Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Sử dụng các phương tiện dạy học nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.26 KB, 23 trang )

1. Mở đầu
1 . 1 Lý do chọn đề tài.
Chúng ta, ai cũng biết rằng giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
sự phát triển của xã hội loài người. Nhiệm vụ của giáo dục là hình thành thế hệ
trẻ được phát triển toàn diện, trang bị kiến thức, hiểu biết khoa học văn hóa xã
hội, góp phần vào sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội. Đồng thời, giáo dục
cho học sinh tự hoàn thiện mình về phẩm chất đạo đức và các mối quan hệ xã
hội. Trong đó bộ môn lịch sử có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục
thế hệ trẻ, giúp thế hệ sau hiểu được những gì đã diễn ra trong quá khứ để hướng
tới sự phát triển trong tương lai, biết được dân tộc Việt Nam có lịch sử lâu đời ,
nhân dân ta rất coi trọng lấy lịch sử để giáo dục thế hệ trẻ. Trong các câu truyện
cổ tích, thần thoại, ca dao có nhiều yếu tố của tri thức lịch sử, phản ánh nhiều sự
kiện lớn của công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. Lịch sử dòng họ, địa
phương (xã, huyện, tỉnh, miền) ra đời từ khá lâu, có tác dụng không nhỏ vào
việc giáo dục truyền thống, lòng tự hào và trách nhiệm đối với quê hương, Tổ
quốc như Bác Hồ đã từng nói:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Hiểu biết để trân trọng và gìn giữ những thành quả mà cha ông để lại, phải
“ôn cố tri tân” (nhắc cái cũ để biết cái mới), sống có trách nhiệm hơn là nhiệm
vụ của thế hệ trẻ hôm nay.
Trong giai đoạn hiện nay, xã hội hiện đại có nhiều thay đổi: thời đại của
công nghệ thông tin, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập cùng phát triển ... Việt Nam
không nằm ngoài ảnh hưởng của quá trình đó. Vấn đề là làm thế nào mà chúng
ta có tiềm lực hội nhập vào xu thế của thời đại mà không bị “hòa tan”, không
mất đi những bản sắc tinh hoa văn hóa dân tộc.
1


Một thực tế nữa đặt ra cho các nhà trường phổ thông và xã hội là: Do
không yêu thích môn lịch sử là rất ít. Học sinh và phụ huynh quan niệm môn


lịch sử là môn học phụ. Số lượng học sinh bị điểm thấp môn lịch sử trong các kì
thi tốt nghiệp và đại học lại rất nhiều. Thậm chí có nhiều câu chuyện cười ra
nước mắt sau mỗi kì thi, đó là nhiều bài thi các em tự bịa đặt lịch sử một cách vô
tư, hồn nhiên ... Tất cả những điều đó thực sự là nỗi trăn trở lớn cho những
người làm công tác giảng dạy bộ môn lịch sử.
Xuất phát từ những lý do khách quan, chủ quan trên, tôi mạnh dạn lựa
chọn đề tài: “Sử dụng các phương tiện dạy học nhằm nâng cao hiệu quả bài
học lịch sử ở trường trung học phổ thông”
1 . 2. Mục đích nghiên cứu.
Chọn để tài này tôi mong muốn được đóng góp kinh nghiệm cho những
người làm công tác giảng dạy lịch sử khi sử dụng đồ dùng trực quan để phát huy
tính tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh, nâng cao chất lượng
học tập bộ môn. Từ đó các em có tình cảm yêu mến thực sự đối với bộ môn lịch
sử, chủ động hơn trong việc tiếp nhận, lưu giữ những tri thức về lịch sử dân tộc.
Sau giờ học lịch sử, các em có hiểu sâu hơn về truyền thống quê hương
đất nước, về giá trị cuộc sống mà các em đang có. Từ đó, các em sẽ tự hào hơn
về quê hương, đất nước, có trách nhiệm giữ gìn, phát huy những thành quả mà
cha ông để lại.
1 . 3. Đối tượng nghiên cứu.
Học sinh lớp 10B, 11A, 12I trường THPT Hà Trung.
Sử dụng các phương tiện dạy học môn Lịch sử ở trường THPT Hà Trung.
1 . 4 Phương pháp nghiên cứu.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Các văn kiện chỉ thị của
Đảng, Nhà nước về đổi mới phương pháp dạy học, Luật giáo dục 2005 ...
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, dự giờ, trao đổi,
đàm thoại, điều tra ...

2



2.Nội dung của sáng kiến kinh nghiêm.
2.1. Cơ sở lý luận.
Luật giáo dục 2005 nêu rõ: “Nội dung giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản,
toàn diện, thiết bị giáo dục hiện đại và có hệ thống, coi trọng giáo dục tư tưởng
và ý thức công dân, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp bản sắc văn hóa
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phù hợp với sự phát triển tâm sinh
lý lứa tuổi của người học. Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tự giác,
tích cực chủ động ... bồi dưỡng cho học sinh khả năng tự học, khả năng thực
hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.”
Nhiệm vụ và chức năng của giáo viên lịch sử là cung cấp cho học sinh
những sự kiện lịch sử, các quan điểm lịch sử cơ bản, phương pháp học tập lịch
sử để phát huy tính tích cực, năng lực tự học, sáng tạo, rèn luyện quan điểm tư
tưởng, giáo dục đạo đức phẩm chất và phát triển tư duy, hành động của học sinh.
Nhưng do đặc trưng của môn học, các em không thể trực tiếp quan sát được quá
khứ, không trực tiếp quan sát sự kiện, hiện tượng lịch sử. Bởi vậy, cung cấp sự
kiện lịch sử, quan điểm lịch sử như thế nào để giờ học không khô cứng, học sinh
yêu thích, chủ động tiếp nhận tri thức lịch sử một cách tích cực.
Các phương tiện kĩ thuật minh họa đồ dùng trực quan, tranh ảnh góp
phần quan trọng trong việc tạo biểu tượng cho học sinh, là chỗ dựa để học sinh
có thể hình thành các khái niệm lịch sử, học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu kiến thức lịch
sử, từ đó nắm vững các quy luật của xã hội. Không chỉ vậy, nhờ vào việc quan
sát đồ dùng trực quan còn giúp học sinh phát triển kỹ năng quan sát, trí tưởng
tượng, khả năng tư duy và ngôn ngữ; học sinh có thể hình dung quá khứ diễn ra
như thế nào, từ đó rút ra nhận xét, diễn đạt bằng lời nói chính xác. Hoặc phim tư
liệu lịch sử sử dụng trong tiết dạy có hiệu quả cao. trước hết chúng phong phú
về nội dung, kết hợp chặt chẽ giữa hình ảnh lời nói với âm nhạc, tác động vào
giác quan của học sinh, cung cấp khối lượng thông tin lớn, hấp dẫn, không một
nguồn kiến thức nào sánh kịp. Hình ảnh, màu sắc, âm thanh tạo cho học sinh
3



