Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Mục tiêu, quan điểm cải cách hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.13 KB, 35 trang )

MỞ ĐẦU
Cải cách hành chính là một vấn đề vô cùng quan trọng, nó quyết định
đến sự thành bại của một quốc gia. Đặc biệt trong thời kì hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay thì vấn đề cải cách hành chính được đặt ra như là một đòi hỏi
khách quan của thực tiễn, của quy luật phù hợp giữa kiến trúc thượng tầng và
cơ sở hạ tầng. Cải cách hành chính đã góp phần tích cực bảo đảm tốc độ tăng
trưởng kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường hội nhập quốc tế của
đất nước và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. Cải cách hành chính
đã tạo thành một bộ phận quan trọng trong đường lối, chủ trương của Đảng và
Nhà nước, được xác định là trọng tâm, là khâu đột phá của việc tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Song, nhìn chung cải cách hành chính trong thời gian qua vẫn chưa
theo kịp yêu cầu đổi mới, nhất là đổi mới kinh tế. Nền hành chính Nhà nước
về cơ bản vẫn mang nặng những dấu ấn của nền hành chính được thiết lập
trong cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp. Bộ máy Hành chính Nhà
nước vẫn cồng kềnh , nhiều tầng nấc, hoạt động kém hiệu quả. Đội ngũ cán
bộ, công chức vẫn còn nhiều bất cập .
Với những lí do trên, cùng với sự đam mê của bản thân, em xin trình
bày những hiểu biết của mình về “Mục tiêu, quan điểm cải cách hành chính
nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay”. Đề tài nhằm
khắc phục những thiếu sót, sửa chữa những khuyết điểm, để tạo ra một hệ
thống hành chính mang tính dân chủ, pháp quyền, chính quy hiện đại, có đủ
quyền lực, năng lực, hiệu lực và hiệu quả đáp ứng công cuộc hội nhập của đất
nước.
Để hoàn thành tiểu luận này, em đã thực hiện trên cơ sở của tư tưởng
Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng về cải cách hành chính. Ngoài ra
tiểu luận còn sử dụng các phương pháp như: phương pháp tổng kết kinh

1



nghiệm, phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp lôgíc... để làm rõ nhiệm
vụ của đề tài.
Đề tài “Mục tiêu, quan điểm cải cách hành chính nhằm đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay” đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu
và đã có những công trình nghiên cứu hết sức quý báu. Do thời gian và trình
độ còn hạn chế nên tiểu luận khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong quý
thầy cô góp ý để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm
ơn.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm chung về cải cách hành chính Nhà nước.
Cải cách hành chính nhà nước là một khái niệm của Hành chính học.
Do chế độ chính trị khác nhau, do trình độ và giai đoạn phát triển kinh tế khác
nhau và do sự khác biệt trong quan điểm và góc độ nghiên cứu mà giữa các
nước khác nhau có những định nghĩa khác nhau về cải cách hành chính nhà
nước.
Theo nghĩa rộng, cải cách hành chính nhà nước có thể hiểu là một quá
trình thay đổi cơ bản, lâu dài, liên tục bao gồm cơ cấu của quyền lực hành
pháp và tất cả các hoạt động có ý thức của bộ máy nhà nước nhằm đạt được
sự hợp tác giữa các bộ phận và cá nhân vì mục đích chung của cộng đồng và
các nguồn lực để tạo ra hiệu lực, hiệu quả quản lí và các sản phẩm (dịch vụ
hoặc hàng hoá) phục vụ nhân dân thông qua các phương thức tổ chức và thực
hiện quyền lực.
Hiểu theo nghĩa này, cải cách hành chính nhà nước là những thay đổi
để được thiết kế có chủ định nhằm cải tiến một cách cơ bản các khâu trong
hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước: lập kế hoạch, định thể chế, tổ chức

công tác cán bộ, tài chính, chỉ huy, phối hợp kiểm tra, thông tin và đánh giá.
Theo nghĩa hep, cải cách hành chính nhà nước có thể hiểu như là một
quá trình thay đổi nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hành chính, cải tiến tổ
chức, chế độ và hiệu quả hành chính, cải tiến tổ chức, chế độ và phương pháp
hành chính cũ, xây dựng phương thức hành chính mới trong lĩnh vực quản lý
của bộ máy hành chính nhà nước.
Theo các tài liệu hiện có ở nước ta và căn cứ vào nghị quyết Hội Nghị
lần thứ Tám của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng cộng sản Việt Nam, có
thể định nghĩa cải cách hành chính nhà nước là quá trình thay đổi có chủ định

3


nhằm hoàn thiện thể chế hành chính để nâng cao hiệu lực, năng lực và hiệu
quả hoạt động của nền hành chính công phục vụ cho nhân dân.
2. Đặc điểm cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Cải cách hành chính ở nước ta là cuộc cải cách có nội dung tương
đối toàn diện.
Nếu so sánh với cải cách hành chính ở một số nước như Anh, Pháp,
Đức, Niu Dilân, Malaysia, Thai Lan...thì đây là một dặc trưng chỉ riêng cải
cách hành chính Việt Nam mới co, một hệ thống hành chính tương đối hoàn
chỉnh, và điều kiện hết sức quan trọng là về cơ bản hệ thống này phù hợp với
cơ chế quản lí kinh tế- xã hội, đặc biệt là cơ chế kinh tế thị trường. Từ đó dẫn
đến chỗ trong quá trình cải cách, các nước chỉ lựa chọn một số vấn đề, một số
nội dung đang tỏ ra bất cập để xử lý.
Như vậy, ở những nước trên, công cuộc cải cách hiện đang tập trung
vào một số loại vấn đề. Trong khi đó nội dung cải cách hành chính ở nước ta
tương đối toàn diện, thể hiện ở các nội dung:
Cải cách thể chế hành chính.
Cải cách bộ máy hành chính.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Cải cách tài chính công.
Trong tình hình cụ thể của nước ta hiện nay, mỗi nội dung trên, khi
triển khai lại bao gồm rất nhiều vấn đề, vấn đề nào cũng hết sức cơ bản, đòi
hỏi phải giải quyết sớm. Xử lí , giải quyết vấn đề nào trước, vấn đề nào sau,
hay xử lí đồng bộ cùng lúc,... đều buộc phải cân nhắc, tính toán.
Vậy, điều gì chi phối đặc điểm này của công cuộc hành chính ở Viêt
Nam? Sơ bộ có thể thấy đặc điểm này bị quyết định nội dung và quá trình
chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế, từ quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp sang cơ chế kinh tế thị truờng có sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói
một cách đơn giản hơn thì một nền kinh tế theo mô hình A không thể thích

