Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

MÔN tác PHẨM của c mác, PH ĂNGHEN, v i LÊNIN, hớ CHÍ MINH vể xây DỰNG ĐẢNG và CHÍNH QUYỂN NHÀ nước tư tưởng v i lênin về vấn đề nhà nước trong tác phẩm “nhà nước và cách mạng” tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.64 KB, 23 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Lê nin là người thầy vĩ đại của phong trào vô sản quốc tế, cùng với
những đóng góp to lớn trong hoat động cách mạng của người vào phong trào
vô sản quốc tế, Lênin còn để lại nhiều tác phẩm mang tính chất lý luận cho
phong trào vô sản quốc tế mà giá trị của nó vẫn còn mang tính chất phương
pháp luận cho phong trào cách mạng ngày nay của giai cấp vô sản trên toàn
thế giới.
Tác phẩm “Nhà Nước Và Cách Mạng” được đánh giá là một tác phẩm
kinh điển xuất sắc của học thuyết mác-xit về nhà nước. Trong quá trình
nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người về nhà
nước, Lênin đã trình bày một cách rõ ràng và khoa học về nguồn gốc, bản
chất cũng như sự tiêu vong của nhà nước khi nó đã hết vai trò lịch sử trong xã
hội loài người. Tác phẩm "Nhà nước và cách mạng" đặt cơ sở cho lý luận về
nhà nước xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng nhất của học thuyết mác - xít
về nhà nước. Nước ta hiện nay đang trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội, vai trò của nhà nước vẫn còn mang giá trị trong việc điều hành và
quản lý đất nước, việc nghiên cứu và phát triển học thuyết Mác - Lênin về nhà
nước để áp dụng vào thực tiễn nước ta trong việc xây dựng một nhà nước theo
mô hình chủ nghĩa xã hội là việc làm cần thiết và quan trọng.
Ngày nay, Đảng và Nhà Nước ta đang chủ chương xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vỉ vậy việc nghiên cứu học thuyết Mác-Lênin
về nhà nước và ứng dụng vào thực tế nước ta trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa có vai trò cực kỳ quan trọng.

B.

NỘI DUNG

I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh trước ngày nổ ra cách mạng
tháng 10 (từ tháng 7 đến tháng 8 năm 1917). Để tránh sự bắt bớ của Chính


phủ lâm thời lúc bấy giờ, Lênin phải ẩn náu trong nhà một người công nhân ở


ga Rađơlít trên biên giới Nga - Phần Lan, về sau lại ẩn náu trong túp lều tranh
phía sau hồ Rađơlít để hoạt động và viết tác phẩm này. sống trong hoàn cảnh
bí mật, Lênin không một phút nào ngừng hoạt động cách mạng, Người vẫn
giữ mối liên hệ với Trung ương Đảng. Thời gian ở đây, Lênin viết thêm 60 bài
báo, sách và thư từ. Trong số đó có tác phẩm Nhà nước và cách mạng nổi
tiếng, nó được viết ra như có sự hối thúc của thời cuộc, như dành riêng cho
giai cấp công nhân để giành lấy chính quyền.
Trong tác phẩm này, Lênin không những đã khôi phục được quan
điểm của Mác và Ăngghen về nhà nước mà còn phát triển một bước học
thuyết của chủ nghĩa Mác về nhà nước và chuyên chính vô sản. Sau đó không
lâu, Lênin có ý muốn viết tiếp phần thứ hai của tác phẩm này - một bài tổng
kết những kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Nga năm 1905 và năm 1917;
tổng họp lại những kinh nghiệm mới của chính quyền Xô viết để tiếp tục phát
huy và làm phong phú thêm học thuyết về nhà nước của mình. Rất tiếc, Lênin
chưa kịp làm công việc đó thì Người đã từ trần. Đây là một thiệt thòi lớn cho
nhân loại, cho những nước đi theo con đường của Lênin.
Vì sao trong hoàn cảnh căng thẳng như vậy mà Lênin vẫn quyết định
viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng ?
Có ba lý do:
Một là: Trong lời tựa lần xuất bản thứ nhất tác phẩm này, Lênin cũng
đã chỉ rõ: “Hiện nay, vấn đề nhà nước có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt về
phương diện lý luận cũng như về phương diện chính trị - thực tiễn”. Theo
Lênin, vấn đề Nhà nước bao giờ cũng là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách
mạng. Đúng như Mác đã tổng kết cuộc cách mạng Pháp 1848 - 1851 trong tác
phẩm Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapác đã viết: Các chính
Đảng lần lượt nối gót nhau đấu tranh giành chính quyền, đều coi việc đoạt lấy
tòa lâu đài Nhà nước đồ sộ kia là chiến lợi phẩm chủ yếu của kẻ chiến thắng.

-

Khi giai cấp vô sản giành được chính quyền thì sức mạnh của

đảng được thực hiện thông qua nhà nước, đảng sẽ lãnh đạo được toàn xã hội.


-

Lênin dự đoán được cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng

Mười Nga nhất định sẽ thành công, chính quyền Xô viết sẽ về tay công nông.
Để giúp giai cấp vô sản hiểu về nhà nước, biết cách quản lý nhà nước của
mình, Người viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng.
Hai là: Trong thời điểm này (1917), chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa - chủ nghĩa tư bản phân chia thị trường, xâm
chiếm lãnh thổ thuộc địa và chính chủ nghĩa đế quốc đã làm cho mâu thuẫn
của chủ nghĩa tư bản căng thẳng và sâu sắc cực độ. Chiến tranh thế giới thứ
nhất (1914 - 1918) nổ ra hòng phân chia-thế giới và dập tắt phong trào cách
mạng của công nhân các nước, nhưng kết quả thì ngược lại. Cuộc chiến tranh
này đã tập trung tất cả mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản (mâu thuẫn giữa tư sản
với vô sản, giữa chủ nghĩa đế quốc với nhân dân các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa, giữa chủ nghĩa đế quốc với chủ nghĩa đế quốc) đã làm tăng nhanh
và sâu sắc thêm quá trình biến chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh (chủ nghĩa tư
bản lũng đoạn) thành chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước (chủ nghĩa đế
quốc). Đồng thời đẩy nhanh thêm những tai họa chưa từng có và làm tăng
thêm tinh thần cách mạng của nhân dân. Ket quả là đẩy cuộc đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản thêm nhanh và thuận lợi:
-


Phong trào cách mạng vô sản thế giới phát triển rầm rộ.

