trong nhóm năm sản phẩm
công nghiệp có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên lợi thế về nhân công rẻ đang mất dần và
giá nhân công các ngành này hiện đang cao hơn một số nước trong khu vực. Hơn thế nữa,
để đào tạo nghề, nâng cao kĩ năng, trình độ tay nghề cần phải chi phí đầu tư lớn, điều này
sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa.
2.2.2.3. Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ hàng nước ngoài
Hội nhập kinh tế thế giới cho phép mở rộng thị trường, trong khi đó, khả năng mở
rộng thị trường hàng hóa của nước ta ra khu vực và thế giới còn hạn chế và phải đối đầu,
cạnh tranh gay gắt với các nước có trình độ phát triển cao hơn ở khu vực Đông Nam Á,

đặc biệt là với các nước ASEAN và Trung Quốc. Hơn nữa, những sản phẩm hàng hóa của
ta phần lớn đồng dạng với các quốc gia này. Phải nói rằng trong hội nhập, hàng hóa của
Việt Nam rất khó mở rộng chiếm lĩnh được thị trường mà ngược lại chúng ta trở thành thị
trường tiêu thụ hàng hóa của các nước. Công nghiệp chủ yếu là gia công, phần lớn sản
phẩm các ngành được sản xuất ra trên cơ sở tiêu thụ các nguyên phụ liệu, linh kiện. Do
thiếu các ngành công nghiệp phụ trợ nên đa số các Công ty làm hàng xuất khẩu đều phải
nhập khẩu nguyên liệu. Vì vậy hàm lượng nội địa Việt Nam trong hàng xuất khẩu rất
thấp. Có thể nói chính sách nội địa hóa của ta chưa thỏa đáng. Chính sách đó ảnh hưởng
quan trọng đến sự phát triển các ngành liên quan các ngành này phát triển rất ít và rất

11


chậm trong thời gian qua và phải nhập phụ tùng linh kiện từ bên ngoài, do đó làm tăng
giá thành sản phẩm, làm cho sản phẩm của Việt Nam đắt hơn các nước trong khu vực,
giảm khả năng cạnh tranh.
2.2.2.4. Việt Nam trở thành bãi thải công nghệ
Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa theo chiều hướng là các nước công nghiệp phát
triển sẽ chiếm giữ quyền độc tôn sản xuất và làm chủ các sản phẩm công nghệ kỹ thuật
cao, các nước đang phát triển sẽ chịu lép vế, sản xuất các mặt hàng chiếm nhiều lao động,
giá trị thấp, tốn nhiều nguyên liệu hơn.
Thực tiễn trong khu vực thu hút đầu tư FDI của nhiều nước trên thế giới cho thấy
các nhà đầu tư nước ngoài chỉ chuyển sang các nước nhận đầu tư máy móc thiết bị và
công nghệ thế hệ thứ hai và thứ ba. Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển đang
lo ngại bị biến thành bãi thải công nghệ cho các nước phát triển, đặc biệt là những thiết bị
đã

qua

sử


dụng.

Một nghiên cứu mới đây về chất lượng công nghệ chuyển giao vào Việt Nam cho thấy,
trên 727 thiết bị và 3 dây chuyền sản xuất nhập khẩu trong 42 xí nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài thì có 76% thiết bị được sản xuất từ những năm 1950-1960, 50% là các máy
móc đã qua sử dụng. Những con số đó cho thấy chất lượng thấp của công nghệ nhập
khẩu. Mặt bằng chung về trình độ công nghệ và trang thiết bị của Việt Nam lạc hậu từ 2-3
thế hệ so với các nước công nghiệp phát triển.
Mức đóng góp của khoa học công nghệ ngày càng giảm thể hiện rõ sự đầu tư yếu
kém cho khoa học công nghệ nước ta. Đầu tư cho khoa học công nghệ và đầu tư đổi mới
công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam rất thấp, chi phí đổi mới công nghệ chỉ
khoảng 0,2-0,3% doanh thu, trong khi ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%. Ngân sách nhà
nước dành cho khoa học công nghệ chiếm tỷ lệ khá nhỏ.
2.2.2.5. Chảy máu chất xám
Việt Nam thiếu trầm trọng nguồn lao động chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ người có
chuyên môn kỹ thuật trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên đạt 8,1% năm 2000 là rất thấp
(ở các nước trong khu vực là 49-50%), 9,5% số người trong độ tuổi lao động và 11,7%
lực lượng lao động. Năm 2001, lao động không có chuyên môn kỹ thuật chiếm đến
26,7% lao động. Đây là một tồn tại và thách thức lớn đối với nước ta.
Hiện có khoảng 10.000 học sinh sinh viên Việt Nam học tập ở nước ngoài, hàng
năm chi tiêu cho sinh hoạt và học tập mất khoảng 200 triệu USD. Việt Nam đã không