4


ứng với một hệ thống hành chính thiết kế theo mô hình B, mà phải là mô hình
A,và điều quan trọng là mô hình A đó bị chi phối mạnh bởi mô hình A.
Điều cần chú ý nữa ở đây là bản thân nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng chưa hoàn chỉnh. Chúng ta vẫn đang
trong quá trình xây dựng và dự kiến đến năm 2010 mới cơ bản định hình xong
các thể chế cơ cấu nền kinh tế thị trường.
Từ đặc điểm này dẫn đến hai hệ quả sau:
Một là, cải cách hành chính ở nước ta là cả một quá trình lâu dài vì với
nội dung rộng lớn như vậy không thể làm được trong một thời gian ngắn. Sẽ
là không tưởng khi yêu cầu trong một vài năm nữa có thể hoàn thành về cơ
bản công cuộc cải cách này. Nếu tiến hành một cách tích cực thì ít nhất phải
10 năm nữa, khi những cơ chế căn bản của nền kinh tế thị truờng theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đã được định hình, lúc đó mới có thể hy vọng rằng,
về cơ bản, hệ thống hành chính được cải cách đã phù hợp với cơ chế quản lý
kinh tế - xã hội. Đây cũng là một trong những cơ sở để đánh giá thực chất

công cuộc cải cách hành chính ở nước ta chậm đến mức độ nào và nguyên
nhân ở đâu.
Hai là, nội dung cải cách khá rộng, thời gian tiến hành lại lâu dài, do đó
công cuộc cải cách hành chính ở nước ta sẽ khó khăn và phức tạp.
2.2 Cải cách hành chính được đặt trong tổng thể đổi mới hệ thống
chính trị, cải cách bộ máy nói chung.
Căn cứ vào yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước
ta xác định rằng, trong tiến trình cải cách Nhà nước Việt Nam phải tiến hành
đồng bộ: cải cách lập pháp, cải cách tư pháp và cải cách hành chính, trong đó
cải cách hành chính được xác định là trọng tâm của công cuộc xây dựng và
kiện toàn Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nếu so sánh với cải cách hành chính ở các nước khác thì đây cũng là
một đặc trưng hết sức riêng của cải cách hành chính ở nước ta. Điều hết sức
quan trọng ở đây là bảo đảm sự đồng bộ của các cuộc cải cách này, nếu không
5


được như vậy sẽ xảy ra tình trạng níu kéo, cản trở bước đi của từng cuộc cải
cách
Từ đặc điểm này dẫn đến hai hệ quả sau:
Cải cách hành chính ở nước ta được một thuận lợi hết sức cơ bản so với
các nước khác, đó là hệ thống chính trị của nước ta là hệ thống một Đảng duy
nhất cầm quyền. Vấn đề chỉ là ở chỗ chúng ta có biết tận dụng hết thuận lợi
này thông qua việc đề ra các giải pháp cụ thể trong thiết kế bộ máy, bố trí
nhân sự.... hay không mà thôi.
Việc chuyển tải những chủ trương, đường lối của Đảng thành những thể
chế pháp lý, tổ chức... trong cải cách hành chính một mặt đòi hỏi những kỹ
năng, trình độ nhất định về mặt kỹ thuật lập pháp, kỹ thuật hành chính, nhưng
mặt khác lại đòi hỏi bản thân những nội dung được chuyển tải phải rõ và phù
hợp với thực tiễn cuộc sống.

2.3 Cải cách hành chính nước ta còn thiếu những động lực cần thiết
thúc đẩy tiến trình cải cách.
Cải cách hành chính nước ta với nội dung rộng lớn tác động đến tất cả
các bộ phận của hệ thống hành chính, trước hết là tới con người đó là cán bộ,
công chức đang làm việc trong hệ thống này từ trung ương đến cơ sở. Do điều
kiện lịch sử cụ thể của đất nước ta, đội ngũ cán bộ, công chức hình thành và
phát triển từ nhiều nguồn khác nhau, năng lực và trình độ không đồng đều.
Mặc dù trong nhiều năm qua, đội ngũ này cùng với nhân dân lao động trong
cả nước đã góp phần tạo nên những thành tựu to lớn trong phát triển đất nước.
Nhưng, nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức nước ta đang ở trong tình
trạng bất cập không phù hợp với yêu cầu.
Cải cách hành chính đòi hỏi những thay đổi, trước hết là thay đổi tư
duy, phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức. Bên cạnh đó
những thay đổi cần thiết (do cải cách hành chính tạo ra) trong quan hệ giữa cơ
quan hành chính với dân, trong thẩm quyền, phân cấp... đang làm cho một bộ
phận cán bộ, công chức cảm thấy bị “thua thiệt” về mặt quyền lợi, đặc biệt là
6


thông qua việc xoá bỏ cơ chế “xin – cho”. Trong khi đó, những người tích cực
cải cách muốn cải cách mạnh hơn, sau những bước cải cách nhất định, cũng
chưa nhận thấy rõ những gì mình được hưởng. Chẳng hạn, sáp nhập tổ chức,
giải thể tổ chức, giảm biên chế nhưng lương vẫn như vậy, vẫn phải cáng đáng
thêm công việc của những người được sắp xếp... Vậy thì rốt cuộc có ai hăng
hái cải cách? Đây là vấn đề đang đặt ra đòi hỏi phải nghiên cứu và quan tâm
thích đáng.
Từ đặc điểm này dẫn đến hai hệ quả sau:
Một là, trong tiến trình cải cách hành chính cần xây dựng những chế
độ, chính sách thích hợp đối với cán bộ, công chức, sao cho vừa thể hiện rõ
trách nhiệm của cán bộ, công chức trong công việc, vừa đáp ứng dần yêu cầu