biểu tượng sinh động về quá khứ, làm cho các em có cảm giác như đang sống
cùng với sự kiện. Điều này góp phần khắc phục việc “hiện đại hóa” lịch sử.
Việc sử dụng phim tư liệu lịch sử trong dạy học không phải để giải trí, minh
họ bài học mà chủ yếu bổ sung kiến thức, giúp học sinh hiểu sâu hơn bài học.
Sau khi xem phim cần tổ chức những cuộc trao đổi ngắn, làm bài taapjthu hoạch
nhỏ. Như vậy việc học tập lịch có kết quả theo yêu cầu giáo dục bộ môn, khác
hẳn việc xem phim tiểu thuyết lịch sử mang tính chất hư cấu, làm cho kiến thức
lịch sử cua học sinh dễ sai lệch, nhầm lẫn.
Tùy theo điều kiện cụ thể giáo viên sử dung các loại tài liệu minh họa và thiết
bị sử dụng để nâng cao hiệu quả bài giảng. Theo số liệu khoa học mà UNESCO
đã công bố thì khi nghe, học sinh chỉ nhớ 15% thông tin( nhiều kiến thức lại
không phải kiến thức cơ bản, chủ yếu); khi nhìn, các em ghi nhớ 25% thông tin
và việc nghe nhìn đem lại kết quả cao hơn: 65% thông tin. Những phương tiện
kỹ thuật giúp học sinh chú y, cảm xúc, tìm tòi, nhận thức, khái quát hóa, biết suy
nghĩ, kết hợp cảm xúc và nhận thức quá trình đào tạo”.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Hiện nay, hầu hết các trường THPT đều trang bị các thiết bị dạy học như
phòng nghe nhìn có máy chiếu, máy vi tính cho giáo viên trong công tác giảng
dạy. Giáo viên và học sinh cũng đã quen thuộc với các thiết bị dạy học. Tuy
nhiên, sử dụng công nghệ thông tin như thế nào cho có hiệu quả trong mỗi giờ
học lại là một vấn đề cần được quan tâm.
Qua thực tiễn giảng dạy tôi thấy rằng, có nhiều giáo viên đã sử dụng đồ
dùng trực quan trong các giờ dạy nhưng hiệu quả chưa cao, chẳng hạn như
chiếm quá nhiều thì giờ, làm loãng trọng tâm của bài, làm mất sự tập trung chú ý
của học sinh vào nội dung bài giảng hoặc quá sa đà vào khai thác tranh ảnh chân
dung của một nhân vật lịch sử hay diễn biến của một chiến dịch lịch sử hay một
đoạn video nào đó...
4



Một thực tế nữa là, mặc dù đồ dùng trực quan có vai trò rất quan trọng
trong các giờ học lịch sử nhưng hiện nay có rất nhiều đồ dùng không đảm bảo
để học sinh quan sát, ví dụ như quá bé hoặc mờ, kể cả những lược đồ to thì ở
cuối lớp các em nhìn cũng không rõ. Hoặc nhiều lược đồ diễn biến của một trận
đánh, một chiến dịch được sử dụng bằng phương tiện như máy chiếu nhưng lại
không có những hiệu ứng sinh động để học sinh quan sát ... Hoặc ở một số bài
học cần có những đoạn video minh họa cho học sinh để bài học thêm sinh động
và lý thú mà đồ dùng trực quan bằng giấy không thể đáp ứng hết được. Chỉ có
thể áp dụng các phương tiện kĩ thuật như máy tính, máy chiếu mới có thể đáp
ứng được những đòi hỏi đó.
Trong những năm gần đây, việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng
các phương dạy học trong nhà trường phổ thông đã rất phổ biến, song không
phải bài học nào thầy cô cũng áp dụng công nghệ thông tin, bài nào thầy cô cũng
soạn trên powerpoint được bởi vì thực tế có nhiều học sinh đã phản ánh rằng có
những tiết học, học ở phòng máy chiếu nhưng cả giờ chỉ nhìn và chép không
kịp. Học xong một tiết, các em không ghi được đầy đủ nội dung của một mục
nào trong bài. Nội dung của bài nào có thể phù hợp thì ta soạn trên powerpoint,
còn nếu không thì ta có thể dùng các phương pháp khác.
Chính vì vậy, ngay từ đầu năm học 2016 - 2017, tôi đã có suy nghĩ: Cần
phải trang bị một đĩa tư liệu lịch sử bao gồm các đồ dùng trực quan và các đoạn
video để phục vụ các bài học. Vừa dạy học sinh bằng phương pháp truyền thống,
vừa kết hợp sử dụng đồ dùng trực quan thông qua phương tiện kĩ thuật. Làm thế
nào để các em từ chỗ quan tâm đến yêu thích bộ môn lịch sử? Hay nói cách
khác, sử dụng các phương tiện dạy học như thế nào để giờ dạy lịch sử đạt hiệu
quả cao?
2. 3. Các giải pháp.