12


khai thác được nguồn chất xám đó do cơ chế chính sách còn nhiều điều bất cập (lương,
điều kiện làm việc, đòi hỏi khoa học đáp ứng ngay yêu cầu của thực tiễn, nhà khoa học bị
cơ chế hành chính trói buộc, thủ tục thanh quyết toán…). Các Công ty nước ngoài tại
Việt Nam đã đa dạng hóa phương thức thu hút nhân tài: trao học bổng hỗ trợ sinh viên

năm cuối, đào tạo nghề miễn phí, tuyển chọn các sinh viên giỏi gửi đi đào tạo thêm ở
nước ngoài.
Cán bộ khoa học kỹ thuật chạy từ cơ quan nhà nước sang các cơ quan nước ngoài,
các sinh viên tốt nghiệp giỏi là nguồn tuyển dụng của các công ty nước ngoài, trí thức
Việt kiều không về nước làm việc, học sinh đi học nước ngoài học xong ở lại nước sở tại
làm việc không về nước. Hiện tượng chảy máu chất xám là rõ ràng.
Nhà nước cần điều chỉnh chính sách theo hướng tạo những điều kiện làm việc
thuận lợi cho các nhà khoa học, tạo chỗ ở cho gia đình, học tập cho con cái và chăm sóc y
tế, phương tiện đi lại làm việc nghĩa là cần có một chính sách xã hội tiến bộ và có chế độ
lương tương xứng, bên cạnh đó cần có những biện pháp chống tham nhũng, chống làm
giàu từ đất đai và buôn lậu.
2.2.2.6. Môi trường ngày càng bị ô nhiễm
Môi trường đang ngày càng xấu đi như thoái hóa môi trường đất, do lạm dụng
phân bón, thuốc trừ sâu, phát triển giống lúa cao sản làm cho đất bạc mầu nhanh, xói mòn
tài nguyên đất, làm giảm độ phì nhiêu của đất, môi trường nước bị ô nhiễm do công
nghiệp và sử dụng phân bón hóa chất trong nông nghiệp gây ra, sự tàn phá rừng tự nhiên,
xuống cấp chất lượng rừng, trong đó do sử dụng phát triển thủy sản, bão, lụt, lũ, hạn hán,
cháy rừng xẩy ra nghiêm trọng. Sâu bệnh ngày càng phát triển theo chiều hướng khó
kiểm soát. Sự phát triển lương thực thực phẩm còn thiếu bền vững. Để phát triển nông
nghiệp bền vững không phải chỉ có bền vững về môi trường mà phải đảm bảo cả bền
vững về kinh tế, bền vững về xã hội. Vì mưu sinh, người ta phải khai thác tài nguyên một
cách bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp Việt Nam lấy danh nghĩa nhập phế liệu để về tận
dụng tái chế, thực chất nhập rác do phế liệu có lẫn tạp chất khó có thể loại bỏ trong quá
trình xử lý từ các nước phát triển, chủ yếu từ Mỹ với giá rẻ. Điều đó biến môi trường
sống Việt Nam thành bãi rác của các nước phát triển.

13



2.2.2.7. Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những yêu cầu về gìn giữ độc lập – an
ninh – chủ quyền và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đã và đang phát triển mạnh trên thế
giới. Những mối quan hệ kinh tế ngày càng mở rộng ra khỏi phạm vi của từng quốc gia
riêng biệt và vươn tới nhiều lĩnh vực, không còn hạn chế trong thương mại hàng hóa mà
lan tỏa sang các lĩnh vực khác như: dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh,
môi trường. Vấn đề đặt ra là phải có quan niệm đúng đắn về khái niệm chủ quyền quốc
gia trước xu thế mới và làm thế nào để có thể tận dụng một cách có hiệu quả và phát huy
những lợi thế của mình mà vẫn bảo đảm giữ gìn bản sắc, bảo đảm chủ quyền quốc gia và
định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Xu thế toàn cầu hóa và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua thông tin với
mạng Internet, một mặt tạo điều kiện thuận lợi chưa từng có để các dân tộc, cộng đồng ở
mọi nơi có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về hàng hóa, dịch vụ, kiến thức... Qua đó
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ, mở mang sự
hiểu biết về văn hóa của nhau. Mặt khác, quá trình trên cũng làm nảy sinh mối nguy cơ
về sự đồng hóa các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe doạ, làm suy kiệt khả năng sáng tạo
của nền văn hóa, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại của nhân loại.
Nguy cơ nói trên lại càng tăng gấp bội khi một siêu cường nào đó tự xem giá trị
văn hóa của mình là ưu việt, từ đó nảy sinh thái độ ngạo mạn và ý đồ áp đặt các giá trị
của mình cho các dân tộc khác bằng một chính sách có thể gọi là xâm lược văn hóa với
nhiều biện pháp trắng trợn tinh vi. Trước tình hình đó chúng ta không thể lui về chính
sách đóng cửa, khước từ giao lưu, trao đổi, đối thoại với bên ngoài. Ngược lại, chúng ta,
với bản lĩnh vốn có của dân tộc: “hòa nhập chứ không hòa tan”, tiếp thu những yếu tố
nhân bản, hợp lí, khoa học tiến bộ của văn hóa các nước để làm giàu bản sắc văn hóa dân
tộc. Đây sẽ là nhân tố khơi dậy tiềm năng sáng tạo làm nên những giá trị vật chất và tinh
thần mới trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên chúng ta
cũng tỉnh táo phản đối những văn hóa ngoại lai không phân biệt tốt hay xấu dẫn đến mất
gốc, lai căng về văn hóa gây hậu quả xấu về tư tưởng đạo đức của các tầng lớp dân cư.
Như vậy chỉ có trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị ưu tú của văn hóa dân
tộc đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại thì văn hóa Việt Nam ngày nay mới

