Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Ngữ Văn "Tóm Tắt Toàn Bộ Tác phẩm Lớp 11"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.51 KB, 6 trang )

Vào Phủ Chúa Trịnh - Lê Hữu Trác
Sáng sớm tinh mơ ngày 1/2 có thánh chỉ triệu tôi vào phủ chầu. Mũ áo chỉnh tề, tôi vào phủ
trên một cái cáng chạy như ngựa lồng. Theo cửa sau vào phủ, đâu đâu tôi cũng thấy cây cối
um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm... Tôi vốn con quan không lạ với chốn phồn
hoa, nhưng bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người
thường. Qua mấy lần cửa, qua dãy hành lang phía tây, tôi tới một ngôi nhà thật lớn gọi là
phòng trà ( thuốc ). Đồ đạc trong phòng đều sơn son thếp vàng, đều là những đồ nhân gian
chưa từng thấy. Do thánh thượng còn đang ngự trong phòng thuốc cùng các phi tần nên tôi
chưa thể yết kiến Đông cung mà được mời sang ăn sáng bằng mâm vàng chén bạc, đồ ăn
toàn là của ngon vật lạ. Tôi bây giờ mới biết phong vị của nhà đại gia. Ăn xong tôi sang bắt
mạch cho Đông cung.Tôi thấy vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc
quá ấm nên phủ tạng yếu đi, vả lại bệnh đã lâu...Sau một hồi phân phân suy nghĩ : Sợi bị
danh lợi ràng buộc không về núi được, nhưng cũng lại nghĩ đến việc chịu ơn nước, cuối
cùng tôi đã quyết định kê đơn theo đúng bệnh. Sau đó tôi từ giã lên cáng về kinh Trung Kiên
để chờ thánh chỉ. Bạn bè trong kinh đều đến thăm hỏi

Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc - Nguyễn
Đình Chiểu
Bài 1
"Văn tế nghĩa sĩ cần giuộc" là văn tế viết theo thể phú đường luật để tóm tắt cần đọc kĩ để
hiểu nội dung. Đây là các ý tóm tắt nội dung của bài :
- Kẻ thù vũ khí tối tân, hiện đại còn người dân chỉ có lòng yêu nước
- Mười năm vỡ ruộng ko ai biết đến một trận đánh tây tiếng vang như mõ-Xa với việc
binh đao nhưng khi giặc pháp chiếm trở thành người nghĩa sĩ
- Ban đầu lo sợ, căm ghét giặc nhưng chỉ biết chờ đợi triều đình
- Nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình đối với đất nước-Anh dũng đứng dậy đấu
tranh
- Nỗi tiếc thương vô hạn ko chỉ của lòng người mà còn của cỏ cây hoa lá đối với
người nghĩa sĩ
- Niềm cảm phục trước quan niệm cao đẹp" sống vinh còn hơn chết nhục"
- Ca ngợi khẳng định sự bất tử của người nghĩa sĩ trong lòng dân.


Bài 2
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ công ơn của
những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào
Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14-12, nghĩa quân
tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại
thất bại. Bài văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song chính là những
tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những người đã xả thân vì nghĩa lớn. Văn tế
(ngày nay gọi là điếu văn) là thể văn thường dùng để đọc khi tế, cúng người chết, nó có
hình thức tế-tưởng. Bài văn tế thường có các phần: Lung khởi (cảm tưởng khái quát về
người chết); Thích thực(hồi tưởng công đức của người chết); Ai vãn (than tiếc người chết);
Kết (nêu lên ý nghĩa và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết). Bài Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc có kết cấu đủ bốn phần như vậy.Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên
trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân
tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ-người nông dân nghĩa sĩ chống giặc,
cứu nước. Đó là những con người vốn hiền lành chất phác chỉ quen với chuyện “ruộng trâu


ở trong làng bộ” nhưng khi đất nước đứng trước nạn ngoại xâm họ đã dám đứng lên chống
lại kẻ thù mạnh hơn họ rất nhiều.