-

Thời cơ giai cấp vô sản giành lấy chính quyền từ tay giai cấp tư

sản đã chín muồi.
-

Vấn đề giai cấp vô sản và quan hệ đối với nhà nước được đặt ra.

- Việc giai cấp vô sản trực tiếp tổ chức vũ trang và cuộc cách mạng vô
sản giành chính quyền bằng bạo lực đã trở thành vấn đề hành động thực tế
trước mắt. Lênin khẳng định: Chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng
vô sản. Vì vậy, vấn đề nhà nước được đặt ra một cách cấp bách. Tác phẩm
Nhà nước và cách mạng chính là sự chuẩn bị lý luận về nhà nước và cách
mạng cho giai cấp vô sản giành chính quyền và nắm lấy chính quyền, là
cương lĩnh xây dựng nhà nước của giai cấp vô sản, vũ trang về mặt lý luận


cho giai cấp vô sản và quần chúng cách mạng Nga, làm cho những hoạt động
khởi nghĩa vũ trang có sự chỉ đạo lý luận mácxít.
Ba là: viết Nhà nước và cách mạng, Lênin muốn đập tan luận điệu của
bọn cơ hội ở Quốc tế II (điển hình là Bécstanh và Causky), mưu toan chống
lại những nguyên lý về nhà nước của Mác, chống lại việc xây dựng phương
pháp cách mạng để thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản. Bọn cơ
hội, xét lại ở Quốc tế II ra sức bảo vệ lý luận phát triển, bảo vệ hòa bình để
chuyển từ chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội. Còn bọn vô chính phủ thì
tìm cách chống lại bất kỳ một nhà nước nào, kể cả nhà nước chuyên chính vô
sản. Trước tình hình đó, Lênin cho rằng, nếu không đấu tranh kiên quyết

chống những thiên biến cơ hội chủ nghĩa về vấn đề nhà nước thì không thể
đấu tranh giải phóng quần chứng cần lao khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản
nói chung. Những ý tưởng đó đã thúc giục người bắt tay viết Nhà nước và
cách mạng.
Vì sao Lênin lấy tên tác phẩm là Nhà nước và cách mạng?
Tên tác phẩm Nhà nước và cách mạng nói lên rằng, để có một nhà
nước vô sản - nhà nước kiểu mới, nhà nước của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động do họ làm chủ - thì chỉ có một con đường là dùng bạo lực cách
mạng, mọi phương pháp khác đều là cải lương cơ hội. vấn đề nhà nước của
Lênin gắn liền với phương pháp bạo lực cách mạng.
II. Tư TƯỞNG LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC TRONGTÁC
PHẨM “NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG”
1.Lênin bảo vệ và phát triển tưởng của Mác và Ăngghen về Nhà
nước
Nhà Nước Và Cách Mạng là một tác phẩm xuất sắc của chủ nghĩa
Mác sang tạo, trong đó lần đầu tiên học thuyết mác -xít về nhà nước được
trình bày có hệ thống và đầy đủ nhất, lời giải thích khoa học và hoàn thiện
nhất, về chiều sâu và tính chất nhiều mặt, lý luận về nhà nước, là mẫu mực
sáng chói về tính đảng trong cuộc đấu tranh vởi kẻ thù của chủ nghĩa Mác.


Trong tác phẩm này lênin đã vạch rõ các quan điểm^ của Mác và Ăngghen về
nhà nước được phát triển như thế nào, đã nhấn mạng rằng vấn đề nhà nước là
một trong những vấn đề căn bản của chủ nghĩa Mác. Lênin đã phân tích mối
liên hệ của nhà nước với tính chất giai cấp của xã hội, đã chứng minh tính quy
luật và tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản,
đã vạch ra nhiệm vụ thực chất của nhà nước vô sản và của nền dân chủ vô
sản, đã phát triển học thuyết mác-xít về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản và đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề khác. Những thủ lĩnh cơ hội chủ nghĩa
quốc tế II (E.béc-stanh, Cau-xky và những người khác) trong thời gian đó

chống phá các nguyên lý của chủ nghĩa Mác, chống lại cách mạng xã hội chủ
nghĩa và chuyên chính vô sản, chống lại việc dùng phương pháp cách mạng
thay thế nhà nước tư sản bàng nhà nước vô sản. Họ đã bảo vệ lý luận phát
triển hòa bình của chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội. Bọn vô chính phủ
chủ nghĩa chống lại bất kỳ một nhà nước nào, kể cả nền chuyên chính vô
sản.Trong hàng loạt bài báo, Bu-kha-rin đã bênh vực các quan điểm nửa vô
chính phủ, phản mác-xít trong vấn đè nhà nước. Trên cơ sở phân tích sâu sắc
các tác phẩm của Mác và Ăng-ghen, trong cuốn “Nhà nước và cách mạng”
Lênin đã nhấn mạnh rằng chỉ có chủ nghĩa Mác mới đưa ra được câu trả lời
khoa học và đúng đắn cho câu hỏi :Thế nào là nhà nước, nó xuất hiện khia
nào và trên cơ sở nào , tại sao trong các thời kỳ lịch sử khác nhau nhà nước
mang các hình thức khác nhau và đóng vai trò khác nhau. Bọn dân chủ tiểu tư
sản mà Lênin gọi là bọn giả danh xã hội chủ nghĩa thì mộng tưởng lấy thỏa
hiệp giai cấp để thay cho đấu tranh giai cấp, họ hình dung việc cải tạo xã hội
chủ nghĩa cũng theo cách không tưởng mà nó không phải là dưới hình thức lật
đổ sự thống trị của giai cấp bóc lột mà là dưới hình thức số ít êm ái phục tùng
số đông đã có ý thức về nhiệm vụ của mình. Lênin cho rằng thứ không tưởng
kiểu tiểu tư sản này mật thiết gắn với sự thừa nhận nhà nước đứng trên các
giai cấp. Bằng việc nghiên cứu và phân tích các cuộc cách mạng pháp 1848
và 1871 cũng như kinh nghiệm về đảng xã hội chủ nghĩa tham gia nội các tư