5



Các phương tiện học lịch sử ở trường phổ thông có nhiều loại. Trong
phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ đi sâu vào ba loại là tranh ảnh,
bản đồ trên phương tiện kĩ thuật (máy chiếu) và phim video.
2.3.1 Sử dụng tranh ảnh:
Thông thường, khi soạn giáo án, giáo viên sẽ biết được nội dung của tiết
học đó có những kênh hình nào để minh họa, giới thiệu cho học sinh. Tuy nhiên,
không phải bài nào cũng có tranh ảnh trong sách giáo khoa. Vậy thì, giáo viên
cần phải làm như thế nào để cho bài học thêm sinh động, lý thú? Theo tôi, giáo
viên nên có sự chuẩn bị như sau:
Thứ nhất: Sưu tầm tranh ảnh
Đối với những bài không có tranh ảnh trong sách giáo khoa hay đã có
tranh ảnh trong sách giáo khoa như tranh: Các nước đế quốc xâu xé cái bánh
ngọt Trung Quốc” (bài 3: Trung Quốc - Sách giáo khoa Lịch sử 11) hay tranh
Những người lính Nga ngoài mặt trận, tháng 1 - 1917 (bài 9: Cách mạng tháng
Mười Nga năm 1917 - Sách giáo khoa Lịch sử 11) ... thì giáo viên có thể tìm
kiếm các tranh ảnh này trên Internet hoặc các tư liệu lịch sử khác rồi lưu file để
phục vụ bài dạy hoặc sử dụng các đĩa tư liệu để giới thiệu cho học sinh.
Thứ hai: Thực hiện giờ dạy
Nếu như ở một tiết dạy học bình thường, nếu tiết học đó cần có tranh ảnh
thì giáo viên chuẩn bị trước rồi thực hiện giờ dạy, đến phần nào có liên quan đến
tranh ảnh thì giáo viên mới dùng để giới thiệu cho học sinh. Thực hiện như vậy
cũng được nhưng đôi khi học sinh không quan sát hết vì tranh có thể bé hoặc mờ
... gây mất hứng thú của học sinh, đôi khi vì nhiều lí do giáo viên không sử dụng
bất kì tranh nào mà chỉ dạy chay, thuyết trình cho học sinh một cách khô cứng
nhàm chán. Để khắc phục điều đó, tôi đã thử làm bằng cách: Cho học sinh sưu
tầm tranh ảnh ở nhà và các câu hỏi kèm theo để định hướng vào nội dung bài
học. Sau đó, khi thực hiện giờ dạy, đến phần mà tôi cho học sinh chuẩn bị thì
mời học sinh lên giới thiệu, cuối cùng giáo viên nhận xét, kết luận và có thể cho
6



học sinh xem tranh của giáo viên đã chuẩn bị nếu tranh của giáo viên rõ ràng và
sắc nét hơn tranh của học sinh.
Ví dụ: Bài 3: Trung Quốc - Lịch sử lớp 11
Trước khi dạy bài học này, giáo viên giao cho học sinh chuẩn bị ở nhà bức
tranh: Các nước đế quốc xâu xé cái bánh ngọt Trung Quốc với câu hỏi kèm
theo: Quan sát bức tranh đó, em cho biết:
- Tác giả bức tranh muốn nói điều gì?
- Các em rút ra được điều gì về lịch sử Trung Quốc cuối thế kỉ XIX được
thể hiện qua bức tranh?
Bài học này giáo viên có thể không dùng giáo án điện tử nhưng cho các
em học ở phòng nghe nhìn. Khi dạy đến nội dung có tranh ảnh minh họa thì giáo
viên cho học sinh lên trình bày trên máy chiếu và sử dụng máy chiếu.
Thực tế tiết học cho thấy các các em rất hào hứng vơi bức tranh trên màn
hình, tập trung lắng nghe phần giới thiệu bức tranh và nội dung liên quan đến
kiến thức cơ bản của bài. Khác hẳn với một tiết học chay, các em khó có thể
hình dung ra chân dung của nhân vật lịch sử đó là những ai thì ở tiết học này các
em tỏ ra ngạc nhiên, trầm trồ trước những thông tin về các nhân vật lịch sử trong
tranh và thái độ của từng người như thế nào mà trước đây các em chưa từng biết
đến, điều này tưởng như rất đơn giản nhưng thực sự đã thu hút các em. Qua
những biểu hiện về thái độ học tập đó của các em tôi có thể thấy một điều là rõ
ràng với tiết học này các em đã thực sự tâp trung và hào hứng, lớp học không
còn biểu hiện của sự mệt mỏi uể oải. Điều đó chứng tỏ, một tiết học có sử dùng
đồ dùng dạy học là tranh ảnh minh họa trên lớp đã khác hẳn với tiết học chay chỉ
có sự thuyết trình của giáo viên, nhưng nếu giáo viên để học sinh chủ động tìm
hiểu các thông tin về tranh ảnh đó ở nhà trên các câu hỏi gợi ý mà giáo viên đưa
ra rồi các em tự trình bày trước lớp bằng phương tiện day học như máy chiếu sẽ
khác hơn rất nhiều.
7