Chiếu Cầu Hiền - Ngô Thị Nhậm
Ngô Thì Nhậm (1746 –1803), hiệu là Hi Doãn, quê ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai,
tỉnh Hà Đông (cũ), nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông đỗ tiến sĩ năm 1775, từng làm
quan dưới triều Lê –Trịnh; sau đi theo Tây Sơn và có nhiều đóng góp nên được Quang
Trung trọng dụng. Nhiều văn kiện giấy tờ quan trọng của nhà Tây Sơn đều do ông biên
soạn. Vâng lệnh vua Quang Trung, ông đã viết bài Chiếu cầu hiền. Đây là một văn kiện
quan trọng thể hiện chủ trương đúng đắn của nhà Tây Sơn nhằm động viên tầng lớp trí thức
Bắc Hà tham gia xây dựng đất nước; đồng thời phản ánh tầm nhìn xa trông rộng và tấm
lòng vì dân, vì nước của Quang Trung Nguyễn Huệ.
"Chiếu cầu hiền" được viết vào khoản năm 1788-1789 khi tập đoàn Lê –Trịnh hoàn toàn

tan rã.
"Chiếu cầu hiền" nhằm thuyết phục trí thức Bắc Hà hiểu đúng nhiệm vụ xây dựng đất
nước mà Tây Sơn đang tiến hành để cộng tác phục vụ triều đại mới.
Thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong việc cầu hiền tài phục vụ sự
nghiệp đất nước.
“Chiếu cầu hiền” là một tác phẩm nghị luận chính trị-xã hội độc đáo, có ý nghĩa chính trị,
có sức lay động chí, chuyển tâm ý của hiền tài trong thiên hạ; có đóng góp đáng kể trong
quá trình thuyết phục, sử dụng người hiền tài góp sức lực, trí tuệ để bảo vệ và xây dựng đất
nước thời vua Quang Trung.
Sức thuyết phục của nó đã vượt ra khỏi giới hạn của một thời đại lịch sử. Hôm nay, trong
thế nước “rồng bay”, của 1000 năm Thăng Long –Hà Nội, “Chiếu cầu hiền” còn mang giá trị
văn hoá –giáo dục của mọi thời đại.
Nó trở thành kim chỉ nam trong nghệ thuật thu phục, sử dụng, dùng những biện pháp thiết
thực để hiền tài sớm chung tay gánh vác việc nước cùng các nhà lãnh đạo.

Hai Đứa Trẻ - Thạch Lam
Chị em Liên và An là hai đứa trẻ được mẹ giao trông coi một cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu tại
một phố huyện nghèo bên cạnh ga xe lửa, để giúp gia đình vốn đã lao đao: cha mất việc, cả
nhà phải bỏ Hà Nội chuyển về sinh sống ở quê. Cũng như nhiều người dân lam lũ tại phố
huyện, hai chị em Liên, An vừa bán hàng vừa trông chờ chuyến tàu đêm từ Hà Nội về, ầm
ầm lăn bánh qua phố huyện rồi khuất dạng, im tiếng trong trời đêm sâu thẳm. Lúc đó người
buôn bán ở phố huyện mới dọn hàng sau một tối ế ẩm để trở về nhà. Còn hai đứa trẻ dần
dần chìm vào giấc ngủ yên tĩnh.

Chữ Người Tử Tù - Nguyễn Tuân
Chữ người tử tù kể về nhân vật Huấn Cao, ông là một tử tù do chống lại triều đình nên bị
bắt. Huấn Cao là một nhà nho tài hoa nhất là tài viết chữ.
Trước khi ông bị xử bắn, ông được giải đến nhà ngục nơi có viên quan ngục và thầy thơ, hai
người này rất yêu và mến mộ cái đẹp và hâm mộ tài viết chữ tuyệt vời của Huấn Cao. Vì
thế, trong những ngày Huấn Cao ở ngục, hai người này đối đãi với ông rất tốt, còn trịnh

trọng hầu hạ như kẻ dưới nhưng Huấn Cao không hề màng tới. Khi viên quản ngục có được
tin ngày xử tử Huấn Cao, ông và thầy thơ quyết hoàn thành tâm nguyện là xin chữ của