sản ở Anh, ở Pháp, ở Ý cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Lênin đã chứng minh
rõ điều này. Quan điểm và đề nhà nước là một trong những vấn đề căn bản
của chủ nghĩa Mác. Lênin đã phân tích mối liên hệ của nhà nước với tính chất
giai cấp của xã hội, đã chứng minh tính quy luật và tính tất yếu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa và của chuyên chính vô sản, đã vạch ra thực chất và
nhiệm vụ của nhà nước vô sản và của nền dân chủ vô sản, đã phát triển chủ
nghĩa Mác-xít về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Lênin thấy rõ nguy
cơ chủ nghĩa Mác về nhà nước bị xuyên tạc, và thấy nó trở thành một điều

phổ biến chưa từng thấy. Lênin đã đề ra nhiệm vụ phải khôi phuc học thuyết
về nhà nước của chủ nghĩa Mác “Nhiệm vụ của chúng ta trước hết là phải
khôi phục học thuyết chân chính của Mác về nhà nước”(tr. 8). Lênin chỉ ra quan
niệm của Mác về nhà nước vô sản, Mác cho rằng: “ Nhà nước , tức là giai cấp
vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị” .
Theo Lênin, lý luận ấy của Mác gắn liền mật thiết với toàn bộ học
thuyết của ông về vai trò cách mạng của giai cấp vô sản trong lịch sử. Đỉnh
cao của vai trò ấy là chuyên chính vô sản, là sự thống trị của giai cấp vô sản.
Những đóng góp to lớn của Lênin đối với lý luận về nhà nước không chỉ ở
việc làm sáng tỏ những quan điểm căn bản của C.Mác và Ph.Ăngghen về nhà
nước, đem lại vũ khí lý luận sắc bén cho cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân, giành lấy, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, cũng như đấu tranh
chống lại mọi âm mưu hòng xuyên tạc, bẻ cong và nhằm bác bỏ lý luận mácxít về nhà nước; mà còn thể hiện ở việc đi sâu, phát triển lý luận mảc-xít về
nhà nước trên một số phương diện, phù hợp với trình độ phát triển mới của
thực tiễn. Nghiên cứu quan điểm của V.I.Lê-nin về nhà nước đặc biệt quan
trọng đối với việc xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện
nay, bởi lẽ những quan điểm ấy đã được hiện thực hóa, trở thành một thực thể
sống động trong thực tiễn đời sống.
Nhất quán với tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, Lênin tiếp tục
khẳng định rằng, nhà nước là một hiện tượng lịch sử, sự tồn tại và tiêu vong


của nó là tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể; “nhà nước chỉ là một tổ chức
thống trị của một giai cấp” và “bất cứ nhà nước nào cũng là một bộ máy để
một giai cấp này trấn áp giai cấp khác”.
2.
2.1.

Quan niệm về nhà nước của Lênin
Nguồn gốc nhà nước


về nguồn gốc và thực chất ý nghĩa của nhà nước luôn luôn đã và sẽ
còn là đối tượng của cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt nhất. Những người đại
diện cho triết học, luật học, sử học, chính trị kinh tế học và chính luận tư sản
đang cố tìm cách làm phức tạp vấn đề nhà nước, mà như Lênin chỉ ra, đây là
một vấn đề lý luận khó nhất. Họ đưa ra nhiều thứ lý luận khó về nhà nước,
trong đó họ biện hộ sự thống trị của các giai cấp bóc lột, xóa nhòa tính chất
giai cấp của nhà nước tư sản. Nhằm làm cho nhân dân lao động xao nhãng
những vấn đề cơ bản của đời sống xã hội, các nhà tư tưởng tư sản tán dương
nhà nước đế quốc hiện đại, miêu tả nó như một nhà nước siêu giai cấp “phồn
vinh chung”, phủ nhận vai trò của nó trong đời sống xã hội.
Lênin chỉ ra rằng nhà nước là một hiện tượng lịch sử. với tính cách là
công cụ thống trị nằm trong tay các giai cấp bóc lột, nhà nước xuất hiện khi
xã hội phân hóa thành những giai cấp đối kháng,.Lênin viết “ nhà nước là sản
phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được,
bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện” (tr. 9).
Với tính chất là một phạm trù lịch sử vì vậy nó có thời gian ra đời, quá
trình phát triển và đến một lúc nào đó nó cũng sẽ mất đi trong lich sử. Không
phải xã hội loài người xuất hiện là có nhà nước. Nhà nước là một phạm trù
lịch sử nó chỉ xuất hiện trong xã hội có sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai
cấp. Điều này đã được Lênin chứng minh rõ ràng qua sự phát triển của xã hội
loài người, xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước, khi xã hội nguyên
thủy tan rã, xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng không thể điều hòa
được mới đẻ ra nhà nước. Trong những tổ chức thị tộc, bộ lạc của xã hội công


xã nguyên thủy chưa có của riêng, không phân chia giai cấp, toàn thể thành
viên trong xã hội bình đẳng. Người cầm đầu là do mọi thành viên cử ra và có
trách nhiệm chăm sóc lợi ích toàn xã hội. Vì vậy, trong xã hội và căn bản