Tương tự như vậy ở bài 13: Nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới
(1918-1919). Khi dạy đến mục 2: Chính sách mới của Tổng thống Mĩ Ru-dơven, giáo viên có thể yêu cầu em học sinh được phân công chuẩn bị phần này ở
nhà, lên trình bày chính sách mới của Tổng thống Mĩ Ru-dơ-ven đồng thời có
minh họa bức tranh “Người khổng lồ tượng trưng cho nhà nước”. Về bức tranh
này giáo viên có thể định hướng để em khai thác như sau:
- Bức tranh trên nói lên điều gì?
- Tại sao Nhà nước lại phải can thiệp tích cực vào các ngành kinh tế?
Tác dụng của nó?
- Em có nhận xét gì về Chính sách mới của Ph. Ru-dơ-ven?
Khi em học sinh đó trình bày thì cả lớp chăm chú lắng nghe, quan sát.
Thậm chí có em vừa theo dõi bạn trình bày vừa để ý sách giáo khoa xem có
thiếu hoặc lệch với sách giáo khoa không...Chỉ với chi tiết nhỏ như vậy thôi
cũng đủ để tôi phấn chấn cả tiết dạy bởi lẽ các em đã thực sự nhập tâm với tiết
học. Sau khi học sinh trình bày, giáo viên gọi các học sinh khác bổ sung, góp ý.
Cuối cùng giáo viên nhận xét, kết luận nội dung trình bày.
Khi dạy bài 5 - Châu Phi và khu vực Mĩ La tinh (Lịch sử 12). Giáo viên
giao cho các em tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp của các nhân vật lịch sử N.
Manđêla và Phiđen Catxtơrô (1959) từ ở nhà. Khi dạy đến mục 1 của phần I và
mục 1 của phần II, giáo viên có thể gọi học sinh lên giới thiệu chân dung các
nhân vật lịch sử này. Tuy nhiên, giáo viên định hướng các em không nên miêu tả
hình dạng bên ngoài của nhân vật mà phải hướng dẫn học sinh phân tích nội
tâm, tài, đức, quan điểm thể hiện ở hành động của nhân vật. Chẳng hạn tranh
chân dung của Phiđen Catxtơrô ở mục 1- Vài nét khái quát về quá trình giành và
bảo vệ độc lập ở các nước Mĩ la tinh, đây là bức ảnh chụp chân dung người anh
hùng của đất nước CuBa, giáo viên gợi ý bằng một số câu hỏi :
- Nhìn vào diện mạo bên ngoài của Phiđen Catxtơrô, em thấy ông là một
người như thế nào?
8



- Ông có vai trò như thế nào đối với cách mạng CuBa?
- Vì sao Phiđen Catxtơrô được gọi là anh hùng giải phóng dân tộc của đất
nước CuBa?
Sau khi học sinh giới thiệu cả lớp tập trung chú ý lắng nghe và quan sát
bức tranh, giáo viên nhận xét kết luận. Cuối cùng giáo viên đặt câu hỏi để học
sinh nhận xét về vai trò của Phiđen Catxtơrô. Với phần giới thiệu chân dung của
anh hùng dân tộc của CuBa các em học sinh lớp 12 không chỉ biết ông có ngoại
hình như thế nào mà còn không khỏi trầm trồ ngưỡng mộ khi biết những thông
tin về công lao của ông trong thời kì đất nước khó khăn cũng như trong thời kì
đất nước hòa bình, cải cách và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hoặc khi dạy bài 14 - Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam, mục 1:
Quốc gia Văn Lang - Âu Lạc, giáo viên để học sinh giới thiệu tranh “Lưỡi cày
đồng” với định hướng:
- Kích thước và hình dạng như thế nào?
- Lưỡi cày đồng thời văn hóa Đông Sơn được tìm thấy ở đâu?
- So với cuốc đá thì lưỡi cày đồng có ưu điểm gì hơn?
- Việc chế tạo ra lưỡi cày đồng chưng tỏ điều gi?
Bằng việc quan sát bức tranh đó, học sinh vừa tưởng tượng được công cụ
lao động thời kì đó, vừa hiểu được rằng thời Đông Sơn công cụ lao động bằng
đồng thực sự là sự sáng tạo lớn của con người đương thời. Nó làm cho năng suất
lao động tăng lên tạo ra cuộc sống định cư lâu dài của con người ở vùng đồng
bằng, tạo ra những tiền đề cho một cuộc chuyển biến lớn về sau.
Bài 20- Lịch sử lớp 10. Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các
thế kỉ X-XV, mục II- y1- Giáo dục, giáo viên cho học sinh sưu tầm tranh: Bia
tiến sĩ trong Văn Miếu Quốc Tử Giám, các em giới thiệu về tranh với nội dung
giáo viên đã cho:
- Bia tiến sĩ được dựng nhằm mục đích gì? Việc dựng bia tiến sĩ nói lên
điều gì? ...

9


Sau khi học sinh miêu tả, trình bày, trao đổi, giáo viên chốt lại những nội
dung cơ bản và khẳng định những tấm bia Tiến sĩ trong quần thể di tích Văn
Miếu- Quốc Tử Giám là tài sản quy của quốc gia, thể hiện truyền thống hiếu
học, tôn vinh người hiền tài của dân tộc.
Đối với bài 14 - Phong trào cách mạng 1930- 1935 (Lịch sử 12), khi dạy
mục 2 - Xô viết Nghệ-Tĩnh, giáo viên cũng có thể cho học sinh tự khai thác và
giới thiệu về bức tranh “Đấu tranh trong phong trào Xô viết Nghệ- Tĩnh”, giáo
viên gợi ý để học sinh chuẩn bị ở nhà bằng một số câu hỏi gợi ý:
- Quan sát bức tranh, em thấy bức tranh phản ánh điều gì? Không khí
cách mạng ra sao?
- Tham gia phong trào đấu tranh đó là những ai?
Bằng việc quan sát bức tranh và trình bày những hiểu biết của mình về
bức tranh đó, hình ảnh anh hùng cách mạng của những người công nhân và nông
dân Nghệ Tĩnh, không khí cách mạng sục sôi như thế nào được khắc sâu trong
tâm trí các em....
Việc sử dụng tranh ảnh trong bài học như trên có tác dụng thu hút sự chú
ý của học sinh, khiến học sinh tập trung quan sát, nghe giảng, tao sự say mê
thích thú cho học sinh, giúp học sinh tích cực chủ động hơn trong giờ học. Tranh
ảnh có tác dụng làm cho bài giảng trở nên linh hoạt, sinh động mà không bị khô
cứng giúp học sinh hiểu sâu được kiến thức bài học.
2. 3. 2. Sử dụng bản đồ:
Tương tự như việc sử dụng tranh ảnh, tôi đã sử dụng bản đồ trong tiết học
lịch sử theo các bước như sau:
Thứ nhất: Chuẩn bị bản đồ
Tùy thuộc vào nội dung bài giảng có bản đồ hay không mà giáo viên cần
có sự chuẩn bị. Ví dụ như ở bài 18 (Sách giáo khoa Lịch sử 12), giáo viên cần
chuẩn bị lược đồ chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947, bản đồ chiến dịch

biên giới thu - đông năm 1950; ở bài 20 (Sách giáo khoa Lịch sử 12), cần chuẩn
10