của cuộc sống, vừa chú ý đến quyền lợi của các bộ phận bị đưa ra khỏi bộ
máy hành chính, vừa chú ý đến bộ phận tiếp tục ở lại làm việc.
Hai là, nhanh chóng cải cách căn bản chế độ tiền lương, có chính sách,
chế độ khuyến khích vật chất đối với cán bộ, công chức nói chung và cán bộ,
công chức hành chính nói riêng.
2.4 Cải cách hành chính Việt Nam chịu ảnh hưởng khá lớn của điều
kiện xã hội và tâm lý người dân Việt Nam.
Về xã hôi, cải cách hành chính ở nước ta đang được tiến hành trong
điều kiện một xã hội nông nghiệp lạc hậu, cổ truyền, tàn dư của xã hội phong
kiến đẳng cấp chưa được cải tạo hết lại không được trải qua trường học dân
chủ, ý thức dân chủ và năng lực dân chủ không tương xứng, văn hoá pháp
luật, văn hoá dân chủ chưa phát triển thành nhu cầu văn hoá để định hình
trong lối sống của cá nhân – công dân – công chức, càng chưa thành nền nếp,
chuẩn mực trong phương pháp và phong cách công tác ở cơ quan và công sở.
Thói quen của tâm lí, ý thức xã hội lạc hậu, coi lệ làng cao hơn phép
nước, trong một số trường hợp “lệ” vẫn có sức lấn át “luật”.
Tính tự phát tiểu tư sản và lối sống nông dân còn rất mạnh, không chỉ ở
nông thôn mà cả ở cả đô thị, đó là kiểu đô thị trong khung cảnh xã hội nông
7


nghiệp, do xã hội Việt Nam còn đang trong bước chuyển từ nông nghiệp sang
công nghiệp.
Tính tự do, vô chính phủ, những hành động và phản ứng đòi dân chủ,
nhưng lại ở bên ngoài chuẩn mưc luật pháp, thành ra sự vi phạm pháp luật, dù
là tự phát, không coi ý thức cũng dẫn tới những hành động phản dân chủ, gây
ra những mất ổn định chính trị xã hội.
Về con người, một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ, công chức
và trong nhân dân còn mang nặng tâm lí bình quân, thụ động, ỷ lại, trông chờ,
thoái thác trách nhiệm, tách rời quyền và nghĩa vụ dù đã bị kinh tế thị trường

làm cho lung lay một phần, nhưng vẫn còn tỏ ra có sức bám rễ dai dẳng trong
đời sống cá nhân và công đồng. Cùng với nó là những tệ nạn mới phát sinh từ
mặt trái của cơ chế thị trường: thói vụ lợi , thực dụng, thiển cận đi liền với
tâm lý háo danh, hư danh đã dẫn tới hiện tượng mua bằng, bán chữ, dùng
bằng cấp và lối “học giả” để trang sức, để thành đạt, hãnh tiến. Coi thường và
vi phạm pháp luật thường sai lệch với những chuẩn mực đạo đức. Những kẻ
có quyền, có chức nhưng thoái hoá đã bị lợi dụng những kẻ sơ hở trong quản
lý để mưu lợi và làm giàu bất chính, gây hại cho xã hội. Việc đẩy mạnh cải
cách trong giai đoạn tới không thể không giải quyết triệt để những hiện tượng
đó.
3. Cải cách hành chính, trọng tâm của công cuộc xây dựng và
hoàn thiện nhà nước.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam , kể từ ngày Nhà nước
dân chủ cộng hoà ra đời sau cách mạng tháng Tám đến nay, đã trải qua hơn
nửa thế kỉ.Từ đó đến nay, trải qua các thời kì lịch sử, nó luôn đóng vai trò
trung tâm của hệ thống chính trị mới do Đảng cộng sản lảnh đạo và góp phần
xứng đáng vào những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, trong hơn
thập kỉ qua, nó có những chuyển biến tích cực trong quá trình đổi mới, nhưng
Nhà nước ta cũng có những mặt yếu kém và ngày nay đứng trước những
nhiệm vụ mới, những thử thách mới của thời đại, cần phải được củng cố và
8


hoàn thiện hơn nữa. Những yếu kém đó là bệnh quan liêu, nạn tham nhũng,
bệnh thiếu kỉ luật, kỷ cương, tình trạng bộ máy cồng kềnh, đội ngũ công chức
thiếu kiến thức mới và một bộ phận không ít thoái hoá, biến chất. Nhà nước ta
vẫn giữ được bản chất gia cấp công nhân, thống nhất với tính nhân dân và tính
dân tộc, một “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Song
những khuyết tật nói trên đã làm ảnh hưởng đến bản chất và tính ưu viêt vốn
có và giảm sút hiệu lực, hiệu quả. Đổi mới bộ máy Nhà nước đã trở thành một

yêu cầu cấp bách trước mắt, đồng thời mang ý nghĩa cơ bản trong cả sự
nghiệp vĩ đại tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Có quan niệm cho rằng hành chính là những việc sự vụ, mang tính
nghiệp vụ, kỹ thuật, công văn, giấy tờ của văn phòng hoặc hành chính nói
chung cũng đồng nghĩa với quản lý (quản lý cơ quan, tổ chức, công việc cụ
thể công hay tư, chính trị hay kinh tế, văn hoá - xã hội, tài sản...), nhưng nền
hành chính nhà nước ở đây được xem xét với nội dung rộng lớn hơn nhiều.
Có nhiều khái niệm về nền hành chính nhà nước, nhưng khái niệm đầy đủ và
hợp lý nhất về nền hành chính là tổ chức thực hiện những nghị quyết mang
tính chính trị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thi hành chính sự) nhằm
quản lý công việc hằng nagỳ của Nhà nước, còn goi là “quản lý nhà nước”,
bao gồm hệ thống tổ chức thực thi quyền hành pháp – hành pháp hành động
(một trong ba quyền của quyền lực nhà nước). Với khái niêm như vậy, nền
hành chính nhà nước bao gồm một phạm vi rộng lớn, những yếu tố sau đây:
Hệ thống thể chế hành chính đặt trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật do cơ quan lập pháp ban hành; hệ thống những văn bản quy phạm pháp
luật về cơ quan hành chính nhà nước do cơ quan hành pháp ban hành. Các
văn bản này phải phù hợp với Hiến pháp và các luật của cơ quan lập pháp.
Hệ thống thể chế hành chính bao gồm những chế định về hành chính
của Hiến pháp, các luật và các chế định về hành chính của quyền lập pháp,
quyền tư pháp, quyền hành pháp.