không cần thiết có một uy lực chính trị nào đặt lên trên xã hội, do đó Nhà
nước cũng không có khả năng tồn tại. Khi xã hội loài người bắt đầu có sự
phân chia giai cấp, tức là khi đó nhà nước bắt đầu xuất hiện trong xã hội loài
người, và cái nhà nước đó là nhà nước của giai cấp thống trị trong xã hội. Như
vậy Lênin đã chỉ ra rằng ở thời kỳ công xã nguyên thủy thì xã hội loài người
chưa có nhà nước và nhà nước đầu tiên của xã hội loài người xuất hiện ở thời
kỳ chiếm hữu nô lệ, cái nhà nước đó là nhà nước của giai cấp chủ nô - giai
cấp thống trị trong xã hội lúc bấy giờ.
Bước sang thời kỳ phong kiến,giai cấp phong kiến là giai cấp thống trị
trong xã hội. Bằng việc hình thành lên nhà nước của mình, giai cấp phong
kiến đã coi đây là công cụ để áp bức giai cấp nông dân. Sự hình thành và phát
triển của chủ nghĩa tư bản làm xuất hiện nhà nước tư sản. Trong giai đoạn lịch
sử này, trong xã hội xuất hiện mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa giai cấp vô
sản (công nhân) và giai cấp tư sản. Lúc này cái nhà nước của giai cấp tư bản
chính là công cụ để áp bức đối với giai cấp vô sản. Lênin viết: “khi xã hội loài
người tiến lên chủ nghĩa cộng sản thì vai trò của nhà nước sẽ không còn nữa,
và theo quy luật nó sẽ tự tiêu vong. Nhà nước sẽ tiêu vong trừng nào không
còn bọn tư bản, không còn có giai cấp và do đó, không còn giai cấp nào để
trấn áp nữa (tr. 117) Lênin đưa ra khái niệm về nhà nước: Nhà nước là sản
phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, là
một cơ quan thống trị giai cấp, là cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với
một giai cấp khác; là một bộ máy cho phép một giai cấp này được áp bức một
giai cấp khác
2.2. Bản chất của nhà nước
về bản chất giai cấp của nhà nước, V.I.Lê-nin khẳng định: “Nhà nước
là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa


được. Bất cứ đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và

ngược lại: Sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là
không thể điều hòa được” Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định bản chất của nhà
nước là mang tính giai cấp. Nhà nước chính là công cụ thống trị của giai cấp
thống trị trong xã hội trong việc duy trì sự thống trị và bảo đảm quyền lợi của
giai cấp thống trị.
Theo Lênin, nhà nước không phải là bộ máy “duy trì trật tự xã hội”
mà là “công cụ thống trị của một giai cấp này đối với một giai cấp khác”,
không phải là bộ máy “điều hòa giai cấp” mà là một bộ máy áp bức giai cấp,
không phải là vật sở hữu của toàn dân mà chỉ có thể là vật sở hữu của một số
người. Do đó nhà nước là không nhượng lại được, “không điều hòa được”.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người chúng ta có thể thấy rõ
được bản chất giai cấp của nhà nước: Nhà nước chiếm hữu nô lệ là nhà nước
đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, lức này xã hội loài người bắt đầu có
sự phân chia về giai cấp, nhà nước chiếm hữu nô lệ chính là thể hiện tính giai
cấp chủ nô trong xã hội với giai Gấp nô lệ và các tầng lớp lao động khác trong
xã hội. Nhà nước phong kiến bảo vệ chế độ thống trị và quyền lợi của giai cấp
phong kiến và tầng lớp quý tộc trong lịch sử, thực chất đó chính là bản chất
của giai cấp phong kiến. Nhà nước tư sản là nhà nước phát triển đến một trình
độ cao và hoàn thiện của xã hội loài người, bằng việc tổ chức ra một hệ thống
các cơ quan hoàn bị của mình, nó chính là một công cụ của giai cấp tư sản
trong việc tổ chức và quản lý xã hội của giai cấp tư sản, và một điều không
thể phủ nhận được là cái nhà nước tư sản đó mang bản chất của giai cấp tư
sản trong việc bảo vệ quyền thống trị cũng như bảo đảm lợi ích của giai cấp
tư sản trong xã hội. Lênin viết: Nhà nước là công cụ bóc lột giai cấp bị áp bức
“muốn duy trì quyền lực đặc biệt, đặt lên trên xã hội phải có thuế và công
trái”(tr.l5).

Với tư cách là công cụ áp bức, cưỡng chế, Nhà nước với nguyên nghĩa



của nó bao gồm những phương tiện, công cụ để giúp nó làm tròn nghĩa vụ
thống trị Lênin viết: “những đội vũ trang đặc biệt, nhà tù..vv,..” (tr.l 1).
Lênin giải thích về những đội vũ trang đặc biệt là vì đây không phải là
vũ trang của nhân dân, không phải đân cư vũ trang mà nó chính là quyền lực
xã hội vốn có của nhà nước, “không còn trực tiếp là dân cư vũ trang, là tổ
chức vũ trang tự động của dân cư nữa”,(tr. 12).
Trong xã hội chủ nghĩa, nhà nước từ chỗ là công cụ thống trị giai cấp
chuyển thành cơ quan thể hiện ý chí của toàn dân. Như Lênin đã chỉ ra ,với
việc hoàn thành xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhà nước sẽ hoàn toàn
không cần thiết
3. Sự chuyển hóa từ nhà nước tư sản sang nhà nước vô sản
* Việc chuyển hóa từ nhà nước tư bản sang nhà nước vô sản theo chủ
nghĩa Mác - Lênin thì đó là xứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và khi giai
cấp tư sản bị giai cấp vô sản tiêu diệt thì cùng với đó, giai cấp vô sản cũng kết
liễu được chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, nhưng vấn đề mấu chốt ở dây là
giai cấp vô sản phải giành được chính quyền. Lênin phân tích nhận định này
của Mác và đã vạch ra lý luận của nó đối với cuộc đấu tranh cách mạng của
giai cấp vô sản trong điều kiện lịch sử mới. Người đã chỉ ra rằng các cuộc
cách mạng tư sản ngày càng hoàn thiện nhà nước tư sản và làm cho nhà nước
tư sản - nhà nước thù địch với quyền lợi của những người lao động - thích
ứng với quyền lợi của các giai cấp bóc lột. Lênin viết: “Những hình thức của
các nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: Chung
quy lại thì tất cả những nhà nước ấy vô luận thế nào cũng tất nhiên phải là nền
chuyên chính tư sản” (tr4. 44).
Chủ nghĩa đế quốc làm tăng thêm mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản cũng như mâu
thuẫn trong nội bộ của tư bản - tạo ra những tiền đề về kinh tế và chính trị cho
chủ nghĩa xã hội, làm cho cách mạng xã hội trở thành tất yếu. Lênin nhận xét
rằng dưới chủ nghĩa đế quốc cơ sở xã hội của cách mạng được mở rộng. Cuộc