bị lược đồ hình thái chiến trường trong đông - xuân 1953-1954, lược đồ diễn
biến chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), lược đồ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân 1975 ...
Để chuẩn bị cho việc dạy tốt, giáo viên cần lấy các lược đồ diễn biến các
chiến dịch đó trên các đĩa tư liệu lịch sử hoặc trên mạng Internet có độ chính xác
cao vào file riêng.
Thứ hai: Xử lý bản đồ
Sau khi đã tìm được bản đồ, giáo viên cần xử lý bản đồ như thế nào để
khai thác triệt để những ngôn ngữ của bản đồ, theo ý người dạy mà không làm
sai lệch tính khoa học, tính nguyên tắc của bản đồ giáo khoa mà lại thu hút được
sự chú ý của học sinh, lôi cuốn học sinh vào bài giảng.
Trước hết, giáo viên cần nghiên cứu kỹ các kí hiệu, các biểu tượng, đường
biên giới trên bản đồ; thứ hai nắm rõ diễn biến của một chiến dịch hay hình thái
chiến trường quân sự mà được thể hiện trên bản đồ. Để tạo được sự hấp dẫn và
để học sinh nắm được nội dung của diễn biến chiến dịch, giáo viên nên tạo ra
các hiệu ứng bằng những màu mũi tên, kí hiệu khác nhau trên lược đồ. Ví dụ: Ở
bài 20 (Sách giáo khoa Lịch sử 12), giáo viên có thể sử dụng Slide thứ nhất là
lược đồ hình thái chiến trường trong đông - xuân 1953 - 1954, các hiệu ứng sẽ
giúp học sinh thấy rõ các địa bàn phân tán lực lượng của địch. Đồng thời giáo
viên có thể kết hợp ghi lời nói diễn biến luôn trên Slide đó. Điều này khiến học
sinh bị lôi cuốn, chú ý vì lược đồ vừa thể hiện hình ảnh, vừa có lời nói minh họa.
Slide thứ hai, giáo viên chuẩn bị luôn lược đồ diễn biến chiến dịch Điện Biên
Phủ (1954). Ở chiến dịch này, giáo viên cũng sử dụng kĩ thuật tương tự như ở
Slide 1 về diễn biến chiến dịch.
Thứ ba: Thực hiện giờ dạy
Thông thường, ở bài dạy khi sử dụng đến bản đồ, giáo viên trình bày diễn

biến sự kiện như mọi khi, chỉ khác là nói đến đâu giáo viên phải dính ngay biểu
tượng đó lên bản đồ, mọi việc như đang diễn ra ngay trước mắt học sinh. Nhưng
11


ở đây tôi muốn lấy ví dụ ở một bài học mà ta không soạn bằng giáo án điện tử
mà vẫn cho học sinh học ở phòng nghe - nhìn. Ta vẫn dạy bình thường, khi nào
đến mục có bản đồ thì ta mới chiếu lên màn hình để học sinh quan sát như tôi đã
nói ở phần đầu. Trong khuôn khổ đó, tôi ví dụ dạy bài 20 - Cuộc kháng chiến
toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 - 1954) (Sách giáo khoa Lịch sử
12).
Chương trình Lịch sử 12 rất quan trọng vì nhiều năm phục vụ thi tốt nghiệp. Vì
vậy, đòi hỏi giáo viên phải làm thế nào đó để truyền đạt kiến thức để học sinh dễ
hiểu, dễ nhớ, không gây ra áp lực đối với học sinh. Đối với bài 20 là bài hay và
cũng rất quan trọng trong chương trình lịch sử lớp 12. Đối với mục 1 - Cuộc tiến
công chiến lược Đông - Xuân (1953 - 1954) thuộc mục II - Cuộc tiến công chiến
lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ. Giáo viên có thể
cho các em chủ động chuẩn bị trước ở nhà về lược đồ Chiến cuộc đôngxuân1953- 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ bằng các câu hỏi gợi ý:
- Chiến lược của ta trong đông - xuân 1953 - 1954 là gì?
- Thực hiện quyết định của Bộ chính trị, trong đông xuân 1953 - 1954,
quân ta đã mở các chiến dịch tấn công địch như thế nào?
- Kết quả, ý nghĩa của chiến cuộc đông - xuân 1953 - 1954?
Khi dạy đến mục 1 cô mời một học sinh lên trình bày phần mà cô đã cho
chuẩn bị, các bạn khác có thể góp ý, bổ sung. Sau đó, giáo viên cho học sinh
quan sát trên màn hình diễn biến của chiến cuộc đông - xuân 1953 - 1954.
Đối với mục 2 - Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)
Giáo viên dựa vào lược đồ để trình bày vị trí địa lí của Điện Biên Phủ,
cách bố trí lực lượng của địch. Tiếp đó, giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét về
lực lượng địch ở Điện Biên Phủ và chốt lại: Đây là một tập đoàn cứ điểm mạnh,
lực lượng quân địch đông, trang bị vũ khí hiện đại, công sự và cách bố phòng rất

kiên cố. Vì vậy, địch coi Điện Biên Phủ là “con nhím khổng lồ”, là “một pháo
đài bất khả xâm phạm”.
12