có thể đóng được vai trò vừa là mục tiêu, vừa là động lực và sẽ điều tiết sự phát triển của
kinh tế xã hội.

14


Chương 3: GIẢI PHÁP HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
3.1. GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC CHO CÔNG NGHIỆP HÓA RÚT NGẮN Ở
VIỆT NAM
3.1.1. Tư duy mới cho việc tiếp tục triển khai chiến lược công nghiệp hóa rút
ngắn của Việt Nam
Tiếp cận mô hình tổng quát về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam đòi hỏi
phải có tư duy mới nhằm tiếp tục triển khai chiến lược công nghiệp hóa rút ngắn hiện đại:
Thứ nhất, Việt Nam phải thoát hẳn khỏi các quan niệm truyền thống về rải đều
mọi nguồn lực để phát triển tất cả các ngành, nhất là các ngành không có lợi thế so sánh
cũng như lợi thế cạnh tranh.
Thứ hai, nên hiểu mở cửa thương mại theo quan điểm hiện đại vì dừng lại ở hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hóa hoặc tách thị trường trong nước với thị trường bên ngoài.
Thứ ba, Chú trọng và mạnh bạo trong sử dụng FDI và TNC để đổi mới công nghệ
và phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng.
Thứ tư, khi xem xét các sức ép, cú sốc và rủi ro từ bên ngoài đến tiến trình công
nghiệp hóa của ta, cần phải phân tích thấu đáo, kịp thời để có phản ứng linh hoạt hợp lý
và hiệu quả.
3.1.2. Thực hiện sự đột phá trong điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Để thực hiện công nghiệp hóa rút ngắn dựa trên lợi thế so sánh động thông qua
thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện phát triển bền vững, vấn đề quan tâm hàng
đầu là phải có đột phá về cơ cấu kinh tế.
Thứ nhất, đó phải là cơ cấu vừa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi sang kinh tế
công nghiệp, vừa thực hiện được từng bước phát triển kinh tế tri thức. Nhiều nghiên cứu
gần đây của các tổ chức quốc tế như: UNDP, WB, ADB cũng đã tiếp cận theo hướng này.

Thứ hai, trong chiến lược đầu tư phát triển các ngành kinh tế nên có những sự lựa
chọn và ưu tiên. Đầu tư và kêu gọi đầu tư mạnh hơn vào các ngành công nghiệp chế tác,
trong các lĩnh vực dịch vụ như: tài chính, bảo hiểm, ngân hàng những ngành dựa trên
công nghệ hiện đại để một mặt, nhờ cạnh tranh thúc đẩy phát triển các lĩnh vực này và
mặt khác khắc phục được điểm yếu về hạn chế nguồn lực về hạ tầng cơ sở cũng như tri
thức, kỹ năng quản trị và thiếu kinh nghiệm của doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ ba, xác định lại vai trò của Nhà nước trong điều chỉnh về cơ cấu kinh tế.
Thứ tư, thiết lập một cơ cấu kinh tế đảm bảo tăng trưởng có chất lượng và phát
triển bền vững. Tăng trưởng kin tế Việt Nam những năm qua có tốc độ cao nhưng vẫn
còn thấp dưới mức tiềm năng, đặc biệt là chất lượng tăng trưởng chưa cao, chưa vững
chắc.
3.1.3. Đột phá mạnh hơn trong đổi mới thể chế kinh tế thị trường