cách mạng đó sẽ trở thành cuộc cách mạng nhân dân thực sự khi nó thu hút
vào phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa là những tầng lớp công nhân, nông
dân đang bị bọn tư sản bóc lột. Lênin viết: “Không có cách mạng bạo lực thì
không thể thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được”, (tr. 28). cần
phải dùng bạo lực cách mạng, dùng cách mạng vô sản để xóa bỏ nhà nước của
giai cấp tư sản, chứ không thể làm cho nó “tự tiêu vong”, còn đối với nhà
nước của giai cấp vô sản, cần phải làm cho nó “tự tiêu vong” chứ không dùng
bạo lực để xóa bỏ. Đó là cơ sở của toàn bộ học thuyết về nhà nước của Mác
và Ăngghen.
Nhà nước tư sản bị thay thế bởi nhà nước vô sản (chuyên chính vô
sản) không thể bằng con đường tiêu vong được, mà chỉ có thể, theo quy luật
chung, bằng một cuộc các mạng bạo lực mà thôi. Là một tổ chức chính trị
mang tính chất giai cấp, nhà nước bóc lột có các công cụ quyền lực nhờ đó
giai cấp thống trị bắt quần chúng lao động, là bộ phận chiếm đa số trong dân
cư, phải phục tùng mình. Hiểu theo nghĩa đó nghĩa thực sự của danh từ thì
nhà nước là bộ máy đặc biệt phục vụ cho giai cấp này đàn áp giai cấp khác,
nó tồn tại trong các hình thái kinh tế xã hội nô lệ, phong kiến và tư bản chủ
nghĩa. Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chuyên
chính vô sản là tất yếu lịch sử, giai cấp vô sản dùng chính quyền nhà nước để
đàn áp thiểu số dân cư là bọn bóc lột. Sau khi lật đổ nền chuyên chính tư sản,
cách mạng xã hội chủ nghĩa thiết lập nên nền chuyên chính của giai cấp vô
sản, một nền chuyên chính sẽ bẻ gẫy được sự kháng cự quyết liệt của giai cấp
bóc lột bị gạt khỏi chính quyền. Lênin viết : “Chỉ người nào mở rộng thừa
nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản thì mới là
người mác-xit” (tr.42 ). vấn đề chuyên chính vô sản là nội dung mấu chốt của
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong tác phẩm của mình, Lênin đã vạch ra thực chất và nhiệm vụ của
chuyên chính vô sản, vai trò tổ chức cực kỳ to lớn của nó trong việc xây dựng
xã hội mới sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lênin đã nhấn



mạnh tính chất quá độ, lịch sử chuyên chính vô sản là nhà nước của thời kỳ
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Lênin đã đặc biệt nhấn mạnh
tính chất dân chủ của nhà nước vô sản, sự khác biệt cơ bản của nó đối với nền
dân chủ tư sản. Lênin dạy rằng chuyên chính vô sản là một kiểu nhà nước
mới, “nhà nước dân chủ kiểu mới (dân chủ đối với những người vô sản và nói
chung với những người không của nó, và chuyên chính kiểu mới “chống giai
cấp tư sản)” (tr. 43).
Nhà nước vô sản bảo vệ quyền lợi của những người lao động. Như
Lênin đã chỉ rõ, sự khác biệt cơ bản của chuyên chính vô sản với nhà nước tư
sản biểu hiện ở các hình thức tổ chức nhà nước và ở vai trò lịch sử mà nó thực
hiện. Cở sở của chuyên chính vô sản, nguyên tắc tối cao của nó vạch rõ thực
chất dân chủ của nhà nước vô sản, là sự liên minh của giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân, với toàn thể nhân dân lao động và các tầng lóp dân chủ
khác trong nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Cơ sở khách
quan của khối liên minh ấy là sự thống nhất về quyền lợi cơ bản về chính trị
và kinh tế của giai cấp công nhân, của giai cấp nông dân và toàn thể những
người lao động. Lênin viết: “Nếu không có sự liên minh ấy thì không thể có
dân chủ vững bền, không thể cải tạo xã hội chủ nghĩa được” (tr. 49).
Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” đã soi sáng một cách toàn diện
về vấn đề dân chủ vô sản như là một nền dân chủ cao nhất, đã vạch ra sự khác
biệt về chất giữa dân chủ vô sản và dân chủ tư sản, đã chỉ ra tính hạn chế và
tính hình thức của nền dân chủ tư sản. Lênin đã nhận xét rằng sự phát triển
triệt để của dân chủ, việc tìm ra các phương thức phát triển như vậy, việc thử
nghiệm chúng trong thực tiễn là một trong những nhiệm vụ cơ bản của cuộc
đấu tranh nhằm tổ chức lại xã hội theo chủ nghĩa xã hội. Lênin đã phân tích
quá trình phát triển từ nền dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản. Chỉ có trong
điều kiện chuyên chính vô sản, lần đầu tiên tuyệt đại đa số nhân dân mới có
khả năng sử dụng chính quyền nhà nước phục vụ cho lợi ích của minh, chỉ