Về diễn biến chiến dịch, giáo viên yêu cầu học sinh vừa theo dõi sách
giáo khoa, vừa quan sát lược đồ và gợi mở:
Đợt 1: Ta tấn công vào đâu, kết quả ra sao? Đợt 2: Quân ta tiến công
tiêu diệt căn cứ nào? Đợt 3: Quân ta tấn công vào đâu, kết quả ra sao?
Sau khi học sinh trao đổi, phát biểu ý kiến, giáo viên cho học sinh xem
Slide mà giáo viên đã chuẩn bị trên màn hình.
Cuối cùng, giáo viên có thể yêu cầu học sinh nói lên những suy nghĩ của
bản thân về cuộc chiến đấu của ta ở Điện Biên Phủ (tính chất gay go, ác liệt, tinh
thần chiến đấu của quân ta ...)
Một ví dụ khác nữa khi sử dụng bản đồ trong bài dạy lịch sử lớp 12 như ở
bài 18 - Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
(1946-1950). Giáo viên sử dụng lược đồ chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947
(mục 1 của phần III) và lược đồ chiến dịch Biên giới thu- đông 1950 (mục 2 của
phần IV).
Đối với việc sử dung lược đồ chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947 ở
mục 1, trước tiên giáo viên giới thiệu cho học sinh quan sát lược đồ và chỉ rõ các
kí hiệu thể hiện trên lược đồ để học sinh nắm rõ. Khi giới thiệu khái quát lược
đồ giáo viên trình bày âm mưu, kế hoạch của địch và quân dân ta chiến đấu bảo
vệ căn cứ địa Việt Bắc như thế nào bằng các câu hỏi gợi mở:
Tại Bắc Cạn ta đã đánh địch như thế nào? Trên đường số 4, ta giành
thắng lợi lớn ở đâu? Trên Sông Lô, quân ta đã chiến thắng như thế nào? Hai
gọng kìm đông, tây của địch có khép lại được không?
Sau khi học sinh trao đổi và phát biểu ý kiến, giáo viên lược thuật diễn
biến chính của chiến dịch trên lược đồ.
Đối với chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950 giáo viên cũng giới thiệu

khái quát lược đồ (kí hiệu, hệ thống phòng ngự của địch, âm mưu của chúng…) rồi
hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ và gợi mở để học sinh nhận xét:
- Tại sao mở màn chiến dịch ta lại tấn công vị trí Đông Khê đầu tiên?
13


- Khi bị ta tấn công, địch rơi vào tình trạng bị động và có âm mưu như thế nào?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên dựa vào lược đồ tường thuật diễn biến
chiến dịch. Lược thuật song, giáo viên có thể yêu cầu một học sinh lên tường
thuật lại để cả lớp cùng theo dõi.
Việc sử dụng bản đồ bằng phương tiện như trên đã có tác dụng thu hút sự
chú ý của học sinh, là điều kiện phát huy tính tích cực chủ động của học sinh.
Đó là yếu tố cần có, còn hệ thống câu hỏi khéo léo của giáo viên đã kích thích,
tạo nhu cầu được nói ra những hiểu biết của bản thân học sinh cho cô giáo và
các bạn nghe làm được điều đó giờ học mới đạt yêu cầu. Bản đồ thực sự là một
công cụ thiết thực để khai thác bài giảng. Nếu không có bản đồ, học sinh không
chú ý, chưa thích nghe giảng và tham gia bài giảng. Nếu không hệ thống câu
hỏi, bản đồ chỉ còn có vai trò minh họa.
2. 3. 3. Sử dụng phim video:
Phim video có nội dung lịch sử là những phương tiện trong dạy học lịch
sử có hiệu quả cao. Trước hết chúng phong phú về nội dung, kết hợp chặt chẽ
giữa hình ảnh, lời nói với âm nhạc, tác động vào các giác quan của học sinh,
cung cấp một khối lượng thông tin lớn, hấp dẫn, không một nguồn kiến thức nào
sánh kịp. Hình ảnh, màu sắc, âm thanh tạo cho học sinh biểu tượng sinh động về
quá khứ, làm cho các em có cảm giác như đang sống cùng với sự kiện. Điều này
góp phần chống việc hiện đại hóa lịch sử. Tuy nhiên không phải bài học nào
giáo viên cũng có thể sử dụng phương tiện dạy học này, cũng không thể sử dụng
một cách tùy tiện không phù hợp với nội dung và thời gian của tiết học. Theo tôi
nên có sự chuẩn bị như sau:
Thứ nhất: Chuẩn bị các đoạn video tư liệu

Trải qua quá trình dạy học trên lớp, giáo viên sẽ biết được bài nào cần
thiết sử dụng phương tiện dạy học này. Giáo viên có thể tìm kiếm tư liệu phim
lịch sử trên internet hoặc các đĩa tư liệu dạy học lịch sử do nhà xuất bản giáo dục
14


phát hàn phát hành đảm bảo tính chính xác và khoa học. Sau đó giáo viên lưu
file, xắp xếp thêo bài học, khối học cho phù hợp để phục vụ nội dung giảng dạy.
Thứ hai: Sử dụng các đoạn video vào tiết học cụ thể
Ví dụ: Khi dạy bài 20(Lich sử 10)- Xây dựng và phát triển văn hóa dân
tộc trong các thế kỉ X- XV mục 3- nghệ thuật giáo viên có thể giới thiệu nghệ
thuật múa rối nước để các em thấy được đây là nghệ thuật đặc sắc của dân tộc,
làm phong phú cho kho tàng nghệ thuật dân gian Việt Nam.
Bài 9(Lịch sử 11) Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và cuộc đấu
tranh bảo vệ cách mạng( 1917- 1921), mục 2- từ cách mạng tháng Hai đến Cách
mạng tháng Mười, giáo viên giúp các em tìm hiểu cách mạng tháng Hai đã thực
hiện những nhiệm vụ gì và diễn biến Cách mạng tháng Mười. Sau khi các em
trình bày, giáo viên nhận xét kết luận và có thể cho các em xem đoạn video của
2 cuộc cách mạng để các em có thể hình dung diễn biến cách mạng những ngày
Mười ở nước Nga vĩ đại như thế nào.
Baì 16- Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng
Tám( 1939- 1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. khi dạy mục 3Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu
hoàn cảnh lịch sử và diễn biến Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 giáo viên
cho các em xem doạn video về khí thế hào hùng những ngày khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945. Nếu các em chỉ nắm những sự kiên mà sách giáo khoa thông
báo, có lẽ các em sẽ không thể khắc sâu được khí thế sôi sục, diễn biến nhanh
nhẹn và ít đổ máu, không thấy được thắng lợi bước ngoặt lớn trong lịch sử dân
tộc...
Khi dạy bài 17 - Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945
đến trước ngày 19-12-1946 (Lịch sử 12), mục 2 và 3 - Giải quyết nạn đói và nạn

dốt của chính quyền sau Cách mạng tháng Tám 1945, giáo viên có thể cho học
sinh xem một đoạn video ngắn để các các em có thể hình dung được trong thời
điểm đó chính quyền cách mạng vừa thành lập đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
15