9


Hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước, từ Chính phủ, “cơ quan chấp hành
của Quốc hội , cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Viêt Nam” đến các cơ quan hành chính Nhà nước của các cấp chính
quyền địa phương và cơ quan nhà nước, công sở chuyên môn hành chính hay
sự nghiệp;

Hệ thống công vụ và đội ngũ công chức thực thi công vụ của khắp cơ
quan nhà nước, các công sở.
Trong giai đoạn cách mạng mới, cải cách hành chính được coi là trọng
tâm, bởi những lí do sau đây:
Một là, mọi đường lối chính sách của Đảng, luật pháp và nghị quyết
của Nhà nước từ Quốc hội đến các cơ quan Trung ương hay địa phương đều
thông qua hệ thống hành chính để đi vào cuộc sống và tác động đến mọi tầng
lớp nhân dân. Do vậy nền hành chính đã trở thành cầu nối quan trọng giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Hai là, chính sách tốt, luật pháp đúng và chính trị là điều kiện tiên
quyết, nhưng hành chính là khâu quyết định yếu tố thực tiễn. Bởi vậy, một bộ
máy hành chính quan liêu, cửa quyền, bất lực và tham nhũng thì dù đường lối
chính trị có tốt đẹp, thì quyền lợi của nhân dân cũng không đươc đảm bảo,
bản chất của chế độ bị lu mờ, thậm chí bị xuyên tạc, làm sai lệch.
Ba là, hành chính là khâu trực tiếp xử lí công việc hằng ngày của Nhà
nước, giải quyết những nhu cầu hằng ngày của nhân dân, cho nên cũng là nơi
để thể hiện trực tiếp và cụ thể những ưu việt của chế độ cũng như những
nhược điểm như: bệnh quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, vô kỷ luật.
Qua những năm đổi mới, xã hội đã có nhiều biến chuyển, nhiều tiến bộ,
nhất là trên mặt trận kinh tế, một đường lối kinh tế mới hợp lòng dân đang
làm hình thành một cơ cấu kinh tế và cơ chế kinh tế mới dân chủ, năng động,
giải phóng mọi năng lực, trí tuệ, tiềm năng của mọi công dân. Bộ máy nhà
nước cũng có một số biến chuyển trên cả ba mặt lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Song bên cạnh những thành tựu còn không ít những yéu kém mà mức
10


dộ ngày càng trầm trọng,thể hiện rõ nét nhất trong bộ máy hành chính. Trên
thực tế, nền hành chính đã trở thành vật cản cho đổi mới kinh tế, cụ thể là cho
nền khinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa cũng như sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước đòi hỏi không được đổi mới hoàn thiện nhà nước dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
Cải cách nền hành chính trước tiên phải xuất phát từ yêu cầu của thực
tế Việt Nam, nghĩa là phải kết hợp các yếu tố mang tính chất truyền thống
mang đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời phải đáp ứng những đòi hỏi hội nhập
quốc tế. Nền hành chính hiện nay tuy cũng có một số mặt đổi mới, nhưng về
cơ bản chưa thoát khỏi những quan niệm và thể chế mang dấu ấn của thời kì
kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, “đóng cửa” và trình độ thiếu kiến thức,
thiếu pháp luật, không chính quy và hiện đại.
Kinh nghiệm của nước ta cũng như nhiều nước thường không dễ thành
công trong cải cách hành chính, mà đó là những đợt cải cách quy mô tương
đối lớn nhằm thay đổi chế độ quản lý hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng đất
nước trong thời kì mới.
Để đạt được mục đích trên cần xây dựng hệ thống quan điểm, nguyên
tắc, phương hướng đổi mới nền hành chính phù hợp với đổi mới chung về
kinh tế – xã hội-chính trị của đất nước. Kết hợp với việc mở rộng tầm nhìn ra
thế giới, đặc biệt là những nước có nền hành chính hiện đại, phát triển lâu đời
hay những nước đang phát triể có xuất phát điểm gần giống như nước ta.
Từ cách tiếp cận như vậy, thể hiện rõ mối quan hệ hành chính và chính
trị: cải cách nền hành chính nhà nước là cải cách hệ thống tổ chức và quản lý
bộ máy nhà nước, phục tùng và phục vụ những nhiệm vụ chính trị, bảo đảm
sự ổn định và đổi mới hệ thống chính trị. Không có hệ thống hành chính độc
lập, trung lập, phi chính trị, tách rời Nhà nước và có mục đích tự thân; nhưng
không nên đồng nhất hành chính với chính trị mà phải thấy hành chính củng
mang tính khoa học và thực tiễn riêng biệt của nó.
11


Mối quan hệ giữa cải cách hành chính với sự lảnh đạo của Đảng là một

vấn đề cốt lõi. Nền hành chính nhà nước, bộ phận quan trọng của Nhà nước,
nằm dưới sự lảnh dạo của Đảng. Là Đảng cầm quyền, Đảng mạnh là Nhà
nước mạnh. Đó là mối quan hệ máu thịt, đông thời cũng là mối quan hệ giữa
hành chính với chính trị. “Phải gắn chỉnh đốn Đảng với việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền, cải cách một bước nền hành chính nhà nước để thực sự tạo
ra chuyển biến tích cực”(1)
Cải cách hành chính dưới góc độ chính trị, chỉ có thể thành công khi nó
đảm bảo thực hiện đúng đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng và không
chỉ được các cấp chính quyền, mà còn được cấp uỷ Đảng quan tâm, lãnh đạo,
xem đó là trách nhiệm của Đảng nhưng Đảng không bao biện làm thay, dẫn
đến tình trạng làm mất vai trò, chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của cơ
quan chính quyền.

12


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỀN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I/. Thực trạng nền hành chính Việt Nam hiện nay.
1.

Những kết quả đạt được.

1.1.Hệ thống thể chế pháp luật đã từng bước được đổi mới và hoàn
Thiện, góp phần xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Về cơ bản các chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước chuyển
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được thể chế hóa thông qua 100 văn bản luật, pháp
lệnh ban hành đã tạo dựng và hoàn thành khung pháp lý cho các thành phần

kinh tế.
Khuôn khổ thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính
nhà nước về công chức, công vụ được trú trọng đổi mới đảm bảo tương ứng
với yêu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện chuyển đổi này.
Cùng với các thể chế kinh tế, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế về
đảm bảo quyền làm chủ của nhân, dân chủ hóa đời sống xã hội đã có bước
tiến dài, góp phần quan trọng ổn định xã hội, khai thác và phát huy các nội
lực để phát triển kinh tế xã hôi.
1.2. Chức năng nhiệm vụ của các cơ quan trong hệ thống hành chính
nhà nước được điều chỉnh từng bước phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước
trong kinh tế thị trường.
Chính phủ và các Bộ đã tập chung hơn trong việc thực hiện chức năng
quản lý nhà nước vĩ mô trong phạm vi cả nước trên các lĩnh vực đời sống
kinh tế xã hội. Tập trung thời gian và nguồn lực vào việc thực hiện chức năng
đích thực của mình là xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, xây dựng và
ban hành cơ chế, chính sách thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thực hiện.