loại trừ giai cấp bóc lột sau khi thủ tiêu các giai cấp này thì nền dân chủ được


thục hiện chọn vẹn. Vì thế nhà nước vô sản dựa vào quần chúng nhân dân liên
hệ chặt chẽ với họ và chịu sự kiểm soát trực tiếp của họ.
Bộ máy quản lý dân chủ là nét đặc trưng của nhà nước vô sản. Nó
ngày càng được hoàn thiện trong quá trình đất nước tiến dần lên chủ nghĩa
cộng sản. Lênin đã chỉ ra rằng chỉ có chủ nghĩa cộng sản “mới có thể đưa lại
một chế độ dân chủ thực sự, hoàn bị và nó càng hoàn bị bao nhiêu thì lại càng
mau trở nên thừa và tự tiêu vong bấy nhiêu”(tr. 110)
Trong Nhà nước và cách mạng, Lênin chỉ rõ rằng, trong thời kỳ quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản sẽ xây dựng hình thức Xô viết
của chuyên chính vô sản..
4.

Học thuyết về hai giai đoạn của xã hội cộng sản.

Trong cuốn “Nhà nước và cách mạng” Lênin đã phát triển cụ thể hóa
học thuyết mác-xít về hai giai đoạn của xã hội cộng sản chủ nghĩa, đã nghiên
cứu sâu sắc về mặt lý luận vấn đề những cơ sở kinh tế để nhà nước tiêu vong.
Lênin chỉ ra rằng, trong xã hội cộng sản được phân chia thành hai giai
đoạn, giai đoạn thấp và giai đoạn cao và phải trải qua một bước chuyển tử chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đó là thời kỳ quá độ. Lênin viết “ Một xã
hội tư bản chủ nghĩa đang phát triển lên chủ nghĩa cộng sản, không thể nào
không chuyển lên một xã hội cộng sản chủ nghĩa được nếu không có một
“thời kỳ quá độ chính trị” , và trong thời kỳ đó, nhà nước chỉ có thể là chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản”(tr. 106). Lênin đã chỉ ra rằng với tính
cách là hai giai đoạn của một xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa, xã hội
này do các quy lý Nhà nước. Nhân dân là người ủy quyền cho Nhà nước quản
lý xã hội. Trong giai đoạn hiện nay cần tăng cường và nâng cao hiệu lực hiệu

quả hoạt động giám sát của Quốc hội. cần tiếp tục xây dựng thể chế tạo mọi
điều kiện để Quốc hội (trong đó có các Đoàn đại biểu Quốc hội và từng đại
biểu Quốc hội) giám sát có hiệu quả hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Không có giám sát, kiểm tra thì không thể có một Nhà nước pháp quyền theo
đúng nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được.


Trong giai đoạn hiện nay vai trò của Nhà nước trong quản lý và điều
hành vĩ mô càng quan trọng. Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất có
trách nhiệm thực hiện các nghị quyết của Quốc hội. Mọi hoạt động của Chính
phủ đề cao trách nhiệm trước việc thực thi các quyết định của Quốc hội. Cơ
chế kinh tế thị trường ở nước ta không phải là cơ chế kinh tế thị trường tự
phát mà là cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý Nhà
nước kết hợp kế hoạch với thị trường, có sự điều tiết hợp lý.
Sự khủng hoảng tài chính, ngân hàng dẫn đến sự suy giảm kinh tế lớn
nhất của thế giới từ trước đến nay đã cho chúng ta bài học quý báu về vai trò
của Nhà nước, với sự can thiệp cần thiết đúng lúc, có hiệu quả và nói lên tính
ưu việt của chế độ chính trị, tính định hướng chính trị của Nhà nước pháp
quyền Việt Nam giai đoạn hiện nay. Bản chất Nhà nước vô sản theo tư tưởng
Lênin gắn liền với vai trò làm chủ của nhân dân. Nhà nước là tổ chức cai trị
của một giai cấp. Nhưng, trong xã hội hiện đại và ở nước ta, Nhà nước pháp
quyền là tổ chức được sự ủy quyền của giai cấp GÔng nhân lãnh đạo thông
qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam quản lỷ xã hội, bảo đảm và

phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là chủ và nhân dân làm chủ,
có quyền lợi và nghĩa vụ làm chủ Nhà nước và kiểm soát, giám sát mọi hoạt
động cửa Nhà nước. Vận dụng và phát triển tư tưởng của Lênin về vấn đề
giám sát, kiểm soát ở nước ta theo sự chỉ dẫn của Lênin, không những được
thể hiện trong việc ban hành các nghị quyết, quyết định, pháp luật mà còn
trong cả quá trình thực hiện thực tế.


về bản chất của nhà nước, Hiến pháp

1992 Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt
Nam quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là:
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức.” Như vậy trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng quan
điêm của chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc xây dựng bộ máy nhà nước, xác định


rõ đây là nhà nước mang bản chất nhân dân. Chủ nghĩa Mác-lênin đã chỉ ra
rằng, mọi nhà nước đều mang bản chất giai cấp, ở nước ta hiện nay, trong quá
trình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, vai trò của nhà nước vẫ còn, nó mang
bản chất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động , xây dựng một xã hội
nhân dân bình đẳng, bác ái.
Xây dựng bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước trong sạch,
Lênin lên án gay gắt những tiêu cựe trong bộ máy Nhà nước Xô-viết từ năm
1917 đến khi Người qua đời năm 1924. Những tiêu cực được Lênin nêu lên
nhiều nhất: quan liêu, hối lộ,- tham nhũng, lãng phí, thói vô trách nhiệm của
công chức, của các Bộ dân ủy. Lênin đã đề ra những biện pháp quyết liệt,
nghiêm khắc để trừng trị những ai vi phạm.
Ổ Việt Nam, là học trò xuất sắc của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh
chăm lo xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh. Chỉ một tháng sau khi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi
thư cho ủy ban Nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu lên sáu căn bệnh mà
chính quyền cách mạng non trẻ đã mắc phải: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư
túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là giặc
nội xâm, thứ giặc ở trong lòng, nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Việc xây dựng

bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh giai đoạn hiện
nay theo tư tưởng của Lênin cần chú ý những vấn đề sau đây:
Xây dựng các cơ quan thuộc ba bộ phận của Nhà nước, là lập pháp,
hành pháp, tư pháp thật sự có hiệu lực, hiệu quả, có sự thống nhất để tất cả
mọi quyền lực thuộc về nhân dân, có phân công, phân cấp rõ ràng, họp lý. Bộ
máy Nhà nước phải tinh gọn, hoạt động có hiệu quả. Sử dụng mọi cơ chế
chính sách để
đào tạo, tuyển chọn đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cấp chủ chốt,
thật sự có đức - tài gánh vác các công việc của Nhà nước. Đó là những người
biết coi trọng lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân, không tham nhũng, lãng
phí, quan liêu và tích cực chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Xây dựng


cơ chế và thực hiện cơ chế miễn nhiệm, từ chức đối với những đại biểu của
nhân dân không làm tròn nhiệm vụ. Văn hóa chính trị trong hoạt động của bộ
máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn hiện nay
càng cần được đề cao và thực thi một cách nghiêm túc. Trách nhiệm công
chức và trách nhiệm cán bộ Nhà nước phải được thực thi một cách đầy đủ và
theo cơ chế thưởng phạt nghiêm minh như tinh thần của Lênin trong xây dựng
chính quyền Xô-viết,

về học thuyết hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản của

chủ nghĩa Mác-Lênin cũng được Đảng và Nhà nước ta nghiên cứu và áp dụng
vào thực tế trong việc xây dựng xã hội chủ nghĩa.học thuyết chỉ ra chủ nghĩa
cộng sản bao gồm hai giai đoạn, giai đoạn thấp (hay còn gọi là chủ nghĩa xã
hội) và giai đoạn cao la chủ nghĩa cộng sản. Nhưng trước khi tiến lên chủ
nghĩa xã hội,tức là giai đoan thấp của chủ nghĩa cộng sản thì phải trải qua thời
kỳ qua độ. Đảng và và nước ta xác định nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đang tiến hành công nghiệp hóa,hiện đại háo

đất nước, xây dựng và phát triển về mọi mặt để đảm bảo đến năm 2045 nước
ta hoàn thành thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội như kế hoạch mà Đảng
và Nhà nước đã đề ra.
3.

Những đặc trưng về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam.
-

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước

của dân, do dân, vì dân.
-

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước

được tổ chức và họat động trên cơ sở hiến pháp và pháp luật
-

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước có

quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công rành mạch và sự phối hợp
chặt chẽ giữa việc thực hiện ba quyền Lập pháp - Hành pháp - Tư pháp.
-

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước

tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách
nhiệm từ nhà nước tới công dân.



-

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do

Đảng Cộng sản Việt |Nam lãnh đạo đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân
dân, sự phản biện của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chính là nhà nước thực sự
của dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng với lý tưởng dân chủ, nhân đạo ,công
bằng, vì hạnh phúc của nhân dân. Nhà nước đó được tổ chức và vận hành một
cách khoa học, phù hợp với thực tiễn đất nước, tổ chức , hoạt động chịu sự
điều chỉnh của pháp luật đồng thời nhà nướcquản lý xã hội bằng pháp luật và
vì con người.
4.

Những yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt

Nam
Đối với nước ta, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay là một nhiệm vụ chính trị quan trọng. Để thành
công, chúng ta vừa phải đứng vững trên lập trường lý luận Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, vừa phải kế thừa được những thành quả xây dựng nhà
nước pháp quyền đã có trên thế giới, vừa phải xuất phát từ thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Trước hết, nhà nước là một hiện tượng lịch sử, nó được hình
thành từ những xã hội xác định và bị quy định bởi xã hội đã sản sinh ra nó.
Tất nhiên giữa các quốc gia - dân tộc có những điểm chung nhất định, mang
tính phổ biến. Vì vậy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với tính cách là
nhà nước pháp quyền thì cũng mang những đặc điểm chung nhất định. Tuy
vậy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải phản ánh được

những đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội của Việt Nam. Nó vừa có những
điểm tương đồng, vừa có những net khác biệt với nhà nước pháp quyền ở các
quốc gia - dân tộc khác. Ngay cả những nét tương đồng hay khác biệt ấy cũng
chỉ có thể có được và hiểu được nếu xuất phát từ hiện thực xã hội Việt Nam,
chứ không phải là được áp đặt từ bên ngoài vào.
Thứ hai, dù quan niệm về nhà nước pháp quyền như là một mô hình
nhà nước, một cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, hay một nhà nước


mang những tính chất xác định, thì đã là nhà nước đều mang tính giai cấp - kể
cả nhà nước pháp quyền. Đó là một quy định lịch sử. Việc không nhận thấy
bản chất giai cấp của nhà nước pháp quyền là một biểu hiện của nhận thức ấu
trĩ, mơ hồ, hay cơ hội về chính trị. Không thể có một nhà nước siêu giai cấp.
Chúng ta thừa nhận có nhà nước pháp quyền tư sản, thì có nghĩa là, nhà nước
pháp quyền ấy, xét về bản chất, là công cụ quyền lực trong tay giai cấp tư sản,
và trước hết phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản. Như vậy, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với việc chúng ta phải tính tới
những đặc trưng nhất định góp phần phân biệt cái gọi là nhà nước pháp quyền
với các mô hình, hay các cách thức tổ chức nhà nước khác, song chúng ta cần
nhớ rằng, nhà nước ấy là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân xây dựng nên
và phải phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Đó là đặc trưng bản chất của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, nền tảng và nội dung của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam phải là dân chủ. Thực ra nhà nước ấy, cần phải được hiểu đó
là một phương thức thực hiện dân chủ một cách hữu hiệu trong lĩnh vực chính
trị, và nó được hình thành cùng với sự trưởng thành của xã hội dân chủ. Nhà
nước pháp quyền là một khái niệm dùng để chỉ xã hội được tổ chức theo cách
quyền lực của nhân dân được luật hóa và được đảm bảo thực thi bằng hệ
thống chính trị, trong đó trước tiên và trực tiếp là bộ máy nhà nước. Rõ ràng,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, trước