Minh đã có những biện pháp giải quyết sáng suốt như thế nào và nhân dân cả
nước tích cực hưởng ứng ra sao?
Hay khi dạy mục 2 - Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 (Bài 23 Lịch sử 12), về diễn biến của 3 chiến dịch, giáo viên nên để các em chủ động
nghiên cứu và lược thuật ngắn gọn trên lược đồ dưới sự hướng dẫn của cô. Học
sinh trình bày xong giáo viên có thể cho các em xem đoạn video về trận Buôn
Ma Thuột, chiến dịch Đà Nẵng và trận phía đông của chiến dịch Hồ Chí Minh.
Với việc xem những đoạn phim ngắn này, các em như được sống trong những
ngày tháng oanh liệt hào hùng của dân tộc ta, thấy được sự lãnh đạo tài tình của
Đảng, sự mưu trí, dũng cảm của bộ đội ta, tinh thần đoàn kết quyết thắng của cả
dân tộc...
Cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi bằng chiến thắng của cuộc
tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 - thắng lợi đó “mãi mãi được ghi vào lịch
sử dân tộc ta một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về
sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào
lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm
quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. Nhưng nếu như học sinh
không được xem một đoạn phim tư liệu về chiến thắng Xuân năm 1975, dù chỉ
ngắn như tôi giới thiệu thôi, có lẽ học sinh không thể thấy hết ý nghĩa của câu
nói trên.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Kết quả mà tôi cho là cao nhất khi thực hiện đề tài này chính là thái độ
học tập của các em học sinh đối với bộ môn lịch sử.
Các em đã chăm chú hào hứng lắng nghe tiến trình bài giảng, tiếp nhận hệ
thống câu hỏi của cô giáo một cách thích thú, chủ động giải quyết vấn đề, thậm

chí còn tỏ thái độ phản ứng với một số tác động từ bên ngoài làm ảnh hưởng đến
giờ học, tỏ thái độ trầm trồ thán phục trước nhưng thông tin lịch sử từ bài học,
có thái độ mong muốn được trình bày vấn đề giáo viên đưa ra. Thậm chí là
16


những em học khối A lúc đầu không quan tâm để ý đến môn lịch sử nhưng dần
dần không còn thờ ơ với môn học, các em đã quan tâm, thích thú, hào hứng mỗi
khi đến giờ học lịch sử của cô giáo.
Một điều đặc biệt nữa là để chuẩn bị nội dung cho tiết học sau, khi phân
công nội dung để các tổ chuẩn bị thì các em cực kì hào hứng, tranh giành nhau
được chuẩn bị và trình bày kể cả các em học sinh lớp 12 vì ít nhiều các em đã
yêu thích học tập môn học này.
Qua những kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan vào bài giảng như tôi
vừa trình bày ở trên, tôi thấy rõ ràng hiệu quả bài giảng của tôi bây giờ so với tôi
của 6 năm về trước. Cùng một bài giảng đó (ví dụ như bài 20 - Cuộc kháng
chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc 1953- 1954) nhưng trước đây với
tôi - vai trò là người giảng dạy trước khi lên lớp tôi thực sự áp lực, rất lo lắng,
không biết mình phải làm như thế nào để học sinh vừa thích thú vừa dễ nắm
được bài? Vì đơn giản, thứ nhất là tôi chưa có nhiều kinh nghiệm, thứ hai là
trường mà tôi giảng dạy lại rất khó khăn về đồ dùng dạy học cho giáo viên mà
thực tế là không có, thứ ba nữa là đối tượng học sinh dân lập hạn chế rất nhiều
nhận thức cũng như ý thức... Vì vậy bài học trở nên nặng nề, học sinh mệt mỏi.
Nhưng trải qua một quá trình giảng dạy, đặc biệt là về môi trường làm
việc mới có nhiều điều kiện thuận lợi như trường THPT Hà Trung, được học hỏi
kinh nghiệm từ đồng nghiệp, sự ủng hộ của học sinh, tôi đã tìm tòi rồi vận dụng
vào bài học cụ thể (bài 18, 20) như phẩn trên tôi đã trình bày. Sau tiết học, một
em học sinh học khối A ở lớp 12I đã bộc bạch luôn “ Em thực sự thích thú với
những tiết học như thế này. Chúng em được chủ động trình bày kiến thức, sự
hiểu biết của mình, tiết học trôi qua thật nhanh, không nặng nề mà có thể nhớ

bài ngay trên lớp ạ”...
Kết quả cụ thể của việc sử dụng đồ dùng trực quan để đạt hiệu quả cao
trong giờ lịch sử ở trường phổ thông đó chính là tỉ lệ học sinh giỏi, khá tăng lên ,
số học sinh trung bình giảm xuống, không có học sinh yếu kém.
17


Kết quả cụ thể:
* Lớp 12I (lớp ban A trong khối)
Giỏi

Khá

Trung bình Yếu - Kém

Sĩ số

SL

%

SL

%

43

18

41.86


20

46.51

SL
5

%
11.63

SL

%

Không

* Lớp 11A(lớp ban A trong khối)
Giỏi

Khá

Trung bình Yếu - Kém

Sĩ số

SL

%


SL

%

45

17

40.50

20

47.60

SL
5

%
11.90

SL

%

Không

* Lớp 10B(lớp ban A trong khối)
Giỏi
Sĩ số


SL

45

20

Khá
%

44.4

SL
20

Trung bình Yếu - Kém
%

44.4

SL
5

%
11.2

SL

%

Không


3.1. Kết luận
Do đặc điểm của việc học tập môn lịch sử - không trực tiếp quan sát các
sự kiện - nên phương pháp trực quan có ý nghĩa quan trọng. Có nhiều loại đồ
dùng trực quan khác nhau, cách sử dụng và hiệu quả cũng khác nhau, song đều
có tác dụng nâng cao chất lượng dạy học lịch sử.
Trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học,
nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ sở
trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa sự vật.
Trong dạy học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo
biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại
hóa lịch sử của học sinh.
3. 2. Kiến nghị.
18