13


1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương
được điều chỉnh sắp sếp tinh gọn, hợp lý hơn.
Trên cơ sở quán triệt nguyên tắc tổ chức bộ đa ngành, đa lĩnh vực, cơ
cấu tổ chức chính phủ được điều chỉnh, thug on. Bước vào thời kỳ đổi mới
( 1986), số đầu mối các cơ quan chính phủ là 70, đến Đại hội IX còn 48, thời
điểm hiện nay còn 38 ( 26 Bộ, cơ quan ngang Bộ, 12 cơ quan thuộc Chính
phủ); Ở địa phương ( cấp tỉnh) cơ quan chuyên môn từ 35 đến 40 đầu mối
nay giảm còn 20 đến 25; cấp huyện từ 20 đến 25, nay giảm còn 10 đến 15 đầu
mối các phòng chức năng.
1.4. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính

nhà nước được nâng lên.
Công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức thời gian
qua được quan tâm triển khai trên diện rộng và đạt được moat số kết quả tích
cực. Pháp lệnh cán bộ, công chức name 1988 qua 2 lần sửa đổi name 2001 và
2003 đã có sự phan loại rõ đối tượng cán bộ công chức, tạo căn cứ pháp lý để
định ra yêu cầu, tiêu chuan về trình độ, năng lực chuyên moan, phẩm chất và
chế độ đãi ngộ tương ứng…đáp ứng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại.
1.5. Phương thức hoạt động của Chính phủ, các Bộ ngành trung ương
và ủy ban nhân dân các cấp có bước đổi mới.
Nhà nước nỗ lực cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, áp dụng
phương thức quản lý theo cơ chế “ moat cửa” ở cả ba cấp chính quyền địa
phương tạo ra sự thống nhất trong hệ thống hành chính. Việc triển khai quy
chế công khai tài chính, quy chế dân chủ…có tác dụng tích cực góp phần đổi
mới mối quan hệ giữa hành chính nhà nước với nhân dân, các quan hệ hành
chính với nhau trong quá trình tổ chức thực hiện và thực thi công vụ.
2. Những hạn chế yếu kém của nền hành chính nhà nước.
2.1. Hệ thống thể chế pháp luật chưa đồng bộ, thiếu nhất quán và trong
một số lĩnh vực chưa bám sát trình độ chuyển đổi, khó khăn, phức tạp. Thể
hiện ở chỗ một số luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng các nghị định và thông
14


tư hướng dẫn triển khai chậm được ban hành. Sự thiếu nhất quán thể hiện rõ
trong việc chậm ban hành các văn bản dưới luật, pháp lệnh để hướng dẫn thi
hành.
Thủ tục hành chính chưa được cải cách đơn giản hóa triệt để, tính công
khai minh bạch còn thấp, thời gian gần đây còn có nhiều thủ tục hành chính
không hợp lý, phức tạp gây phiền hà cho nhân dân và các doanh nghiệp.
2.2. Chậm xác định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý hành chính nhà
nước vĩ mô ở các cơ quan nhà nước nhất là cấp Chính phủ và các Bộ.

2.3. Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc với 26
Bộ, cơ quan ngang Bộ và 13 cơ quan thuộc Chính phủ. Bộ máy hành chính
địa phương còn lớn, số lượng các ban, ngành còn nhiều và có xu hướng phình
ra. Việc phân cấp giữa các ngành còn chậm chưa có sự phân biệt rõ chức
năng, nhiệm vụ của chính quyền thành thị với chính quyền nông thôn.
2.4. Chế độ công vụ mới chậm thi hành đầy đủ, chất lượng cán bộ,
công chức chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển kinh tế xã hội; Đội ngũ
cán bộ còn bất cập về kỹ năng quản lý mới, thiếu tính nhạy bén thị trường,
trách nhiệm thực thi công vụ chưa cao, một bộ phận cán bộ công chức suy
thoái phẩm chất đạo đức, nạn tham nhũng vẫn còn tồn tại.
2.5. Phương thức, lề lối làm việc còn thủ công lạc hậu chưa đáp ứng
yêu cầu chuyên nghiệp và hiện đại. Hoạt động của bộ máy hành chính nhà
nước từ trung ương đến địa phương chưa thực sự thống nhất, dấu ấn của cơ
chế tập chung quan liêu bao cấp còn khá đậm nét, họp hành nhiều, giấy tờ
hành chính gia tăng, thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết công việc từng ban
ngành còn chồng chéo. Trang thiết bị và điều kiện làm việc của cơ quan nhà
nước còn nhiều hạn chế.
3. Nguyên nhân của những tồn tại yếu kém.
3.1. Cải cách hành chính nước ta đang được triển khai cùng một loạt
các cải cách khác làm đổi mới từng bước hệ thống chính trị,cải cách lập
pháp_tư pháp_kinh tế doanh nghiệp nhà nước….chính sự không đồng bộ của
15


cải cách hành chính với các cuộc cải cách khác là một trong những nguyên
nhân làm cho cải cách hành chính chậm,hiệu quả thấp.
3.2. Cải cách hành chính hiệu quả chưa cao do nhận thức của chúng ta
về một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn hạn chế, ảnh
hưởng đến nền cải cách hành chính.

3.3. Mặc dù mấy năm gần đây có sự chuyển biến tích cực trong sự chỉ
đạo của Chính phủ. Song nhìn chung chưa có sự chỉ đạo kiên quyết của Chính
phủ với toàn bộ quá trình cải cách hành chính trong phạm vi cả nước.
3.4. Chế độ công vụ mới chưa hoàn chỉnh, đội ngũ cán bộ công chức
còn chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ quản lý mới. Chế độ chính sách,
tiền lương chưa được cải cách cơ bản.
3.5. Ngoài những nguyên nhân chủ yếu trên, công tác cải cách hành
chính gặp nhiều cản trở, chưa nhận thức đầy đủ về vị trí,yêu cầu của cải cách
hành chính. Nền hành chính còn mang nặng dấu ấn của cơ chế quan liêu,bao
cấp.
II. Mục tiêu, quan điểm cải cách hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu
hội nhập ở nước ta hiện nay.
1. Mục tiêu cải cách hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập ở
nước ta hiện nay.
Trong thời gian tới, mục tiêu chung được Chính phủ đặt ra trong chiến
lược tổng thể về cải cách nền hành chính nhà nước là:
Xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên
nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, một nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân, một đội ngũ công chức có đủ
năng lực và phẩm chất hoàn thành nhiệm vụ được giao. Muốn vậy, cần phải
cải cách tổ chức nội dung và phương thức tổ chức hoạt động của bộ máy nhà
nước theo các mặt sau:

16


Hình thành một thiết chế xã hội đặc biệt đó là hệ thống tổ chức bộ máy,
chức năng, nhiệm vụ ,quyền hạn, thẩm quyền, những mối quan hệ hợp lý
trong nội bộ hệ thống khác của bộ máy nhà nước .
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra khung pháp lý

cho bộ máy hành chính và công vụ, một thể chế dân chủ bảo đảm các quyền
con người va quyền công dân trong thực tiễn cuộc sống hằng ngày.Thể chế
hành chính phải bảo đảm trước hết là phục vụ và thúc đẩy mạnh mẽ sự phát
triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và loại trừ được các
tệ nạn xã hội đang phát triển. Thể chế bảo đảm nền pháp chế, cá nhân đều
phải đứng trong khuôn khổ pháp luật, tức là “trong một nhà nước pháp quyền,
mọi tổ chức, cơ quan, được đứng trên và đứng ngoài pháp luật, không có bất
cứ ngoại lệ nào”. Cải cách thủ tục hành chính, giải quyết khiếu kiện của nhân
dân và tổ chức hệ thống tài phán hành chính để “dân có quyền kiện quan” và
“quan cũng như dân đều phải xử theo pháp luật”. Thể chế bảo đảm tất cả các
cơ quan làm công việc dịch vụ cho dân về mọi mặt kinh tế, xã hội, vân hoá...
đều phải làm theo pháp luật, theo thể chế đúng thủ tục , nhanh nhạy, với tư
cách người đầy tớ trung thành, đắc lực của dân, không phải là lợi dụng sơ hở
tìm mọi cơ hội và sự hiểu biết pháp luật và trình độ dân trí thấp của nhân dân
để nhũng nhiễu, hà hiếp nhân dân.
Xây dựng một cơ cấu Chính phủ gọn nhẹ với các Bộ quản lý đa ngành ,
đa lĩnh vực, tâp trung thực hiện chức năng quản lý nhà nước ;
Thực hiện mới phân câp quản lý;
Cải cách tiền lương; Xây dựng một cơ chế tài chính thích hợp.
Cải cách bộ máy hành chính, tinh giản biên chế, xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức trong sạch, vững mạnh. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước; xây dựng cơ
cấu hành chính gọn nhẹ, với những mối quan hệ nội bộ và bên ngoài hợp lý;
đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch có năng lực, không thừa, không thiếu;
quy chế làm việc khoa học, không có lối làm việc tuỳ tiện, thủ công, du kích;
17


có một hệ thống thông tin ngang- dọc, trên- dưới, trong- ngoài thông suốt
phục vụ tốt công cụ . Công việc ấy dòi hổi người công chức không chỉ có đạo

đức, kinh nghiệm tổ chức, mà còn đòi hỏi phải có những kiến thức đặc biệt là
khoa học của một nhà nước dân chủ, quản lý một nền kinh tế phát triển hiện
đại, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
2. Những quan điểm cải cách hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu
hội nhập ở nước ta hiện nay.
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc cải cách nền hành chính ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Người đã quan tâm và bỏ công
sức xây dựng bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến các cấp. Trước
tiên là qua hai bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp 1959, đã thể hiện rõ
quan điểm của Người về mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất là Chính phủ với Quốc hội và Uỷ ban thường vụ quốc hội với Toà án.
(Mặc dù trong thiết chế năm 1946, Chủ tịch nước hay trong quy định năm
1959 Thủ tướng lá người đứng đầu Chính phủ, thì Chính phủ luôn luôn là cơ
quan hành pháp cao nhất cuỉa quyền lực nhà nước và không thể là “cơ quan
hành chính của Quốc hội” như quan niệm chế độ hỗn hợp các quyền. Tổ chức
chính quyền địa phương là hội đồng nhân dân ở hai cấp tỉnh-xã, và Uỷ ban
hành chính. Hội đồng nhân dân tự quyết định tất cả những vấn đề có tính chất
địa phương, ngoài những việc do luật định phải xin phép cơ quan có thẩm
quyền ở Trung ương. Những quyết định của Hội đồng nhân dân phải được gửi
lên cơ quan hành chính cấp trên; trong một thời hạn nhất định nếu không có
phản hồi đương nhiên có hiệu lực pháp lý thi hành. Qua thiết chế cụ thể do
Hiến pháp và luật định, có thể thấy tinh thần “ pháp nhân công pháp” với tính
tự quản của cấp chính quyền địa phương có Hội đồng nhân dân và ngân sách
riêng, được quyền mua, bán, thuê bất động sản, cho đấu thầu, đi kiện, theo
kiện trước Toà án đã xuất hiện.

18



Trong nền hành chính, Ngưòi rất xem trọng con người, đội ngũ cán bộ
công chức và nền công vụ như: quan tâm đến việc học tập, nâng cao dân trí,
nâng cao trình độ quản lý, việc đào tạo và tuyển dụng một đội ngũ cán bộ
công chức trong sạch, vững mạnh và có đủ đức, tài, Người đã không ngần
ngại trong việc sử dụng những công chức hành chính dưới chế độ cũ, cũng
như những kiến thức và kinh nghiệm nghiệp vụ, kỹ thuật trong các văn bản
hành chính của chế độ thực dân Pháp để lại, để xây dựng nền hành chính mới
mẻ và non trẻ của nước Việt Nam dân chủ công hoà.
Nhận thức được vai trò vị trí của công chức đối với nền hành chính nhà
nước, vào những năm 1948 và năm 1950, Người đã ký sắc lệnh 288/SL ban
hành thang lương công chức nhà nước và Sắc lệnh số 76/SL ban hành quy chế
công chức với quan niệm “Công chức Việt Nam là những công dân giữ một
nhiệm vụ trong bộ máy Nhà nước của chính quyền nhân dân dưới sự lảnh đạo
tối cao của Chính phủ”. Quy định này với mong muốn công chức phải đem
hết tất cả sức lực và tâm trí theo đúng đường lối của Chính phủ nhằm phục vụ
lợi ích nhân dân. Đi đôi với nhiệm vụ , công chức Việt Nam cần có một địa vị
xứng đáng với tài năng của mình, địa vị ấy được đề cao trong quy chế này.
Các Sắc lệnh của Người thể hiện quan điểm và tư tưởng về công vụ
,công chức của nhà nước pháp quyền và các nền hành chính hiện đai, khác với
thực tế cách tổ chức và xây dựng đội ngũ công chức trong mấy chục năm qua,
cần phải cải cách cơ bản. Các định nghĩa đã thể hiện rõ tư tưởng phân biệt đội
ngủ công chức trong bộ máy nhà nước nói chung ( và trong nền hành chính
nhà nước nói riêng) với những cán bộ, đoàn thể, các quân nhân, những người
làm việc trong các xí nghiệp và những người dân cử làm việc theo nhiệm kì
bầu cử. Quy chế củng thể hiện tư tưỏng xác định rõ tính chất chuyên nghiệp
của công chức, về cơ bản là theo chế độ chức nghiệp, nhưng phải có nghĩa vụ
phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ nhân dân , trung thành với chính phủ và
“cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. Tư tưởng pháp quyền cũng thể hiện