hết phải đảm bảo tốt khâu luật hóa quyền lực của nhân dân. Xây dựng và ngày
càng hoàn thiện hệ thống Hiến pháp, pháp luật chính là một thước đo sự hình
thành nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, hình thức luật là quan trọng, song
điều quan trọng hon là ở nội dung của luật là quyền lực của nhân dân lao
động. Hơn thế, để hình thành nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa của nó,
khâu đảm bảo thực thi quyền lực của nhân dân dưới hình thức luật cũng hết
sức quan trọng. Nếu quyền lực của nhân dân mới chỉ được luật hóa, mà không
được thực thi hoặc thực thi không đầy đủ, thì rõ ràng nhà nước pháp quyền xã


hội chủ nghĩa mới được hình thành một phần. Thực thi quyền lực của nhân
dân lao động dưới hình thức luật chính là một thước đo quan trọng đối với
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bởi lẽ đó là bước mà tính chất pháp
quyền chuyển hóa từ lĩnh vực ý thức xã hội sang lĩnh vực tồn tại xã hội, nói
cách khác, chính quá trình triển khai trong đời sống mà nhà nước pháp quyền
trở thành một tồn tại hiện thực.
Tuy nhiên, do nội dung của hệ thống luật chính là quyền lực của nhân
dân, nên quá trình thực thi và đảm bảo thực thi quyền lực của nhân dân dưới
hình thức luật còn phải được đảm bảo bởi các thiết chế khác trong hệ thống
chính trị. Chỉ có một hệ thống luật với nội dung là ghi nhận và thừa nhận
quyền lực của nhân dân mới có thể tạo điều kiện cho toàn thể hệ thống chính
trị tham gia thực thi luật chứng tỏ nội dung của hệ thống luật ấy đã mang tính
xã hội hóa cao độ. Quan hệ tương hỗ biện chứng này cũng là một thước đo
phản ánh trình độ trưởng thành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
5. Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
kinh tế quốc tế thì phải chú trọng và kết hợp chức năng xây dựng và bảo vệ tổ
quốc, hoạch định chính sách xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ

pháp luật phải gắn với phát triển kinh tế, bảo đảm anh ninh quốc phòng.
-

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải dựa vào

nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Xuất phát từ nguyện vọng, ý
chí cũng như lợi ích của nhân dân.
-

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải được tổ chức và

phân công quyền lực thật sự khoa học.
-

Tiếp tục đổi mới phương thức ỉãnh đạo của Đảng

-

Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về chuyên môn, đủ đức,

đủ tài để đáp ứng yêu cầu xã hội.


-

Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể

nhân dân.
-


xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải gắn với

xây dựng xã hội dân sự. Nhưng cũng chính ở đây, ta thấy, nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của chúng ta càng trưởng thành bao nhiêu, vai trò của
các thiết chế khác nhà nước trong hệ thống chính trị trong việc đảm bảo thực
thi quyền lực của nhân dân dưới hình thức luật càng lớn bao nhiêu, thì tính tự
quản xã hội càng tăng lên bấy nhiêu. Điều này có nghĩa Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính là một nhà nước quá độ của thời kỳ quá độ
và nó càng hoàn thiện thì càng có nghĩa đang tiến nhanh trên con đường đi
đến tự “tiêu vong” đúng theo lô-gích mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lê-nin từng chỉ rõ, khi chúng ta tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Lênin, vị lãnh tụ
thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động quốc tế, người kế tục
xuất sắc sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ảngghen, đã để lại cho chúng ta những
di sản quý báu. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
theo tư tưởng của Lênin là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của cả hệ thống
chính trị nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.

c. KẾT LUÂN



Tư tưởng về nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống
lý luận của Lênin, bởi nó không thuần túy là những lý thuyết khoa học mà gắn
bó chặt chẽ với quan điểm chính trị; nó không đơn giản là những suy tư tinh
thần mà gắn liền với những hoạt động thực tiễn sinh động của ông. Chính vỉ
vậy, tìm hiểu những tư tưởng của Lênin về nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với chúng ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” đã soi sáng một cách toàn diện
về vấn đề dân chủ vô sản như là một nền dân chủ cao nhất, đã vạch ra sự khác
biệt về chất giữa dân chủ vô sản và dân chủ tư sản, đã chỉ ra tính hạn chế và

tính hình thức của nền dân chủ tư sản. Lênin đã nhận xét rằng sự phát triển


triệt để của dân chủ, việc tìm ra các hình thức phát triển như vậy, việc thử
nghiệm chúng trong thực tiễn là một trong những nhiệm vụ cơ bản của cuộc
đấu tranh nhằm tổ chức lại xã hội theo chủ nghĩa xã hội.
Tác phẩm Nhà Nước và cách mạng là một đóng góp cực kỳ to lớn vào
việc vũ trang về mặt tư tưởng và lý luận cho các đảng cộng sản và các đảng
công nhân trên thế giới. Đây được coi như kim chỉ Nam cho cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản trên thế giới cũng như trong việc xây dựng mô hình nhà
nước chủ nghĩa xã hội tiến lên chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Việc
nghiên cứu tác phẩm này có ý nghĩa thực tiễn đối với việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Tác phẩm đến nay vẫn giữ
nguyên giá trị. Đảng ta đã và đang vận dụng một cách đúng đắn sáng tạo học
thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào việc xây dựng một nhà
nước pháp quyền Việt Nam, nhà nước của dân, do dân và vì dân.





×