Đồ dùng trực quan còn có vai trò rất lớn trong việc nhớ kĩ, hiểu sâu những
hình ảnh chúng ta thu nhận bằng trực quan. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững
chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh mà chúng ta thu nhận đươc bằng trực
quan.
Bên cạnh đó, đồ dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí
tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Nhìn vào bất cứ loại đồ dùng
trực quan nào, học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán, hình dung quá khứ lịch
sử được phản ánh, minh họa như thế nào. Các em suy nghĩ và tìm cách diễn đạt
bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua.
Đồ dùng trực quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây
hứng thú học tập cho học sinh. Nó là chiếc “cầu nối” giữa quá khứ với hiện tại.
Đồ dùng trực quan có một vị trí, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong dạy lịch sử
như vậy, nhưng làm thế nào để nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng đồ dùng
trực quan trong mỗi tiết học thì không phải giáo viên nào cũng làm được và

không phải tiết học nào cũng làm được. Tôi nghĩ mỗi giáo viên cần phải nghiên
cứu, tìm tòi, sáng tạo trong mỗi tiết dạy. Đặc biệt, hiện nay với sự phát triển
mạnh mẽ của công nghệ thông tin, thì việc giảng dạy ở bộ môn lịch sử có nhiều
thuận lợi, không những soạn giáo án điện tử ở những bài có nội dung phù hợp,
còn những bài không cần thiết soạn trên powerpoint thì chúng ta kết hợp dạy
truyền thống vừa giới thiệu tranh ảnh hay một đoạn video hoặc diễn biến của
một trận đánh, một chiến dịch trên lược đồ mà có sử dụng máy chiếu. Hay nói
cách khác là sử dụng đồ dùng dạy học bằng phương tiện kĩ thuật. Quan trọng
hơn nữa là ở những tiết học đó, giáo viên nên để học sinh chủ động tìm kiếm
thông tin ở nhà về một số nội dung liên quan đến đồ dùng trực quan mà tôi đã
nói ở trên có sự hướng dẫn của giáo viên. Sau đó, các em chủ động trình bày
phần chuẩn bị đó trên lớp, có sự nhận xét, góp ý của các bạn và cô giáo.
Mỗi người giáo viên có một khả năng, phương pháp riêng trong giảng
dạy. Tuy nhiên với đối tượng học sinh trường THPT Hà Trung, tôi thấy cách sử
19


dụng phương tiện kỹ thuật trình chiếu ba loại đồ dùng trực quan cơ bản nói trên
đã thực sự giúp các em có hứng thú với bộ môn lịch sử. Từ đó, các em phát huy
sự sáng tạo và rèn các kỹ năng thực hành khác. Bởi vậy, bài học lịch sử sẽ thấm
vào các em một cách nhẹ nhàng, sâu sắc.
Trên đây là kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi trong giảng dạy. Thấy các
em có hứng thú, hào hứng với môn học, tôi mong muốn việc giảng dạy lịch sử
ngày càng tốt hơn. Những ý kiến chủ quan và còn hạn chế, thiếu sót nhưng tôi
mạnh dạn trình bày và mong nhận được sự góp ý chân thành từ các đồng nghiệp
để đạt mục đích cuối cùng. Đó là nâng cao chất lượng học tập của học sinh và
tinh hoa bản săc văn hóa dân tộc được lưu giữ và truyền lại cho các thế hệ sau.

Tài liệu tham khảo
1 - Phương pháp dạy học lịch sử Tập 1 - 2 GS.TS Phạn Ngọc Liên

PGS.TS Trịnh Đình TùngPGS.TS Nguyễn Thị Côi. NXB Giáo dục, xuất bản
năm 2001
20


2 - Sách giáo khoa Lịch sử Việt Nam lớp 10-11 - 12. Phan Ngọc Liên, Vũ
Dương Ninh , Trần Bá Đệ, Vũ Ngọc Anh, NXB Giáo dục, Xuất bản năm 2002
3- Câu hỏi trắc nghiệm và nâng cao Lịch sử lớp 10 - 11 - 12.Tác giả:
Phạm Văn Hà,Nguyễn Thanh Lường, Đoàn Kiều Oanh. NXB Giáo dục, xuất
bản năm 2011
4 - Hướng dẫn dạy một số chuyên đề về lịch sử văn hóa Thăng Long Hà
Nội (sách giáo viên). Tác giả: Phạm Văn Hà (Chủ biên)Hoàng Đăng Định
- Nguyễn Đình HuyNguyễn Lân Thắng - Đoàn Kiều Oanh. NXB Giáo
dục, xuất bản năm 2014.
5 - Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử THPT
(Phần Lịch sử Việt Nam).Tác giả: Nguyễn Thị Côi (Chủ biên).Nguyễn
Thị Thế Bình - Bùi Tuyết Hương. NXB Giáo dục, xuất bản năm 2012.
6 - Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử THPT
(Phần Lịch sử thế giới).Tác giả: Trịnh Đình Tùng (Chủ biên). Nguyễn
Mạnh Hưởng - Nguyễn Văn Ninh, xuất bản năm 2012.

21


Mục lục
1. Mở đầu
11. Lý do chọn đề tài...............................................................................................
1
1.2. Mục đích lựa chọn đề tài..................................................................................
2

1.3. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................
2
1.4. Đối tượng khảo sát thực nghiệm......................................................................
2
1.5. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................
2
1.6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu......................................................................
2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận.....................................................................................................
4
2.2. Cơ sở thực tiễn..................................................................................................
5
2.3. Các giải pháp....................................................................................................
7
a. Sử dụng tranh ảnh................................................................................................
7
b. Sử dụng bản đồ....................................................................................................
11
c. Sử dụng phim video.............................................................................................
15

22


2.4. Hiệu quả ...........................................................................................................
18
3. Kết luận, kiến nghị…………………………………………………………
3.1 Kết luận……………………………………………………………………
3.2 Kiến nghị…………………………………………………………………..


23



×