19



rõ công vụ và công chức phải nằm trong khung pháp lý, chính quy của lập
pháp và lập quy.
Suy ngẫm lại những chính sách, chủ trương của Người thật vô cùng cần
thiết và quý báu, mãi mãi là ngọn đuốc dẫn đường chúng ta trong công cuộc
xây dựng nhà nước và cải cách nền hành chính.
2.2. Những quan điểm của Đảng về cải cách hành chính nhằm đáp ứng
yêu cầu hội nhập ở nước ta hiện nay.
Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (1986) đã mỡ ra một thời kỳ
mơí có tính chất bước ngoặt của Việt Nam, thời kỳ đổi mới toàn diện đất
nước, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, với mục tiêu dân giàu nước mạnh xã
hội công bằng dân chủ văn minh đi lên chủ nghĩa xã hội. Ý thức được vai trò
của Nhà nước trong việc xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao ấp, thiết lập cơ
chế quản lý mới, nghị quyết của Đại hội đã đề ra chủ trương “thực hiện một
cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy Nhà nước từ trung ương đến địa phương
và cơ sở thành một hệ thống thống nhất, có sự phân định rành mạch nhệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm trong từng cấp thông qua nguyên tắc tập trung dân
chủ, phân biệt chức năng quản lý hành chính – kinh tế với quản lý sản xuất –
kinh doanh kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng
lãnh thổ, phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế xã hội”.
Mục tiêu cải cách là nhằm xây dựng “bộ máy Nhà nước có đủ năng
lực” để thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu: thể chế hoá đường lối,chủ trương của
đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể; xây dựng chiến lược kinh tế – xã hội
và cụ thể hoá chiến lược đó thành những kế hoạch phát triển kinh tế xã hội;
quản lý hành chính – xã hội và hành chính – kinh tế, điều hành các hoạt động
kinh tế, xã hội trong toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỉ cương
Nhà nước và trật tự xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh, kiểm tra việc thực
hiện kế hoạch của Nhà nước, phát hiện những mất cân đối và đề ra những
biện pháp khắc phục.


20


Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam (6 /1991) tiến hành tổng kết 5
năm thực hiện đổi mới, đề ra cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, chiến luộc ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến
năm 2000. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII đã đề ra chủ trương, tiếp tục
cải cách bộ máy nhà nứoc, sửa đổi Hiến pháp cải tiến tổ chức và hoạt động
của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của chính
phủ và của chính quyền địa phương các cấp.
Tinh thần nổi bật của Nghị quyết Đại hội VII là gắn nhiệm vụ cải
cách bộ máy nhà nước với đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của
Đảng và các Đoàn thể quần chúng. Nói cách khác, cải cách bộ máy nhà nước
lần đầu tiên được đặt trong một chỉnh thể thống nhất là đổi mới hệ thống
chính trị, trên tinh thần lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước và mở
rộng dân chủ XHCN bảo đảm qyền lực thuộc về nhân dân.
Nghị quyết Đại hội VII Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu
có tính chất chiến lược cho cả chặng đường 10 năm là “đặt trọng tâm cải cách
nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống
hành pháp và quản lý hành chính nhà nước thông suốt từ trung ương xuống cơ
sở, có đủ năng lực, hiệu lực, quyền lực”.
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục
khẳng định cải cách hành chính là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước trong những năm trước mắt. Nghị quyết đã nhấn mạnh công cuộc
cải cách hành chính phải dựa trên cơ sở pháp luật và tiến hành đồng bộ trên
các mặt: cải cách thể chế hành chính tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện toàn
đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Đặc biệt cải cách hành chính đã được
Nghị quyết xác định là một trong những giải pháp cơ bản để thực hiện các

nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm
1996 – 2000.

21


Với tinh thần đẩy mạnh việc triển khai nội dung cải cách hành chính
được đề ra trong Nghị quyết trung ương 8 (khoá VII) một cách tích cực theo
chương trình, kế hoạch Nghị quyết Đại hội VIII nhấn mạnh nhiệm vụ xây
dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế mới; cải tiến quy trình xây dựng
và ban hành văn bản pháp quy của chính phủ, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính và sắp xếp lại bộ máy hành chính từ trung ương đến
địa phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý chuyên ngành về kinh tế trên cơ
sở xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước của các bộ
ngành.
Trong báo cáo chính trị của Ban Chấp Hành Trung ương khoá VIII tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã xác định: để đẩy mạnh cải cách tổ
chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế cần
chú trọng những vấn đề cơ bản sau:
Một là, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của
Đảng
Hai là, cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước
Ba là phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp
chế.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch có năng lực.
Năm là, đấu tranh chống tham nhũng.
Trong báo cáo Chính trị của Ban Chấp Hành trung ương Đảng khoá IX
do đồng chí Tổng bí thư Nông Đức Mạnh trình tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X khẳng định: Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN. Cần xây
dựng cơ chế vận hành Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà

nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công
phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiền quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tăng tính cụ thể, khả thi của các quy
định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế giám sát, kiểm