Huấn Cao. Trước thái độ chân thành và tình yêu với cái đẹp, Huấn Cao vô cùng cảm mến
những tấm lòng đó nên đã quyết định cho chữ.
Một chuyện trước đây chưa hề có đã diễn ra vào buổi tối trước ngày Huấn Cao bị xử tử, tại
nhà lao tỉnh Sơn đó là cảnh ba con người chụm đầu, một người là tử tù đang mang trong
mình đầy xiềng xích, nhưng lại đang vẽ ra, phóng ra từng nét chữ trên tấm lụa trắng, bên
cạnh là hai cái đầu đang dõi theo, run rẩy, khúm núm chờ đợi của viên quản ngục và thầy
thơ.
Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục và thầy thơ nên tìm một nơi thôn dã để giữ gìn tấm
lòng thanh cao, yêu cái đẹp. Vì tình yêu đó không phù hợp với cuộc sống nơi tù ngục, một
nơi đầy hỗn loạn và rối ren. Viên quản ngục vô cùng cảm động vì lời khuyên đó, ông đã cúi
đầu lạy tạ Huấn Cao với sự biết ơn và trân trọng.

Hạnh Phúc Của Một Tang Gia - Vũ Trọng
Phụng
Hạnh phúc của một tang gia xoay quanh câu chuyện của một người chết là cụ Cố Hồng, từ
khi cụ ngấp ngoái chết đến khi chết thật. Chuyện nhặng xị bắt đầu cũng xảy ra từ khi ông cụ
mất và câu chuyện cũng chỉ có ý nghĩa từ giây phút này. Cụ chết để lại cho con cháu cơ hội
để khoe mẽ với thiên hạ những nghịch lý của "thế hệ con cháu" hiếu thảo bằng những bộ
trang phục âu hóa nửa tây nửa ta lẫn những trò "Mèo mả gà đồng" của dâu con lẫn người
xung quanh. Cái đám ma to tát cụ cố Hồng là một cuộc diễu hành của buổi lễ hội di động
bằng mọi trò hề của tầng lớp trung thượng lưu. Qua đoạn trích, tác giả đã phơi bày những
trò nhố nhăng, phi đạo đức lẫn truyền thống của những kẻ sống núp dưới gót giầy thực dân
xâm lược, là bức tranh toàn cảnh của xã hội đương thời đầy thối nát lúc ấy!.

Chí Phèo - Nam Cao
Tác phẩm Chí Phèo kể về nhân vật Chí Phèo, hắn vốn là một đứa trẻ bị bỏ hoang trong một

lò gạch cũ và được nhặt về nuôi. Khi lớn lên Chí Phèo đi ở hết nhà này nhà khác để nuôi
thân. Đến năm Phèo 20 tuổi, hắn là canh điền cho nhà Bá Kiến, và tấm bi kịch cuộc đời hắn
từ diễn ra từ đây. Vì bị Bá Kiến ghen nên hắn bị giải lên huyện và bị bắt bỏ tù.
Hắn ở tù bày tám năm, sau khi trở về, hắn xuất hiện với bộ dạng khác hẳn ngày xưa, với
nhiều hình xăm trên mình. Hắn lúc nào cũng say và cứ say là hắn lại đến nhà Lí Kiến để
chửi bới, rạch mặt ăn vạ. Và Bá Kiến đã biến Chí Phèo thành kẻ tay sai chuyên đâm thuê
chém mướn cho Bá Kiến. Trong tình trạng luôn say mèm, ai cho tiền sai gì hắn cũng làm,
hắn trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại luôn làm những trò tác quái phá làng, phá
xóm, khiến người dân ai ai cũng khiếp sợ.
Cuộc đời hắn không lúc nào tỉnh và một đêm trăng, Phèo say nằm ngủ thì gặp Thị Nở. Đêm
đó, họ ăn nằm với nhau. Phèo nửa đêm đau bụng, nôn mửa, sáng hôm sau, Thị cho hắn
một bát cháo hành. Cũng từ đó hắn khao khát trở về cuộc sống lương thiện và được sống
cùng Thị Nở. Nhưng một lần nữa hắn bị đạp xuống vực vì bà cô của Thị không đồng ý.
Phèo tuyệt vọng, lại uống và lại xách dao ra đi, vừa đi hắn vừa chửi rủa sự đời. Hắn cầm
dao đến nhà Bá Kiến đòi trả lương thiện cho hắn. Hắn đâm chết Bá Kiến rồi tự tử. Thị Nở
chứng kiến cảnh đó, nhìn xuống bụng và nghĩ đến lò gạch.