15


Thứ nhất, xây dựng một hệ thống pháp luật tương thích với thông lệ quốc tế, đồng
bộ, minh bạch và có thể dự đoán được.
Thứ hai, cần có sự ưu tiên phát triển đi trước một bước một số thị trường, nhất là
những thị trường có vai trò kết nối, để tạo ra sự chuyển biến thực sự cho toàn bộ nền kinh
tế - xã hội.
Thứ ba, thị trường dịch vụ phải được phát triển như một hệ thống, trong đó chú
trọng phát triển trước một bước về dịch vụ viễn thông, dịch vụ kinh doanh và dịch vụ
giáo dục.
Thứ tư, đồng thời với việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường, chú trọng xây dựng
các thiết chế xã hội tương thích để dự báo và ngăn ngừa các rủi ro trong công nghiệp hóa,
nhất là ở những vấn đề xã hội và môi trường nảy sinh do việc thực hiện các tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại.
3.2. GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM

Nâng cao nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế, chống tư tưởng ỷ lại trông chờ
vào bảo hộ của Nhà nước.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng cách tăng cường đổi mới kinh
tế trong nước hướng vào xuất khẩu, đầu tư thiết bị và công nghệ tiên tiến, khai thác các
ngành mà Việt Nam có lợi thế trước mắt và lâu dài, tăng cường cải cách hành chính, đặc
biệt là tổ chức thực hiện. Tăng cường năng lực và sự phối hợp của các bộ ngành trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính chủ
động, hiệu quả và khả năng cạnh tranh đi đôi với việc giải quyết vấn đề việc làm và thay
đổi ngành nghề của người lao động.
Coi trọng phát triển thị trường trong nước đi đôi với mở rộng thị trường xuất khẩu,
quản lý tốt nhập khẩu. Đẩy mạnh và phát triển thương mại dịch vụ.
Xây dựng Chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế.
Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hệ thống văn bản pháp luật phục vụ phát
triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.

16


Chuẩn bị sẵn sàng chấp nhận thách thức mở cửa thị trường để các ngành kinh tế
vươn lên không trông chờ mãi vào bảo hộ của Nhà nước.
Đào tạo nguồn nhân lực cho tiến trình hội nhập.

17


PHẦN KẾT LUẬN
Bằng bước đi vững chắc chúng ta đang từng bước tiến vào thị trường thế giới, và
đang trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thế giới. Qua hơn 20 năm đổi
mới đã chứng minh con đường đổi mới theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và

Nhà nước ta là hoàn toàn đúng.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm tới đang đứng
trước những cơ hội và thách thức không nhỏ. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thực sự
là điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể phát triển kinh tế và hoàn thành sứ mệnh “sánh
vai với các cường quốc năm châu”.
Việt Nam hội nhập với thế giới sẽ tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi. Đó không
chỉ đơn thuần là mở rộng giao lưu với các nước mà còn là minh chứng cho sự khẳng định
vị trí của mình trên trường quốc tế. Từ việc mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư... làm
cho doanh nghiệp có thị phần ngày càng rộng lớn trên thế giới.
Tuy nhiên trong quá trình hội nhập cũng không tránh khỏi những khó khăn, thử
thách như: hội nhập với các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ đe dọa đến sự tồn tại của một số
doanh nghiệp trong nước, ảnh hưởng tới chính trị, văn hóa của một quốc gia. Nhưng
không vì thế mà chúng ta bỏ đi thời cơ của mình. Trái lại, chúng ta “hòa nhập chứ không
hòa tan”, các doanh nghiệp Việt Nam không tự chôn mình mà tìm những giải pháp nâng
cao năng lực cạnh tranh. Nói một cách chung nhất, chúng ta hãy tranh thủ thời cơ, khắc
phục khó khăn, đẩy mạnh quá trình chủ động hội nhập hơn nữa.
Chúng ta, những chủ nhân tương lai của đất nước phải thấy được tầm quan trọng
của vấn đề hội nhập đối với sự phát triển của quốc gia. Từ đó thực hiện tốt trách nhiệm
của mình để góp phần vào sự tiến bộ của đất nước.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ngô Văn Điểm. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế của Việt Nam. NXB Chính Trị
Quốc Gia.
[2] Sách tham khảo Vũ Hoàng Linh dịch. Toàn cầu hóa, tăng trưởng và nghèo đói: Xây
dựng một nền kinh tế thế giới hội nhập. NXB Văn hóa Thông tin.
[3] Đảng cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Hội nghị Trung ươn VII Ban cháp hành
Trung ương Khóa IX. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.

[4] GS. TS. Đỗ Hoài Nam (2003). Một số vấn đề về công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt
Nam. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
[5] TS. Vi Quang Thọ (2007). Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đối với
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
[6] Maner, M. ( 2016, 6 June). Thuận lợi và thách thức khi Việt Nam hội nhập kinh tế
quốc tế. Được lấy về từ: .

19



×