22


tra tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ
quan công quyền.
Theo phương hướng đó tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc
hội của chính phủ của các cơ quan tư pháp đẩy mạnh cải cách hành chính và
cải cách tư pháp tăng cường hiệu lực hiệu quả các hoạt động lập pháp hành
pháp và tư pháp. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Đồng Nhân Dân và
Uỷ Ban Nhân Dân cấc cấp.
Tăng cường phòng ngừa và chống Tham nhũng lãng phí là đòi hỏi bức
xúc của xã hội là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy
lãnh đạo và quản lý trong sạch vững mạnh, khắc phục một trong những nguy
cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta.
Như vậy trong quá trình đổi mới phát trển đất nước, Đảng ta từng bước
đổi mới hệ thống chính trị, nhằm xây dựng nền dân chủ XHCN, đảm bảo
quyền lực thuộc về nhân dân. Sau khi đạt được một số thành tựu quan trọng
bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, thì những
khuyết tật của bộ máy nhà nước bắt đầu bộc lộ rõ và trở thành những nhân tố
kìm hãm tiến trình đổi mới đặc biệt là đổi mới kinh tế mà trực tiếp và đáng kể
nhất là từ những khuyết điểm, yếu kém của nền hành chính nhà nước. Càng đi
sâu cải cách kinh tế mở rộng dân chủ XHCN và sự phát triển nhanh chóng
của xu thế hội nhập khu vực và thế giới càng làm gay gắt các yêu cầu phải cải
cách bộ máy nhà nước đặc biệt là cải cách nền hành chính. Vì vậy quan điểm

về cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước đã được hình thành và từng
bước được bổ sung, hoàn thiện.
Cải cách nền hành chính là một bộ phận đặt trong cải cách bộ máy Nhà
nước, có mối quan hệ khăng khít với các bộ phận cấu thành nên hệ thống
chính trị của Việt Nam trong điều kiện một Đảng cầm quyền là Đảng cộng sản
Việt Nam. Các quan điểm và nguyên tắc cơ bản của cải cách hành chính được
đặt trên nền tảng những quan điểm những phương hướng về xây dựng nhà
23


nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Nhiều vấn đề lớn và cơ bản về cải cách
hành chính phải xuất phát từ nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam và chi phối mạnh bởi các yếu tố chính trị từ Đảng cầm quyền, mặc
dù vẫn giữ tính độc lập tương đối. Việc xác định nội dung, nhiệm vụ cải cách
được định hướng theo hoàn cảnh của Viêt Nam, trên cơ sở đề cao phát huy
đặc điểm, truyền thống, tính cách và bản sắc Việt Nam nhằm xây dựng một
nền hành chính dân chủ, thống nhất đáp ứng được đòi hỏi của nhân dân và
yêu cầu của công tác quản lý Nhà nước; thích ứng với xu thế toàn cầu hoá mở
rộng và tăng cường hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế trên cơ sở
độc lập tự chủ cùng có lợi.
Cải cách hành chính lúc đầu chỉ là những biện pháp tình thế xử lý
những bất hợp lý cụ thể của bộ máy hành chính, rồi trở thành chủ trương có
tính chất giải pháp để thực hiện cải cách nhà nước nhằm tạo động lực đổi mới
kinh tế. Trong sự hình thành các quan điểm nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công
cuộc cải cách bộ máy hành chính cũng như các bước đi nhịp độ tiến hành cải
cách ở Việt Nam trước tiên và chủ yếu xuất phát từ các yêu cầu đổi mới kinh
tế. Do vậy, đến lượt nó nền hành chính được định hướng mạnh mẽ trước hết
vào việc phục vụ nhân dân và doanh nghiệp tập trung vào phát triển kinh tế.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, các yêu cầu đòi hỏi phải hoàn
thiện chế độ dân chủ XHCN để phát huy hơn nữa dân chủ của nhân dân. Yêu

cầu này đề ra cho cải cách hành chính nhiệm vụ quan trọng là phải xây dựng
các thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân bảo đảm công khai các
hoạt động của nhà nước phát huy dân chủ từ cơ sở tao không khí xã hội lành
mạnh.
Cùng với quá trình đổi mới đất nước những quan điểm chủ trương về
cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước đã trở thành một bộ phận quan
trong trong đường lối đổi mới một trong những ưu tiên hàng đầu trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội là nhiệm vụ trọng tâm trong chương trình công
tác của chính phủ. Do đó, để nâng cao năng lực quản lý của nhà nước và hiệu
24


lực của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương phải tiếp tục cải
cách hành chính xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong sạch
vững mạnh đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập phát triển kinh tế quốc tế
trong giai đoạn hiện nay.
3. Phương châm cải cách nền hành chính ở Việt Nam.
3.1. Nghiên cứu và tiến hành cải cách nền hành chính nhà nước trước
tiên trên cơ sở nhận thức chiều sâu và bề rộng của cải cách, phân biệt giữa
cải cách và cải tiến.
Cải tiến thường được thực hiện trên một phạm vi hẹp trên cơ sở một hệ
thống hành chính tương đối hợp lý và ổn định, nền hành chính được vận hành
bình thường và cơ bản vẫn bảo đảm phục vụ cho sự tăng trưởng của nền kinh
tế và sự phát triển của quốc gia. Tất nhiên, trong quá trình vận hành của bất
kỳ một hệ thống nào vẫn luôn luôn có những đòi hỏi cải tiến để từng bước
hoàn thiện. Để nền hành chính có hiệu lực và hiệu quả cao hơn, thường xuất
hiện những yêu cầu cải tiến nhằm giải quyết những nhược điểm, khuyết điểm
đã bộc lộ ra. Nhưng những đòi hỏi cải tiến này thường mang tính cục bộ, nằm
trong những lĩnh vực có phạm vi hẹp của nền hành chính nhà nước. Những
khuyết điểm đó không làm thay đổi cơ cấu, cơ chế và không phải áp dụng các

biện pháp thay đổi mạnh mẽ đối với nền hành chính hiện có. Mặt khác, những
cải tiến này không mang tính hệ thống cho dù nó vẫn diễn ra thường xuyên,
song có thể tập trung vào một số vấn đề, trong một thời gian ngắn, không theo
một chiến lược được hoạch định một cách khoa học logic và tương đối dài
hạn.
Cải cách nền hành chính nhà nước ở Việt Nam được tiến hành trong
một môi trường mới: chuyển đổi từ nền hành chính cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường từ nền khinh tế tự cung, tự
cấp sang kinh tế thị trường và họi nhập thế giới. Vì vậy, cải cách hành chính
mang tính hệ thống và được nghiên cứu toàn diện từ quan điểm , nguyên tắc,
đế việc xây dưng một chiến lược cải cách nhất quan, dài hạn. Trong quá trình
25


×