Vĩnh Biệt Cửu Trùng Đài


Vũ Như Tô là vở bi kịch năm hồi, viết về một sự kiện lịch sử xảy ra ở Thăng Long khoảng
năm 1516 – 1517. Vũ Như Tô là một kiến trúc sư có tài, bị vua Lê Tương Dực bắt xây Cửu
Trùng Đài để vui chơi với các cung nữ. Vốn là nghệ sĩ chân chính gắn bó với nhân dân nên
ông từ chối. Nhưng sau nghe lời khuyên của cung nữ Đan Thiềm nên trổ tài xây một lâu đài
vĩ đại làm niềm hãnh diện của dân tộc. Công trình làm tốn rất nhiều mồ hôi, xương máu và
tài sản nên bị nhân dân vô cùng căm ghét. Nhân mâu thuẫn ấy, Quận công Trịnh Duy Sản dấy
binh, lôi kéo thợ làm phản giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và thiêu hủy Cửu
Trùng Đài. Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả muốn đặt ra những vấn đề gay gắt muôn
thuở về lý tưởng nghệ thuật cao siêu và vĩnh cửu với những lợi ích thiết thực của đời sống
nhân dân.


Tình Yêu Và Thù Hận
Romeo và Juliet được viết vào khoảng 1594-1595, dựa trên một cốt truyện có sẵn kể về một
mối tình oan trái vốn là câu chuyện có thật, từng xảy ra ở Ý thời Trung Cổ. Câu chuyện bắt
đầu tại thành Verona, hai dòng họ Montague và Capulet có mối hận thù lâu đời. Romeo-con
trai họ Montague và Juliet-con gái họ Capulet đã yêu nhau say đắm ngay từ cái nhìn đầu
tiên tại buổi dạ tiệc tổ chức tại nhà Capulet (do là dạ tiệc hoá trang nên Romeo mới có thể
trà trộn vào trong đó). Đôi trai gái này đã đến nhà thờ nhờ tu sĩ Laurence bí mật làm lễ cưới.
Đột nhiên xảy ra một sự việc: do xung khắc, anh họ của Juliet là Tybalt đã giết chết người
bạn rất thân của Romeo là Mercutio. Để trả thù cho bạn, Romeo đã đâm chết Tybalt.Mối thù
giữa hai dòng họ càng trở nên sâu sắc. Vì tội giết người nên Romeo bị trục xuất khỏi
Verona và bị đi đày biệt xứ. Tưởng như mối tình của Romeo và Juliet bịtan vỡ khi Romeo đi
rồi, Juliet bịcha mẹ ép gả cho bá tước Paris. Juliet cầu cứu sự giúp đỡ của tu sĩ Laurence.
Tu sĩ cho nàng uống một liều thuốc ngủ, uống vào sẽ như người đã chết, thuốc có tác dụng
trong vòng 24 tiếng. Tu sĩ sẽ báo cho Romeo đến hầm mộ cứu nàng trốn khỏi thành Verona.
Đám cưới giữa Juliet và Paris trở thành đám tang. Xác Juliet được đưa xuống hầm mộ. Tu
sĩ chưa kịp báo cho Romeo thì từ chỗ bị lưu đày nghe tin Juliet chết, Romeo đau đớn trốn
về Verona. Trên đường về chàng kịp mua một liều thuốc cực độc dành cho mình. Tại nghĩa
địa, gặp Paris đến viếng Juliet, Romeo đâm chết Paris rồi uống thuốc độc tự tử theo người
mình yêu. Romeo vừa gục xuống thì thuốc của Juliet hết hiệu nghiệm. Nàng tỉnh dậy và
nhìn thấy xác Romeo bên cạnh đã tuyệt vọng, Juliet rút dao tự vẫn.Cái chết tang thương
của đôi bạn trẻ đã thức tỉnh hai dòng họ. Bên xác hai người, hai dòng họ đã quên mối thù
truyền kiếp và bắt tay nhau đoàn tụ, nhưng câu chuyện tình yêu ấy vẫn mãi sẽ là nỗi đau rất
lớn trong lòng những người biết đến họ.


Người Trong Bao
Bê-li-cốp là một giáo viên dạy tiếng Hi Lạp ở thành phố nhỏ nước Nga, ông nổi tiếng với
phong cách ăn mặc hết sức đặc biệt. Quanh năm ông đều đi giày cao su, cầm ô và luôn
luôn phải mặc thêm áo bành tô ấm cốt bông. Ông luôn để những dụng cụ cá nhân của mình

vào một cái bao.
Bê-li-cốp khát khao thu mình vào trong một cái vỏ, tạo cho mình một vỏ bọc để ngăn cách
bảo vệ bản thân không phải chịu những ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài. Vì nó là cuộc
sống khiến Bê-li-cốp cảm thấy khó chịu và sợ hãi vì vậy, ông luôn có ý nghĩ không thực, luôn
ngợi ca quá khứ, mơ tưởng về những thứ không tồn tại. Ngay cả ý nghĩ ông cũng sợ có
người biết được, ông luôn cố giữ như cất giấu vào "bao".
Bê-li-cốp có thói quen rất kì quặc đó là đi hết nhà các giáo viên cùng dạy. Đến bất kỳ nhà
nào, ông cũng kéo ghế ngồi rồi chẳng nói bất kỳ điều gì, chỉ nhìn xung quanh như đang tìm
kiếm thứ gì đó, khoảng một giờ sau thì ông ra về. Ai cũng sợ ông, từ giáo viên đến hiệu
trưởng, hiệu phó. Tuy sống cô đơn, một mình, nhưng ông cũng nghĩ đến việc sẽ cưới vợ.
Và người đó là Va-ren-ca, là chị gái của Cô-va-len-cô, giáo viên trẻ mới ra trường.
Có người đã gửi cho Bê-li-cốp một bức tranh châm biếm. Ngày chủ nhật hôm sau, Bê-li-cốp
chứng kiến cảnh hai chị em Va-ren-ca phóng xe vút qua khiến Bê-li-cốp vô cùng ngạc nhiên
và hoảng hốt. Nên tối hôm đó, Bê-li-cốp đã đến nhà Va-ren-ca để góp ý hai chị em họ. Hai
người họ cãi nhau, Bê-li-cốp đoạn sẽ báo cáo sự việc này với hiệu trưởng nên Cô-va-len-cô
đã túm áo và xô mạnh khiến Bê-li-cốp ngã nhào xuống cầu thang. Va-len-ca cười lớn, làm
Bê-li-cốp cảm thấy nhục nhã vội vàng trở về nhà. Một tháng sau, Bê-li-cốp qua đời, mọi
người cảm thấy nhẹ nhõm nhưng không lâu sau, lối sống cũ đã trở lại vì tính cách của
Bê-li-cốp đã ảnh hưởng quá lớn đối với mọi người.

Người Cầm Quyền Khôi Phục Uy Quyền
Phăng tin bị Gia ve bắt bỏ tù, may nhờ có Ma Đơ Len cứu giúp, ròi đưa vào bệnh xa. Trong
lúc đang hết lòng cứu giúp Phăng Tin, thì MĐL lại quyết định ra tòa tự thú để cứu một nạn
nhân bị GV bắt oan. Bới vậy, ông đến từ giã Phăng Tin và Gia Ve đã theo ông đến tận bệnh
xá nơi phăng- tin nằm để canh chừng và bắt ông. Khi GV đến, PT cứ nghĩ hăn đến để bắt
chị và tỏ ra vô cùng sợ hãi. MĐL cầu xin GV cho ông ta ba ngày để tìm ra đứa con gái của
PT,nhưng hắn không đồng ý và liên tục buông lời chửi mắng sỉ nhục MĐL và PT khi chị
đang ốm nặng. GV túm lấy cổ áo của MĐL và nói " không có thị trưởng nào cả, chỉ có một
tên cướp một tên tù khổ sai....Khi nghe xong nhưng lời ấy PT vô cùng sợ hãi và tắt thở.
Giăng van giăng cậy tay GV ra khổi cổ áo, từ từ đi đến chỗ giường sắt cũ, lăm lăm cần một

thanh giường trong tay. GV sợ hãi lùi ra phía cửa, hắn định gọi quân lính nhưng sợ GVG
chạy trốn nên hắn đành im lặng. GVG đến chỗ phăng tin nói những lời cuối với chị rồi đứng
dậy quay về phái GV và nói " giờ thì tôi thuộc về anh"

Một Thời Đại Trong Thi Ca
Trong tiểu luận "Một thời đại thi ca" mở đầu cuốn thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã nêu vấn
đề quan trọng là đi tìm "tinh thần thơ mới". Nhưng trong thòi đại giao thoa giữa thơ cũ và
thơ mới thì việc nhận ra ranh giới giữa chúng thật khó khăn




×